Đại Đường Song Long Truyện
Hồi 223: Quá Hải Thần Tiên
Sau khi đổi y phục cấm vệ quân, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng thúc ngựa đến cổng lớn của Mạn Thanh Viện, hét lớn: “Xa giá của Tú Phương tiểu thư đã khởi hành chưa?”.
Mấy tên đại hán gác cửa vội vàng: “Hai vị quan gia, Tú Phương tiểu thư vẫn đang chải đầu rửa mặt, có điều xe ngựa đã chuẩn bị xong rồi, bất cứ lúc nào cũng có thể đi được”.
Khấu Trọng ra vẻ quan cách nói: “Dẫn đường cho ta!”.
Kế đó hai gã nhảy xuống ngựa, đi theo kẻ đó vào nội viện, Khấu Trọng vừa đi vừa dò hỏi, chẳng mấy chốc đã làm rõ tình hình Thượng Tú Phương bình thường đến dự tiệc thế nào, trong đầu lập tức định ra một kế hoạch tỉ mỉ.
Trời vẫn đầy mây mà không mưa, khiến cho tâm trạng của người ta dường như cũng trầm xuống, cây cỏ hoa lá trong vườn cơ hồ cũng mất đi màu sắc xanh tươi.
Khi đến tiểu viện của Thượng Tú Phương cư trú, hơn mười tùy tùng của nàng ta đang lau chùi xe ngựa, chuẩn bị xuất phát.
Khấu Trọng đuổi tên dẫn đường ra ngoài, lôi người đứng đầu đám tùy tùng của Thượng Tú Phương là Bạch Thanh sang một bên nói: “Huyền Ứng thái tử đặc biệt phái chúng ta đến đây bảo vệ cho Tú Phương tiểu thư, Bạch huynh cũng biết gần đây Đông Đô xảy ra rất nhiều sự cố mà!”.
Bạch Thanh đưa mắt nhìn hai người một lượt rồi nói: “Hai vị quan gia đây rất lạ mặt!”.
Khấu Trọng cố làm ra vẻ thần bí hạ thấp giọng nói: “Thời gian gầy đây chúng ta theo Huyền Nộ công tử đến Yển Sư hành sự, vì thế rất ít gặp người khác. Có điều hôm Tú Phương tiểu thư đến thượng thư phủ, không phải chúng ta đã gặp nhau rồi sao. Chỉ là hôm ấy ta phải canh gác trong phủ, không có dịp chào hỏi đó thôi. Vừa mới đến Tú Phương tiểu thư đã hát một khúc gì mà thiếu niên công tử phụ tư tư... hà... ta chỉ nhớ mỗi câu đó thôi, kỳ dư quên sạch cả rồi”.
Những điều gã nói nửa thật nửa giả, Bạch Thanh đương nhiên là cũng không nghi ngờ gì nữa, nhưng vẫn chau mày nói: “Tại hạ cũng nghe nói Đông Đô gần đây không được yên ổn lắm, Huyền Ứng thái tử quả là người hữu tâm. Có điều tiểu thư xưa nay không thích khoa trương, hai vị quân gia đi bên cạnh thế này, chỉ sợ làm người không vui”.
Từ Tử Lăng ở bên chỉ cười thầm trong bụng, tự nhủ một đoàn tiền hô hậu ủng thế này vẫn còn không gọi là khoa trương sao? Nhưng cũng biết đây chỉ là lời chối từ khéo của Bạch Thanh. Có lẽ là do Thượng Tú Phương này muốn cho người ta một ấn tượng bình dân một chút, không muốn công nhiên quan hệ với quan gia.
Khấu Trọng được Bạch Thanh nói trúng tâm sự, liền vỗ nhẹ vào vai y nói: “Chuyện này không khó, đợi lát nữa chúng ta cởi bỏ quân phục, đi theo sau xe ngựa của các vị là được rồi”.
Bạch Thanh còn nói gì được nữa, chỉ đành gật đầu đáp ứng.
Lúc này Thượng Tú Phương trang điểm rực rỡ cùng hai tỳ nữ xinh đẹp bước ra. Khấu Trọng vội biết điều nép sang một bên, trầm giọng nói: “Bây giờ chỉ cần qua được cửa Hoàng Thành là chúng ta trở thành thần tiên quá hải rồi!”.
o0o
Đoàn xe của Thượng Tú Phương rời khỏi Mạn Thanh Viện, đi về phía Hoàng Thành. Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đi ở sau cùng, nhìn trước ngó sau, làm ra vẻ cảnh giác.
Mọi người đều không ngừng ngẩng đầu quan sát sắc trời, sợ mưa lớn sẽ đổ xuống như trút bất cứ lúc nào, nên cố gắng đánh xe đi nhanh hơn. Đi được một lúc thì phía sau vang lên tiếng vó ngựa dồn dập.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cảnh giác nhìn lại, lập tức thầm than xui xẻo, thì ra người phóng ngựa đuổi tới chính là Lý Thế Dân, Bàng Ngọc, Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức.
Lúc này chuyện duy nhất bọn gã có thể làm được, chính là cầu khẩn ông trời, hy vọng Lý Thế Dân không biết mặt hết tất cả người hầu tùy bộc của Thượng Tú Phương, bằng không hai gã sẽ lập tức bại lộ thân phận.
Bọn Lý Thế Dân tuyệt đối không dễ bị gạt giống như Bạch Thanh.
Hai gã vội vàng tản ra, vận công thu liễm tinh khí, khom người xuống, tránh để bọn Lý Thế Dân cảnh giác, thầm cảm thấy may mắn vì đang cưỡi ngựa, bởi nếu đang đi bình thường, chỉ cần hai gã thẳng người lên là đã khiến địch nhân chú ý đến rồi.
Lý Thế Dân dẫn đầu vượt qua hai gã, cơ hồ như đang tập trung tinh thần vào chuyện gì đó rất khẩn cấp, chẳng buồn liếc nhìn lấy một cái. Bọn Bạch Thanh lần lượt hành lễ, Lý Thế Dân cũng chỉ gật đầu một cái coi như đáp trả. Bọn Bàng Ngọc theo sát phía sau Lý Thế Dân, cũng chẳng chú ý đến bọn gã.
Lý Thế Dân cho ngựa chạy song song với xe ngựa của Thượng Tú Phương, nói: “Tú Phương tiểu thư! Thế Dân đến muộn rồi!”.
Hai gã đều có cảm giác hú vía, thì ra Lý Thế Dân đã hẹn Thượng Tú Phương cùng nhập cung.
Thượng Tú Phương ngồi trong xe lên tiếng đáp lễ rồi ngạc nhiên nói: “Tần Vương xưa nay luôn đúng giờ, tại sao hôm nay lại trễ hẹn vậy. Tú Phương không hề có ý trách móc gì, chỉ là hơi cảm thấy hiếu kỳ mà thôi”.
Lý Thế Dân ngẩng mặt nhìn sắc trời u ám, trầm mặc một lúc lâu rồi mới thở dài nói: “Tú Phương tiểu thư còn nhớ Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không?”.
Hai gã đi phía sau đang dỏng tai lên lắng nghe, thấy Lý Thế Dân nhắc tên mình với Thượng Tú Phương thì đều cảm thấy hứng thú, một mặt ngạc nhiên không hiểu Lý Thế Dân đến trễ thì có liên quan gì đến mình, mặt khác cũng rất muốn nghe vị mỹ nữ tài sắc song toàn này trả lời thế nào.
Thượng Tú Phương đột nhiên trầm ngâm không nói, hồi lâu sau mới khẽ cất tiếng thở dài: “Khấu Trọng thì Tú Phương đã từng hai lần cùng dự tiệc, ấn tượng rất sâu sắc, lúc nào cũng cảm thấy khí chất của y có điểm khác người. Còn về Từ Tử Lăng, thì chỉ liếc thấy một lần ở Thính Lưu Các, vẫn chưa có cơ hội quen biết. Lẽ nào Tần Vương đến muộn là vì hai người đó?”.
Thanh âm của nàng uyển dễ nghe hết sức, hấp dẫn nhất là trong ngữ điệu có một chút gì đó gợi mở như đã nhìn thấu nhân tình thế thái vậy. Lúc này chỉ nghe tiếng mà không thấy người, cảm giác đó lại càng thêm mãnh liệt hơn. Những ngừng ngắt và tiết tấu trong lúc nàng nói chuyện, cũng làm người ta liên tưởng tới tiếng ca thương cảm của nàng, trong u uất tịch mịch lại ẩn chứa một niềm hy vọng chờ đợi với sự vật, tạo thành một âm vận hết sức đặc biệt.
Lý Thế Dân cười khổ nói: “Tú Phương tiểu thư chắc biết Thế Dân và hai người đó vốn là hảo hữu, nhưng bây giờ đã thành cừu nhân sinh tử chứ?”.
Thượng Tú Phương “a” lên một tiếng kinh ngạc, một lúc lâu sau mới thấp giọng nói: “Mấy ngày hôm nay, có phải vì chuyện này mà Tần Vương bận rộn đến quên hết mọi chuyện không?”.
Lý Thế Dân không trả lời câu hỏi của nàng, mà lảng tránh sang chuyện khác: “Ta vừa phải đi một chuyến vì hai người đó, nhưng thì ra chỉ là hiểu lầm”.
Thượng Tú Phương ngạc nhiên: “Không phải Khấu Trọng ra sức cho Vương công sao?”.
Lý Thế Dân thở dài: “Đó là chuyện trước đây rồi. Tú Phương tiểu thư đừng để những chuyện thế gian ngươi lừa ta gạt đó làm bẩn đôi tai”.
Thượng Tú Phương hình như đang thăm dò Lý Thế Dân: “Hai người đó tuy võ công cao cường, anh hùng can đảm, nhưng nếu muốn đối đầu với Tần vương, có phải là hơi không biết lượng sức quá chăng?
Trong tiếng lọc cọc của vó ngựa chậm rãi nện xuống mặt đường, xe ngựa rẽ vào con đường lớn dọc theo Lạc Thủy, dẫn thẳng tới cửa cung.
Trên không thuyền đi tấp nập, trên bờ người xe như nước, Lạc Dương vẫn phồn thịnh như thuở trước.
Chúng nhân đều bị thanh âm tuyệt diệu của nàng làm quên cả bầu trời đang tối sầm lại.
Lý Thế Dân hít vào một hơi thanh khí rồi thở dài than: “Hai người này không thể dùng bốn chữ ‘võ công cao cường’ mà hình dung hết được. Bọn họ có thể là tuyệt đại cao thủ có thiên bẩm nhất trong lịch sử võ lâm. Hiếm có hơn là cả hai đều trí dũng song toàn, vì thế cho đến tận ngày hôm nay, vẫn chưa có ai làm được gì bọn họ. Ngay cả Lý Mật hùng mạnh như thế mà cuối cùng cũng phải nuốt hận bởi tay họ, từ đây có thể thấy hai người này lợi hại thế nào”.
Ngữ khí của Lý Thế Dân mang theo một chút gì đó bất lực và thương cảm, khiến người ta cảm nhận được y thực sự rất coi trọng hai kẻ kình địch này. Từ đây cũng có thể thấy được khí phách và lòng dạ rộng mở của y, cho dù là sinh tử đối đầu, y cũng tuyệt đối không hạ thấp đối phương trước mặt người khác.
Trong lòng Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều dâng lên những cảm giác dị thường, không ngờ Lý Thế Dân lại coi trọng mình đến thế, chẳng trách mà y lại bất chấp thủ đoạn liên thủ hợp tác với Vương Thế Sung để tiêu diệt hai gã.
Thượng Tú Phương thấp giọng nói: “Có phải bọn họ vẫn còn ở lại Đông Đô không?”.
Lý Thế Dân nói: “Chuyện này thì rất khó nói, khi hai kẻ này ở trong bóng tối tính mưu định kế, không người nào có thể đề phòng và suy đoán được họ sẽ làm gì”.
Lúc này xe ngựa đã đến Thừa Phúc Môn, đám cấm vệ quân đều thẳng người thi lễ, để cả đoàn người đi thẳng vào bên trong.
Cuối cùng thì Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cũng có thể thở phào nhẹ nhõm.
Lý Thế Dân và Thượng Tú Phương cũng ngừng nói chuyện, đi qua Thái Thường Tự và Tư Y Tự, rẽ trái ở trước Thượng Thư Phủ, đi vào Đông Thái Dương Môn, dọc theo con đường lớn qua Tắc Thiên Môn, tiến thẳng vào Cung Thành hùng vĩ.
Trong cung các điện các cung nối liền liên tiếp, đình đài lầu cách san sát như nấm, mỗi điện đều có tường bao vây quanh và có những con đường nhỏ nối liền với nhau.
Đây mới là lần đầu tiên Từ Tử Lăng đặt chân vào nội cung, còn Khấu Trọng thì đã từng chạy vào đây một lần, có điều lúc ấy chỉ lo chạy trốn, lấy đâu ra nhàn tình ngắm nhìn phong cảnh, thế nên cả hai gã đều có cảm giác như được đại khai nhãn giới vậy.
Chỉ nhìn Tắc Thiên môn là đã biết Tùy Dạng Đế đã phải bỏ ra bao nhiêu nhân lực vật lực vào việc xây thành này.
Tắc Thiên Môn có hai môn khuyết tả hữu, cao tới mười hai trượng, bên trên có lầu nhô ra, mái lầu vểnh lên, làm tăng thêm vẻ hùng vĩ nguy nga cho tòa kiến trúc chính ở phía trong.
Sau khi qua cửa, ở chính giữa là tam môn lưỡng điện, môn là Vĩnh Thái Môn, Càn Dương Môn và Đại Nghiệp Môn, điện là Càn Dương và Đại Nghiệp.
Càn Dương Điện là chính điện trong cung, là nơi cử hành đại điển và tiếp kiến sứ tiết ngoại quốc.
Bên trên Càn Dương môn có lầu cao, nối liền với tường cao bao bọc không gian rộng lớn bên ngoài đại điện. Lúc này đã có mấy đội xa mã dừng lại bên ngoài cửa điện, thoạt nhìn đã đoán được ngay bên trong đang cử hành thịnh hội.
Càn Dương Điện quả không hổ là chính điện trong cung, riêng bậc thềm đã cao tới hơn trượng, từ mặt đất lên đến đỉnh cũng phải cao tới hai mươi trượng, bốn phía đều có cấm vệ quân canh giữ, giới bị thâm nghiêm. Hai bên điện đình đều có giếng lớn để cung cấp nước cho Hoàng Cung. Phía Đông Nam, chính Nam cũng có hai tòa lầu, một treo chuông, một treo trống, bên dưới có đồng hồ cát, mỗi khi đến giờ thì đều đánh lên một tiếng chuông, một tiếng trống.
Khấu Trọng đi song song với Từ Tử Lăng theo sau đoàn người của Thượng Tú Phương. Bọn gã không cần lo lắng phía Lý Thế Dân, mà chỉ lo Bạch Thanh. Hiện giờ Lý Thế Dân đã cho rằng hai gã là tùy tùng của Thượng Tú Phương, còn Bạch Thanh lại nghĩ bọn gã là người của Vương Thế Sung. Vì vậy chỉ cần đám cấm vệ quân này lộ thái độ không coi hai gã là người nhà, Bạch Thanh lập tức sẽ biết ngay hai gã là hàng giả.
Kết quả này cơ hồ như không thể tránh khỏi.
Giả như không có Lý Thế Dân đồng hành, bọn gã họa may vẫn còn có thể xuất thủ khống chế họ Bạch, nhưng giờ thì đương nhiên là không thể làm vậy. Hai gã đang đau đầu chưa biết phải làm sao thì xe ngựa đã từ từ dừng lại.
Lúc Tống Môn Thu từ bên trong bước ra nghênh tiếp, Lý Thế Dân đã nhảy xuống ngựa, đích thân giúp Thượng Tú Phương mở cửa xe.
Bốn phía đều là cấm vệ quân, muốn đào tẩu cũng không thể đào tẩu được. Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng đành quyết định liều nhảy xuống ngựa. Có hai tên cấm vệ bước tới giúp bọn gã dắt ngựa.
“Ầm!”.
Một tiếng sấm nổ giữa trời, làm chấn động cả hoàng cung. Cuồng phong nổi lên, thổi cho y phục ai nấy đều bay lên phần phật, lũ ngựa hí lên, nhảy chồm chồm. Kế đó, từng hạt mưa to như hạt đậu bắt đầu rơi xuống.
Tống Mông Thu sớm đã có chuẩn bị, vội mở chiếc ô mang theo bên mình ra che cho mỹ nhân tuyệt sắc đang tha thướt xuống xe. Những người khác đành phải làm gà nhúng nước một phen.
Địa ám thiên hôn.
Thượng Tú Phương và Lý Thế Dân vội vã bước lên đại điện, mưa càng lúc càng lớn, nước trút ào ào.
Kẻ vui mừng nhất đương nhiên là Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, bọn gã thừa lúc chúng nhân đang vội vã tránh mưa, triển khai thân pháp lướt đến lầu chuông ở phía Đông Nam mà không ai hay biết.
o0o
Hai gã nhìn mái điện điển nhã cổ kính của Càn Dương Điện, bất giác sinh ra cảm giác lịch sử trùng diễn, thậm chí còn có chút hơi mất bình tĩnh.
Mái điện cách lầu chuông nơi bọn gã ẩn thân khoảng ba mươi trượng, rất giống với tình cảnh đêm trước ở Vinh phủ, mà trận mưa lớn ầm ầm cũng đã làm sắc trời giữa ban ngày biến thành đêm đen.
Xung quanh đại điện đều là cấm vệ quân, còn phương pháp vào bên trong duy nhất của hai gã là từ trên mà xuống, thông qua lỗ thông hơi hoặc cửa sổ trổ gần mái mà đột kích mục tiêu bên trong.
Khấu Trọng hít sâu vào một hơi nói: “Không phải ngươi có cách vượt qua khoảng cách này hay sao? Ở đây có thể giở lại chiêu cũ được không?”.
Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Đương nhiên là được. Hiện giờ lại càng dễ hơn, bởi vì chúng ta còn có thêm sợi dây dài dùng để vượt tường thành nữa! Đi nào!”.
Khấu Trọng cởi chiếc túi trên lưng, đưa sợi dây dài mười trượng cho Từ Tử Lăng nói: “Lần này nhờ cả vào ngươi đấy!”.
Từ Tử Lăng tự tin thành thục buộc chặt hai đầu dây thừng vào eo hông mình và Khấu Trọng, rồi nói: “Nếu cách này mà không đến được mái Càn Dương Điện thì dùng để thoát thân cũng tiện lắm”.
Nói đoạn thuận tay rút Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng ra.
Khấu Trọng kháng nghị: “Ít nhất ngươi cũng nên cho ta biết phải phối hợp thế nào chứ?”.
Từ Tử Lăng đáp: “Đơn giản lắm, ta ném ngươi lên không, ngươi vận khí lướt đi, sau đó tiểu đệ sẽ ném Tỉnh Trung Nguyệt ra, ngươi học theo Hoảng Công Thác mượn lực phi bạt, đạp lên đao mà đến nơi, nhớ là phải vận công hút chặt đao vào lòng bàn chân, nếu để đao rơi xuống thì hỏng bét cả mọi chuyện đấy”.
Song mục Khấu Trọng lập tức sáng bừng lên: “Chỉ có ngươi mới nghĩ ra cách này thôi!”.
Từ Tử Lăng thấp giọng quát: “Lên nào!”.
Khấu Trọng nhảy rời khỏi lầu chuông, Từ Tử Lăng từ từ đẩy song chưởng ra, vận lực đẩy vào gót chân Khấu Trọng, lập tức đưa gã huynh đệ của mình lên cao thêm mười trượng”.
Nếu là lúc bình thường, một người bay giữa không trung không bị người ta phát hiện mới là lạ, nhưng giữa trời mưa gió bão bùng thế này, cho dù có ai ngẩng mặt nhìn lên, chỉ e cũng khó mà nhìn thấy hai gã.
Một tia chớp loé lên, rạch nát bầu trời phía trên Khấu Trọng.
Lúc này đà lao của gã đã tận, liền lộn nhào một vòng, lướt xuống mái điện.
Từ Tử Lăng cũng từ dưới nhảy lên, theo sau Khấu Trọng.
Trong tiếng tiếng mưa ầm ầm, Khấu Trọng vượt qua khoảng không hơn mười trượng, nhưng vẫn còn cách mái điện những hơn mười lăm trượng nữa, đúng lúc này Từ Tử Lăng vận công ném Tỉnh Trung Nguyệt ra, vừa hay vào đúng dưới chân gã.
Khấu Trọng đặt chân lên, mượn lực lao vút đi.
“Kịch!”.
Sợi dây thừng buộc hai gã kéo căng ra.
Khi Khấu Trọng và Tỉnh Trung Nguyệt chạm đến mái điện thì Từ Tử Lăng cũng mượn lực kéo của sợi dây đảo lộn trên không một vòng, rồi hạ thân xuống bên cạnh gã.
Thời gian hành động đã đến.
Hai gã móc chân vào mái điện, thò đầu xuống quan sát.
Thông qua ô cửa thông khí, hai gã nhìn thấy trong điện đèn đuốc sáng rực, bên dưới có hơn mười bàn tiệc, bày thành hai hàng, hướng về phía chủ vị.
Tiếng nhạc và tiếng cười đùa cùng tiếng mưa đập vào mái ngói phảng phất như dị âm từ một thế giới khác.
Khấu Trọng ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Lý tiểu tử công nhiên tham dự thịnh hội của Vương Thế Sung trong cung điện thế này có phải là đã gián tiếp thừa nhận đế vị của Vương Thế Sung rồi không?”.
Từ Tử Lăng cẩn thận quát sát tình thế, thấy ngồi bên trái Vương Thế Sung là Vương Huyền Ứng, kế đó là Lang Phụng, Tống Mông Thu, Vinh Phụng Tường, bên trái là Thượng Tú Phương, sau đó là Lý Thế Dân, còn lại đều là nhân vật có danh tiếng ở Lạc Dương này.
Chỉ nghe gã làu bàu nói: “Giờ này này ngươi vẫn còn thời gian nghĩ chuyện đó à, Lý tiểu tử chịu tham gia bữa tiệc này, đương nhiên là phải có lý do của hắn”.
Lúc gã nói chuyện, nước mưa từ trên mái chảy vào mặt hắn, khiến gã có cảm giác thống khoái phi thường.
Cả trời đất đều bị tiếng sấm sét và tiếng mưa bao trùm, so với không khí ấm áp bên trong điện, không gian bên ngoài lại càng tăng thêm vẻ cuồng bạo và băng lạnh vô tình. Nước mưa từ mái ngói giống như một tấm màn nước chảy xuống bậc thềm bên ngoài đại điện.
Đám cấm vệ quân đều nép mình vào sát tường, cơ hồ như cả hoàng cung chỉ còn lại mình hai gã là đang để mặc cho cuồng phong bạo vũ vùi dập.
Mỗi sợi tóc đều sũng nước.
Thanh âm đáng ghét của Vương Thế Sung ẩn ước truyền lại: “Tú Phương hôm nay sẽ ngồi thuyền rời Lạc Dương, chúng tay hãy cùng kính nàng một chung, chúc tiểu thư thuận buồm xuôi gió!”.
Hai gã giờ mới hiểu ra tại sao yến hội lại tổ chức vào giữa trưa, mà cả Lý Thế Dân cũng chịu đến phó yến.
Khấu Trọng thấp giọng nói: “Ta giả bộ hành thích Vương Thế Sung, còn ngươi phụ trách bắt sống tiểu Huyền Ứng, thế nào?”.
Từ Tử Lăng lắc đầu: “Vương Thế Sung để ta phụ trách, ngươi đối phó Lý Thế Dân để kềm chế ba người bọn Uất Trì Kính Đức”.
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Vậy ai bắt người?”.
Từ Tử Lăng cởi bỏ mặt nạ ra nói: “Đương nhiên là tiểu đệ, Vương Huyền Ứng thấy lão gia của hắn bị hành thích, tất sẽ xông lên hộ giá, lúc ấy chính là lúc hắn lọt vào tay chúng ta”.
Khấu Trọng cũng cởi bỏ mặt nạ nói: “Ngươi phải cẩn thận Vinh Phụng Tường đấy, chỉ cần hắn lợi hại hơn Vinh Giảo Giảo một chút, thì cũng đủ khiến chúng ta đau đầu rồi! Hắc! Ngươi thử nói xem ta có lỡ tay giết chết Lý tiểu tử không nhỉ?”.
Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Mục tiêu của chúng ta là cứu Hư Hành Chi, nếu ngươi tham công cầu thắng, ngược lại để địch nhân bắt mất thì chúng ta sẽ thua hết cả bàn đấy. Lúc đó thì người phải đổi là tên ngốc nhà ngươi chứ không phải Hư Hành Chi đâu”.
Khấu Trọng cười khổ nói: “Trước mặt ngươi, tại sao ta cứ giống như tên ngốc vậy nhỉ?”.
Từ Tử Lăng không chuyện phiếm thêm với gã nữa, mà hỏi: “Lúc nào động thủ?”.
Khấu Trọng trầm ngâm: “Ngươi nói thử xem?”.
Từ Tử Lăng vuốt nước mưa trên mặt, nở một nụ cười rực rỡ như ánh mặt trời, nhẹ hàng nói: “Đương nhiên là lúc địch nhân không cảnh giác nhất rồi! Nói đi, nên động thủ vào lúc nào đây?”.
Khấu Trọng cũng cười lại nói: “Cái này gọi là anh hùng sở kiến lược đồng. Đúng lúc Thượng Tú Phương đại gia khai kim khẩu, chúng ta sẽ xuất thủ hành động”.