Tài liệu: Hàn Tín (? - 196 Tr.CN)

Tài liệu
Hàn Tín (? - 196 Tr.CN)

Nội dung

HÀN TÍN (? – 196 TR.CN)

 

Hàn Tín là danh tướng thời Tần mạt Hán sơ, người đất Hoài Âm (nay là miền Tây Nam Thanh Giang, Tỉnh Giang Tô). Thuở nhỏ nhà nghèo, phải nương tựa vào người để độ thân. Một lần Tín câu cá ở chân thành, gặp người đàn bà giặt vải (Phiếu Mẫu), bà biết là Tín đói, gọi đến xẻ cơm cho ăn suốt mấy mươi ngày; Tín cảm động nói: ''Thế nào tôi cũng đền ơn bà xứng đáng”. Bà giận nói: ''Bậc đại trượng phu không nuôi nổi thân mình. Tôi thương cậu nên mời ăn có phải là mong cậu đền ơn đâu. (Sau rày, Tín được hiển vinh, tìm Phiếu Mẫu tặng ngàn lạng vàng để đền đáp). Việc làm ấy chứng tỏ Tín là người coi trọng tín nghĩa thủy chung. Lại có lần, một gã hàng thịt ngoài chợ muốn làm nhục Tín, bảo Tín rằng : ''Mày có gan thì đâm chết tao, nếu không gan thì luồn dưới háng tao đây'? Tín bèn luồn qua háng gã bán thịt trước sự chế nhạo của mọi người. Tín nhẫn nhục như thế đâu phải vì nhát gan sợ chết, mà biết quý cuộc sống của mình để giúp ích cho đời, nên không muốn chết một cách vô ích đó thôi.

Bấy giờ, nhà Tần chính sự tàn bạo hà khắc. Dân tình ca thán, nổi dậy khắp nơi, mở đầu là khởi nghĩa của Trần. Thắng, Ngô Quảng rồi Hạng Vũ, Lưu Bang cũng lần lượt nổi lên. Năm thứ hai Tần nhị thế (208 Tr.CN), Hàn Tín đi theo Hạng Lương chống Tần, sau khi Lương chết, Tín theo với Hạng Vũ, làm chức Lang Trung, nhiều lần dâng kế sách nhưng không được thu dụng. Hàn Tín bèn bỏ Sở (Hạng Vũ) mà theo Hán (Lưu Bang), được làm chức Liên Ngao là quan coi việc tiếp tân. Sau được Hạ Hầu Anh tức Đằng Công là người hết sức thân tín của Lưu Bang tiến cử nên được trao chức Trị Túc Đô úy, là quan coi việc thu trữ thóc lúa, làm quân lương, nhưng vẫn chưa được trọng dụng, Tín liền bỏ trốn. Thừa tướng Tiêu Hà vội đuổi theo tìm về và tiến cử với Lưu Bang. Tiêu Hà nói với Lưu Bang rằng, muốn tranh đoạt thiên hạ thì ngoài Tín ra không thể bàn công việc với ai, rằng Tín là bậc Quốc sỹ vô song. Lưu Bang nghe lời Tiêu Hà phong cho Tín làm Đại tướng và nghe theo kế sách của Tín. Hàn Tín phân tích cặn kẽ tương quan lực lượng của Hán và Sở. Ông chỉ ra rằng nước Sở tuy nắm được bá quyền mà bắt chư hầu phải thuần phục; nhưng dùng chính sách tàn bạo, đến đâu cũng chém giết, đốt phá, dân tình oán ghét. Vì vậy, Sở mạnh mà thực ra yếu, trái lại, quân Hán kỷ luật nghiêm minh, không tàn hại bá tánh khi tiến vào đất Quan Trung, đánh đổ nhà tần, liêm phong kho tàng, nghiêm cấm quân lính không giết người, không cướp của được dân tình ủng hộ. Nay, nếu quân Hàn tranh thủ thời cơ lòng người. đang hướng về mình mà tiến sang Đông diệt Sở thì nhất định sẽ thành công. Được nghe kế sách của Tín bấy giờ Lưu Bang mới tiếc rằng gặp Hàn Tín quá muộn, bèn lập tức chỉnh đốn binh mã, tiến quân sang Đông Lưu Bang chiếm được Quan Trung hết sức nhanh chóng. Trong cuộc chiến tranh Hán - Sở, Hàn Tín càng phát huy tài nghệ quân sự của mình. Năm thứ hai nhà Hán (205 Tr.CN), quân Lưu Bang bị thất bại ở Bành Thành (Từ Châu Giang Tô).

Hàn Tín bèn phái quân đến cứu, nhập với tàn quân của Lưu Bang tại Huỳnh Dương, ngăn chặn cuộc tấn công của Hạng Vũ về phía Tây. Tháng 8 năm ấy, Hán Vương phong Tín làm tả Thừa tướng để đánh Ngụy, nước chư hầu của Sở. Ngụy vương tập trung binh lực ở Bồ Bản, chặn cửa Sông Lâm Tấn; Tín dùng nghi binh, bày thuyền bè, dàn thế trận, tưởng như muốn vượt qua cửa Sông Lâm Tấn; nhưng trái lại, đem quân chủ lực đi đường bộ vòng qua Hạ Dương, lấy thùng gỗ cho quân vượt sông, đánh úp đất An ấp. Ngụy vương là Báo thất kinh đem quân về cứu An ấp, liền bị Tín bắt cầm tù. Bình định xong nước Ngụy, đặt thành Quận Hà Đông, Tín tiếp tục tiến sang Đông đánh nước Đại, tiến binh xuống Cửa Tỉnh Hình đánh Triệu. Lúc đó, Vua Triệu hội binh ở Cửa Tỉnh Hình cùng với tướng chỉ huy là Thành An Quân , quân số đến 20 vạn, chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng, trù tính rằng quân Tín kéo đến đánh sẽ bị Triệu tiêu diệt. Quân Tín đến cách Tỉnh Hình 30 dặm thì hạ trại. Một mặt, Tín sai hai nghìn kỵ binh trang bị nhẹ, mỗi người mang theo một cái cờ đỏ, nửa đêm theo đường tắt lén qua núi, phục sẵn gần doanh trại quân Triệu, lại hẹn rằng, hễ khi nào quân tiên phong của Tín đến đánh thành rồi rút chạy, quân Triệu thế nào cũng bỏ trống thành để đuổi theo, thì phục binh lập tức tiến ngay vào trong thành, nhổ cờ Triệu mà thay bằng cờ Hán. Mặt khác, trước đó Tín dẫn một vạn binh bày trận quay lưng ra Sông Bối Thủy. Quân Triệu từ xa trông thấy cười vang, cho rằng Tín không biết dụng binh. Đến bình minh, Tín phất cờ đại tướng, gióng trống, kéo quân đến cổng Thành Tỉnh Hình. Quân Triệu mở cổng thành ra đánh. Hai bên kịch chiến hồi lâu, bỗng quân Tín thua, vứt cờ, quăng trống bỏ chạy. Quân Triệu quả nhiên bỏ thành trống không, dốc toàn lực ra đuổi. Cánh quân Tín đã bố trí phục sẵn từ trước bèn ruổi nhanh vào trong thành, nhổ hết cờ Triệu mà cắm cờ Hán lên. Cánh quân do Tín chỉ huy giả thua rút chạy đến phía bờ sông nhập với đạo quân đã bố trí sẵn ở đấy. Bấy giờ đằng sau là sông, quân Tín không còn đường thoái lui, chỉ còn cách là liều chết xông vào đánh quân Triệu, khí thế rất hăng, một người có thể địch được mấy người. Quân Triệu biết không thắng nổi bèn lui quân tạm trở về thành, chợt nhìn lên thấy thành đỏ rực cờ của Hán, thì hốt hoảng bỏ chạy tán loạn. Quân Hán hai mặt giáp công phá tan quân Triệu, chém Thành An Quân trên Sông Chi Thủy và bắt sống Triệu Vương Yết Sau thắng trận, các tướng đến chúc mừng, nhân đó hỏi Tín. ''Tướng quân bày trận dựa lưng vào sông, đấy là tử địa, binh pháp tối ky, nhưng kết quả lại thắng đó là thuật gì''? Tín đáp: ''Chẳng phải binh pháp có nói: hãm vào đất chết thì sau nó mới sống, đặt vào chỗ mất thì sau nó mới còn đó sao? Vả lại ta không có những tướng sỹ từng được huấn luyện;đây cũng như người ta nói là kéo những người ngoài chợ bắt họ đi đánh. Tình thế này nếu không đặt họ vào nơi đất chết khiến cho người nào cũng vì mình mà chiến đấu thì không được. Nếu ta đặt họ vào nơi đất sống thì họ đều bỏ chạy, ta còn làm sao dùng họ được nữa'? Các tướng vô cùng cảm phục. Binh pháp của Tín thực là thần diệu.

Sau đó, Hàn Tín đem binh lên phía Bắc chinh phục nước Yên. Năm thứ 4 triều Hán (203 Tr.CN) Hàn Tín được phong làm Tướng quốc đem binh đánh Tề. Nước Sở sai tướng là Long Thư đem 20 vạn binh sang cứu Tề. Long Thư và Tề Vương là Điền Quảng bày trận trên Sông Tuy Thủy. Hàn Tín đang đêm sai quân khâu hơn một vạn cái túi đãy đổ đầy cát đắp chặn phía thượng lưu dòng sông, sau đó Tín đem quân qua nửa chừng sông đánh Long Thư, rồi vờ thua chạy về. Long Thư thúc quân đuổi qua sông. Tín liền cho phá các bao cát, nước sông chảy ào ào như thác, đại quân của Long Thư quá nửa không sang sông được. Tín liền quay binh lại đánh, giết được Long Thư, Tín đuổi theo Vua Tề đến tận Thành Dương. Năm sau, Hán Vương phong Tín là Tề Vương nhưng trong bụng vẫn nghi ngại Tín. Bấy giờ cuộc chiến tranh Hán, Sở đang bước vào thời kỳ quyết liệt. Có người biện sĩ đất Tề tên là Khoái Thông đến dụ Tín phản lại nhà Hán. Khoái Thông nói: "Hiện nay tính mạng của Hán Vương và Sở Vương đều nằm trong tay túc hạ; túc hạ theo Hán thì Hán thắng, theo Sở thì Sở thắng. Nay không gì bằng làm lợi cho cả đôi bên, khiến cho họ đều sống, mà chia ba thiên hạ, làm thành thế chân vạc”. Nhưng Tín từ chối, không nỡ vì quên nghĩa. Khoái Thông lại nói: ''Trước kia Phạm Lãi, Văn Chủng giúp Việt Vương Câu Tiễn từ chỗ mất nước mà dựng nên nghiệp Bá, là công thần và tôi trung vào bậc nhất trên đời, thế mà rốt cuộc một người bị giết, một người phải bỏ trốn, bởi lẽ thỏ khôn chẳng còn, thì chó săn phải mổ đó thôi. Nay công lao của túc hạ có thể nói không có hai trong thiên hạ, mà mưu lược ấy không phải đời nào cũng có. Túc hạ mang cái uy lấn át cả chủ, ôm cái công không có cách nào thưởng. Theo Sở thì Sở không tin, về Hán thì Hán hoảng sợ. Tôi trộm láy làm lo cho túc hạ”. Khoái Thông cố thuyết phục Tín rằng: ''Trời cho mà không lấy thì sẽ mang lấy tội, thời cơ đến mà không theo thì sẽ mang lấy họa. Rằng thời cơ khó được mà dễ mất, thời cơ trôi qua chẳng bao giờ trở lại (Thời hồ, thời hồ, thời bất tái lai!”. Hàn Tín do dự không nỡ phản lại nhà Hán, nhà Hán sẽ không nỡ hại mình, bèn từ tạ không nghe Khoái Thông. Khoái Thông nói không được, giả điên rồi trốn đi. Năm thứ 5, Hán Vương triệu Tề Vương Tín đến hội binh ở Cai Hạ để phá Sở. Hạng Vũ đại bại phải tự sát. Sở bị diệt rồi, Hán Vương liền tước hết quân của Tề Vương Tín, và dời PTS. BÙI QUÝ LỘTín đi làm Sở Vương đóng đô ở Hạ Bì (nay là Tuy Ninh, Giang Tô). Tín về nước Sở, thường bày những trận lạ để diễn tập. Có người vu cáo là Tín âm mưu làm phản. Năm thứ 6, Hán Cao Tổ theo kể của Trần Bình, giả đi chơi đất Vân Mộng (thuộc Tỉnh Hồ Bắc ngày nay), triệu Tín và chư hầu đến họp. Hàn Tín không biết đó là mưu gian, đã đến gặp Cao Tổ. Nhà Vua sai võ sĩ bắt trói, Tín than rằng: '' Thỏ khôn chết thì chó giỏi bị nấu; chim, cáo hết thì cung tốt bị treo, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời. Thiên hạ bình đinh rồi, ta bị nấu là đáng lắm!”. Cao Tổ nói: ''Người ta bảo nhà ngươi làm phản!:. Bèn trói Tín đưa về Lạc Dương, rồi tha tội cho Tín và giáng làm Hoài Âm Hầu. Vua Hán Cao Tổ có lúc thung dung nói chuyện với Tín về tài năng của các tướng. Nhà Vua hỏi: ''Như ta thì có thể cầm được bao nhiêu quân”. Tín đáp: ''Bệ hạ chẳng qua chỉ cầm được 10 vạn. Nhà Vua hỏi: ''Thế còn nhà người thì cầm được bao nhiêu?''- '' Thần thì càng nhiều càng tốt!''. Tín đáp. Nhà Vua cười nói: ''Càng nhiều càng tốt, cớ sao lại bị ta bắt?'' - ''Bệ hạ không giỏi cầm quân, nhưng giỏi chỉ huy các tướng vi vậy nên Tín mới bị bệ hạ bắt. Vả chăng đó là trời trao cho bệ hạ, chứ không phải sức người có thể làm được''. Vua Hán Cao Tổ phục tài Tín lắm, nhưng trong bụng càng nghi sợ Tín.

Năm thứ 10, quan Thái thú ngoài biên trấn là Trần Hy làm phản; Lưu Bang tự làm tướng chinh phạt. Có người tố cáo rằng Tín ngầm liên kết với Trần Hy hẹn nhau khởi binh làm phản nhà Hán, rằng Hàn Tín làm giả chiếu chỉ xá tội cho những tội phạm và nô lệ của Nhà nước, dùng họ làm binh để đánh úp Lữ Hậu và Thái Tử. Lữ Hậu bèn dùng kế của Tiêu Hà cho loan tin là Hán Cao Tổ đã dẹp xong Trần Hy và đã đem quân về triều, các quan đều đến chúc mừng. Tín vào chầu, Lữ Hầu sai võ sĩ trói Tín, rồi chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc. Lữ Hậu lại giết cả ba họ nhà Tín. Sau khi Cao Tổ dẹp xong Trần Hy trở về, thấy Tín đã chết, nhà Vua vừa mừng vừa thương! Về tội mưu phản của Tín vẫn là một nghi án. Nhiều nhà chép sử cho rằng Tín bị chết oan, vậy nên Cao Tổ vừa mừng vừa thương. Ông mừng có lẽ vì đã loại trừ được một công thần mà uy danh lấn át cả chủ, vì đó là một hiểm họa có thể đe dọa cái uy quyền chuyên chế vô thượng của ông; ông thương vì Tín có lẽ bị chết oan.

Tư Mã Thiên, trong Hoài Âm Hầu liệt truyện cũng tỏ rõ niềm thương cảm đặc biệt và thái độ bi phẫn vô cùng chua chát. Hàn Tín dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên là con người nghĩa khí, trung hậu thủy chung, là một đại công thần có thể sánh với Chu Công, Thái Công nhà Chu, đáng được đời đời cúng tế, là bậc danh tướng song toàn trí dũng, biết mình biết người, mưu lược như thần. Con người trác tuyệt anh minh ấy, khi thời cơ nằm trong tay: Theo Hán thì Hán thắng, theo Sở thì Sở thắng, mà vẫn một lòng trung thành với Hán, trong lúc tình hình thiên hạ đã định, quyền nhà Hán đã được củng cố, Hàn Tín càng không thể khinh suất dại khờ phản lại nhà Hán để mà chuốc tấy bại vong. Khi Thái Sử Công (Tư Mã Thiên) viết: ''Thiên hạ đã định rồi, lại mưu việc phản nghịch cơ chứ”, thì chính ông muốn vạch trần cái nghịch lý, cái phản lô gích trong bản kết án của triều chính Hán đối với người công thần, nạn nhân của nó. Trong lịch sử quân sự Trung Quốc và Thế giới cổ đại, Hàn Tín có những cống hiến quý báu, đặc biệt là nghệ thuật quân sự lấy ít đánh nhiều và sự kết hợp tài tình giữa chiến thuật dùng kỳ binh với chính binh của ông. Hàn Tín là tác giả cuốn Binh pháp gồm ba thiên, tiếc rằng nay bị thất lạc.

PTS. BÙI QUÝ LỘ




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/141-02-633384935086122500/Nhung-vi-Tuong-noi-tieng-The-gioi/Han-Tin-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận