Lịch Sử Tình Yêu Chương 8


Chương 8
Ngập nước

1. Làm thế nào đánh lửa mà không dùng diêm

Tôi đã tìm kiếm Alma Mereminski trên mạng Internet. Tôi nghĩ có thể ai đó đã viết về cô, hoặc tôi có thể tìm thông tin về cuộc đời cô. Tôi gõ tên cô và bấm lệnh cho kết quả tìm kiếm. Nhưng tất cả những gì xuất hiện là một danh sách những người nhập cư đã tới thành phố New York vào năm 1891 (Mendel Mereminski), và một danh sách những nạn nhân Holocaust ghi lại ở Yad Vashem (Adam Mereminski, Fanny Mereminski, Nacham, Zellig, Hershel, Bluma, Ida, nhưng - tôi thấy nhẹ cả người bởi tôi không muốn mất cô thậm chí trước cả khi tôi bắt đầu tìm - không có Alma nào).

2. Em trai tôi luôn cứu mạng tôi

Cậu Julian đến ở cùng chúng tôi. Cậu ở New York đến khi hoàn thành nghiên cứu cuối cùng cho cuốn sách về nhà điêu khắc và danh họa Alberto Giacometti mà cậu đã viết suốt năm năm. Mợ Frances ở lại London để chăm sóc lũ chó. Cậu Julian ngủ ở giường Bird, Bird ngủ ở giường tôi, còn tôi ngủ trên sàn trong chiếc túi ngủ trăm phần trăm làm bằng lông chim, cho dù một chuyên gia thực sự không cần tới một chiếc như thế bởi trong những trường hợp khẩn cấp, cô ta có thể chỉ giết vài con chim và nhét lông của chúng vào quần áo mình để giữ ấm.

Đôi khi ban đêm tôi nghe tiếng em trai mình nói mê. Những cụm dở dang, tôi chẳng hiểu được cụm nào. Trừ một cụm khi nó nói to đến mức tôi nghĩ là nó đang thức. “Đừng bước tới đó,” nó nói. “Gì hả?” tôi hỏi và ngồi dậy. “Chỗ đó quá sâu,” nó lầm bầm, rồi quay mặt vào tường.

3. Nhưng tại sao

Một ngày thứ Bảy, Bird và tôi đi cùng cậu Julian đến Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại. Bird khăng khăng đòi tự trả tiền vé bằng khoản lãi nhờ bán nước chanh. Chúng tôi đi loanh quanh trong khi cậu Julian đến nói chuyện với một nhân viên phụ trách ở trên gác. Bird hỏi một trong những nhân viên an ninh có bao nhiêu đài phun nước trong tòa nhà. (Năm.) Nó tạo ra những tiếng ồn quái dị có trong trò chơi điện tử tận đến lúc tôi bảo nó trật tự. Rồi nó đếm số người có hình xăm lộ ra. (Tám.) Chúng tôi đứng trước một bức tranh vẽ một đám người sụp xuống sàn. “Sao họ lại nằm đó thế kia?” Bird hỏi. “Có người giết họ,” tôi đáp, mặc dù tôi thực sự chẳng biết tại sao họ nằm đó hay họ thậm chí có phải người không. Tôi ra xem một bức tranh khác phía bên kia phòng. Bird đi theo tôi. “Nhưng sao lại có người giết họ?” nó hỏi. “Vì chúng cần tiền nên đã cướp một nhà,” tôi nói và bước lên thang cuốn đang chạy xuống.

Trên tàu điện ngầm trở về nhà, Bird chạm vào vai tôi. “Nhưng tại sao chúng cần tiền?”

4. Lạc ở biển

“Điều gì khiến cậu nghĩ cô Alma này trong Lịch sử tình yêu này là người thật?” Misha hỏi. Chúng tôi đang ngồi trên bãi biển phía sau tòa nhà cậu ở, hai bàn chân vùi trong cát, cùng ăn thịt bê quay và bánh sandwich cải ngựa do bà Shklovsky làm. “ ‘Một,’ ” tôi nói. “Một cái gì?” “Một người có thật.” “OK,” Misha nói. “Trả lời câu hỏi đi.” “Tất nhiên cô ấy có thật.” “Nhưng làm thế nào cậu biết?” “Vì chỉ có một cách duy nhất lý giải tại sao Litvinoff - người đã viết cuốn sách - không đặt cho cô ấy một cái tên Tây Ban Nha như mọi người khác.” “Vì sao?” “Ông ấy không thể.” “Sao lại không thể?” “Cậu không thấy à?” tôi nói. “Ông ấy có thể thay đổi mọi tình tiết, nhưng ông không thể thay đổi cô ấy.” “Nhưng vì sao?” Sự trì độn của cậu ta làm tôi bực mình. “Vì ông ấy đang yêu cô ấy!” tôi nói. “Bởi vì, đối với ông ấy, cô ấy là điều duy nhất có thực.” Misha nhai một miếng bê quay. “Tớ nghĩ là cậu xem quá nhiều phim,” cậu ta nói. Nhưng tôi biết rằng mình đúng. Không cần đến một thiên tài đọc Lịch sử tình yêu mới đoán được từng đó.

5. ‑Những điều tôi muốn nói mắc cứ ở trong cổ họng

Chúng tôi bước theo lối đi lót ván dọc bãi biển về phía Coney Island. Trời nóng như lửa, một vệt mồ hồi chảy dọc xuống thái dương Misha. Khi chúng tôi đi qua vài người già đang chơi bài, Misha chào họ. Một ông già nhăn nheo mặc chiếc quần tắm bé tẹo vẫy tay chào lại. “Họ nghĩ cậu là bạn gái tớ,” Misha thông báo. Ngay lúc ấy ngón chân tôi vướng gì đó, tôi bị vấp. Tôi thấy mặt nóng ran và nghĩ mình là kẻ vụng về nhất trái đất. “Đâu, tớ không phải thế,” tôi nói điều tôi không muốn nói. Tôi nhìn đi nơi khác, vờ như để ý tới một đứa bé đang lôi một con cá mập bơm hơi về phía mép nước. “Tớ biết,” Misha nói. “Nhưng họ thì không.” Cậu đã bước sang tuổi mười lăm, cao thêm gần mười phân và đã bắt đầu cạo lớp lông tơ đen phía trên môi. Khi chúng tôi xuống nước, tôi ngắm nhìn cơ thể cậu khi cậu lao vào những con sóng, điều ấy khiến bụng tôi quặn lên một cảm giác - không phải cơn đau mà là thứ gì đó khác.

“Tớ cá với cậu một trăm đô là tên cô ấy được ghi vào danh bạ,” tôi nói. Không có phần nào trong tôi thực sự tin điều này, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ để đổi chủ đề.

6. ‑Tìm kiếm một người nhiều khả năng không tồn tại

“Cháu đang tìm số điện thoại của Alma Mereminski?” tôi nói. “M-E-RE-M-I-N-S-K-I.” “Quận nào?” người phụ nữ hỏi. “Cháu không biết,” tôi nói. Có một khoảng ngừng lại và tôi nghe tiếng chìa khóa lách cách. Misha dõi theo một cô gái mặc bộ bikini Rollerblade màu xanh sáng đi qua. Người phụ nữ ở đầu dây bên kia nói gì đó. “Xin lỗi gì ạ?” tôi nói. “Cô nói là cô tìm được một người là A. Mereminski ở phố 147 quận Bronx,” cô ta nói. “Giữ máy lấy số nhé.”

Tôi nghệch ngoạc viết số điện thoại vào lòng bàn tay. Misha bước tới. “Thế nào?” “Cậu có đồng hai mươi lăm xu không?” tôi hỏi. Thật ngu ngốc, nhưng tôi đã đi quá xa quá mất rồi. Cậu nhướng mày và thọc tay vào túi quần soóc. Tôi quay số viết ở lòng bàn tay. Một người đàn ông nghe máy. “Ở đó có Alma không ạ?” tôi hỏi. “Ai?” ông hỏi. “Cháu đang tìm Alma Mereminski.” “Ở đây không có Alma nào,” ông ta bảo tôi. “Cháu nhầm số rồi. Đây là Artie,” ông ta nói và gác máy.

Chúng tôi cuốc bộ trở lại nhà Misha. Tôi vào cái toilet đầy mùi nước hoa của chị gái cậu và trên dây phơi treo đầy quần lót màu xám nhạt của bố cậu. Khi tôi bước ra, Misha đã cởi trần trong phòng cậu, đang đọc một cuốn sách viết bằng tiếng Nga. Trong lúc cậu tắm, tôi ngồi chờ trên giường cậu, lật qua những trang tiếng Nga. Tôi có thể nghe thấy tiếng nước và bài hát cậu đang hát, nhưng không nghe thấy lời. Khi tôi nằm xuống gối của Misha, nó tỏa ra mùi cậu.

7. Nếu cứ tiếp tục như thế này

Khi Misha còn nhỏ, hè nào gia đình cậu cũng về căn nhà ở nông thôn, cậu và bố mình lấy tấm lưới từ căn phòng áp mái xuống và cố bắt những con bướm di cư bay đầy trời. Căn nhà cũ đầy đồ sứ của bà cậu - thực sự có nguồn gốc Trung Quốc - và những con bướm đóng khung mà ba thế hệ nhà Shklovsky đã bắt khi còn là trẻ con. Theo thời gian, lớp màng trên cánh chúng bong ra, nếu bạn chạy chân trần khắp nhà, những món đồ sứ sẽ kêu loảng xoảng và hai chân bạn sẽ dính bụi.

Cách đây vài tháng, đêm trước sinh nhật thứ mười lăm của Misha, tôi quyết định làm cho cậu một tấm thiếp có một con bướm. Tôi lên mạng tìm ảnh một con bướm Nga, nhưng thay vào đó lại thấy một bài báo cho biết trong hai thập kỷ qua hầu hết các loài bướm đều giảm số lượng, và rằng xác suất tuyệt chủng của chúng cao gấp khoảng mười ngàn lần mức có thể chấp nhận. Bài báo còn nói rằng hàng ngày trung bình bảy mươi tư loài côn trùng, thực vật và động vật tuyệt chủng. Dựa vào những thống kê này và các con số đáng sợ khác, bài báo cho biết các nhà khoa học tin rằng chúng ta đang ở giai đoạn tuyệt chủng hàng loạt lần thứ sáu trong lịch sử sự sống trên trái đất. Trong vòng ba mươi năm tới, gần một phần tư động vật có vú trên thế giới đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Một phần tám số loài chim sẽ sớm tuyệt chủng. Trong nửa thế kỷ vừa qua, chín mươi phần trăm số cá lớn nhất thế giới đã biến mất.

Tôi tìm kiếm thông tin về tuyệt chủng hàng loạt.

Đợt tuyệt chủng hàng loạt gần nhất xảy ra cách đây sáu mươi lăm triệu năm, khi ấy có thể một thiên thạch đã va chạm với trái đất, giết chết toàn bộ loài khủng long và khoảng một nửa số động vật sống dưới biển. Trước nữa là đợt tuyệt chủng kỷ Triassic (cũng có nguyên nhân là thiên thạch, hoặc có thể là núi lửa), xóa sổ tới chín mươi lăm phần trăm số loài, và trước đó là tuyệt chủng cuối kỷ Devon. Đợt tuyệt chủng hiện tại sẽ là đợt diễn ra nhanh nhất trong lịch sử bốn tỷ rưỡi năm của trái đất và, khác với những đợt tuyệt chủng kia, nó không gây ra bởi những biến cố tự nhiên mà bởi sự ngu dốt của loài người. Nếu cứ tiếp tục thế này, một nửa tổng số loài trên trái đất sẽ biến mất trong vòng một trăm năm tới.

Vì lý do này, tôi không ép con bướm nào lên tấm thiếp dành cho Misha.

8. Giữa những kỳ băng giá

Vào tháng Hai - tháng mẹ tôi nhận được thư đề nghị dịch Lịch sử tình yêu, tuyết rơi dày tới gần sáu mươi phân, Misha và tôi làm một cái hang bằng tuyết trong công viên. Chúng tôi làm suốt nhiều giờ, ngón tay của bọn tôi tê đi nhưng vẫn tiếp tục bới. Khi xong, chúng tôi bò vào trong. Một ánh sáng xanh xuyên qua lối vào. Chúng tôi ngồi kề vai nhau. “Có lẽ một ngày tớ sẽ đưa cậu tới Nga,” Misha nói. “Bọn mình có thể đi cắm trại ở dãy Ural,” tôi nói. “Hoặc chỉ ở đồng cỏ Kazakh Steppes.” Khi chúng tôi nói, hơi thở của hai đứa phả ra thành khói. “Tớ sẽ đưa cậu tới căn phòng tớ sống với ông,” Misha nói, “và dạy cậu trượt băng ở Neva.” “Tớ có thể học tiếng Nga.” Misha gật đầu. “Tớ sẽ dạy cho cậu. Từ đầu tiên, Dai.” “Dai.” “Từ thứ hai, Ruku.” “Nghĩa là gì?” “Nói trước đi.” “Ruku.” “Dai ruku(1)_.” Dai ruku. Nghĩa là gì?” Misha cầm tay tôi lên và nắm lấy.

9. Nếu cô ấy có thật

“Điều gì khiến cậu có ý nghĩ Alma đã tới New York?” Misha hỏi. Chúng tôi đã chơi trò gin rummy(2)_ đến lượt thứ mười và giờ chúng tôi đang nằm trên sàn phòng cậu, nhìn lên trần nhà. Có cát trong bộ đồ tắm của tôi và cả ở răng. Tóc Misha vẫn còn ướt, và tôi có thể ngửi thấy chất khử mùi của cậu.

“Ở chương mười bốn, Litvinoff viết về một sợi dây căng ngang đại dương do một cô gái đã bỏ đi Mỹ cầm. Ông ấy quê Ba Lan, đúng không, và mẹ tớ bảo là ông ấy đã trốn thoát trước khi bọn Đức xâm lược. Bọn phát xít giết hết mọi người trong làng ông ấy. Vậy nên nếu ông ấy không chạy thoát, sẽ chẳng có Lịch sử tình yêu nào. Và nếu quê Alma cũng ở đúng làng đó, mà tớ dám cá với cậu một trăm đô cô ấy là…”

“Cậu đã nợ tớ một trăm đô la rồi.”

“Vấn đề là trong những phần tớ đã đọc, có những chuyện về Alma khi cô ấy còn rất trẻ, khoảng mười tuổi. Thế nên nếu cô ấy có thật - điều tớ nghĩ là đúng - chắc chắn hồi nhỏ Litvinoff phải biết cô ấy. Như thế nghĩa là có thể họ sống cùng một làng. Và Yad Vashem không ghi lại Alma Mereminski nào từ Ba Lan đã chết trong vụ thảm sát người Do Thái.”

“Yad Vashem là ai?”

“Bảo tàng thảm sát người Do Thái ở Israel.”

“OK, vậy có lẽ cô ấy thậm chí không phải người Do Thái. Và ngay cả khi cô ấy là người Do Thái - thậm chí cô ấy có thật, là người Ba Lan, và là người Do Thái, VÀ đã tới Mỹ - làm thế nào cậu biết rằng cô ấy đã không tới một thành phố khác? Như Ann Arbor ấy.” “Ann Arbor?” “Tớ có một ông anh họ ở đó,” Misha nói. “Với cả, tớ cứ tưởng cậu đang tìm Jacob Marcus chứ không phải cô Alma này cơ đấy.”

“Đúng thế,” tôi nói. Tôi cảm thấy mu bàn tay cậu cọ vào đùi mình. Tôi không biết làm thế nào để nói rằng mặc dù tôi đã bắt đầu tìm kiếm một người có thể làm cho mẹ tôi hạnh phúc một lần nữa, bây giờ tôi cũng đang tìm một thứ khác. Về người phụ nữ có tên tôi đã được đặt theo. Và về tôi.”

“Có thể lý do Jacob Marcus muốn dịch cuốn sách liên quan tới Alma,” tôi nói, không phải vì tôi tin điều ấy mà vì tôi không biết nói gì khác. “Có lẽ ông ấy biết cô ấy. Hoặc có lẽ ông ấy đang cố tìm cô ấy.”

Tôi mừng là Misha không hỏi, nếu Litvinoff đã yêu Alma đến thế, sao ông lại không theo cô đến Mỹ; vì sao thay vào đó ông lại tới Chile và cưới một người khác tên là Rosa. Lý do duy nhất tôi có thể nghĩ đến là ông không có lựa chọn nào khác.

Bên kia bức tường, mẹ Misha hét lên gì đó với bố cậu. Misha nhỏm người tì lên hai cùi chỏ và nhìn xuống tôi. Tôi nhớ lại, mùa hè năm trước, khi chúng tôi mười ba tuổi và đứng trên mái nhà cậu, hắc ín mềm mềm dưới chân hai đứa, lưỡi đứa này nằm trong miệng đứa kia trong lúc cậu dạy cho tôi một bài của Trường dạy hôn kiểu Nga Shklovsky. Giờ thì chúng tôi đã biết nhau hai năm, cạnh bắp chân tôi đang chạm vào cẳng chân cậu, bụng cậu tì vào sườn tôi. Cậu bảo, “Tớ không nghĩ làm bạn gái tớ lại tiêu đời đâu.” Tôi mở miệng nhưng không có gì bật ra. Cần tới bảy thứ ngôn ngữ mới làm nên tôi; tôi chỉ cần nói một thứ tiếng thôi cũng được rồi. Nhưng tôi không thể, vậy nên cậu cúi xuống và hôn tôi.

10. Rồi sau đó

Lưỡi cậu nằm trong miệng tôi. Tôi không biết mình nên chạm lưỡi mình vào lưỡi cậu hay để nó ở cạnh để lưỡi cậu có thể di chuyển thoải mái bên lưỡi tôi. Trước khi tôi kịp quyết định, cậu đã đưa lưỡi ra và khép miệng lại và tôi vô tình để miệng mình há ra, và có vẻ như đó là một sai lầm. Tôi nghĩ rằng có lẽ thế là xong, nhưng rồi cậu mở miệng lần nữa và tôi không nhận ra điều cậu định làm, thế nên cậu liếm hai môi tôi. Rồi tôi mở hai môi và đẩy lưỡi mình ra, nhưng đã quá muộn bởi lưỡi cậu đã trở lại trong miệng cậu. Rồi chúng tôi làm đúng, gần đúng, mở miệng mình ra cùng lúc như thể cả hai đang cố gắng nói điều gì, và tôi quàng một tay qua cổ cậu như Eva Marie Saint làm với Cary Grant trong cảnh ở toa tàu phim North by Northwest. Chúng tôi lăn tròn một chút, và chỗ kín của cậu hình như cọ vào chỗ kín của tôi, nhưng chỉ trong một giây, bởi sau đó vai tôi va vào chiếc accordion của cậu. Nước bọt đầy quanh miệng tôi và thật khó thở. Ngoài cửa sổ, một chiếc máy bay lướt qua trên đường tới sân bay JFK. Bố cậu bắt đầu quát lại mẹ cậu. “Họ đang cãi nhau vì chuyện gì thế?” tôi hỏi. Misha nhấc đầu ra. Một ý nghĩ thoáng qua mặt cậu, bằng thứ ngôn ngữ tôi không thể hiểu nổi. Tôi tự hỏi liệu mọi thứ giữa chúng tôi sẽ thay đổi. “Merde,” cậu nói. “Thế nghĩa là gì?” tôi hỏi, và cậu nói, “Tiếng Pháp đấy.” Cậu cài một lọn tóc quanh tai tôi và bắt đầu hôn tôi lần nữa. “Misha?” tôi thì thầm. “Suỵt,” cậu nói, rồi luồn tay vào trong áo tôi, chỗ quanh eo. “Đừng,” tôi nói và ngồi dậy. Rồi tôi bảo, “Tớ thích người khác.” Ngay khi nói câu ấy tôi đã hối hận. Khi đã rõ là không còn thêm gì để nói, tôi đi giày vào, lúc ấy đầy cát. “Có lẽ mẹ tớ đang băn khoăn tớ ở chỗ nào,” tôi nói điều cả hai cùng biết là không đúng. Khi tôi đứng dậy, có tiếng cát vương vãi.

11. ‑Một tuần trôi qua mà Misha và tôi không nói chuyện

Tôi đọc lại cuốn Các loài hoa và cây ăn được ở Nam Mỹ một lần nữa vì mục tiêu ngày trước. Tôi leo lên mái nhà mình xem có thể xác định được chòm sao nào không, nhưng có quá nhiều đèn nên tôi leo xuống, ra sân sau và thực hành dựng chiếc lều của cha trong bóng tối, tôi hoàn thành việc đó trong ba phút năm mươi tư giây, đánh bại kỷ lục của chính tôi gần một phút. Khi xong, tôi nằm trong lều và cố nhớ càng nhiều điều về cha càng tốt.

12. Những ký ức từ cha tôi truyền lại tôi

        echad    Vị của mía tươi

     shtayim    ‑Những đường phố bằng đất của Tel Aviv khi ‑Israel vẫn là một đất nước mới, xa xa là những ‑‑‑‑đồng anh thảo dại

     shalosh    ‑Viên đá cha ném vào đầu đứa bắt nạt anh trai, khiến cha được những đứa khác nể

          arba    ‑Mua gà cùng ông nội ở hợp tác, và xem chân chúng cử động sau khi bị cắt tiết

     hamesh    ‑Tiếng xáo bài của bà nội và các bạn của bà khi họ chơi canasta(1)_ vào các tối thứ Bảy sau lễ Shabbat(2)_

         shesh    ‑Thác Iguau, nơi cha du lịch một mình, với nỗ lực và chi phí cá nhân rất lớn

        sheva    ‑Lần đầu tiên ông nhìn thấy người phụ nữ sẽ trở thành vợ mình, mẹ tôi, đang đọc sách trên bãi cỏ ở Kibbutz Yavne, mặc quần soóc màu vàng

     shmone    Tiếng ve sầu đêm hè, và cả sự im lặng

         tesha    Mùi hoa nhài, dâm bụt và hoa cam

           eser    Sắc tái của da mẹ tôi

13. ‑Hai tuần trôi qua, Misha và tooôi vẫn không nói chuyện, cậu Julian vẫn chưa đi, và đã gần cuối tháng Tám

Lịch sử tình yêu có ba mươi chín chương và kể từ khi chuyển cho Jacob Marcus mười chương đầu, mẹ tôi đã xong mười một chương nữa, được tổng cộng hai mươi mốt chương. Vậy nghĩa là bà đã xong hơn một nửa và sẽ sớm gửi cho ông một bưu kiện khác.

Tôi khóa mình trong toilet - nơi duy nhất tôi có thể có chút riêng tư, và cố gắng hoàn thành lá thư thứ hai cho Jacob Marcus, nhưng mọi thứ tôi thử đều có vẻ sai, hoặc nhàm, hoặc như lời dối trá. Thực tế đúng là như vậy.

Tôi ngồi trên bồn cầu, một tập giấy đặt trên hai đầu gối. Bên cạnh mắt cá tôi là thùng rác, trong thùng rác là một mảnh giấy vo lại. Tôi lấy nó ra. Mẩu giấy ghi: Chó à, Frances? Chó? Những lời của em như dao cứa. Nhưng anh nghĩ em cố ý làm vậy. Anh không “yêu” Flo như em nói. Bọn anh đã là đồng nghiệp nhiều năm, và cô ấy tình cờ là người quan tâm đến những điều anh quan tâm. NGHỆ THUẬT, Fran, là điều, ta nói thật nhé, mà em không thể quan tâm tới chút nào nữa sao? Em thích cái trò chỉ trích anh đến mức em thậm chí chẳng nhận thấy mình đã thay đổi đến mức nào, đến mức em hầu như chẳng còn chút nào giống cô gái anh từng… Bức thư đứt giữa chừng. Tôi vò nó lại cẩn thận và bỏ lại thùng rác. Tôi nhắm nghiền hai mắt. Tôi nghĩ có lẽ cậu Julian sẽ không sớm hoàn thành nghiên cứu của cậu về Alberto Giacometti.

14. Rồi tôi có một ý tưởng

Họ phải liệt kê tên tất cả những người chết ở đâu đó. Sinh ra và chết đi - phải có một nơi, một văn phòng hay cục ở nơi nào đó trong thành phố theo dõi tất cả. Chắc chắn phải có hồ sơ. Hàng đống hồ sơ về những người đã sinh ra và chết ở thành phố New York. Đôi khi lái xe dọc theo BQE_(1) khi mặt trời đang lặn, bạn nhìn thấy toàn bộ hàng chục ngàn bia mộ khi đường chân trời hiện lên dưới ánh đèn và nền trời rực màu cam, và bạn có cảm giác kỳ lạ là nguồn điện của thành phố được sinh ra từ tất cả những người chôn dưới đó.

Và thế nên tôi nghĩ, Có thể họ có hồ sơ về cô.

15. Hôm sau là Chủ nhật

Ngoài trời đang mưa, thế nên tôi ngồi nhà đọc Phố cá sấu tôi đã mượn từ thư viện về, và tự hỏi liệu Misha có gọi điện đến. Tôi biết mình tìm được điều gì đó khi lời giới thiệu cho biết rằng tác giả quê tại một làng ở Ba Lan. Tôi nghĩ: Hoặc Jacob Marcus thực sự thích các tác giả Ba Lan, hoặc ông đang để lại cho tôi một manh mối. Ý tôi là để lại cho mẹ tôi.

Cuốn sách không dài, tôi đọc xong vào chiều hôm ấy. Lúc năm giờ, Bird trở về nhà, người ướt sũng. “Nó đang bắt đầu,” nó nói và chạm vào mezuzah phía trên cửa bếp và hôn bàn tay mình. “Cái gì đang bắt đầu?” tôi hỏi. “Mưa.” “Ngày mai sẽ tạnh,” tôi nói. Nó tự rót một cốc nước cam, uống cạn và vòng lại qua cửa, hôn tất cả bốn mezuzah trước khi tới phòng mình.

Cậu Julian bước vào sau ngày làm việc ở bảo tàng. “Cháu đã thấy câu lạc bộ của Bird chưa?” cậu hỏi, lấy một quả chuối trên quầy bếp xuống và bóc vỏ ngay phía trên thùng rác. “Khá là ấn tượng, cháu nghĩ thế không?”

Nhưng đến thứ Hai trời không ngừng mưa, Misha không gọi điện, thế nên tôi mặc áo mưa, lấy một chiếc ô và lên đường đến Cơ quan Lưu trữ Thành phố New York - theo mạng Internet là nơi người ta giữ các hồ sơ khai sinh và khai tử.

16. 31 Phố Chambers, Phòng 103

“Mereminski,” tôi nói với người đàn ông đeo kính đen mắt tròn ngồi sau bàn. “M-E-R-E-M-I-N-S-K-I.” “M-E-R,” ông nói và viết ra. “E-M-I-N-S-K-I,” tôi nói. “I-S-K-Y,” ông ấy nói. “Không,” tôi bảo. “M-E-R,…” “M-E-R,” ông nói. “E-M-I-N,” tôi nói, và ông bảo, “E-Y-N.” “Không!” tôi nói. “E-M-I-N.” Ông ngây ra nhìn tôi. Thế nên tôi bảo, “Sao không để cháu viết cho bác?”

Ông nhìn cái tên. Rồi ông hỏi tôi liệu có phải Alma M-E-R-E-M-I-N-S-K-I là bà hay cụ tôi không. “Vâng,” tôi nói bởi tôi nghĩ điều ấy có thể đẩy nhanh tốc độ công việc. “Là thế nào?” ông hỏi. “Cụ cháu,” tôi nói. Ông nhìn tôi và gặm lớp da quanh móng tay, rồi đi ra phía sau và trở lại với một hộp vi phim. Khi tôi cho cuộn đầu tiên vào máy đọc, nó bị vướng. Tôi cố thu hút sự chú ý của người đàn ông bằng cách vẫy tay và chỉ vào chỗ rối của cuộn phim. Ông đến bên, thở dài rồi thả nó ra hết. Sau cuốn thứ ba, tôi học được cách làm. Tôi gỡ hết tất cả mười lăm cuộn. Trong hộp ấy không có Alma Mereminski nào, thế nên ông mang ra một hộp khác, rỗi sau đó một hộp nữa. Tôi phải đi vệ sinh và lúc ra tôi lấy một gói bánh kem xốp Twinkies và một chai Coca ở máy bán hàng tự động. Để gợi chuyện, tôi nói, “Bác có biết gì về tồn tại ở nơi hoang dã không?” Mặt ông giật giật và ông đẩy đôi kính lên mũi. “Ý cháu là thế nào?” “Chẳng hạn bác có biết rằng hầu hết các loài thực vật ở Bắc Cực đều ăn được không? Tất nhiên là trừ một số loại nấm nhất định.” Ông nhướng mày nên tôi nói, “Mà bác có biết là bác có thể chết đói chỉ vì ăn thịt thỏ không? Có một thực tế đã được ghi lại rằng những người đang tìm cách sống sót lại chết vì ăn quá nhiều thịt thỏ. Nếu bác ăn nhiều bất kỳ loại thịt nạc nào, như thịt thỏ, bác sẽ bị, bác biết đấy… Tóm lại là nó có thể giết bác.” Người đàn ông ném đi chỗ sô cô la Snickers còn lại của mình.

Trở vào trong, ông mang ra hộp thứ tư. Hai tiếng sau, mắt thấy đau mà tôi vẫn còn ở đó. “Liệu có khả năng bà ấy đã chết sau năm 1948?” người đàn ông hỏi, rõ ràng là đã sốt ruột. Tôi bảo ông là có thể. “Hừm, sao cháu không bảo trước! Trong trường hợp đó thì giấy khai tử của bà ấy sẽ không có ở đây.” “Nó sẽ ở đâu ạ?” “Sở Y tế Thành phố New York, Phòng Thống kê Dân số,” ông nói, “125 phố Worth, phòng 133. Họ có hồ sơ về tất cả những trường hợp chết sau năm 1948.” Tôi nghĩ: Tuyệt.

17. Lỗi lầm tệ hại nhất mẹ tôi từng nhắc

Khi tôi trở về nhà, mẹ đang khoanh tròn trên đi văng đọc sách. “Mẹ đang đọc gì thế?” tôi hỏi. “Cervantes,” mẹ nói. “Cervantes?” tôi hỏi. “Nhà văn Tây Ban Nha nổi tiếng nhất,” mẹ đáp và lật trang. Tôi trợn mắt nhìn mẹ. Đôi khi tôi tự hỏi vì sao mẹ không lấy luôn một nhà văn nổi tiếng thay vì lấy một kỹ sư yêu thiên nhiên hoang dã. Nếu bà làm thế thì mọi chuyện đã không thế này. Ngay bây giờ, đúng thời điểm này, có lẽ bà sẽ đang đứng bên bàn ăn với ông chồng nhà văn nổi tiếng của mình, nói về những điểm hay và dở của các nhà văn nổi tiếng khác, trong khi đưa ra quyết định khó khăn về người xứng đáng được truy tặng giải Nobel.

Đêm đó tôi quay số điện thoại nhà Misha, nhưng gác máy ở ngay hồi chuông đầu tiên.

18. Rồi đến thứ Ba

Trời vẫn mư 3601 a. Trên đường ra ga tàu điện ngầm, tôi đi qua bãi xe bỏ trống nơi Bird đã treo một tấm giấy dầu phía trên đống phế thải đã cao tới gần hai mét, các túi đựng rác và những sợi thừng cũ buộc bên mé. Một cái cột vươn lên từ đống ấy, có lẽ đang đợi một lá cờ.

Chiếc bàn bán nước chanh cũng vẫn ở đó, tấm biển ghi NƯỚC CHANH TƯƠI 50 XU LÀM ƠN TỰ RÓT (BONG GÂN CỔ TAY) cũng vậy, tiếp đến là dòng chữ mới viết thêm: TOÀN BỘ TIỀN LÃI DÙNG LÀM TỪ THIỆN. Nhưng chiếc bàn trống không và chẳng thấy bóng dáng Bird đâu.

Trên tàu điện, ở đoạn nào đó giữa Carroll và Bergen, tôi quyết định gọi cho Misha, vờ như đã không có gì xảy ra. Khi tôi xuống tàu, tôi tìm một bốt điện thoại còn hoạt động và bấm số nhà cậu. Tim tôi đập mạnh khi điện thoại bắt đầu đổ chuông. Mẹ cậu nghe máy. “Chào bác Shklovsky,” tôi nói, cố ra vẻ bình thường. “Misha có đó không?” tôi nghe tiếng bà gọi Misha. Sau một lúc cảm giác như rất lâu, cậu nhấc ống nghe lên. “Chào,” tôi nói. “Chào.” “Cậu thế nào?” “Ổn.” “Cậu đang làm gì thế?” “Đọc.” “Cái gì?” “Truyện tranh.” “Hỏi xem tớ đang ở đâu đi.” “Ở đâu?” “Ngoài Sở Y tế Thành phố New York.” “Sao thế?” “Tớ đang đi tìm hồ sơ của Alma Mereminski.” “Vẫn đang tìm,” Misha nói. “Ừ,” tôi nói. Có một khoảng im lặng khó xử. Tôi bảo, “À, tớ gọi để biết liệu tối nay cậu có muốn thuê phim Topaz không.” “Không thể.” “Tại sao?” “Tớ có chương trình.” “Chương trình gì?” “Tớ sẽ đi xem phim.” “Với ai?” “Cô gái tớ quen.” Tôi lộn hết cả ruột. “Cô gái nào?” Tôi nghĩ: Làm ơn không phải là… “Luba,” cậu nói. “Có khi cậu nhớ đấy, cậu gặp cô ấy một lần rồi.” Tất nhiên là tôi nhớ. Làm sao tôi có thể quên một con bé cao một mét bảy tư, tóc vàng hoe và tuyên bố mình là hậu duệ của Nữ hoàng Catherine(1)_?

Hóa ra là một ngày tệ hại.

“M-E-R-E-M-I-N-S-K-I,” tôi nói với người phụ nữ ngồi sau chiếc bàn ở phòng 133. Tôi nghĩ, Làm sao cậu ấy có thể thích một cô gái không thể thực hiện Phương pháp chung kiểm tra khả năng ăn được nếu mạng sống cô ta phụ thuộc vào nó? “M-E-R-E,” người phụ nữ nói, nên tôi bảo, “M-I-N-S…” đầu vẫn nghĩ, Có lẽ cô ta còn chưa bao giờ nghe nói tới phim Rear Window. “M-Y-M-S,” người phụ nữ nói. “Không,” tôi bảo. “M-I-N-S.” “M-I-N-S,” cô nói. “K-I,” tôi bảo. Và cô nói, “K-I.”

Một tiếng đồng hồ trôi qua mà chúng tôi không tìm thấy giấy khai tử nào của Alma Mereminski. Nửa giờ nữa qua đi và chúng tôi vẫn không tìm thấy. Sự cô đơn chuyển thành bực tức. Sau hai giờ, người phụ nữ nói rằng cô chắc trăm phần trăm rằng không có Alma Mereminski nào chết ở New York sau năm 1948.

Đêm đó tôi thuê băng North by Northwest một lần nữa và xem tới lần thứ mười một. Rồi tôi đi ngủ.

19. ‑Những người cô đơn luôn thức giấc vào lúc nửa đêm

Khi tôi mở mắt, cậu Julian đang đứng đó. “Cháu bao tuổi rồi?” cậu hỏi. “Mười bốn. Tháng sau cháu sẽ mười lăm.” “Tháng sau là mười lăm,” cậu nói, cứ như thể cậu đang phải giải bài toán khó trong đầu. “Khi lớn lên cháu muốn làm gì?” Cậu vẫn đang mặc áo mưa, lúc này ướt sũng. Một giọt nước nhỏ xuống mắt tôi. “Cháu không biết.” “Nói đi nào, phải có việc gì chứ.” Tôi ngồi dậy trong chiếc túi ngủ, dụi mắt và nhìn đồng hồ điện tử đeo tay. Có một nút để ta có thể bấm cho các con số sáng lên. Còn có cả một cái la bàn bên trong. “Đã ba giờ hai mươi sáng rồi,” tôi nói. Bird đang ngủ trên giường tôi. “Cậu biết. Cậu chỉ băn khoăn thế thôi. Hãy nói cho cậu biết, cậu hứa sẽ để cho cháu ngủ tiếp. Cháu muốn trở thành người thế nào?” Tôi nghĩ, Một người có khả năng tồn tại ở nhiệt độ âm, tìm kiếm thức ăn, làm được một cái hang bằng băng và đánh được lửa mà không cần dùng gì hết. “Cháu không biết. Có lẽ là một họa sĩ,” tôi nói, nhằm làm cho cậu vui, thế thì cậu sẽ để cho tôi ngủ tiếp. “Vui thật,” cậu nói. “Đó là điều cậu đang hy vọng cháu sẽ nói.”

20. Thức trong bóng tối

Tôi nghĩ về Misha và Luba, về cha và mẹ tôi, về lý do tại sao Zvi Litvinoff đã tới Chile và cưới Rosa chứ không phải Alma - người ông thực sự yêu.

Tôi nghe tiếng ho trong khi ngủ của cậu Julian từ phía bên kia hành lang.

Rồi tôi nghĩ: Chờ chút.

21. Chắc chắn cô ấy đã lấy chồng

Đúng rồi! Đó là lý do tôi không tìm thấy bản khai tử của Alma Mereminski. Sao trước đây tôi không nghĩ tới điều này nhỉ?

22. Là người bình thường

Tôi mò mẫm dưới gầm giường và lấy ra chiếc đèn pin từ ba lô, cùng với tập ba Làm thế nào tồn tại được ở nơi hoang dã. Khi tôi bật đèn pin lên, có gì đó khiến tôi chú ý. Nó kẹt giữa thành giường và tường, gần sàn nhà. Tôi lách người vào gầm giường và chiếu đèn pin để nhìn cho rõ hơn. Đó là một cuốn bài tập màu đen và trắng. Mặt trước có ghi. Bên cạnh đó là chữ RIÊNG TƯ. Một lần Misha đã bảo tôi rằng trong tiếng Nga không có từ nào dành cho riêng tư. Tôi mở vở.

Ngày 9 tháng Tư

 

Mình đã là người bình thường trong ba ngày liên tục. Điều đó có nghĩa mình không leo lên nóc tòa nhà nào hay viết tên Chúa lên bất kỳ thứ gì không phải của mình hoặc trả lời hoàn hảo một câu hỏi bình thường bằng một câu nói trong kinh Torah(2)_. Thế cũng có nghĩa mình đã không làm gì khi câu trả lời là KHÔNG dành cho câu hỏi: MỘT NGƯỜI BÌNH THƯỜNG SẼ LÀM VIỆC NÀY CHỨ? Thì ra cũng không khó tới vậy.

Ngày 10 tháng Tư

 

Đây là ngày thứ tư liên tục mình đã hành động bình thường. Trong tiết thể dục, Josh K. ép mình vào tường và hỏi liệu mình có nghĩ mình là một thiên tài béo ị không thế nên mình bảo nó rằng mình không nghĩ mình là một thiên tài béo ị. Vì mình không muốn làm hỏng cả một ngày bình thường nên mình đã không bảo nó rằng điều mình muốn là làm Messiah. Với lại cổ tay mình đang khá lên. Nếu bạn muốn biết mình đã làm nó bong gân thế nào, mình khiến nó bong gân vì leo lên mái nhà bởi mình đến trường học Do Thái sớm khi cửa đang khóa và có một cái thang dựa ở cạnh tòa nhà. Cái thang gỉ chứ nếu không gỉ thì đã chẳng khó khăn thế. Có một vũng nước lớn ở giữa sân thượng nên mình quyết định xem thử điều gì sẽ xảy ra nếu mình đập quả bóng của mình trong đó cho nảy lên và cố gắng bắt nó. Vui thật! Mình làm việc ấy được mười lăm lần cho tận tới lúc mình mất quả bóng khi nó nảy qua rìa mái nhà. Rồi mình nằm ngửa và nhìn lên trời. Mình đếm được ba chiếc máy bay. Khi chán rồi, mình quyết định xuống. Leo xuống khó hơn leo lên bởi mình phải đi giật lùi. Được nửa đường thì mình leo qua cửa sổ của một trong các lớp học. Mình có thể nhìn thấy cô Zucker ở phía trước nên mình biết đó là lớp 4. (Nếu bạn muốn biết, năm nay mình là học sinh lớp 5.) Mình không thể nghe được cô Zucker đang nói gì nên mình cố gắng luận ra từ môi cô. Mình phải ngả người khỏi thang rất xa để nhìn rõ. Mình tì mặt ngay vào cửa sổ và đột nhiên mọi người quay lại nhìn mình nên mình vẫy tay và đó là lúc mình mất thăng bằng. Mình rơi xuống và giáo sĩ Wizner bảo quả là có phép thần khi mình không bị gãy chỗ nào nhưng trong sâu thẳm mình biết lúc nào mình cũng được an toàn và rằng Chúa sẽ không để chuyện gì xảy ra với mình bởi gần như chắc chắn hoàn toàn mình là thiên sứ.

Ngày 11 tháng Tư

 

Hôm nay là ngày thứ năm mình bình thường. Chị Alma bảo rằng nếu mình bình thường thì chuyện đó sẽ làm cho cuộc sống của mình dễ dàng hơn chứ chưa nói đến cuộc sống của mọi người khác. Mình phải gỡ cái gạc to đùng khỏi cổ tay, giờ thì nó chỉ hơi đau. Có lẽ khi mình bị gãy cổ tay hồi sáu tuổi còn đau hơn, nhưng mình chẳng nhớ nổi.

Tôi lướt qua cho tới đoạn:

Ngày 27 tháng Sáu

 

Đến giờ mình đã kiếm được 295,50 đô la bằng cách bán nước chanh. Thế là 591 cốc! Khách sộp nhất của mình là ông Goldstein - người mua một lần mười cốc bởi ông cực khát. Một lần cậu Julian cũng boa cho mình 20 đô la. Chỉ cần 384,50 đô nữa.

Ngày 28 tháng Sáu

 

Hôm nay mình suýt làm một việc không bình thường. Mình đang đi qua một tòa nhà trên phố 4 thì thấy có một tấm gỗ dựa vào giàn giáo và chẳng có ai quanh đó còn mình thực sự muốn lấy nó. Nếu có lấy thì cũng chẳng giống kiểu ăn trộm bình thường bởi thứ đặc biệt mình đang dựng lên sẽ giúp cho mọi người và Chúa muốn mình dựng thứ đó. Nhưng mình cũng biết là nếu mình ăn trộm nó và có ai phát hiện ra, mình sẽ gặp rắc rối rồi Alma sẽ phải đến đưa mình về và chị ấy sẽ cáu. Nhưng mình cá là chị ấy sẽ không cáu chút nào nữa khi trời bắt đầu mưa và cuối cùng mình nói với chị ấy về thứ mình đã bắt đầu dựng lên. Mình đã thu nhặt được nhiều thứ dành cho nó, phần lớn là những thứ đồ người ta ném đi cùng rác thải. Một thứ mình rất cần và khó kiếm là xốp bởi xốp nổi. Lúc này mình không có nhiều lắm. Đôi khi mình lo rằng trời sẽ bắt đầu mưa trước khi mình dựng xong.

Nếu Alma biết về điều sắp xảy ra, mình cũng không nghĩ chị ấy sẽ bực vì mình viết  vào vở chị ấy. Mình đã đọc cả ba tập Làm thế nào tồn tại được ở nơi hoang dã, rất hay, đầy những chuyện thú vị và có ích. Một phần toàn viết phải làm gì khi có bom hạt nhân. Dù mình không nghĩ sắp có vụ nổ bom hạt nhân nhưng chỉ để đề phòng, mình đọc kỹ. Rồi mình quyết định rằng nếu trước khi mình tới Israel mà có bom hạt nhân nổ và tro bụi bay khắp nơi như tuyết, mình sẽ làm thiên thần. Mình sẽ đi qua nhà bất kỳ ai mình muốn bởi mọi người sẽ đều biến mất. Mình sẽ không thể đi học nhưng chẳng hề gì vì dù sao, bọn mình chưa bao giờ học điều gì quan trọng như điều xảy ra sau khi bạn chết. Dù sao mình cũng chỉ đùa thôi bởi sẽ không có bom. Điều sẽ xuất hiện là một trận lụt.

23. Bên ngoài, trời vẫn mưa như chút

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/29523


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận