Bão Cát Chương 1

Chương 1
1 giờ 33 phút sáng ngày 14-11 Bảo tàng Anh London, Anh

 

Harry Masterson sẽ chết trong vòng 13 phút nữa.

Nếu biết được điều đó chắc anh ta sẽ cố rít đến tận chỗ đầu lọc điếu thuốc lá cuối cùng. Thay vì vậy, anh ta rụi điếu thuốc sau khi bập vài hơi rồi lấy tay xua đi đám khói thuốc trước mặt. Nếu bị bắt quả tang đang hút thuốc bên ngoài phòng nghỉ của đội bảo vệ, chắc chắn Harry sẽ phải lĩnh đủ vài dùi cui của Fleming, sếp trưởng an ninh Bảo tàng. Tuần trước, Harry đã bị phạt vì đi muộn hai tiếng trong ca trực.

Harry lầm bầm chửi thề rồi nhét mẩu thuốc vừa dập vào túi quần. Thôi đành để dành đến giải lao hút nốt vậy... nếu như đêm nay cánh bảo vệ có thể được nghỉ đôi chút.

Tiếng sấm ầm ì vọng lại từ phía xa qua những bức tường. Trận bão mùa đông mới xảy ra lúc nửa đêm bắt đầu bằng một cơn mưa rào như trút nước dẫn đến một trận lụt lớn đe dọa nhấn chìm cả thành phốLondondưới làn nước con sôngThames. Những tia chớp nhảy múa, đan chéo nhau trên bầu trời trông giống như các màn trình diễn chạy từ chân trời sang tận phía bên kia. Theo lời người phát thanh viên thời tiết truyền hình, đây là một trong những trận bão từ lớn nhất trong vòng một thập kỷ qua. Một nửa thành phố đã mất điện và tê liệt vì trận mưa với những tia chớp độc đáo này.

Đối với Harry, điều đó có khi lại là may mắn vì phần nửa thành phố bị mất điện bao gồm cả Bảo tàng Anh nằm trên đại lộ Great Russel. Mặc dù có máy phát điện dự phòng nhưng cả đội bảo vệ vẫn được điều động để tăng cường bảo vệ các hiện vật tại Bảo tàng. Họ phải có mặt trong vòng nửa giờ nữa. Nhưng vì Harry là người trực gác đêm nay nên đã có mặt làm nhiệm vụ ngay từ lúc điện lưới tắt phụt. Dù các camera bảo vệ vẫn hoạt động được nhờ nguồn điện dự phòng nhưng anh ta và cả kíp trực vẫn bị Fleming ra lệnh phải lục soát tất cả phòng ốc ở khu Bảo tàng dài hơn 2 dặm rưỡi.

Vậy là họ phải phân tán lực lượng.

Harry cầm chiếc đèn pin đi dọc theo phía sảnh. Anh cảm thấy ngán đến tận cổ công việc tuần tra ban đêm khi cả tòa nhà Bảo tàng chìm trong bóng tối. Chỉ còn thấy lờ mờ ánh đèn đường hắt vào qua các ô cửa sổ. Nhưng lúc này vì bị mất điện nên ngay cả đèn đường cũng tắt ngỏm. Toàn bộ khu Bảo tàng tối om trừ vài tia sáng nhờ nhờ hắt ra từ mấy ngọn đèn điện áp thấp dự phòng.

Harry bỗng cảm thấy cần phải rít vài hơi thuốc để lấy lại bình tĩnh nhưng cũng không dám làm chậm trễ phần việc được giao. Là người nhận lệnh sau cùng trong kíp trực, anh phải đi kiểm tra các căn phòng phía Bắc, chỗ xa nhất trong hệ thống bảo vệ mặt đất. Điều đó không có nghĩa là anh có thể đi tắt được. Quay lưng lại gian tiền sảnh trước mặt, Harry đi ngang cửa dẫn tới cung Quận chúa Elisabeth đệ nhị.

 

Cung rộng tới 2 ac-rơ(1) tọa lạc ngay khu trung tâm được toàn bộ các tòa nhà của Bảo tàng Anh bao bọc. Nằm chính giữa là Thư viện mái vòm bằng đồng, một thư viện được xếp loại đẹp nhất thế giới. Phía trên là một quảng trường lớn tới 2 ac-rơ phủ bằng mái che do hãng Foster và các cộng sự thiết kế, tạo nên một trong những quảng trường có mái che lớn nhất châu Âu.

Lách vào bằng chìa khóa riêng, Harry khom người đi vào không gian rộng lớn này. Giống như cả khuôn viên Bảo tàng, Cung cũng chìm ngập trong bóng tối. Mưa đập mạnh xuống phần mái che bên trên. Tuy vậy, tiếng bước chân của Harry vẫn vọng lại rõ mồn một qua khoảng trống. Một tia chớp nữa lại lóe lên trên bầu trời. Mái vòm như bị chia cắt thành hàng nghìn mảnh nhỏ, sáng bừng lên trong chốc lát. Rồi bóng đêm lại ngự trị cả khuôn viên Bảo tàng lẫn trong tiếng mưa rơi lộp bộp. Một tiếng sét tiếp theo như đánh vào tận giữa tâm điểm. Mái vòm cũng rung lên bần bật. Harry cúi xuống một chút, cảm thấy dường như cả tòa nhà sẽ bị đổ sụp trong giây lát.

Vẫn dọi đèn pin về cánh phía Bắc trước mặt, Harry đi một vòng qua Thư viện. Tia chớp lại lóe lên chiếu sáng cả khu vực. Những pho tượng, vốn ngập chìm trong bóng tối bỗng dường như hiện ra từ đâu đó. Tượng con Sư tử Cnido nhô lên từ sau pho tượng bán thân khổng lồ đảo Easter. Rồi màn đêm lại nuốt chửng những người bảo vệ khi ánh chớp vụt tắt.

Harr y thấy ớn lạnh đến tận xương sống. Anh vội rảo bước, miệng lầm bẩm chửi thề, cố gắng tự trấn an.

Anh đã tới cánh Bắc rồi khom người chui vào và ngay lập tức được chào đón bằng thứ mùi vị quen thuộc của ẩm mốc và chất a-mô-ni-ắc. Anh cảm thấy mừng là có được các bức tường vững chãi bao bọc xung quanh. Harry lia đèn pin dọc chiều dài sảnh. Dù không thấy thiếu thứ gì nhưng anh vẫn muốn kiểm tra các gian nằm dọc theo sảnh. Anh nhẩm tính thật nhanh. Nếu kịp, may ra còn đủ thời gian để hút nốt điếu thuốc. Hồ hởi với tâm trạng sắp được rít thuốc lá, Harry vội vã bước vào sảnh, lia đèn pin phía trước.

Cánh bắc của Bảo tàng đã trở thành điểm trưng bày thông lệ mỗi khi Bảo tàng có những hoạt động quảng bá mới, khi thì là một triển lãm nhân chủng học, mô tả toàn bộ tiến trình phát triển của con người qua các thời đại bắc ngang qua các nền văn minh. Giống như một gian trưng bày về Ai Cập gồm các xác ướp và quan tài. Anh vội vã lướt qua các gian trưng bày từ đời Xen-tíc, Byzantine, Nga, Trung Quốc... Các gian trưng bày đều được bảo vệ bằng hệ thống cửa an toàn. Một khi bị mất điện, cánh cửa sẽ tự động khép lại.

Rồi cũng đến phần cuối sảnh.

Hầu hết các bộ sưu tập từ các gian trưng bày đều được sắp xếp tạm ở đây sau khi được chuyển từ Bảo tàng Nhân loại về chuẩn bị cho dịp lễ kỷ niệm. Nhưng cuối sảnh là nơi mà ít ra anh cũng có thể nhớ được. Đó là gian trưng bày A-rập, với một bộ sưu tập vô giá gồm những cổ vật được mang về từ khắp bán đảo A-rập. Gian trưng bày này được một gia đình vốn trở nên giàu có sau những vụ đầu tư vào dầu mỏ ở Tiểu Lục địa thuê trọn gói. Nghe nói, chỉ riêng số tiền bỏ ra để thu gom các cổ vật đó về Bảo tàng Anh cũng đã lên tới 5 triệu bảng mỗi năm.

Chắc chắn, người ta phải nể trọng sự đóng góp đó. Hoặc không hề.

Cùng với cái lắc đầu trước sự lãng phí ngu xuẩn quá


nhiều tiền bạc đến vậy, Harry lia đèn pin vào tấm biển đồng gắn phía trước.

"Phòng trưng bày Kensington", căn phòng mà những kẻ làm công trong Bảo tàng vẫn dè bỉu nói sau lưng là "phòng trưng bày của con quỷ cái".

 

Dù Harry chưa bao giờ gặp quý cô Kensington nhưng theo lời các nhân viên trong bảo tàng thì bất cứ sự xộc xệch nào ở gian trưng bày từ vết bụi trên tủ, tấm thiếp bị hoen ố hoặc một cổ vật được xếp không đúng chỗ cũng sẽ bị quở trách thậm tệ. Gian trưng bày là công trình cưng của cô ta và chả ai chịu nổi sự giận dữ của nữ chủ nhân cả. Bao nhiêu người đã bị mất việc vì cô ta, thậm chí cả viên giám đốc nhiệm kỳ trước.

Chính sự quan tâm này làm anh ta phải dừng lại lâu hơn một chút ngoài cổng bảo vệ. Harry lia đèn pin một lượt phía ngoài gian trưng bày với sự cẩn trọng khác thường. Một lần nữa, xem ra mọi việc có vẻ ổn.

Sắp quay người bước đi thì bỗng một sự chuyển động thu hút sự chú ý của anh ta.

Harry lạnh người, lia đèn pin xuống nền nhà.

Nằm sâu trong gian trưng bày Kensington, ở góc xa nhất, một cái bóng đang di chuyển chậm chạp, hắt ánh sáng mờ mờ lên lối đi.

Có một ngọn đèn pin nữa... ai đó đang ở trong gian
trưng bày.

Anh thấy tim mình như ngừng đập. Một vụ đột nhập.
Harry đứng nép vào bức tường bên, ngón tay lần vào máy bộ đàm. Bên ngoài vẫn nghe tiếng sấm ầm ì vọng lại, âm thanh đều đều sâu thẳm.

Anh khẽ nói vào bộ đàm.

- Phát hiện có kẻ đột nhập ở cánh Bắc. Xin cho chỉ thị.

Rồi anh chờ trưởng nhóm trả lời. Có thể Gene Johnson là một kẻ biếng nhác nhưng ít ra anh ta cũng từng là một sỹ quan Lực lượng An ninh Hoàng gia. Anh ta biết công việc của mình.

Có giọng đàn ông trả lời máy, nhưng Harry nghe câu được câu chăng vì cơn bão làm nhiễu sóng

 

- ... Sao... liệu anh có chắc không... Cứ chờ ở đó! ... Thế cửa bảo vệ có bị làm sao không?

Harry nhìn vào thấy chỗ cửa bảo vệ đã bị xệ xuống. Tất nhiên, anh phải kiểm tra xem đã bị đột nhập chưa. Mỗi gian trưng bày đều có một lối vào sảnh. Còn một cách vào duy nhất nữa là phải trèo qua một trong các cửa sổ cao ngất nghểu kia, vốn đã được rào kín phòng trộm hoặc xâm nhập. Dù cho cơn bão làm mất điện nhưng hệ thống điện dự phòng vẫn giữ cho cửa bảo vệ khép chặt. Cũng chưa thấy có tín hiệu báo động ở sở chỉ huy trung tâm.

Harry hình dung anh chàng Johnson có thể đã hướng camera dọc theo chiều dài sảnh tới gian Kensington. Anh đánh bạo liếc vào gian trưng bày gồm năm căn phòng. Bóng đen vẫn luẩn quẩn bên trong gian trưng bày. Sự di chuyển của gã xem ra có vẻ như tình cờ, không có chủ định, không phải hành động quyết đoán của một tên trộm có kinh nghiệm. Anh lại liếc qua cửa bảo vệ lần nữa. Khóa từ vẫn nhấp nháy ánh sáng xanh. Nó không hề bị mở.

Anh quay lại nhìn bóng đen một lượt nữa. Liệu có phải là do một chiếc ô tô chạy ngang rọi đèn vào cửa sổ gian trưng
bày chăng.

Giọng của Johnson qua bộ đàm làm anh giật thót người.

- Không được đụng vào bất cứ thứ gì... Máy quay số 5 bị hỏng... Cứ đứng yên đó... Những người khác đang tới...

 Những từ còn lại biến mất trong khoảng không bị cơn bão làm tắc nghẽn.

Harry đứng ngay chỗ cửa ra vào. Những nhân viên bảo vệ khác đang tới hỗ trợ. Nếu như có một kẻ đột nhập thì điều gì sẽ xảy ra? Còn nếu như đó chỉ là ánh đèn pha ô tô chạy ngoài đường hắt vào? Anh đã ở vào tình trạng quan hệ rất tồi tệ với Fleming rồi. Tất cả những gì gã chỉ huy cần bây giờ là biến anh thành một thằng ngốc.

Harry thấy cần phải chớp ngay dịp may này, nghĩ vậy tay liền giơ chiếc đèn pin lên.

- Này, ông bạn! - Anh hét lên, vẫn cố giữ vẻ oai phong nhưng thực ra chỉ là một tiếng hét nghèn nghẹn.

Mà cũng chả có chút thay đổi nào khi đốm sáng vẫn tiếp tục di chuyển. Hình như nó càng tiến sâu hơn vào gian trưng bày - chưa thể nói là rút lui trong sợ hãi, mà chỉ là theo nhịp chậm hơn. Không có tên cướp nào lại to gan đến như vậy.

Harry áp tới cánh cửa được khóa bằng từ rồi rút chìa khóa của mình để mở. Chốt khóa từ bật ra. Anh khẽ nhấc cánh cửa cao lên một chút để chui vào căn phòng đầu tiên. Đứng thẳng người rồi lia đèn pin. Harry cố tỏ ra không bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ nhất thời. Anh muốn tự mình xem xét chuyện này trước khi ấn nút báo động.

Nhưng đúng là đã có thiệt hại rồi. Điều tốt nhất anh có thể làm được là tìm cách làm sáng tỏ sự bí hiểm hòng may ra gỡ thể diện đôi chút.

Harry hét to như để dự phòng.

- An ninh đây! Không được cử động!

Tiếng hét của anh không hề có hồi âm. Vệt sáng vẫn tiếp tục di chuyển, chậm chạp vòng vào bên trong gian trưng bày.

Anh ngoái lại nhìn cánh cửa dẫn ra ngoài. Những người khác sẽ tới đây trong giây lát.

- Mẹ kiếp! - Harry lẩm bẩm rồi vội lao vào bên trong gian trưng bày, theo sau ánh đèn pin, quyết tìm bằng được nguyên nhân chuyện đó trước khi những người khác tới.

Không kịp ngoái đầu lại, anh bước vội qua một loạt cổ vật vô giá đựng trong hộp pha lê: các tấm bảng đất sét của nhà vua Assyrian Ashurbanipal; các pho tượng đá sa thạch thời tiền Ba Tư, gươm và vũ khí của các thời đại, những miếng ngà chạm khắc mô tả các nhà vua và hoàng hậu, thậm chí cả bản in đầu tiên của tác phẩm "Nghìn lẻ một đêm" dạng nguyên bản có tựa đề Nhà đạo đức phương Đông.

Harry lao vội qua các căn phòng trưng bày những cổ vật từ thời đại này sang thời đại khác, từ thời Thập tự chinh đến khi Đức chúa Jesu ra đời; từ những chiến tích của Alexander Đại đế đến thời vua Sôlômông và hoàng hậuSheba.

Rồi cuối cùng anh cũng tới được căn phòng xa nhất, cũng là lớn nhất. Nó trưng bày các cổ vật mà bất cứ nhà tự nhiên học nào cũng quan tâm hơn cả so với các thứ khác: đá quý và đồ trang sức hiếm, các hóa thạch, công cụ thời tiền đồ đá...

Nguồn sáng lúc này trở nên rõ hơn. Gần chính giữa căn phòng có mái vòm, một quả cầu đường kính độ nửa mét chầm chậm tỏa ánh sáng ra khắp gian phòng. Nó réo lên xèo xèo trong khi bề mặt của nó dường như được thắp sáng bằng một loại dầu có ánh sáng màu xanh rực rỡ.

Harry đứng ngây người nhìn, mồm há hốc khi thấy quả cầu lướt xuyên qua một cái tủ kính bằng thủy tinh như thể làm bằng không khí. Mùi xuyn-phuy toát ra từ quả cầu có thứ ánh sáng kỳ lạ đó xộc vào mũi.

Quả cầu lăn tới một bóng đèn bảo vệ đang hắt ra thứ ánh sáng nhờ nhờ rồi làm nó tắt phụt bằng một tiếng bụp nhỏ. Tiếng động làm Harry giật mình lui lại một bước. Có lẽ máy camera số 5 trong sảnh cũng chịu chung số phận như vậy. Anh liếc nhìn chiếc máy quay ở căn phòng này. Một chấm đỏ vẫn nhấp nháy phía trên. Vẫn còn hoạt động.

Như thể nhận ra sự chú ý của anh ta, giọng Johnson trở lại trên bộ đàm. Vì một lý do nào đó không có tĩnh điện.

- Harry, có lẽ cậu nên rời khỏi đó!

Anh đứng ngây người, vì quá sợ hãi và kinh ngạc. Hơn nữa vật đó đang trườn qua chỗ anh, tiến về phía góc tối của căn phòng.

 

Quả cầu chiếu sáng một khối kim loại bên trong lồng thủy tinh. Đó là một khối sắt màu đỏ, lớn bằng một con bê, một con bê đang quỳ. Tấm biển ghi đó là một con lạc đà. Sự giống nhau như vậy kể cũng lạ nhưng Harry hiểu sự mô tả đó. Hiện vật này được tìm thấy trong hoang mạc.

Quả cầu sà xuống chỗ con lạc đà.

Harry lui lại một bước cẩn trọng rồi hét vào bộ đàm.

- Lạy Chúa!

Cái bóng sáng lăn qua hộp kính rồi nhập vào con lạc đà. Ánh sáng của nó nhanh chóng phụt tắt như ngọn nến trong gió.

Bóng tối đột nhiên làm Harry mất phương hướng trong giây lát. Anh giơ đèn pin lên. Con lạc đà bằng sắt vẫn nằm trong cái lồng thủy tinh.

- Nó... biến mất rồi.

- Này, cậu có sao không đấy?

- Ồ, không biết cái quái quỷ gì đây...

Johnson trả lời, giọng kinh ngạc.

- Một quả cầu sáng từ dưới chui lên, tôi nghĩ vậy. Tôi đã nghe được những câu chuyện từ bạn bè trên các phi cơ chiến đấu khi họ bay qua khu vực sấm chớp. Cơn bão có thể phát sinh ra nó, nhưng điều kỳ lạ là nó không tỏa ánh sáng rực rỡ!

Nó không còn chiếu sáng rực rỡ nữa. Nhưng khi ánh sáng tắt đi, con lạc đà bằng sắt tiếp tục phát sáng trong trong tối. Một thứ màu sẫm rỉ nhoét.

- Cái quái quỷ gì đây vậy.

Harry lẩm bẩm, tay vớ lấy bộ đàm. Một cú sốc tĩnh điện nhói vào những ngón tay. Anh chửi thề, lắc thật mạnh, rồi giơ bộ đàm lên.

- Có cái gì đó thật kỳ quặc. Tôi không nghĩ là...

Ánh sáng từ con lạc đà bùng lên rõ hơn. Harry ngã ngửa ra sau. Sắt chảy ra từ phía bên ngoài con lạc đà, tan ra như thể nó bị trúng một trận mưa a xít. Anh không phải là người duy nhất chứng kiến cảnh đó.

Máy bộ đàm rung lên trong tay

- Harry, hãy ra khỏi chỗ đó ngay!

Anh chả muốn tranh cãi nữa, xoay người lại nhưng đã quá muộn.

Cái lồng thủy tinh nổ bung ra. Những mảnh thủy tinh nhọn hoắt đâm xuyên mạng sườn Harry, cả má anh cũng bị đâm thủng. Tuy nhiên anh chưa kịp nhận ra thì đã bị một làn hơi nóng từ sau cú nổ xộc tới, làm khô kiệt toàn bộ chỗ không khí xung quanh.

Một tiếng thét lên rồi tắt ngấm và không nghe được gì nữa.

Cú nổ tiếp theo nhấc bổng Harry lên, ném anh qua gian trưng bày. Chỉ có chỗ xương cháy đen thui đập vào cánh cửa bảo vệ, cháy rụi luôn cùng với khung cửa thép.

1 giờ 53 phút sáng 

Safia al-Maaz giật mình bừng tỉnh với nỗi lo sợ. Tiếng còi báo động vang lên từ bốn phía. Những luồng ánh sáng màu đỏ chạy ngoằn ngoèo trên tường phòng ngủ. Nỗi lo sợ bỗng chốc ùa vào trong nàng, làm nàng như nghẹt thở, lông mày lấm tấm mồ hôi. Những ngón tay co quắp túm chặt tấm chăn che lên ngang ngực. Không thể chớp mắt, nàng như mụ người đi giữa quá khứ và hiện tại.

Tiếng còi báo động rú lên, những tiếng nổ vọng lại từ xa... và gần hơn là tiếng gào thét của những kẻ bị thương, hấp hối và giọng nói của chính nàng hòa vào bản hợp tấu của nỗi đau đớn và hoảng loạn...

Những tiếng còi ô tô từ dãy phố phía dưới căn hộ của nàng.

 

- Dẹp đường cho xe cứu hoả! Tất cả mọi người hãy lui lại!

Bằng tiếng Anh, không phải tiếng A-rập hay Do thái...

Có tiếng rì rầm khe khẽ lọt qua khu nhà nàng ở rồi lan tỏa ra phía xa. Giọng nói của tốp nhân viên cấp cứu kéo nàng trở lại giường ngủ, về với hiện tại. Nàng đang ởLondon, không phải ở Tel Aviv. Từ trong họng bỗng thốt ra một tiếng nấc nghẹn. Những giọt nước mắt lăn trên má. Nàng vội lau nước mắt bằng những ngón tay run rẩy.

Trận tấn công kinh hoàng.

Nàng ngồi dậy vớ lấy chăn quấn kín người trong giây lát, thâm tâm vẫn muốn khóc. Mọi thứ luôn như vậy, nàng tự nhủ nhưng xem ra từ ngữ chẳng giúp được gì. Nàng khoác cái chăn len lên vai, mắt nhắm nghiền, trống ngực đập thình thịch, cố nhớ lại bài tập thở để lấy lại trạng thái cân bằng như người bác sỹ tâm thần hướng dẫn. Hít sâu hai cái, thở ra bốn cái, để sự căng thẳng trôi đi qua mỗi nhịp thở. Làn da lạnh toát của nàng dần đã ấm lại.

Có cái gì đó nằng nặng đè xuống giường. Một tiếng động nhỏ kèm theo, giống như tiếng rít. Nàng đưa tay ra, bắt gặp tiếng rên ư ử quen thuộc.

- Lại đây nào, Billie. - Nàng thì thào với con mèo Ba Tư đen to xù.

Billie áp má vào đôi tay nàng, cọ cọ cằm nó vào những ngón tay của Safia, rồi nằm ẹp vào lòng nàng như thể một sợi dây vô hình đỡ nó bị cắt ngang đột ngột.

Con vật vẫn tiếp tục rên ư ử trong lòng nàng.

Thực ra, điều này có công dụng hơn cả bài tập thở, làm giãn mọi gân cốt. Đến lúc này, nàng chợt nhận ra tư thế khom lưng của mình như thể đang gồng lên để hứng một ngọn đòn không bao giờ tới. Nàng bèn thả lỏng người rồi vươn thẳng dậy.

 

Tiếng còi và sự huyên náo vẫn tiếp tục quanh quẩn quanh căn nhà nàng. Nàng phải đứng dậy xem có chuyện gì xảy ra. Mọi thứ chỉ đơn giản là di chuyển. Lo lắng đã biến thành một thứ năng lượng tinh thần.

Nàng duỗi thẳng chân, nhẹ nhàng đặt Billie lên đống chăn len. Tiếng ư ử dừng ngay lập tức rồi lại tiếp tục như thể con vật biết nó không bị chủ xua đuổi. Con vật này sinh ra ở một ngõ nhỏ trên đường phố London, một chú mèo con bù xù bẩn thỉu. Safia tìm thấy nó nằm sõng soài, máu me be bét với cái chân bị gẫy ở gầm cầu thang vì bị xe ô tô chẹt. Mặc dù nàng cố bế nó lên nhưng con vật vẫn ngoạm bằng được vào ngón tay nàng. Bạn bè khuyên nên đưa nó vào chỗ tập trung súc vật nhưng Safia thừa hiểu rằng nơi đó cũng chả khác gì trại trẻ mồ côi. Thay vì vậy, nàng nhặt nó đặt lên một cái gối len rồi đem tới trạm thú y
gần đó.

Thật ra cũng dễ bỏ qua con vật đó trong đêm, ngoài cửa nhưng Safia nhớ lại chính mình cũng đã từng bị bỏ rơi như con mèo nhỏ đó. Ai đó đã nhặt nàng đúng lúc. Và cũng giống như Billie, nàng được nuôi dưỡng nhưng chưa bao giờ được thuần hóa, chỉ thích những nơi hoang dã và xa xôi như những điểm tận cùng của thế giới.

Nhưng rồi mọi thứ chấm dứt bằng một vụ nổ bom trong một ngày xuân nắng ráo.

Tất cả là do lỗi của mình... Những tiếng kêu khóc lại vang lên trong đầu nàng, hòa với tiếng còi báo động lúc nãy. Hít một hơi dài, Safia với tới đèn đầu giường, một loại nhái giống kiểu đèn ngủ con rồng của hãng Tiffany. Nàng bấm công tắc điện vài ba lần nhưng bóng đèn vẫn tối om. Mất điện. Cơn bão chắc làm đổ một cái cột điện nào đó.

Có thể vì thế đã tạo ra sự hỗn loạn.

Có thể đơn giản là vậy thôi.

 

Nàng nhảy ra khỏi giuờng, chân trần với chiếc áo ngủ hàngfla-nel buông dài tới đầu gối. Nàng đi ra chỗ cửa sổ, kéo rèm nhìn xuống đường phố bên dưới. Căn hộ của nàng nằm trên tầng bốn.

Ở dưới kia, con đường vốn yên tĩnh và lộng lẫy với các trụ đèn đường bằng sắt và vỉa hè rộng rãi đã trở thành một bãi chiến trường ngổn ngang. Những chiếc xe cứu hỏa và xe cảnh sát chật cứng mọi ngả. Cột khói bốc lên, dù trời mưa nhưng ít nhất cơn bão dữ dội cũng làm nhòe đi vẻ náo nhiệt thông thường củaLondon. Con đường tối sẫm, ánh sáng duy nhất hắt ra từ đèn pha xe tuần tra. Nhưng dưới đó một quãng, một quầng lửa sẫm vẫn cháy leo lét qua màn khói và bóng đêm.

Lửa.

Tim Safia đập thình thịch khiến nàng như nghẹt thở - không phải từ những cảnh khủng khiếp trước kia mà từ nỗi lo mới xuất hiện. Bảo tàng! Nàng giật tấm mành cửa xuống rồi hấp tấp lần mò tìm chốt cửa sổ. Nàng đẩy cánh cửa mở toang rồi thò đầu ra màn mưa, chẳng buồn để ý đến những giọt nước mưa lạnh thấu xương.

Bảo tàng Anh chỉ cách chỗ nàng ở vài bước chân. Nàng há hốc mồm trước cảnh tượng đó. Phía Bắc của Bảo tàng giờ đây sụp xuống thành một đống đổ nát cháy rụi. Những ngọn lửa đang leo lét cháy trên các bậu cửa sổ trong khi khói đen vẫn bốc ra. Tốp lính cứu hỏa quần áo kín mít kéo lê những chiếc vòi rồng. Những cột nước phun lên cao. Thang được hạ xuống từ phía sau xe cứu hỏa.

Tuy nhiên, tệ hại nhất vẫn là một lỗ thủng toang hoác ngay trên tầng thứ hai của góc phía Đông Bắc. Những đống vụn đổ nát rải rác trên hè phố. Có thể nàng không nghe thấy tiếng nổ hoặc nghĩ đó là tiếng sấm chớp. Nhưng đó đúng không phải do tia chớp.

 

Rất có thể là một vụ nổ bom... một vụ tấn công của bọn khủng bố. Đừng vậy nữa...

Nàng thấy đầu gối mình như muốn khuỵu xuống. Cánh Bắc... nơi nàng làm việc. Nàng biết chỗ lỗ thủng đang bốc khói dẫn đến gian trưng bày ở phía cuối. Toàn bộ công việc của nàng, cả đời nghiên cứu, sưu tầm, hàng nghìn cổ vật từ đất nước nàng. Có quá nhiều cái để đánh giá được. Mất lòng tin dường như biến cảnh tượng đó là không tưởng, một giấc mơ khủng khiếp làm nàng bừng tỉnh.

Nàng lui vào góc khuất bên trong căn phòng, quay lưng lại phía những tiếng kêu thét và ánh đèn nhập nhòa. Trong bóng tối, những con chuồn chuồn dính thủy tinh như đang sống lại. Nàng nhìn chằm chằm, không thể hiểu nổi cảnh tượng đó khi nó mờ dần. Điện đã sáng trở lại.

Vào lúc đó, tiếng điện thoại đầu giường vang lên làm nàng giật mình.

Con Billie dỏng tai nghe ngóng.

Safia vội vã nhấc máy lên.

- Xin chào!

Một giọng nói lạnh lùng, vẻ chuyên nghiệp.

- Tiến sỹ al-Maaz?

- Ồ, vâng?

- Đại úy Hogan. Đã xảy ra một vụ tai nạn ở Bảo tàng.

- Tai nạn ư?

 Bất cứ điều gì xảy ra xem ra còn hơn cả một vụ tai nạn.

- Đúng vậy, ngài giám đốc Bảo tàng đề nghị tôi mời cô tới dự buổi thông báo. Liệu tiến sỹ có thể tới đây trong vòng một giờ nữa không?

- Được, thưa Đại úy, tôi sẽ có mặt ở đó ngay lập tức.

- Tốt. Tên cô sẽ được báo cho trạm gác an ninh.

 Cuộc đối thoại chấm dứt khi viên Đại úy gác máy.

Safia nhìn quanh căn buồng của mình. Billie vẫy đuôi tỏ vẻ giận dữ vì đã bị quấy rầy vào lúc nửa đêm.

- Thôi nào, tao không đi lâu đâu.

Nàng lẩm bẩm, cũng không biết liệu có thật đúng như
vậy không.

Tiếng còi báo động vẫn rền rĩ phía ngoài cửa sổ.

Nỗi lo sợ làm nàng tỉnh giấc vẫn chưa chịu tan biến đi. Quan niệm của nàng về thế giới, sự an toàn, về vị trí của nàng trong những nấc thang học vị đã bị lung lay. Bốn năm trước đây, nàng đã chạy trốn khỏi một thế giới nơi những người đàn bà quấn bom cảm tử vào người. Nàng đã trốn chạy tới sự an toàn và trật tự của cuộc sống kinh điển, bỏ lại phía sau những công trình dang dở cần tiếp tục nghiên cứu khảo sát. Nàng đã tạo cho mình một nơi trú ẩn nhỏ bé trong Bảo tàng, nơi nàng cảm thấy an toàn. Nàng đã tạo cho mình một nơi ở chỗ này.

Nhưng rồi tai họa vẫn tìm đến nàng.

Đôi bàn tay nàng run lên. Nàng phải siết chặt lại để đối phó với một cuộc tấn công mới. Nàng cũng chả mong muốn gì hơn là được chui vào giường, kéo chăn lên trùm kín đầu.

Billie tròn mắt nhìn, cặp mắt của nó phản chiếu ánh
đèn đường.

- Tao sẽ ổn thôi mà. Mọi việc sẽ tốt đẹp.

 Safia khẽ nói như với chính mình hơn là với con vật.

Nhưng cũng chả ai tin điều đó cả. 

2 giờ 13 phút GMT (09 giờ 13 phút chiều, giờ địa phương)

Fort Meade, bangMaryland

 

Thomas Hardey rất ghét bị quấy rầy khi ông đang cố tìm cách giải mục đố chữ trên tờ Thời báo New York. Đó là thói quen không thể bỏ được của ông vào tối Chủ nhật. Điều đó cũng đi kèm với việc nhâm nhi ly whisky 40 năm tuổi và một điếu xì gà ngon. Ánh lửa bập bùng trong lò sưởi.

Ông tựa lưng vào chiếc ghế phô tơi da, chăm chú nhìn
vào hàng chữ cái, tay vẫn lăm lăm cầm cái bút bi nhãn hiệuMont Blanc.

Ông đang băn khoăn trước hàng thứ 19 của một từ có
5 âm tiết.

19. The sum of all men

Mải mê nghiền ngẫm lời giải thì có tiếng chuông điện thoại reo trên bàn làm việc. Ông thở dài rồi hất ngược kính đọc sách lên mái tóc đang thưa dần. Có lẽ đó là một trong các cô con gái gọi đến bàn với ông về chuyện nghỉ cuối tuần.

Khi cúi xuống bàn, ông thấy đường dây thứ 5 nhấp nháy, đường dây đặc biệt. Chỉ có 3 người có được số điện thoại đó: Tổng thống, Tổng tham mưu trưởng liên quân và người phó của ông trong Cơ quan An ninh Quốc gia.

Ông đặt tờ báo gấp lại trên đùi rồi nhấn vào phím màu đỏ. Chỉ một nút bấm lập tức khiến mọi cuộc gọi khác không xen vào được.

Nhấc ống nghe lên.

- Hardey nghe đây.

- Giám đốc!

Ông ngồi phắt dậy, ngạc nhiên. Ông không nhận ra giọng nói ở đầu dây bên kia dù thuộc lòng giọng nói của ba người có được số điện thoại đặc biệt này giống như những người trong gia đình.

- Ai vậy?

- Tony Rector đây. Xin lỗi đã làm phiền ngài vào lúc muộn như thế này.

Thomas cố lục lại bộ nhớ trong đầu. Phó Đô đốc Anthony Rector. Ông nhớ cái tên đó liên quan đến năm chữ cái: DARPA. Cơ quan Nghiên cứu Công trình Quốc phòng. Bộ phận này phụ trách công tác nghiên cứu và phát triển của Bộ Quốc phòng. Họ đã đề ra khẩu hiệu: Phải có mặt ở đó lúc đầu tiên. Bước vào kỷ nguyên của khoa học công nghệ, nước Mỹ không thể tới ở vị trí thứ hai.

Không bao giờ.

Một cảm giác bất ổn như xâm chiếm.

- Đô đốc, tôi có thể giúp được gì?

- Đã xảy ra một vụ nổ tại Bảo tàng Anh ởLondon.

 Ông ta tiếp tục giải thích cặn kẽ những gì xảy ra. Thomas nhìn đồng hồ. Chưa đầy 45 phút từ lúc xảy ra vụ nổ. Ông cảm thấy rất ấn tượng với việc tổ chức của Rector có thể nhanh chóng thu thập nhiều tin tức tình báo trong một thời gian ngắn như vậy.

Sau khi viên đô đốc kết thúc, Thomas hỏi câu hỏi thông thường nhất.

- Vậy điều DARPA quan tâm đến vụ nổ đó là gì?

Rector trả lời ông.

Thomas cảm thấy như căn phòng lạnh đi đến 10 độ.

- Ngài có chắc vậy không?

- Tôi đã cử ngay một tốp tới để kịp trả lời câu hỏi đó. Nhưng tôi cần phải có được sự hợp tác với tổ chức M15 của Anh... hoặc tốt nhất là...

Sự lựa chọn lơ lửng trên không trung, ngay cả trong đường dây đặc biệt.

Giờ thì Thomas hiểu được cuộc gọi bí hiểm này rồi. M15 là bộ phận tương ứng của tổ chức của ông ta. Rector muốn ông tung ra một cái màn khói để cho nhóm DARPA có thể chui vào và thoát ra.

- Trước khi có ai đó nghi ngờ sự phát hiện này. Và điều đó bao gồm cả cơ quan tình báo Anh.

- Tôi hiểu rồi.

 Cuối cùng thì Thomas cũng đáp lại.

- Luôn là người đầu tiên ở đó.

 Ông cầu mong cho họ có thể thực thi được phi vụ này.

- Thế ngài đã chuẩn bị sẵn sàng tốp đó chưa?

- Họ sẽ sẵn sàng vào sáng mai.

Dù không có được thêm chi tiết cụ thể nào nữa, nhưng Thomas cũng biết được ai sẽ xử lý vụ này. Ông vẽ một ký hiệu bằng tiếng Hy Lạp lên tờ báo của mình.

- Được, tôi sẽ dọn đường cho họ. - Ông nói vào điện thoại.

- Tốt rồi.

Đường dây trở nên im lặng.

Thomas đặt ống nghe xuống, nhẩm tính cần phải làm những gì. Ông phải hành động nhanh chóng. Ông nhìn vào hàng chữ trong mục đố chữ dang dở. 19 xuống.

Một từ có năm chữ cái chỉ một số lượng người.

Thật trùng hợp làm sao.

Ông vớ lấy bút rồi điền vào ô chữ.

SIGMA

 

 

 

 


2 giờ 22 phút sáng GMT

London, nước Anh

 

Safia đang đứng trước hàng rào chắn kẻ sọc vàng đen. Nàng khoanh tay trước ngực, lo lắng và ớn lạnh. Khói bụi mù mịt. Chuyện gì đã xảy ra? Đằng sau hàng rào, một viên cảnh sát cầm chiếc ví của nàng trên tay để đối chiếu tấm ảnh với người đàn bà đang đứng trước mặt.

Nàng thừa biết anh ta sẽ gặp khó khăn trong chuyện này. Trên tấm thẻ ra vào Bảo tàng là ảnh của một người đàn bà 35 tuổi, đạo mạo, có nước da cà phê, tóc đen nhánh buộc sau gáy với cặp mắt màu xanh lơ đằng sau gọng kính đọc sách. Còn lúc này trước mặt anh ta là một phụ nữ ướt sũng, hốc hác, tóc bết nước mưa. Đôi mắt cô ta thất thần, lúng túng nhìn vào hàng rào qua đám người đang làm công tác cứu trợ cùng với đồ đạc.

Các tốp phóng viên đứng chen chúc nhau, hầu như bị che khuất cả mặt vì những chiếc máy ảnh của họ. Trong khi đó chỉ mấy chiếc xe truyền hình đã chiếm tới nửa vỉa hè. Nàng cũng phát hiện hai chiếc xe của quân đội Anh lẫn trong đám nhân viên cứu trợ cùng với những lính gác tay lăm lăm khẩu súng.

Khả năng đã có một cuộc tấn công khủng bố là không thể bỏ qua. Nàng nghe thấy tiếng lao xao từ đám phóng viên nhà báo chỗ nàng phải lách qua để tới được hàng rào. Không ít kẻ nhìn nàng, một phụ nữ A-rập duy nhất có mặt trên đường phố lúc này. Nàng từng có kỷ niệm đầu tiên về nạn khủng bố nhưng không phải như cách những người kia nghi ngờ. Mà cũng có thể nàng đã nhìn lầm các phản ứng xung quanh. Một kiểu hoang tưởng, vốn là di chứng thông thường sau một cuộc tấn công khủng bố.

Safia tiếp tục lách qua đám đông, hít một hơi thật sâu rồi tập trung vào mục đích mình tới đây. Nàng tiếc rằng đã không mang theo ô vì cuống cuồng lao ra khỏi căn hộ ngay sau khi nhận được cú điện thoại, mặc vội chiếc quần ka ki và áo hoa màu trắng. Nàng cũng kịp choàng lên người cái áo khoác dài đến đầu gối nhưng lại quên đem theo cái ô để ở cửa. Chỉ tới
khi lao ra ngoài mưa từ cửa tầng một nàng mới nhận ra sai lầm của mình. Quá sốt ruột, nàng cũng chả buồn quay lên tầng 4 để lấy ô.

Nàng cần biết chuyện gì đã xảy ra ở Bảo tàng nơi nàng đã dành hơn chục năm trời để có được bộ sưu tập đó cùng với bốn năm qua để thực hiện một dự án nghiên cứu ngoài Bảo tàng. Bao nhiêu trong số đó bị phá hủy? Cái gì có thể cứu vãn được?

Bên ngoài, mưa nặng hạt dần thành những đợt mưa rào nhưng dù sao bầu trời đêm cũng dịu đi đôi chút. Lúc tới được chốt gác tạm thời bên phía hàng rào, người nàng đã ướt sũng.

Nàng đứng đó run rẩy nhìn vẻ hài lòng của người lính gác với nhận dạng của nàng.

- Cô có thể vào trong được rồi. Thám tử Samuelson đang chờ cô.

Một người lính gác nữa hộ tống nàng đi vào cửa nam của Bảo tàng. Nàng ngước nhìn lên mặt ngoài Bảo tàng với những hàng cột trông thật vững chãi, như cái vòm của nhà băng mà sự bền vững của nó không gì có thể nghi ngờ được.

Cho tới tận đêm nay...

Nàng được dẫn đến lối vào rồi đi qua mấy cầu thang. Họ đi ngang qua các cánh cửa có hàng chữ: "Dành riêng cho nhân viên". Nàng đã biết mình được dẫn tới đâu. Tới hầm an ninh ngầm dưới lòng đất.

Một người lính cầm súng đứng gác ở cửa. Anh ta gật đầu với họ rồi mở cửa, rõ ràng đang chờ nàng tới.

Người dẫn đường đưa nàng tới gặp một người lạ hoắc: một người đàn ông da đen mặc quần áo dân sự, một bộ com lê sẫm giống như bất kỳ ai. Ông ta cao hơn nàng một cái đầu, mái tóc điểm bạc. Khuôn mặt ông ta trông thật phong trần. Nàng để ý vẻ hốc hác trên gò má của ông, râu mọc tua tủa, chắc chắn mới bị dựng dậy khỏi giường.

Ông ta chìa tay tự giới thiệu.

- Thám tử Geoffrey Samuelson. - Giọng nói cũng như cái bắt tay của ông thật chặt. - Cảm ơn cô đã tới rất nhanh.

Nàng gật đầu, quá hoảng hốt nên không thể thốt ra lời nào.

- Nếu có thể được, thưa tiến sỹ al-Maaz, xin cô giúp chúng tôi điều tra tìm ra nguyên nhân của vụ nổ.

- Tôi ư?

Nàng cố thốt ra vài lời. Họ đi ngang qua căn phòng nghỉ đông nghẹt các nhân viên bảo vệ. Hình như toàn bộ nhân viên ở các ca trực đều bị triệu tập về đây. Nàng nhận ra vài người đàn ông và phụ nữ trong số đó nhưng tất cả bọn họ đều nhìn vào nàng như thể một người xa lạ. Những tiếng trò chuyện rì rầm của họ bỗng im bặt khi nàng đi ngang qua. Chắc họ hiểu việc nàng được triệu tới, nhưng có khi chính họ cũng chả hiểu lý do gì cả. Tuy nhiên, vẻ nghi ngờ vẫn hiện lên rõ ràng phía sau sự im lặng của họ.

Nàng nhìn thẳng vào họ, vẻ bực bội lấn át nỗi băn khoăn của nàng. Họ đều là những người cùng làm, đồng nghiệp của nàng. Nhưng họ lại quá hiểu về chuyện xảy ra trong quá khứ đối với nàng.

Đôi vai nàng như chùng xuống khi viên thanh tra dẫn nàng qua sảnh tới căn phòng xa nhất. Nàng biết căn phòng đó chứa  "tổ kiến", một từ do đám nhân viên đặt ra, vốn là một căn phòng hình ô van, các bức tường được gắn những màn hình video dùng để quan sát. Bước vào trong chả thấy một ai cả.

Rồi nàng cũng nhìn ra người đứng đầu bộ phận an ninh, Ryan Fleming, một người đàn ông trung niên, thấp bé nhưng bệ vệ. Thật dễ dàng phân biệt ông ta với những người khác bởi cái đầu trọc lốc chả có sợi tóc nào, cái mũi khoằm và biệt hiệu "chim ưng hói đầu". Ông ta đứng cạnh một người đàn ông cao gầy mặc quân phục, súng đeo bên sườn. Hai người đang đứng ngó qua vai một nhân viên kỹ thuật ngồi trước một dãy màn hình. Cả nhóm quay lại nhìn thấy nàng bước vào.

- Tiến sỹ Safia al-Maaz, phụ trách gian trưng bày Kensington. - Fleming vắn tắt giới thiệu rồi vẫy nàng tới gần.

Fleming đã đảm nhận cương vị này từ trước khi nàng tới làm việc ở đây. Từ một nhân viên bảo vệ, ông ta thăng tiến dần đến chiếc ghế trưởng an ninh. Bốn năm trước đây, ông ta đã khám phá vụ ăn cắp một pho tượng từ thời kỳ trước khi đạo Hồi ra đời tại nơi nàng làm việc. Chính nhờ vào sự cần cù mà ông ta giành được vị trí hiện nay. Dòng họ Kensington luôn biết cách ban phát cho những ai làm được việc cho họ. Và cũng từ đó, ông ta đặc biệt để mắt đến Safia và gian trưng bày của nàng.

Nàng bước tới chỗ màn hình video nơi cả nhóm đang đứng với thám tử Samuelson. Fleming khẽ chạm vai nàng, cặp mắt ông lộ rõ vẻ đau xót.

- Tôi rất lấy làm tiếc. Gian trưng bày của cô, công sức
của cô...

- Bị thiệt hại ra sao?

Trông Fleming thật thảm hại. Ông ta chỉ biết nhìn vào một trong số các màn hình video. Nàng khom người xuống để nhìn rõ hơn. Nó đang được truyền trực tiếp. Qua màn hình đen trắng, nàng nhìn rõ cảnh gian sảnh lớn ở cánh Bắc. Những đám khói cuộn lên. Những người đàn ông mặc quần áo phòng hộ vẫn làm việc ở đó. Một nhóm đang tụ tập trước cổng bảo vệ dẫn vào gian trưng bày Kensington.

Họ đang ngước nhìn lên một thân hình bị treo lên khung cửa, một hình hài bộ xương, giống như một hình nộm người nhợt nhạt.

Fleming lắc đầu.

- Nhân viên pháp y sẽ nhanh chóng nhận dạng nạn nhân nhưng chúng tôi chắc rằng đó là Harry Masterson, một trong những nhân viên của tôi.

Khói vẫn tiếp tục bốc ra từ đám xương treo đó. Liệu có phải trước đó đã là một người đàn ông không? Safia cảm thấy như nghẹn lại không thốt ra được câu nào, hơi lùi lại. Fleming phải đỡ nàng. Một lực nào đó đủ mạnh để thiêu cả thân người đến tận xương quả là điều khiến nàng không thể hiểu nổi.

- Tôi không hiểu đã có chuyện gì xảy ra ở đây? - Nàng lẩm bẩm.

Người đàn ông mặc quân phục trả lời.

- Đó là điều chúng tôi muốn cô có thể đóng góp. - Ông ta quay lại phía nhân viên video. - Hãy tua lại băng 0100!

Anh ta gật đầu.

Người đàn ông quay lại phía nàng khi mệnh lệnh được
thực hiện. Khuôn mặt ông ta trông thật khắc khổ, chả mấy chút thiện cảm.

- Tôi là Chỉ huy Randolphe, đại diện Bộ phận chống Khủng bố thuộc Bộ Quốc phòng.

- Chống khủng bố ư? - Safia kinh ngạc nhìn mọi người. - Đây là một vụ đánh bom ư?

- Thưa Tiến sỹ, điều đó còn chưa được khẳng định. - Viên chỉ huy đáp.

Người nhân viên khẽ nói.

- Sẵn sàng rồi, thưa ngài.

Randolphe vẫy nàng tới gần màn hình.

- Chúng tôi muốn cô xem cái này nhưng phải nói trước là những gì cô thấy là tuyệt mật, cô hiểu chưa?

Nàng chả hiểu gì cả nhưng cũng gật đầu.

- Hãy bật băng lên. - Randolphe ra lệnh.

 

Trên màn hình, một máy quay ghi cảnh phía sau của gian trưng bày Kensington. Mọi thứ đều ổn, dù gian sảnh tối om ngoại trừ vài ngọn đèn bảo vệ.

- Được quay vào lúc sau 1 giờ sáng. - Viên chỉ huy kể lại.

Safia nhìn thấy một đốm sáng trôi vào từ gian phòng bên cạnh. Đầu tiên, trông như có ai đó bước vào, tay cầm một cái đèn lồng. Nhưng sau rồi hiện rõ cảnh nguồn sáng tiếp tục tự di chuyển.

- Cái gì vậy? - Nàng hỏi.

Nhân viên kỹ thuật đáp.

- Chúng tôi đã nghiên cứu cuốn băng với nhiều góc độ. Hình như có một hiện tượng được gọi là chớp hòn. Một thứ quả cầu trôi tự do bắn ra từ cơn bão. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một trong những con vật hút máu này được ghi lại bằng hình ảnh.

Safia đã từng nghe nói về sự xuất hiện của những loại sét như vậy.

Những quả bóng tròn thay đổi không khí, nhấp nháy dịch chuyển đến tận chân trời. Chúng xuất hiện ở những nơi bằng phẳng, trên máy bay và thậm chí ngay cả trên tàu ngầm. Nhưng các hiện tượng như thế chẳng gây ra thiệt hại gì. Nàng quay lại nhìn màn hình đang chiếu cảnh gian phòng đen nghịt khói. Rõ ràng, đó không phải là nguyên nhân của vụ nổ.

Khi nàng đang mải suy nghĩ về điều đó thì một bóng người, một nhân viên bảo vệ xuất hiện trên màn hình.

- Harry Masterson. - Fleming nói.

Safia hơi lui người lại. Nếu như Fleming nói đúng thì chính người này đã bị thiêu hủy đến tận xương ở màn hình kia. Nàng chỉ muốn nhắm nghiền mắt lại nhưng không thể.

Taybảo vệ theo dõi vệt sáng của quả cầu sét. Dường như, anh ta cảm thấy có điều gì bí hiểm trong căn phòng cũng giống như nàng. Anh ta giơ bộ đàm lên mồm để báo cáo nhưng trong đoạn băng không thấy tiếng.

Rồi quả cầu sét dừng lại ở một cái kệ trưng bày trên đó có một hình khối bằng sắt. Nó đổ vật xuống rồi tan đi. Safia chớp mắt nhưng chả có chuyện gì xảy ra cả.

Người gác tiếp tục báo cáo vào bộ đàm... rồi có cái gì đó làm anh ta hốt hoảng. Anh ta quay lại ngay khi hộp trưng bày vỡ tung ra ngoài. Giây phút sau, cú nổ thứ hai xuất hiện như một vệt sáng trắng rồi màn hình đen kịt.

- Hãy giữ lại cảnh đó rồi tua lại 4 giây. - Chỉ huy Randolphe ra lệnh.

Cảnh trên màn hình dừng lại rồi được tua lùi lại. Căn phòng lại xuất hiện từ trong cú nổ, rồi cái hộp trưng bày hiện ra quanh một hình khối bằng sắt.

- Dừng lại ở đó!

Hình ảnh đứng lại, rung rung trên màn hình. Cổ vật bằng sắt được nhìn thấy rõ ràng bên trong khung kính thủy tinh. Thực ra, nó được nhìn thấy rất rõ, đang lấp lánh bởi chính ánh sáng phát ra từ đó.

- Cái quái quỷ gì vậy? - Viên chỉ huy hỏi.

Safia nhìn chăm chú vào thứ cổ vật. Giờ thì nàng hiểu vì sao mình được gọi tới buổi thông báo này rồi. Không ai ở đây hiểu chút gì về những điều đã xảy ra. Chả có điều gì có nghĩa đối với họ cả.

- Đấy có phải là một pho tượng không? Viên chỉ huy hỏi. - Nó nằm ở đó bao lâu rồi?

Safia có thể đọc được suy nghĩ của ông ta, sự cáo buộc không úp mở gì. Liệu có ai đó đã tuồn một quả bom vào Bảo tàng dưới dạng một pho tượng? Và nếu đó là sự thật, vậy thì ai là người có khả năng đã hợp tác với trò quỷ quyệt này? Thế thì còn ai khác ngoài một người nào đó ở bên trong? Một người nào đó đã từng gắn với một vụ nổ trong quá khứ?

 

Nàng lắc đầu trước những câu hỏi và lời cáo buộc.

- Cái đó... đó không phải là một pho tượng.

- Thế vậy nó là cái gì?

- Vật bằng sắt chỉ là một mảnh thiên thạch... được tìm thấy ở sa mạcOmanvào cuối thế kỷ 19.

Safia biết rằng lịch sử của cổ vật còn xa xưa trước nữa nhiều. Hàng thế kỷ, truyền thuyết A-rập đã kể rất nhiều về một thành phố bị mất tích với cửa ra vào do một con lạc đà bằng sắt canh giữ. Của cải của thành phố được người ta nói đến là nhiều vô kể, không thể hình dung được. Vàng bạc châu báu nhiều đến nỗi mà những sợi dây chuyền ngọc trai màu đen nằm ngổn ngang như bùn ở gần cửa ra vào. Rồi vào thế kỷ 19, một tay dẫn đường người Bê Đoanh dẫn một nhà thám hiểm người Anh tới nơi đó nhưng không tìm thấy thành phố mất tích. Cái ông ta tìm thấy là một tảng thiên thạch vùi sâu một nửa trong cát có hình thù trông giống như một con lạc đà đang quỳ. Ngay cả những viên ngọc đen được tìm thấy cũng chỉ là những mảnh thủy tinh bị vỡ vụn, được tạo ra bởi tác động nung chảy của tảng thiên thạch khi lao vào cát.

- Tảng thiên thạch có hình con lạc đà. - Safia tiếp tục. - Nó đã là một trong các cổ vật của Bảo tàng Anh từ khi mới thành lập... mặc dù bị vứt vào trong kho cho đến khi tôi tìm thấy nó trong danh mục rồi bổ sung vào bộ sưu tập.

Thám tử Samuelson phá vỡ sự im lặng.

- Vậy khi nào việc di chuyển diễn ra?

- Hai năm trước đây.

- Thế thì cũng khá lâu rồi nhỉ. - Viên thám tử nói một cách lưng lửng, đưa mắt nhìn người chỉ huy như thể đã thấy thỏa mãn về vụ tranh luận trước đó.

- Một tảng thiên thạch ư? - Viên chỉ huy khẽ lắc đầu, rõ ràng thấy thất vọng vì điều mà ông ta đã tính đến không xảy ra.

- Điều này nghe thật phi lý.

Tiếng ồn ào làm mọi người quay ra cửa. Safia thấy ông giám đốc bảo tàng, Edgar Tyson đang bước vào qua đám nhân viên an ninh. Người đàn ông vốn rất chỉn chu này mặc một bộ vét nhầu nhĩ rất phù hợp với khuôn mặt lo âu của ông ta lúc này. Ông ta nhét vội đuôi áo sơ mi trắng vào trong. Chỉ đến tận lúc này Safia mới tự hỏi về sự vắng mặt đáng ngờ của ông ta. Bảo tàng chính là cuộc sống và miếng.

Nhưng lý do về sự vắng mặt đáng quan tâm của ông chẳng mấy chốc được làm sáng tỏ. Thực tế nó theo ngay gót chân ông ta. Người phụ nữ bước vào trong phòng. Sự có mặt của cô ta thậm chí còn đến trước cả thân hình của mình giống như một cơn lốc. Cao lớn tới hơn 6 fít, cô ta mặc một cái áo khoác dài kiểu tartan sũng nước nhưng mái tóc màu vàng sẫm lại khô ráo, xoã đến vai cuốn lại thành từng lô nhún nhảy theo mỗi nhịp bước. Rõ ràng là cô ta không quên đem theo ô.

Chỉ huy Randolphe đứng bật dậy, tiến lên phía trước, giọng ông ta đầy kính trọng. "Quý cô Kensington!"

Phớt lờ ông ta, người phụ nữ đưa mắt tìm kiếm khắp căn phòng. Cặp mắt dừng lại ở chỗ Safia. Một tiếng thở phào. "Safia... lạy Chúa!" Cô ta bước vội về phía trước, ôm chặt nàng, giọng hổn hển thì thào: "Khi mình nghe thấy chuyện này... bao lâu nay cậu đã làm việc vất vả đến tận khuya. Còn mình lại không thể gọi được cho cậu... ".

Safia ôm chặt người phụ nữ, cảm nhận được sự run rẩy ở đôi vai. Họ đã biết nhau từ khi còn là những đứa trẻ, thân thiết hơn cả chị em. "Mình ổn thôi, Kara," nàng lẩm bẩm.

Nàng bỗng thấy ngạc nhiên trước vẻ lo sợ thực sự từ người đàn bà vốn nổi tiếng là mạnh mẽ kia. Đã từ lâu nàng không còn cảm nhận được tình cảm thân ái của cô ta như khi họ còn bé, nhất là từ lúc ông bố cô qua đời.

 

Kara run rẩy. "Mình không biết sẽ ra sao nếu mất cậu." Vòng tay của cô lại siết chặt người nàng như muốn tìm sự an ủi.

Mắt của Safia như nhòe đi, nàng nhớ lại những cái hôn và câu nói tương tự. "Mình sẽ không để mất cậu".

Năm Safia 4 tuổi, mẹ nàng đã chết trong một tai nạn xe buýt. Lúc đó cha nàng đi biệt tăm, Safia được đưa vào trại mồ côi, nơi thật khủng khiếp đối với một đứa trẻ có dòng máu pha trộn. Một năm sau, văn phòng Kensington đã nhận Safia về để Kara có bạn chơi. Nàng vẫn còn nhớ ngày hôm đó, khi một người đàn ông cao lớn đến và chọn mình.

Đó là ngài Reginald Kensington, bố của Kara.

Do trạc tuổi nhau và cùng chia sẻ niềm vui thích sự hoang dã, Kara và Safia nhanh chóng trở thành đôi bạn thân... Chia sẻ với nhau những bí mật vào ban đêm, chơi những trò chơi trong đám cây cọ và chà và, tuồn ra ngoài đi xem phim, thì thầm với nhau về những giấc mơ dưới tấm chăn... Đó là những giờ phút tuyệt vời, một mùa hè ngọt ngào dài vô tận.

Rồi năm Safia 10 tuổi, một tin khủng khiếp đến: Công tước Kensington thông báo Kara sẽ sang Anh học trong hai năm. Tuyệt vọng, Safia đã xin phép rời phòng học, đầy lo lắng hoảng hốt sợ sẽ phải quay trở lại trại mồ côi như một thứ đồ chơi được xếp trở về hộp của nó. Nhưng Kara đã tìm nàng. "Mình sẽ không để mất cậu đâu", cô bé đã hứa với đôi mắt đẫm lệ và vòng tay âu yếm. "Mình sẽ nói với bố để cậu đi cùng".

Và Kara đã giữ lời.

Safia đi cùng với Kara sang Anh hai năm sau đó. Họ học cùng với nhau như hai chị em và đôi bạn thân. Khi quay trở lạiOman, họ không thể xa nhau được. Rồi họ kết thúc học phổ thông ởMuscat. Mọi việc dường như thật tuyệt vời cho đến ngày Kara trở về sau chuyến đi săn nhân ngày sinh nhật cô, rám nắng và hốc hác.

 

Cha cô không trở về cùng với cô nữa.

Bị chết trong một vũng lầy là lời giải thích chính thức nhưng xác Reginald Kensington không bao giờ được tìm thấy.

Kể từ hôm đó, Kara không bao giờ trở lại như trước nữa. Cô vẫn giữ Safia bên mình nhưng không phải xuất phát từ mong muốn tình bạn thực sự mà chỉ là thói quen. Kara trở nên bận rộn với việc học hành rồi việc tìm hiểu để có thể đảm đương lãnh đạo những công ty và hoạt động đầu tư của cha mình. Lúc 19 tuổi, cô tốt nghiệpOxford.

Cô gái trẻ đã khẳng định mình quả là một tài năng trong lĩnh vực tài chính bằng cách làm tăng gấp 3 lần tài sản của cha ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học. Hãng Dầu lửa Kensington Wells tiếp tục bành trướng vào nhiều lĩnh vực mới như công nghệ máy tính, truyền hình... Tuy nhiên, Kara không bao giờ bỏ quên nguồn suối chính đã mang lại của cải cho gia đình: dầu lửa. Chỉ trong vòng 1 năm, Kensington đã qua mặt tập đoàn Halliburton với những hợp đồng béo bở nhất về
dầu lửa.

Và cũng giống như những khoản đầu tư trước đây của Kensington, Safia không bị bỏ lại phía sau. Kara tiếp tục trả tiền cho việc đào tạo cô, kể cả 6 năm ở Oxford, nơi Safia hoàn thành luận án tiến sỹ về khảo cổ. Sau khi tốt nghiệp, nàng tiếp tục làm việc cho Hãng Kensington. Rồi nàng đến đây để trông coi dự án cưng của Kara ở Bảo tàng, một bộ sưu tập cổ vật từ Trung Đông, do Reginald Kensington là người đầu tiên khởi sự. Và cũng giống như hãng dầu lửa trước kia của ông, dự án này cũng phát triển dưới sự bảo trợ của Kara, trở thành một bộ sưu tập lớn nhất trên thế giới. Hai tháng trước đây, một gia đình trị vì ở Saudi Arabiađịnh mua lại toàn bộ bộ sưu tập để mang trả nó
về mảnh đất A-rập, một vụ mua bán nghe nói lên tới hàng
trăm triệu.

 

Kara đã từ chối. Bộ sưu tập này đối với cô còn quý hơn cả tiền bạc. Đó là một món quà tưởng niệm đối với người cha của cô. Mặc dù xác của ông không bao giờ được tìm thấy nhưng đây chính là ngôi mộ của ông trong một khu vực biệt lập ở Bảo tàng Anh, bao bọc bởi tất cả những sự giàu có và lịch sử của thế giới A-rập.

Safia ngoái qua vai người bạn thân nhìn vào màn hình đang truyền trực tiếp đám khói bốc lên từ đám tro công trình vất vả của mình. Nàng chỉ có thể hình dung thiệt hại đó có ý nghĩa thế nào với Kara. Nó giống như có ai đó đã khai quật ngôi mộ của bố đẻ cô.

"Kara", Safia bắt đầu nói, cố xoa dịu nỗi đau đớn của bạn mong muốn được nghe ai đó chia sẻ sự đam mê với mình. "Gian trưng bày ... thế là đi tong rồi"

"Mình biết. Edgar đã nói với mình rồi." Giọng của Kara mất đi vẻ ngập ngừng. Cô rụt tay lại, dường như cảm thấy thật ngốc nghếch. Cô nhìn quanh đám người đang tụ tập ở đây. Giọng nói đầy mệnh lệnh quen thuộc lại vang lên: "Điều gì xảy ra vậy? Kẻ nào làm việc này?"

Sự mất mát quá nhanh chóng bộ sưu tập này sau khi từ chối lời chia sẻ của Safia rõ ràng khơi lại nỗi nghi ngờ của cô ta.

Không chút chần chừ, cuộn băng lại được tua lại để quý cô Kensington xem. Safia nhớ lại lời cảnh báo trước đó về độ bí mật của đoạn băng đối với nàng trước khi nó được chiếu lại. Lần này người ta không hề cảnh báo gì với Kara. Tiền bạc quả đã tạo ra đặc quyền.

Safia phớt lờ việc chiếu lại đoạn băng. Thay vào đó, nàng quan sát vẻ mặt của Kara, lo lắng không biết điều này sẽ làm tổn thương cô ta thế nào. Từ khóe mắt cô nhận ra cảnh quay cuối cùng của vụ nổ rồi màn hình trở lại trắng xóa. Suốt cả thời gian xem phim, vẻ mặt của Kara dường như không thay đổi, một bức tượng bằng đá cẩm thạch Athena sâu lắng trong suy nghĩ.

Nhưng vào lúc cuối, đôi mắt của cô ta nhắm lại. Không phải vì sốc hoặc sợ hãi - Safia rất rành về tâm trạng của Kara - nhưng cũng là một cái thở phào nhẹ nhõm. Đôi môi của người bạn nàng mấp máy một từ duy nhất mà chỉ tai nàng kịp nghe thấy.

"Cuối cùng... ".

 


(1) Acrơ, đơn vị đo lường Anh, tương đương 0,405ha (BT)

Nguồn: truyen8.mobi/t86315-bao-cat-chuong-1.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận