Bài Giảng Cuối Cùng Chương 11

Chương 11
Nơi hạnh phúc nhất trên trái đất

Năm 1969, khi tôi lên tám, gia đình tôi làm một chuyến du lịch xuyên quốc gia để thăm Disneyland. Đó là một chuyến đi rất dài. Khi tới nơi, tôi đã vô cùng kinh ngạc. Đây là khung cảnh kỳ diệu nhất, thích thú nhất mà tôi từng gặp.

Lúc đứng xếp hàng cùng những đứa trẻ khác để đợi đến lượt chơi, tất cả những gì tôi nghĩ là “Tôi mong chờ tới lúc chính mình có thể làm được những thứ thú vị như thế này!”

Hai mươi năm sau, khi nhận bằng Tiến sĩ về Khoa học Máy tính của Carnegie Mellon, tôi nghĩ mình đủ khả năng để làm bất cứ việc gì, nên đã gửi đơn xin việc tới Walt Disney Imagineering. Và họ gửi tôi mấy lá thư vào loại tồi tệ nhất mà tôi đã từng nhận. Họ bảo đã nhận được đơn xin việc của tôi, nhưng không có “bất cứ một vị trí nào phù hợp với khả năng của anh.”

Không có gì cả? Đó là một công ty nổi tiếng về việc thuê hàng đội quân để quét đường. Disney không có gì cho tôi? Không có cả một cái chổi?

Rõ ràng đó là một thất bại. Nhưng tôi đã luôn giữ câu thần chú của tôi trong tâm trí. Các bức tường gạch được dựng lên với một lý do. Chúng không ở đó để loại bỏ ta mà là để cho ta một cơ hội chứng tỏ ta muốn một điều gì đó ghê gớm tới mức độ nào.

Quay lại năm 1995, khi trở thành giáo sư tại Đại học Virginia, tôi đã tham gia phát triển một hệ thống có tên “Hiện Thực Ảo Năm Đô La Một Ngày.” Đó là thời gian mà các chuyên gia hiện thực ảo nói họ phải cần nửa triệu đô la để có thể làm bất cứ thứ gì. Các đồng nghiệp và tôi đã phát triển một phiên bản nhỏ của ga ra Hewlett-Packard, chung sức xây dựng một hệ thống hiện thực ảo giá rẻ. Đồng nghiệp trong giới tin học đều cho rằng đó là một hệ thống khá lý thú.

Không lâu sau, tôi biết tin Disney Imagineering đang làm một đề án hiện thực ảo. Một đề án tối mật, đó là trò chơi Aladdin cho phép nguời chơi cưỡi một tấm thảm thần. Tôi gọi điện tới Disney và giải thích rằng tôi là một chuyên gia nghiên cứu về hiện thực ảo, muốn tìm hiểu thông tin về đề án. Tôi rất kiên trì, và được chuyển hết người này sang người khác, cho tới khi được nối với một người mang tên Jon Snoddy. Ông là một Imagineer tuyệt vời, người điều hành nhóm đề tài. Tôi cảm thấy như đã gọi tới Nhà Trắng và được nối với Tổng Thống.

Sau khi chuyện trò một lúc, tôi nói với Jon là tôi có việc tới California. “Chúng ta có thể gặp nhau được không?” (Sự thực là, nếu ông nói được, thì lý do duy nhất đưa tôi đến Calìfornia là để gặp ông. Tôi sẽ có thể tới tận sao Hải Vương để gặp ông!) Ông ấy bảo OK. Nếu đằng nào tôi cũng đến, thì chúng tôi có thể cùng ăn trưa.

Trước khi tới gặp ông, tôi đã dành tới tám mươi giờ để chuẩn bị. Tôi đã nói chuyện với  tất cả các chuyên gia về hiện thực ảo mà tôi quen biết để trao đổi các suy nghĩ và câu hỏi về đề án Disney. Kết quả là, khi cuối cùng gặp Jon, ông đã rất thán phục sự hiểu biết của tôi. (Thật dễ tỏ ra là thông minh khi bạn thán phục người thông minh.)  Kết thúc bữa ăn trưa, tôi hỏi thăm dò.

“Sắp tới, tôi có một sabbatical,” tôi nói.

“Đó là cái gì?” ông hỏi. Tôi thấy ngay tín hiệu đầu tiên của sự khác biệt văn hóa giữa hai khối hàn lâm và giải trí mà tôi sẽ phải đối đầu.

Sau khi nghe tôi giải thích về ý nghĩa sabbatical, ông nghĩ đấy là một ý đồ hay nếu tôi dành thời gian nghỉ này để làm việc với nhóm của ông. Chúng tôi thỏa thuận: tôi sẽ tới sáu tháng, làm việc với đề án, và viết đăng một công trình về nó. Cũng khá mạo hiểm, vì chưa hề có tiền lệ là Imagineering mời một người trong giới hàn lâm như tôi tới làm việc bên trong một đề án mật.

Vấn đề còn lại là tôi cần được mấy xếp của tôi cho phép làm sabbatical theo kiểu khá kỳ lạ như vậy.

Mỗi câu chuyện Disney đều cần một kẻ côn đồ, và với câu chuyện của tôi, kẻ đó là một Trưởng khoa ở Đại học Virginia. “Trưởng khoa Giun” (Jai đặt tên ông như vậy để tôn vinh phim Animal House) đã lo lắng rằng Disney sẽ vắt kiệt “trí tuệ” khỏi đầu tôi, thứ mà theo luật lại là sở hữu của trường. Ông ta phản đối việc tôi muốn làm. Tôi hỏi: “Ông có nghĩ đó là một việc tốt không?” Và ông nói: “Tôi không biết liệu đó có phải là một việc tốt hay không.” Ông đã chứng tỏ, đôi khi, những bức tường gạch khó vượt qua nhất lại là làm bằng thịt.

Bởi chẳng đi được tới đâu với ông, tôi đã mang trường hợp của tôi tới chủ nhiệm khoa phụ trách nghiên cứu. Tôi hỏi ông: “Ông có nghĩ đó là một điều tốt nếu tôi làm việc này?” Và ông trả lời: “Tôi chưa có đủ thông tin để phát biểu. Nhưng tôi biết rằng một trong những giáo viên giỏi nhất khoa đang ở vă n phòng của tôi và anh ta thật sự phấn khích. Vậy hãy nói thêm cho tôi nghe.”

Đây là một bài học cho các nhà quản lý. Cả hai trưởng khoa đều nói cùng một điều: họ không biết liệu làm sabbatical như vậy có phải là một điều tốt hay không. Nhưng hãy nghĩ về sự khác biệt trong cách nói của họ!


Chị tôi và tôi trong khu vui chơi Alice, Disneyland.

Cuối cùng, tôi đã được phép thực hiện kỳ sabbatical đó. Một giấc mơ của tôi đã trở thành hiện thực. Và tôi phải thú nhận, tôi là người khùng ra sao: ngay khi đến California, tôi nhảy lên chiếc xe mui trần của tôi và lái thẳng tới trụ sở của Imagineering. Đó là một buổi tối mùa hè nóng nực, và tôi vặn máy stereo để nghe thật to bản nhạc The Lion King của Disney. Khi tôi lái xe qua dãy nhà, những giọt nước mắt đã bắt đầu chảy tràn xuống mặt. Tôi đây rồi – phiên bản trưởng thành của cậu bé tám tuổi tròn xoe mắt ở Disneyland! Cuối cùng tôi đã đến. Tôi đã là một Imagineer.


[1] Battle of the Bulge. Trận Ardennes (16/12/1944 – 25/01/1945) là cuộc phản công chính của Đức cuối Thế Chiến II qua vùng núi Ardennes thuộc Bỉ, Pháp và Luxembourg trên Mặt trận miền Tây. Cuộc phản công có tên Đức là Unternehmen Wacht am Rhein (Lá chắn sông Rhine). Quân đội Mỹ đặt tên cuộc phản công là Trận đánh Ardennes, nhưng được công chúng biết nhiều dưới tên Trận Bulge. “Bulge” là viết tắt tiếng Đức, chỉ đường tấn công của quân Đồng minh.

[2] Columbia. Một vùng ngoại ô của thành phố Baltimore và Thủ đô Washington, DC, hiện có hơn 97 ngàn dân.

[3] Theory Qualifier. Lý thuyết đầy đủ bao gồm ba lĩnh vực chính: 1) cấu trúc dữ liệu và thuật toán, 2) lý thuyết độ phức tạp, và 3) ô tô mát và ngôn ngữ hình thức.

[4] Presbyterian. Giáo hội Trưởng lão là giáo hội (đặc biệt là giáo hội quốc gia của Scotland) được cai quản bởi các trưởng lão, chủ trương bình đẳng về cấp bậc.

[5] The National Aeronautics and Space Administration (NASA) là cơ quan của Chính phủ Hoa Kỳ, chịu trách nhiệm về chương trình không gian quốc gia. NASA được thành lập ngày 29 tháng 7 năm 1958 theo điều luật Hàng không và Vũ trụ Quốc gia. Bên cạnh chương trình không gian, NASA cũng chịu trách nhiệm về nghiên cứu dài hạn trong lĩnh vực hàng không dân sự và quân sự.

[6] Virtual reality (VR) là công nghệ cho phép người sử dụng tương tác với một môi trường, – có thật hoặc giả tưởng – được mô phỏng bởi máy tính. Phần lớn các môi trường hiện thực ảo dựa chủ yếu vào các kinh nghiệm trực giác, được hiện trên màn hình máy tính hoặc trên các kính hiển thị đặc biệt, đôi khi bao gồm cả âm thanh. Một số hệ thống phát triển còn bao gồm thông tin xúc giác, thường được biết tới như  nhũng phản hồi trong các ứng dụng y tế hoặc các trò chơi. Người sử dụng có thể giao tiếp với môi trường ảo thông qua thiết bị đầu vào như bàn phím và chuột, hoặc thiết bị nhiều mốt như găng tay điện. Môi trường mô phỏng có thể giống môi trường thật, thí dụ, mô phỏng cho phi công hoặc cho huấn luyện chiến đấu, hoặc có thể rất xa thực tiễn như trong các trò chơi. Hiện còn rất khó để tạo những kinh nghiệm hiện thực ảo chất lượng cao, chủ yếu do các giới hạn kỹ thuật về tốc độ xử lý, độ phân giải ảnh và giải băng truyền. Trong tương lai, những giới hạn này sẽ được khắc phục khi có kỹ thuật xử lý, ảnh số, và truyền số liệu tốt hơn và rẻ hơn.

[7] Football là môn bóng bầu dục rất phổ biến ở Mỹ. Môn thể thao được chơi như sau:

  • Hai đội chơi, mỗi đội có 11 người;
  • Một sân chơi bóng;
  • Ghi bàn họăc điểm bằng cách chuyền bóng về cuối sân của đối phương, hoặc là vào gôn, hoặc xuống dưới một vạch định sẵn;
  • Gôn hoặc vạch được bảo vệ bởi đội của đối phương;
  • Các cầu thủ chuyển bóng bằng cách đá, mang hoặc chuyền tay; và
  • Bàn thắng hoặc điểm được ghi khi các cầu thủ đưa bóng vào giữa hai cột gôn của đói phương.

[8] The Pennsylvania State University (thường gọi là Penn State) là trường đại học công ở bang Pennsylvania. Trường có 24 cơ sở, bao gồm cả một khuôn viên thế giới ảo. Truờng có tổng cộng khỏang 84 ngàn sinh viên, lớn thứ mười trong các đại học công ở Hoa Kỳ. Penn State có chương trình đào tạo trên 160 chuyên ngành và quản lý khỏan kinh phí 1,6 tỷ Đô la Mỹ.

[9] The World Book Encyclopedia là bách khoa tòan thư bán chạy nhất thế giới. Tập sách chứa kiến thức về tất cả các lĩnh vực chính, đặc biệt tập trung vào các chủ đề khoa kọc, kỹ thuật và y học. The World Book Encyclopedia có trụ sở ở Chicago, bang Illinois. Ấn bản lần đầu (1917) gồm tám tập. Những ấn bản mới được phát hành hàng năm, trừ các năm 1920, 1924, và 1932, với các sửa đổi chính vào năm 1930 (13 tập), 1947 (18 ngàn minh họa), 1960 (20 tập), và 1988.

[10] The Zulu là sắc tộc lớn nhất của Nam Phi với khỏang 10-11 triệu người, sống chủ yếu ở tỉnh KwaZulu-Natal, Nam Phi. Một bộ phận nhỏ hơn sống ở Zimbabwe, Zambia, và Mozambique. Ngôn ngữ của họ, isiZulu, là dòng Bantu. Vương quốc Zulu đóng vai trò lớn trong lịch sử Nam Phi trong các thế kỷ 19 và 20. Dưới chế độ apartheid, người Zulu bị xếp là công dân loại ba và chịu sự đàn áp của tệ phân biệt chủng tộc. Ngày nay, họ được bình đẳng với mọi công dân khác.

[11] Wikipedia là một đề án bách khoa toàn thư đa ngữ trên mạng mà người dùng không mất phí. Tên Wikipedia là ghép của các từ wiki (một dạng trang Web hợp tác) và encyclopedia (bách khoa toàn thư). Các bài viết của Wikipedia cung cấp các liên kết (links) để dẫn người dùng tới các trang cần thiết với các kiến thức bổ xung. Wikipedia được viết một cách hợp tác bởi những người tình nguyện trên khắp thế giới. Từ lúc thiết lập năm 2001, Wikipedia đã phát triển rất nhanh thành một trong những trang Web tra cứu lớn nhất, thu hút hơn 684 triệu lượt người xem hàng năm (thời điểm 2008). Đã có hơn 75 ngàn người đóng góp cho hơn 10 triệu bài viết bằng hơn 250 thứ tiếng.

[12] James Tiberius Kirk là nhân vật giả tưởng và là nhân vật chính trong các phim tập Star Trek. Diễn viên William Shatner đóng vai này trong suốt bốn mươi năm.

[13] The Enterprise or USS Enterprise (còn thường được gọi là Enterprise) là tên của nhiều con tầu ngôi sao (starships) giả tưởng, trung tâm điểm của các phim truyền hình và phim truyện Star Trek.

[14] Star Trek là phim giải trí truyền hình khoa học viễn tưởng Mỹ rất nổi tiếng của tác giả Gene Roddenberry. Star Trek gồm sáu tập phim truyền hình khởi đầu từ 1966, cùng mười phim truyện, hàng chục trò chơi máy tính và video, hàng trăm cuốn truyện, cũng như một thềm công viên ở khu giải trí Las Vegas. Riêng loạt phim truyền hình đầu tiên cũng đã đủ tạo thành một hiện tượng độc đáo, là khởi nguồn cho nhiều trào lưu văn hóa quần chúng.

[15] Carnival là mùa hội tháng Hai và tháng Ba trước lễ Phục Sinh, thường gồm các lễ hội quần chúng hoặc diễu hành có kết hợp các thứ như diễn xiếc và các trò vui trên đường phố. Mọi người thường hóa trang hay đeo mặt nạ trong các lễ hội này.

[16] Adonis một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, biểu tượng cho tuổi trẻ.

[17] Midway Games là những trò chơi của hãng sản xuất trò chơi video Mỹ mang tên Midway. Những trò chơi nổi tiếng nhất có Mortal Kombat, Ms. Pac-Man, Spy Hunter, Tron và NBA Jam.

[18] Goodwill Industries International là một trong những tổ chức phi vụ lợi lớn nhất thế giới, cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện và dạy nghề cho những người có thiệt thòi như bị phụ thuộc vào an sinh xã hội, vô gia cư, không được đi học hoặc thiếu kinh nghiêm làm việc, cũng như những người tàn tật hoặc bị tâm thần. Goodwill có mạng lưới gồm 184 tổ chức độc lập ở Mỹ, Canada và 14 nước khác.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t86191-bai-giang-cuoi-cung-chuong-11.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận