Ca dao:

Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.

Nội dung chi tiết

Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.

 

 

Mô-típ ca dao "Trèo lên cây..."
Ai qua Quán Trắng Phố Nhồi
Để thương để nhớ cho tôi thế này
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi
Bây giờ tôi đứng tôi ngồi
Con dao lá trúc bình vôi ăn trầu

Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả
Em chấp tay: khoan đã, chưa tới duyên phần
Phụ mẫu nói em bất tôn giáo hóa
Em trèo lên cây bần cho kiến nó bu

Chú mèo trèo lên cây cao
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?
- Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo !

Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo.


Con mèo trèo lên cây dông
Con chó đứng dưới chửi ông con mèo.


Con mèo trèo lên cây táo
Mẹ chồng nương náu, chưởi mắng nàng dâu
Bà ơi không sợ bà đâu
Bà đừng chửi mắng mà mang tiếng đời
Bà cưới tôi có rượu có trầu
Có đưa có rước, nàng dâu mới về
Tôi về bà nhún bà trề
Để con bà ở lại tôi về xứ tôi
Xứ tôi là xứ Tân Châu
Cũng có ngựa ô, ngựa bạch ngựa hồng của tôi.

Con mèo trèo lên cây táo
Mẹ chồng láu kháu đánh chửi nàng dâu
Bà ơi tui không sợ bà đâu
Hồi nào bà cưới bà xin tui về
Bây giờ bà nhúng bà trề
Sai con bà đuổi tui về xứ tui

Con mèo trèo lên cây vông
Con chó đứng dưới ngó mong con mèo
Mèo rằng, sao chó chẳng theo ?
Lên đây mèo sẽ dạy leo cho mà


Đứng thấp thì chẳng ai nhìn;
Trèo lên cây quế ba nghìn người ngong

Trèo lên cây quế ba nghìn người ngong (ngóng);
Phận thấp hèn thì không ai thèm đếm xỉa,
khi sang trọng thì lắm kẻ muốn quan hệ.

Gá duyên chồng vợ không thành,
Trèo lên cây mít, xích ra nhành buông tay,
Đôi tay như điểu đậu nhành mai.
Đậu chưa yên chỗ, trách ai rung cành.


Trèo lên cây bưởi hái bòng
Đưa dao là gọt xem lòng ngọt chua
Bòng em không ngọt không chua
Tiền trăm bạc núi chưa mua được bòng.

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi từ ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra

Trèo lên cây bưởi ngắt ngọn thanh yên
Duyên em bán mấy, anh kiếm tiền anh mua
- Duyên em bán thiệt ba trăm
Anh mua chi nổi mà hỏi thăm cho rộn ràng


Trèo lên cây chanh
Hái chanh, ăn chanh
Ngửa khăn bọc chanh
Bớ người quân tử cầu danh
Đừng thấy chanh chua mà phụ, gặp gái lành mà chê

Trèo lên cây chót vót cây khô,
Ngó về đồng ruộng thấy bốn cô chưa chồng,
Cô hai cấy lúa vừa xong,
Cô ba chưa chồng bản ngản bơ ngơ,
Cô tư tuổi hãy còn thơ,
Cô năm còn dại còn khờ,
Tôi đây ở vậy mà chờ bốn cô,
Vái trời cho có lúa bồ,
Tôi qua cưới hết bốn cô đem về,
Cô hai lo tảo bán tần,
Cô ba xách nước dưỡng thân mẹ già,
Cô tư xách chổi chăn gà chăn heo,
Cô năm gá nghĩa tình chung với mình,
Năm thê bảy thiếp chúng mình đông vui.


Trèo lên cây gạo cao cao
Nom xuống hàng thịt như dao cắt lòng

Trèo lên cây gạo cao cao
Thấy cây gỗ mục càng bào càng bong.
Trách người làm mối không xong
Để cho đôi lứa long đong thế này.


Trèo lên cây gạo cao cao
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.

Trèo lên cây gạo cao cao
Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền.

Trèo lên cây gạo con con
Muốn lấy vợ giòn phải nặng tiền cheo
Nặng là bao nhiêu?
Ba mươi quan quý.
Mẹ anh có ý mới lấy được nàng
Mai mẹ anh sang, Mẹ nàng thách cưới
Bạc thì trăm rưỡi, Tiền chín mươi chum
Lụa thì chín tấm cho dày
Trâu bò chín chục đuổi ngay vào làng.
Anh sắm được anh mới hỏi nàng
Nếu không sắm đủ chớ vào làng làm chi!

Trèo lên cây khế bẻ bông
Ngó vô trường học thấy đông dậm dầy
Nếu em không sợ ông thầy
Em vô cầm bút sửa chữ này cho anh


Trèo lên cây khế chua le
Vợ thì muốn lấy chỉ e mất tiền

Trèo lên cây khế giữa (nửa) ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng.
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời.

Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày

Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Khế chết khế lại mọc chồi
Để sung mọc nhĩ để hồi đeo hoa
Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trong
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi
Hết gạo thiếp lại gánh đi
Hỏi thăm trường học vậy thì nơi nao
Hỏi thăm đến ngõ thì vào
Tay cắp thúng gạo miệng chào thưa anh
Trong thì mặc áo đào xanh
Ngoài thì bươm bướm bay quanh dập dìu

Gỗ cây sung mọc nấm tai mèo;
Trèo lên cây mít ít múi, nhiều xơ,
Con gái lẳng lơ, trai tơ bậy bạ,
Con gái nhu mì, trai đã đám đâu.

Trèo lên cây ớt rớt xuống bụi hành
Ai chẳng lòng thành, hành đâm đổ ruột

Trèo lên cây tắc tắc lòng
Bước sang cây bưởi lại hòng thanh yên
Duyên sao cắc cớ hỡ duyên
Cam chanh bòng bưởi bao phen với trèo


Trèo lên cây trác, ngắt lá đinh lăng
Giở sách ra có câu rằng:
“Bần cư trung thị, vô nhân vấn
Phú tại sơn lâm, hữu khách tầm”
Anh thăm em chẳng nề xa gần
Cầu không tay vịn cũng lần thăm em.

Trèo lên cây trắc, ngắt lá đinh lăng
Dở cuốn sách ra thấy ba câu chữ rằng,
Mặc đạo xà thằng long vô giác
Đã vị chi cao nhân sâm sánh với huỳnh kỳ,
Anh chê em là gái lỡ thì,
Giả như con cá mà chờ kỳ hóa long.

Trèo lên cây trắc, ngắt lá đinh lăng
Dòm xuống thấy có chữ rằng:
“Họa phước vô môn”
Trai khôn khó kiếm, gái khôn khó tìm,
Ngó lên trăng khuyết lưỡi liềm,
Muốn vô gá nghĩa, sợ nỗi niềm mẹ cha.

Trèo lên cây trắc, ngắt ngọn đinh lăng
Nhớ trong sách có chữ rằng:
"Bần cư náo thị vô nhân vấn
Phú tại thâm sơn, hữu khách tầm"
Anh với em cũng muốn gần
Thế gian đàm tiếu, mười phần dễ xa

Trèo lên cây trảy, thấy mụt măng vòi
Anh thương sao chắc chắn, hản hòi thì thương


Trèo lên cây khế mà rung
Khế rụng đùng đùng, không biết khế ai
Khế này là khế ông Cai,

khế chưa mà có trái là chị Hai nó có chồng
Anh Hai đi cưới chị Hai,

mâm trầu và hũ rượu hết 20 đồng
Nào tiền mua chả, mua nem,

mua 1 đôi đèn cho họ ngồi mâm
Ông Cai, ông Lý ngồi trên,

sui gia mà ngồi giữa, bốn bên họ hàng
Trèo lên cây khế mà rung...


Trèo lên cây gạo cao cao
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.


Trèo lên cây gạo cao cao
Bước xuống vườn đào thấy áo người phơi
Thấy áo sao chẳng thấy người
Như đứng nhà dột như ngồi chuồng chim
Thấy chuồng sao chẳng thấy chim
Để tôi chỉ quyết đi tìm một đôi
Tưởng rằng chim lẻ bắt chơi
Không ngờ chim đã đủ đôi cả rồi.

Tham khảo thêm:

Trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam có biết bao câu ca nói về Thăng Long - Hà Nội, ca ngợi cảnh đẹp, ca ngợi con người, phản ánh đời sống xã hội nơi kinh thành hoa lệ.

HoGuom01Small.jpg

Nguồn ảnh: vnphoto

 
Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, mảnh đất này khi là Thủ đô vương quốc, khi bị ngoại xâm chiếm đóng, nhưng rồi lại trở về với nhân dân, lại giữ vai trò trung tâm chính trị - văn hóa - kinh tế của đất nước.

Thăng Long Hà Nội đô thành

Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ

Cố đô rồi lại tân đô

Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.

 

Hà Nội nằm giữa một vùng sông nước với những ngã ba sông, lại có núi Nùng trấn trung tâm, Ba Vì, Tam Đảo, Sóc Sơn bao phía bắc, tạo nên thế “rồng cuộn hổ ngồi”.

Sông Tô một dải lượn vòng

Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh

Sông Hồng một khúc uốn quanh

Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.

 

Sông Hồng tức Nhị Hà đã trở thành trục giao thông quan trọng ngày ấy:

Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà

Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui.

Con sông Tô Lịch chảy giữa đô thành đem lại cảnh hữu tình cho đất ngàn năm văn vật.

- Sông Tô nước chảy quanh co

Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya...

- Nước sông Tô vừa trong vừa mát

Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh

Dừng chèo muốn tỏ tâm tình

Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.

Hà Nội còn đẹp bởi:

Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong

Không phải một hồ mà nhiều hồ. Hồ Gươm như lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Bảy Mẫu, Văn Hồ, Giảng Võ ở phía nam và tận tây nam. Tây bắc có Hồ Tây, Trúc Bạch nổi tiếng. Mỗi hồ là một danh thắng.

Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn

Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này


Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói tỏa màn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Hà Nội không chỉ giàu có về di tích danh lam thắng cảnh về đình, đền, chùa, miếu, về kiến trúc, điêu khắc, về cổ vật... mà còn là một kho tàng vô cùng phong phú về văn hóa - văn nghệ dân gian phi vật thể.

Đó là hàng nghìn câu ca dao, ngạn ngữ, làn điệu hát, khúc nhạc, hàng trăm truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, câu đố, câu đối, truyện cười, hàng trăm trò chơi, thú chơi dân giã cũng như những mỹ tục thuần phong thanh lịch mang sắc thái riêng biệt của Thăng Long - Hà Nội có bề dày nghìn năm lịch sử, tinh hoa của nền văn hiến Việt Nam.

Kho tàng ấy rất ít được ghi lại thành văn bản mà chủ yếu được truyền tụng từ đời này sang đời khác.

Trong quá trình lưu truyền ấy nó được bổ sung, chỉnh lý, sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại và cả với tầng lớp giai cấp mà nó phổ biến. Cho nên văn hóa phi vật thể thường có nhiều lối kể, cách diễn đạt cũng như chi tiết nội dung khác nhau. Tính dị bản ở nó là tất nhiên. Nó còn được dùng lẫn ở nhiều địa phương với công thức “bình chung, rượu riêng”.

Thí dụ như trong ca dao miêu tả ngợi ca quê hương làng xóm, nhiều nơi ứng dụng lẫn của nhau chẳng biết ai lấy của ai, câu nào ra đời trước nữa.

- Hỡi cô thắt lưng bao xanh

Có về Kẻ Bưởi với anh thì về

Làng anh có ruộng tứ bề

Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ...

- Hỡi cô mà thắt bao xanh

Có về Kim Lũ với anh thì về

Kim Lũ có hai cây đề

Cây cao bóng mát gần kề đôi ta.

- Hỡi cô thắt lưng bao xanh

Có về Kẻ Vẽ với anh tìm về

Kẻ Vẽ có thói có lề

Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn.

- Hỡi cô thắt dải lưng xanh

Có về Phú Diễn với anh thì về

Phú Diễn có cây bồ đề

Có sông tắm mát, có nghề ăn chơi...

- Làng tôi có lũy tre xanh

Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng

Bên bờ vải nhãn hai hàng

Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.

- Ai về Đào Xá vui thay

Xóm Bắc có chợ, xóm Tây có chùa

Xóm Đông có miếu thò vua

Xóm Nam có bến đò đưa dập dìu...

Hoặc niềm tự hào về quê hương luôn đưa mình lên hàng đầu hơn nơi khác:

- Thứ nhất Hội Gióng, Hội Dâu

Thứ nhì Hội Bưởi, Hội Vó chẳng đâu vui bằng

- Thứ nhất là Hội Cổ Loa

Thứ nhì Hội Gióng, thứ ba Hội Chèm.

Ngôi thứ bị đảo lộn cũng như câu ca xứ Sơn Nam xưa, ở Thanh Trì là “Thứ nhất Thanh Trì, thí nhì Thanh Oai”, nhưng sang đến Thanh Oai lại là “Thứ nhất Thanh Oai, thứ hai Thanh Trì”. Lại còn cách đề cao người để mà nói mình “Nhất vui là hội chùa Thày, Vui thì vui vậy, chẳng tày chùa Mơ”.

Hà Nội cũng là quê hương của nhiều lễ hội nổi tiếng thiên hạ:

- Ai ơi mồng chín tháng tư

Không đi hội Gióng cũng hư mất đời

- Thánh giếng giỗ Thánh Sóc Sơn

Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về

- Bỏ con bỏ cháu, không bỏ mồng sáu tháng giêng.

Mồng sáu tháng giêng là ngày hội Cổ Loa, hội đền Sóc.

- Cha đánh mẹ treo cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm

- Mỗi năm vào dịp xuân sang

Em về Triều Khúc xem làng hội xuân...

- Nhớ ngày hăm ba tháng ba

Dân Trại ta vượt Nhị Hà thăm quê...

là hội làng Lệ Mật.

Ca dao còn phản ánh một Thăng Long - Hà Nội có bề dày lịch sử và quá khứ anh hùng.

- Lạy trời cho cả gió lên

Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành

- Nhong nhong ngựa ông đã về

Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn

- Đống Đa ghi để lại đây

Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am.

- Long thành bao quản nắng mưa

Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây...

- Trời cao biển rộng đất dày

Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi.

Ca dao - ngạn ngữ xưa phản ánh đủ các mặt của xã hội, từ phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, nghề nghiệp, tính cách con người, đến đấu tranh các thói xấu, tệ nạn đương thời, giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có thêm dữ liệu. Qua bài ca dao “Vui nhất là chợ Đồng Xuân” ta thấy cảnh nhộn nhịp của cái chợ lớn nhất kinh thành. Nào là “Cổng chợ có chi hàng hoa/Có người đổi bạc chạy ra chạy vào/Lại thêm “sực tắc” bán rao...” cho đến “Có người bán lược, bán gương/Có người bán cả hòm rương, tủ quầy/Có người bán dép, bán giày/Có người bán cả ghế mây để ngồi...” và thêm “Lại còn kẻ cắp như rươi/Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi”.

Muốn biết 36 phố phường xưa phải tìm đến bài ca dao “Rủ nhau chơi khắp Long Thành” có liệt kê các tên phố cũ bắt đầu bằng chữ “Hàng”.

Còn đọc bài ca dao dưới đây ta hiểu được các nghề thủ công của từng làng thuộc vùng đất phía Nam huyện Thanh Trì:

Làng Đam bán mắm tôm xanh

Làng Họa đan đó, làng Tranh quay guồng

Đông Phù cắp thúng đi buôn

Đông Trạch bán thịt, làng Om vặn thừng

Tương Trúc thì giỏi buôn sừng

Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quang...

Đất lề Kẻ Chợ còn là nơi lắm người “khéo tay hay nghề” và những đặc sản quý hiếm: “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”, “Mực cầu Cậy, giấy làng Hồ”, “Sù, Gạ thì giỏi chăn tằm, làng La canh cửi, làng Đẵm bơi thuyền”... và cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì...

Lại còn những làng hoa: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Tân... làm ngẩn ngơ các du khách đến thăm - trước cảnh đẹp, người đẹp, đã thốt lên:

Hỏi người xách nước tưới hoa

Có cho ai được vào ra chốn này

Và ướm lời hò hẹn:

Hỡi cô đội nón ba tầm

Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang

Phiên rằm cho chính Yên Quang

Yêu hoa, anh đợi hoa nàng mới mua...

Nhưng bên cạnh cái “phồn hoa đệ nhất kinh đô” ấy, ca dao đã không quên một thực tế của dân nghèo Hà Nội dưới thời Pháp thuộc:

Văn minh đèn điện sáng lòe

Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng

Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng

Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng

Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng

Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.

Ca dao không né tránh đấu trạnh, sẵn sàng vạch mặt:

- Ông quan ở huyện Thanh Trì

Miếng mỡ thì lấy, miệng bì thì chê.

- Cha đời lính Tẩy, lính Tây

Hễ trông thấy gái giở ngay xì xồ...

- Đốc Hà áo gấm, áo hoa

Mẹ tôi váy đụp đã ba, bốn tầng...

Cũng như phê phán hủ tục trong việc cưới:

- Trèo lên cây gạo cao cao

Lệ cheo làng Nhói độ bao nhiêu tiền?

- Cheo thời có bẩy quan hai

Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ

Thôi thôi tôi giã om cô

Tiền cheo cũng nặng trăm vồ cũng đau!

Người Hà Nội thường tự hào với câu ca dao xưa:

- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An

Hoặc:

- Chẳng thơm cũng thể hoa mai

Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh

Tràng An, Thượng Kính là chỉ Kinh Đô, là Thăng Long, Hà Nội. Trong cuộc sống vận động nếp sống văn minh câu ca đã biến dạng thành:

- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Chẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô.

Thay hai tiếng Thủ đô cho rõ ràng, rành mạch hơn.

Trong kho tàng ca dao Hà Nội cũng còn bao câu khác hình tượng hóa sự thanh lịch ấy:

- Đất tốt trồng cây rườm rà

Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.

- Người thanh tiếng nói cũng thanh

Chuông kêu, khẽ gõ bên thành cũng kêu.

- Kim vàng ai nỡ uốn câu

Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.

- ... Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe

- Vàng thì thử lửa, thử than

Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời...

Từ “người thanh” chuyển hóa thành “người khôn”, rồi “người ngoan”, ca dao đã đặt định cho thanh lịch tương ứng và đồng nghĩa với khôn - ngoan rồi.

Bên sự ca ngợi chung còn có ca ngợi riêng, ví như với cô gái Trại làng hoa Ngọc Hà:

- Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng

Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm.

Với cô hàng bỏng kẹo làng Lủ:

- Mình từ làng kẹo mình ra

Nên mình nói ngọt cho ta phải lòng.

Và cả đến gánh rau làng Láng cũng phải:

... Mượn người lịch sự gánh lên Kinh kỳ.

Thanh, lịch đã trở thành truyền thống của người Thăng Long - Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam. Nói đến thanh là nói đến sự thanh cao trong tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tâm hồn; là nói đến thanh nhã trong nói năng, hành động; là nói đến thanh đạm trong cuộc sống đời thường và thanh liêm với của cải xã hội. Còn lịch, phải chăng là đề cập đến sự lịch lãm - xem nhiều, lịch duyệt - hiểu rộng, lịch thiệp trong giao tiếp và lịch sự trong ứng xử. Nếu như ở vế thanh, con người phải học tập, rèn luyện tu dưỡng mới có, thì ở về lịch lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đúc kết nên. Phải có cảnh thanh và lịch mới đầy đủ trọn vẹn.

Trong thực tế, ta đã từng gặp người thanh mà không lịch, hoặc ngược lại. Thăng Long - Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, trong đó có tinh hoa phẩm chất nhân cách và lối sống. Không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim Tổ quốc này còn sàng lọc, kết tinh hương hoa trăm miền để tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tỏa sáng ra trăm miền đất nước.

Thanh lịch không phải là thứ trừu tượng, nó được thể hiện rõ rệt trên nhiều mặt của cuộc sống, trong nhiều lĩnh vực: ăn nói, ăn mặc, ăn học, ăn làm, ăn ở, ăn uống cho đến ăn chơi trong lối sống và trong các phong tục, tập quán khác. Nó cũng không phải là thứ bất biến mà có thay đổi điều chỉnh, hoàn thiện, bổ sung, tước bỏ qua từng thời đại lịch sử, qua mỗi chế độ xã hội, để thích ứng với cuộc sống và phần nào phù hợp với luật pháp đương thời.

Những câu ca dao - ngạn ngữ nói về cổ tích, truyền thuyết Hà Nội nếu không dựng lại hình tượng của những nhân vật anh hùng chống giặc cứu dân thì cũng là phản ánh công cuộc xây dựng đất nước, thể hiện ý chí bất khuất, lòng yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa của nhân dân ta. Truyện ông Gióng lên ba đã xin vua đúc ngựa sắt, roi sắt diệt giặc Ân, lập xong chiến công kỳ vĩ đã không màng danh lợi, phi ngựa sắt về trời.

Truyện đức thánh Chèm - người dũng sĩ khổng lồ, đã vang danh ngoài biên ải nước láng giềng, giàu sang phú quí không níu được chân, vẫn trở về nằm xuống ở mảnh đất quê hương. Truyện An Dương Vương xây thành ốc được thần tiên giúp đỡ. Truyện ông Không Lộ dùng phép màu thu đồng đen của nước phương Bắc đem về đúc chuông, chuông gióng lên. Trâu Vàng từ bên đó lồng sang giẫm nát một vùng thành hồ Tây, rồi chạy về phía Đông Nam, dấu chân vạch nên sông Kim Ngưu bây giờ.

Thực và ảo đan xen, tạo màn sương bao phủ lên cảnh vật, làm cho không gian Thăng Long - Hà Nội thêm diệu huyền đậm đà chất tâm linh cổ kính.

Kho tàng văn nghệ dân gian ấy là vốn quí cần được sưu tầm, khai thác, bảo vệ và phát huy tác dụng trong công tác giáo dục truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lấy xưa phục vụ nay là phương châm đúng đắn của việc bảo tồn di sản văn hóa.

Vốn văn nghệ dân gian thường nằm trong lớp người cao tuổi. Họ có thể ra đi bất kỳ. Bởi vậy, nhanh chóng tìm hỏi, ghi chép lại là việc làm cấp bách của chúng ta. Hội văn nghệ dân gian Hà Nội nhiều năm qua được sự giúp đỡ của các cơ quan hữu trách đã liên tiếp mở các cuộc điền dã đi sâu tìm hiểu về các làng nghề, phố nghề, về nghệ thuật ẩm thực Hà Nội, về các dòng họ tiêu biểu... qua quá trình khai thác đã tìm ra nhiều câu ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, giai thoại, thần tích... của ngay địa phương nơi mình cư trú. Chỉ có như vậy mới không để mất đi những viên ngọc còn rơi vãi trong dân gian.

Qua ca dao cổ Hà Nội, ta càng thêm yêu mảnh đất nghìn năm văn vật. Mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước và Hà Nội cũng lớn lên cùng với dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường.

 

Hà Nội

Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.




Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận