Ca dao:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Bóng trăng ngả lộn bóng tre
Chàng ơi, đứng lại mà nghe em thề.
Vườn đào, vườn lựu, vườn lê
Con ong vô hút nhụy, con bướm xê ra ngoài.
Chàng về nghĩ lại mà coi
Tâm tình em ở, gương nào soi cho bằng ?

Nội dung chi tiết

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Bóng trăng ngả lộn bóng tre
Chàng ơi, đứng lại mà nghe em thề.
Vườn đào, vườn lựu, vườn lê
Con ong vô hút nhụy, con bướm xê ra ngoài.
Chàng về nghĩ lại mà coi
Tâm tình em ở, gương nào soi cho bằng ?

* Bản Phú Yên: Chim khôn kêu tiếng rỉnh rang

 

Tham khảo thêm:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang - tản mạn

 
Tục ngữ có câu: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.”

Ngay từ ngàn xưa, người Việt ta đã đề cao lời ăn tiếng nói như một bộ phận hết sức quan trọng trong việc đánh giá phong cách, nhân cách và cả đạo đức của một con người. Trong đời sống văn minh hiện đại ngày nay, tôi thiết nghĩ, cái nét đẹp truyền thống ấy cần được gìn giữ và phát huy. Ứng xử bằng lời hàng ngày của chúng ta là một tiêu chí quan trọng để xác định một mẫu người văn minh, thanh lịch.

Trước hết, một người văn minh thanh lịch phải biết các sử dụng ngôn ngữ thích hợp, đúng đối tượng, đúng lúc và đúng hoàn cảnh (Học ăn, học nói, học gói, học mở). Lời nói chúng ta dùng với các bậc bề trên, cao niên phải khác với khi ta chuyện trò thân mật với bạn bè, trong đó thưa gởi, xưng hô đúng cách là vấn đề phức tạp nhưng không được sai phạm. Tự vựng cũng phải chuẩn mực, không được dùng từ lóng. Về cú pháp, phải dùng câu đầy đủ, không được dùng câu thiếu chủ ngữ, không được nói trống không như: “Đói rồi, đi ngủ đây.” Những cách nói như thế được coi là vô lễ trong văn hóa Việt Nam ta. Khi nói chuyện, âm lượng cũng phải được điều chỉnh vừa phải, không được nói quá to trừ trường hợp người nghe bị lãng tai. Không được vừa cười vừa nói (Vừa nói vừa cười là người vô duyên); không được vung tay múa chân khi nói. Khi người lớn nói phải chú ý lắng nghe, không được ngắt lời. Muốn nói gì phải xin phép. Khi tranh luận với người trên phải tỏ ra khiêm tốn, học hỏi không nên cãi lấy cho bằng được.

Ngay cả ngôn ngữ dùng với bạn bè hay người dưới ta, ví dụ các em nhỏ, cũng không thể tùy tiện. Cho dù ở chỗ bạn bè, không ai có thể chấp nhận văng tục hay chửi thề, đặc biết nếu nó xuất phát từ phái nữ thì còn bị lên án mạnh mẽ hơn. Không được dùng các lối nói mà mọi người chưa chấp nhận hay cho là thiếu lịch sự. Ví dụ những câu như: “Tôi kệch bà. Bà tẩm quá đi thôi.” có thể dùng bình thường ở một nhóm bạn ở miền Bắc, nhưng chưa chắc đã được chấp nhận trong một nhóm bạn ở miền Nam. Khi nói chuyện với người dưới ta cũng phải có thái độ tôn trọng, không được “cả vú lấp miệng em”. Không được nói xen lẫn tiếng Việt với các ngôn ngữ khác trừ trường hợp bắt buộc. Không dùng kiểu tiếng bồi mà hiện nay đang có nguy cơ biến thành cái mốt trên các blog, kiểu như: “Hôm qua ai xi zu sóp với mâm phải không?” (Hôm qua mình thấy cậu đi mua hàng với mẹ phải không?)

Một điểm khác cần chú ý nữa là cử chỉ và điệu bộ kèm theo lúc nói, đặc biệt là vẻ mặt là rất quan trọng. Khi nói chuyện không nên quay mặt đi nơi khác cũng không nên nhìn trực diện vào mặt người cùng nói chuyện quá lâu, đặc biệt với người khác giới. Sử dụng các cử chỉ tay chân, vẻ mặt đúng mực sẽ tạo ra hiệu quả cao hơn cho lời nói của chúng ta, đặc biệt khi nói trước cử tọa đông người.

Một vấn đề nữa thường hay gây hiểu lầm là nghĩa của một số từ trong tiếng Việt khác nhau ở các vùng miền khác nhau. Tôi nhớ có một lần khi tôi ở Hà Nội với bồ tôi thì bị cúp điện. Tôi ra cái quán gần nhà mua sáp thì người ta đưa Lip Ice cho tôi. Tôi nói đèn cầy họ tưởng là thịt cầy. Khi tôi quay lại hỏi bố tôi mới biết nến là từ duy nhất mà người ta dùng ở đây. Có nhiều từ khác như: ly, cốc, chén, bát, thơm, dứa, ốm, đau, gầy, bệnh… người Việt ở hai miền dùng với nghĩa có khác nhau. Ví dụ: A (người miền Nam) nói: “Hồi ni bạn ốm (=gầy) he.”. B (miền Bắc) trả lời: Mình có ốm đâu mình chỉ gầy một tí thôi

Nói tóm lại, để có được ngôn ngữ của một người văn minh, thanh lịch, ta cũng phải khổ công rèn luyện. Tuy nhiên cố bám vào các nguyên tắc, chuẩn mực cũng dễ làm ngôn ngữ chúng ta xơ cứng, thiếu sức sống, thậm chí giả tạo nữa. Sử dụng các lối nói mới đã được chấp thuận, tăng tính hài hước của câu chuyện vẫn không làm giảm tính lịch thiệp mà lại tăng sự hấp dẫn của bạn trước người nghe. Như lời ca dao của cha ông:

Lời nói chẳng mất tiền múa

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

 

Tham khảo thêm:

Lời ăn tiếng nói trong ca dao

Ca dao không những là tiếng nói chứa đựng tâm tư, tình cảm của người lao động mà còn là những kho tàng kinh nghiệm sống quý giá của muôn đời.

Mở từng trang ca dao, chúng ta thấy hiện lên cuộc sống của người xưa trong sương mờ quá khứ. Trong đó, lời ăn tiếng nói của con người trong giao tiếp luôn được người xưa coi trọng và hiển nhiên đó là một trong những chuẩn mực đạo đức của con người.

Một trong những tiêu chuẩn”  hàng đầu của vẻ đẹp con người là n nói”  phải mặn mà, phải có nét duyên:

"Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà, có duyên”

Quan niệm xưa cho rằng “tóc bỏ đuôi gà, má lúm đồng tiền”  là vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp bề ngoài; còn “ăn nói mặn mà có duyên”  là vẻ đẹp của tâm hồn bên trong, luôn bền vững với năm tháng, với thời gian…

Song song đó, hình ảnh “người khôn”  được nhắc đi nhắc lại với tần suất cao trong ca dao cũng là một điều cần lưu ý. “Người khôn” ở đây không phải là hạng người “khôn lỏi, khôn vặt” ; sống ích kỷ, nhỏ nhen mà là những con người sống có nhân nghĩa, biết đối nhân xử thế đúng mực, đúng chuẩn ở đời. Người xưa từng nói “lạt mềm buộc chặt” - lời nói ngọt ngào, dịu dàng bao giờ cũng mang ấn tượng tốt, mang lại cảm tình, niềm vui giao tiếp cho người được tiếp xúc:

"Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe"

Ca dao còn nhắc nhở, khuyên nhau khi nói phải lựa lời, chọn lời, cân nhắc ý tứ. Lời nói luôn có sẵn, đối với từng trường hợp cụ thể mà chúng ta dành những “lời hay ý đẹp” cho nhau. Có niềm vui nào hơn khi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được nghe những lời nói đẹp, những lời nói hay, sâu sắc, để cho con người sống thương nhau hơn, gần gũi nhau hơn:

"Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"

Có môi trường sống tốt ắt có nhiều lời nói hay, nói đẹp- bởi môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người:

"Đất tốt trồng cây rườm rà

Những người thanh lịch nói ra dịu dàng”

 

"Người thanh tiếng nói cũng thanh

Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu"

 

Mỗi cử chỉ, mỗi hành vi, mỗi việc làm, lời nói đều bộc lộ phần nào phẩm chất, đạo đức, nhân cách của con người. Một khi lời nói đã thốt ra thì không bao giờ lấy lại được nữa! Câu “nhất ngôn hạ xuất, tứ mã nan truy” đủ để biết sự cẩn trọng đến nhường nào trong lời ăn tiếng nói ! Vì vậy, phải giữ đúng lời hứa, không vì lý do gì mà thay đổi. Bởi giữ lời hứa là giữ uy tín, danh dự, thể diện của bản thân:

"Nói lời phải giữ lấy lời

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay"

Có khi người xưa khuyên răn nên “nói ít làm nhiều”, đừng “nói nhiều làm ít” kẻo mang tiếng cười, tiếng chê bai:

"Nói chín thì phải làm mười

Nói mười làm chín kẻ cười người chê”

Mặt khác, cũng cần tránh lối nói lấp lửng, nửa úp nửa mở; khiến cho người nghe áy náy, phân vân, không rõ thực hư thế nào, gầy phiền muộn cho nhau:

"Người khôn ăn nói nửa chừng

Để cho người dại nửa mừng nửa lo”

Bên cạnh đó, người xưa dạy những điều thật thấm thía: đó là khi nói, cần biết dừng lại khi cần; đừng nói dông dài “con cà, con kê”ắt sẽ làm cho người nghe nhàm chán, mất hứng thú:

"Rượu lạt uống lắm cũng say

Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm”

Trong gia đình, trong làng xóm, trong quan hệ cộng đồng - sự ôn hòa, nhường nhịn là cái gốc của cuộc sống yên vui. Xưa có đôi câu đối rằng:

"Nhất cần thiên hạ vô nan sự

Bách nhẫn đường trung hữu thái hòa"

(Chăm làm, thiên hạ không việc khó

Tốt nhịn, gia đình lắm vẻ vui)

Bài học mà ca dao dạy chúng ta thật nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc:

" Kim vàng ai nỡ uốn câu

Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời”

Đúng vậy, nói nhau làm chi nặng lời bởi trong tình huống nào cũng rất cần chữ “nhẫn”  như người xưa khuyên nhủ một câu nhịn, chín câu lành”.

Trong cuộc sống, biết bao điều phức tạp nảy sinh và lời ăn tiếng nói có tầm quan trọng hàng đầu. Tìm hiểu ca dao, chúng ta càng cảm phục cha ông, càng thấm thía những lời dạy được truyền từ đời này qua đời khác mà luôn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay.

LÊ ĐỨC ĐỒNG

 (Sóc Trăng)

Đại Chúng, Miền Trung, Phú Yên

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Bóng trăng ngả lộn bóng tre
Chàng ơi, đứng lại mà nghe em thề.
Vườn đào, vườn lựu, vườn lê
Con ong vô hút nhụy, con bướm xê ra ngoài.
Chàng về nghĩ lại mà coi
Tâm tình em ở, gương nào soi cho bằng ?


Các mục liên quan:



Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận