TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Tương truyền là 8 quẻ mới đầu Phục Hy sắp theo vòng tròn như trong hình 1, rồi sau Văn Vương sắp lại theo hình II.
Thuyết đó chưa tin được. Không có gì chứng minh rằng Bát quái trước thời Văn Vương có phải sắp như hình I không, mà trong phần Kinh của Chu Dịch cũng không có chỗ nào nói tới việc Văn Vương sắp lại Bát quái.
Chỉ trong phần Truyện (Thuyết quai truyện, Chương III) có câu: ''Trời và đất vị trí định rồi, cái khí (khí lực) của núi và chằm thông với nhau, sấm gió nổi lên với nhau, nước và lửa chẳng diệt nhau, tám quẻ cùng giao với nhau (thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc thủy hỏa bất tương xạ Bát quái tương thác”.
Trong đoạn đó tác giả sắp Bát quái thành từng cặp trái nhau như trong hình I: Càn với Khôn, Cấn với Đoài Chấn với Tốn, Ly với Khảm.
Nhưng trong chương V cũng Thuyết quái truyện lại có câu ''đế xuất hồ chấn. Vị chủ tể trên trời xuất hiện ở phương Chấn, thì hợp với hình II vì hình này đặt Chấn ở phương Đông (phương Mặt trời mọc) còn hình I đặt Chấn ở Đông Bắc. Chúng ta nên nhớ trên các bản đồ thời cổ của Trung Hoa, bốn phương đặt ngược với bản đồ ngày nay nghĩa là họ đặt Bắc ở dưới, Nam ở trên, Đông ở bên trái, Tây ở bên phải.
Hình I gọi là Tiên Thiên bát quái, hình II là Hậu Thiên Bát quái. Hai tên đó không có trong Kinh Dịch, hiển nhiên là do người đời sau, hoặc đời Hán, hoặc Thiệu Khang Tết đời Tống đặt ra.
Nó biểu tượng cuộc tái tạo ra muôn loài, muôn vật đã hoàn thành do sự biến đổi của Dịch lý và Âm - Dương giao thác, giao hòa, tiêu trưởng, thăng giáng hỗ tương cho nhau . . .
Tiên thiên Bát quái có nghĩa là Bát quái tượng trưng Vũ trụ (thiên) hồi đầu mới hình thành. Hậu thiên Bát quái tượng trưng Vũ trụ hồi sau. Hồi đầu là hồi nào? Hồi sau là hồi nào? Không ai biết chắc. Có người giảng hồi đầu là hồi Vũ trụ còn vô hình, hồi sau là hồi Vũ trụ đã thành hình. Vô lý: khi Vũ trụ còn vô hình thì sao đã có núi, có chằm (đầm)?
Có người lại giảng Tiên thiên Bát quái là những hiện tượng xảy ra trên các thiên thể (nghĩa là khi Vũ trụ đã thành hình), còn Hậu thiên là những hiện tượng ở trên mặt đất (Bửu Cầm: Tìm hiểu Kinh Dịch - Sài Gòn, 1957). Vậy là trên các thiên thể cũng có trời, có đất, có núi, có chằm. . . như trên Trái đất?
Có người đem thiên văn học của phương Tây mà giảng Tiên thiên Bát quái. Chẳng hạn bảo Càn gồm ba hào Dương, toàn là Dương khí, sáng rực rỡ chính là một biển lửa, một định tinh, khôn có ba hào Âm, toàn khí Âm, đen lạnh, ''có thể ví các sao đen tối của nhà thiên văn học Emile Belot'' v. v… (Bùi Thị Bích Trâm - Thiên Văn - Huế, 1942. Nguyễn Duy Cần dẫn trong Dịch học tinh hoa - Saigon, 1973).
Từ khi một số học giả đời Hán dùng Kinh Dịch để giảng về thiên văn, về nguồn gốc Vũ trụ, nhất là từ khi có hai hình Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái, chắc có nhiều người căn cứ vào hai hình ấy, rồi vào hai hình Hà Đồ, Lạc Thư mà lập ra những thuyết mới.
Chúng tôi liên tưởng tới 2 thuật ngữ này với ý nghĩa trong y lý Đông phương mà cho rằng: Tiên Thiên Bát quái là chỉ những quẻ cơ bản có sẵn từ thời Phục Hy. Còn về sau, có nhiều bản Kinh dịch được bổ sung hoặc san định . . . thì chính là hàm nghĩa của từ Hậu Thiên Bát quát vậy?
So sánh hai hình I và II, ta thấy vị trí các quẻ thay đổi: hình I, Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây. . . hình II, Càn ở Tây Bắc, Khôn ở Tây Nam, Ly ở Nam, Khảm ở Bắc. . .
Nếu quả là đo Văn Vương sắp lại Bát quái thì tại sao ông lại thay đổi như vậy? Ông để Ly ở phương sao ông lại thay đổi như vậy? Ông để Ly ở phương Nam, có lý, mà Khảm ở phương Bắc, kể như cũng có lý. Vì Khảm trái với Ly, nước trái với lửa, Bắc trái với Nam.
Nhưng tại sao ông lại không cho Càn đối với Khôn, như trong hình I mà cho nó đối với Tốn? và cho Khôn đối với Cấn . . . Đó là điều vẫn nằm trong màn sương bí ẩn, mỗi người hiểu một cách.
Trùng quái
Chúng ta đã biết Lưỡng nghi chồng lên nhau một lần thành Tứ tượng, chồng thêm một lần nữa là Bát quái.
Chỉ có 8 quẻ với 24 hào thì không thể diễn được nhiều hiện tượng, sự việc nên lại phải chồng thêm một lần nữa. Lần này không lấy một vạch Âm hay Dương như lần thứ thì, mà lấy trọn một quẻ chồng lên tất cả 8 quẻ; chẳng hạn lấy quẻ Càn chồng lên Càn và 7 quẻ kia, lấy quẻ Ly chồng lên Ly và 7 quẻ kia; như vậy mỗi quẻ thành ra 8 quẻ một, 8 quẻ thành 64 quẻ mới, mỗi quẻ mới gồm 6 hào, tổng là 64 x 6 = 384 hào.
Sáu mươi tư quẻ mới này gọi là Trùng quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên thủy gọi là Đơn quái (quẻ đơn).
Ai làm công việc trùng quái đó? Có bốn thuyết: Vương Bật (đời Ngụy) cho rằng, Phục Hy tạo ra Bát quái rồi tự mình trùng quái.
Trịnh Huyền (đời Hán) cho rằng, Thần Nông trùng quái.
Tôn Thịnh ( không rõ đời nào) cho là Vua Vũ nhà Hạ.
Tư Mã Thiên (đời Hán) cho là Văn Vương.
Hai thuyết cuối trái với Hệ từ vì theo Hệ từ hạ truyện, chương II thì: Bào Hy mất rồi, Thần Nông lên thay (. . .) lấy hình tượng ở quẻ Phệ hạp (tức một trong 64 quẻ trùng) mà nảy ra ý cho dân họp chợ, trao đổi sản vật. Vậy là đời Thần Nông đã có trùng quái rồi, đời Hạ và đời Chu sau Thần Nông cả mấy ngàn năm, không lẽ còn làm việc trùng quái nữa.
Thuyết thứ nhì cũng khó tin. Thần Nông làm việc trùng quái rồi lại do hình tượng và tên một quẻ ông đã tạo ra (quẻ Phệ hạp) mà nẩy ra ý họp chợ?
Nếu tin ở Hệ từ thì phải chấp nhận thuyết thứ nhất: chính Phục Hy tạo ra 8 đơn quái rồi thấy nó không đủ để thông thần minh chi đức, loại vạn vật chi tình (Hệ từ hạ- chương II), nên tự trùng, tức tự chồng quẻ lên nhau thành 64 trùng quái.
Nhưng Phục Hy (và cả Thần Nông nữa) đều là những nhân vật huyền thoại và một điều nghi ngờ là Bát quái không thể có từ đời Thương trở về trước được? Vậy thì chỉ có thể do một người nào đó trong đời Ân tạo ra Bát quái rồi có lẽ Văn Vương đời Chu làm công việc trùng quái. Thuyết này trái với Hệ từ truyện thật, nhưng Hệ từ truyện có đáng tin hay không?
Đa số các nhà Dịch học đời sau chấp nhận thuyết 1 và thuyết 4, cho nên chúng ta thấy họ dùng cả Tiên Thiên Bát quái (họ cho là của Phục Hy) và Hậu Thiên Bát quái của Văn Vương, do đó có hai cách trùng quái, một cách theo Tiên Thiên Bát quái, một cách theo Hậu Thiên Bát quái.
Theo Tiên Thiên Bát quái, có thể bắt đầu từ quẻ Càn hay quẻ Khôn. Dù bắt đầu từ quẻ nào thì cách chồng quẻ cũng như nhau: mới đầu theo chiều ngược kim đồng hồ, gặp quẻ Càn (nếu bắt đầu từ quẻ Khôn), hoặc gặp quẻ Khôn (nếu bắt đầu từ quẻ Càn) thì ngừng lại, rồi quay trở lại bắt tiếp từ quẻ bên cạnh Càn hay Khôn mà theo chiều thuận kim đồng hồ, chồng nốt cho hết tám quẻ.
Đồ ''Phương vị 64 quẻ của Phục Hy'' coi các trang ở sau - bắt đầu từ quẻ Khôn (quẻ ô đầu hàng trên hình vuông ở giữa đó), cho nên dưới đây ta hãy xem cách chồng theo kiểu đó.
Khôn: chồng lên Khôn thành quẻ Thuần Khôn (quẻ số 0 trên đồ ''Phương vị'' - Số 0 này, theo Leibniz, coi các trang ở sau độc giả sẽ biết tại sao?. . .
Cấn: chồng lên Khôn thành quẻ số 1 trên đồ.
Khảm: chồng lên Khôn thành quẻ số 3 trên đồ.
Tới đây bỏ chiều ngược kim đồng hồ, bắt từ quẻ Chấn (ở bên cạnh Khôn) mà theo chiều thuận kim đồng hồ để chồng tiếp:
Chấn: chồng lên Khôn thành quẻ số 4
Ly: chồng lên Khôn thành quẻ số 5 .
Đoài: chồng lên Khôn thành quẻ số 6
Càn: chồng lên Khôn thành quẻ số 7, tức quẻ Thiên Địa Bĩ.

(càn là Thiên, Khôn là Địa, cho nên gọi là Thiên Địa, còn Bĩ là tên quẻ cho ý nghĩa của quẻ: bế tắc, như bĩ trong “Bĩ cực thái lai”.
Thế là hết một vòng bắt đầu là Khôn, cuối cùng là Càn. Một quẻ Khôn đẻ ra tám quẻ đứng hàng đầu trên hình ở giữa đồ Phương vị, từ số 0 đến số 7.
Qua vòng thứ nhì, cũng bắt đầu từ quẻ Khôn mà chồng theo hai chiều: chiều ngược: Khôn chồng lên Cấn, Cấn lên Cấn, Khảm lên Cấn, Tốn lên Cấn; rồi theo chiều thuận: Chấn lên Cấn, Ly lên Cấn, Đoài lên Cấn, Càn lên Cấn. Được 8 quẻ nữa từ số 8 đến số 15 trên hàng nhì ở giữa hình.
Như vậy chồng 8 vòng, được 8 hàng, 64 quẻ, quẻ cuối cùng số 63 là quẻ Thuần Càn.
Trùng quái theo cách thứ nhì, dùng Hậu Thiên Bát quái thì bắt đầu từ quẻ Càn rồi tuần tự theo chiều thuận kim đổng hồ để chồng:
Quẻ Càn lên, được quẻ Thuần Càn.
Quẻ Khảm lên, được quẻ Sơn Thiên Đại Súc,v.v…
Tới quẻ cuối cùng là quẻ Đoài, được quẻ Trạch Thiên Quái.
Như vậy là hết một vòng, được một nhóm 8 trùng quái.
Qua vòng thứ nhì, bắt đầu từ quẻ Khảm, lại chồng:
Quẻ Càn lên được quẻ Thiên Thủy Tụng.
Quẻ Khảm lên (vẫn theo chiều thuận) được quẻ Thuần Khảm
Quẻ Cấn lên, được quẻ Sơn Thủy Mông,v.v…
Tới quẻ Đoài, được quẻ Trạch Thủy Khốn.
Như vậy là hết vòng thứ nhì được một nhóm 8 trùng quái nữa.
Chồng hết 8 vòng, được 64 trùng quái.
Cách chồng này giản dị hơn cách chồng trên, được nhiều sách hướng dẫn, mặc dầu không nói rõ là của Văn Vương, nhưng vì dùng thứ tự các quẻ trong Hậu Thiên Bát quái của Văn Vương nên chúng tôi gọi là sách của Văn Vương.
Chồng theo cách nào thì kết quả cũng như nhau, và cũng có 8 quẻ Thuần, gọi là Bát thuần (thuần nghĩa là Càn lại chồng lên Càn, Khảm lại chồng tên Khảm, Cấn lại chồng lên Cấn…)
Ngoài ra, các sách bót và lý số còn có một cách sắp quẻ theo từng nhóm nữa như:
Nhóm Trùng Càn gồm Thuần Càn, Thiên Phong Cấu, Thiên Sơn Độn, Thiên Địa Bĩ, Phong Địa Quán, Sơn Địa Bác, Hoả Địa Tấn, Hoả Thiên Đại Hữu.
Chúng ta nhận xét sự biến đổi của các hào Dương thành Âm theo thứ tự: từ dưới lên, lên đến hào 5 (ở quẻ Sơn Địa Bác) thì biến ngược trở xuống Âm thành Dương.
Nhóm Trùng Khảm gồm Thuần Khảm, Thủy Trạch Tiết, Thủy Lôi Truân, Thủy Hỏa Ký Tế, Trạch Hỏa Cách, Lôi Phong Hằng, Địa Hỏa Minh Di, Địa Thủy Sư v.v…
Trong mỗi nhóm như vậy, quẻ Thuần là quẻ cái, còn 7 quẻ kia là quẻ con. Cách này chắc xuất hiện trễ, từ đời Ngũ Đại hay đời Tống và chỉ dùng vào việc bói hay đoán số, nên chúng ta biết qua vậy thôi, không cần nhớ.
Nội Quái và Ngoại Quái
Mỗi quẻ trùng gồm hai quẻ đơn, quẻ đơn ở dưới gọi là nội quái, quẻ đơn ở trên gọi là ngoại quái. Ví dụ quẻ Thiên Phong Cấu thì Thiên tức Càn là ngoại quái, Phong tức Tốn là nội quái.
Mỗi quẻ trùng gồm sáu hào, đánh số từ dưới lên: hào 1 gọi là Sơ, hào 2 gọi là nhị, hào 3 gọi là tam, hào 4 gọi là tứ, hào 5 gọi là ngũ, hào trên cũng không gọi là lục mà gọi là thượng (đọc một đoạn sau độc giả sẽ hiểu tại sao).
Ví dụ: Quẻ Địa Thiên Thái:

Gọi là nội quái, ngoại quái và sắp theo vòng tròn thì quẻ Càn ở trong (nội) gần trung tâm, còn quẻ Khôn chồng lên nó, ở ngoài (ngoại), xa trung tâm.
Vì có việc chồng hào và chồng quẻ như vậy nên khi tìm hiểu ý nghĩa, khi đoán quẻ, phải xét từ dưới lên, từ hào sơ lên tới hào thượng.
Nhưng khi gọi tên quẻ thì theo thứ tự từ trên xuống, cho nên gọi là Địa Thiên; còn chữ Thái ở sau chỉ nghĩa của quẻ: Thái là yên ổn (như thái bình thông thuận).
Một ví dụ nữa: quẻ Thủy Hỏa Ký tế.
Đọc tên quẻ đó bạn phải hiểu ngay: ngoại quái (ở trên) là Khảm (thuỷ), nội quái (ở dưới) là Ly (hỏa), và vẽ ngay được hình dưới đây:
Hào sơ, hào tam, hào ngũ là Dương, hào nhị, hào tứ, hào thượng là Âm. Còn Ký tế là nghĩa của quẻ: đã thành, đã xong, đã qua sông.
