Thậm chí trên bàn có cả bánh Sandwich. Tôi dán xuống sau tai mình một tiếng băng mới. Cái áo veston thấm đẫm cà phê của tôi được treo trên tay ghế. Tôi quan sát Brad Nelford, gã bây giờ đang ngồi chồm hổm trong ghế bành và nức nở không biết ngượng.
Khi gã tỉnh lại, tôi đã nói cho gã biết về quyền lợi của gã. Tôi nhắc cho gã biết là gã bị nghi đã giết chết Donna Hayes và bị bắt giam. Rồi tôi mời gã khả năng được đưa ngay lập tức vào nhà tù điều tra của liêng bang, để cho bác sĩ nơi đó khám xét kỹ lưỡng hơn.
Mike Kellin đã chăm sóc đôi chút cho vết thương trên đầu tên sát thủ, nhưng Nelford tỏ ý đồng tình với mọi đề nghị mà chúng tôi đưa ra.
Kể từ đó, gã cứ ngồi nức nở một mình mãi không thôi.
Gã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần câu thề thốt rằng gã không muốn giết ai. Gã không muốn giết chồng của Donna. Gã không muốn đánh chết Donna. Và Kellin, người gã không hề quen biết, gã lại càng không muốn giết.
Gã đàn ông bây giờ quả thật là một tấn tuồng thảm thiết.
Dĩ nhiên, chúng tôi tận dụng cơ hội để lọc ra mọi thứ thông tin mà gã biết, sau khi gã đã khẳng định là gã không yêu cầu phải có luật sư.
Gã kể về chuyến viếng thăm bất ngờ của tay luật sư Frank Sorino, kẻ đã đưa gã ra nhà tù điều tra chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ với một món tiền chuộc lớn. Sorino đã thúc hối rằng gã chỉ được an toàn nếu Donna không bao giờ còn ló mặt ra. Sau một hồi chần chừ giả bộ, gã luật sư sau đó đã để lộ cho gã biết địa điểm dừng chân hiện thời của Donna cùng cái tên giả của cô ta và trao cho gã một vé máy bay về New York cùng một sấp tiền.
- Và anh không hề hỏi tiền đó ở đâu mà ra? – Mike Kellin hỏi với vẻ ngạc nhiên
- Có, dĩ nhiên tôi muốn biết. Ông ta nói, tôi có bạn bè ở Las Vegas, nhưng họ không muốn lộ danh.
Brad Nelford quả thật có quan hệ với Las Vegas. Nelford tự xưng là diễn viên, chắc chắn đó là một lời phóng đại. Gã đã có thời gian làm công nhân cho một trường quay ở Hollywood, và đã tham gia trong một vài bộ phim trong tư cách diễn viên quần chúng, sau đó thậm chí trong tư cách người đóng thế trong những pha mạo hiểm. Vì không có cơ hội nhận được những vai diễn ra hồn mặc dù đã có học chút ít về diễn xuất và thanh nhạc, sau đó gã bỏ về Las Vegas. Người ở đó cũng không coi gã là một diễn viên tài năng, vậy là gã hát và làm trò trong những bar rượu hạng ba. Chính trong thời gian đó gã đã gặp lại tại Los Angeles.
Nelford cố gắng tìm từ ngữ, nhưng không biết phải miêu tả mối liên quan ra sao.
- Vậy là anh bay về New York, – Phil giúp hắn.
- Vâng, vâng.
- Anh đã dừng chân trong một căn hộ khác, – Phil nói. – Làm thế nào anh có được căn hộ đó?
- Cái đó là do Sorino sắp xếp, – Nelford nói lý nhí, hầu như không hiểu nổi.
- Sao kia? Gã bay cùng anh hả?
- Không, không. Ngay sau khi máy bay hạ cánh tại New York, tôi được loa gọi tên. Có một cú điện thoại chờ sẵn.
- Có phải đó là một cú điện thoại địa phương?
- Không. Chúng tôi bị trung tâm nối máy ngắt hai lần.
- Tiếp tục! – Phil thúc hối.
- Người đàn ông đó nói là tôi sẽ tìm thấy một bì thư bên quầy của Hãng Hàng Không Quốc Tế, trong bì thư có chứa ba chìa khóa. Sau đó ông ta dặn dò tôi rất kỹ, chìa khóa đó dành cho ngôi nhà nào và những căn hộ nào.
- Nói ra đi, mấy chiếc chìa khóa đó là của những ổ khóa nào? – Phil hỏi, tay đút vào cặp rút ra một danh sách.
- Ông biết rồi còn gì, – Nelford lý nhí.
- Chúng tôi muốn nghe anh nói. Thật chính xác.
- Một chìa khóa cho cửa vào nhà số 388 Phố Số 79 khu Đông, một căn hộ của Cora, và chiếc chìa khóa thứ ba cho căn hộ 6E.
Phil nhìn trong danh sách. – Căn hộ này đã được một cô Muriel Hull thuê từ ba năm nay. Ở đây không có dữ liệu chi tiết hơn.
- Căn hộ đó không có người ở thường trực, – Nelford trầm giọng nói.
Sau khi đã trao đổi bằng ánh mắt với Kellin, tôi gọi cho George Baker và yêu cầu anh tìm thông tin về một cô Muriel Hull. George hứa sẽ gọi trở lại, tôi đặt máy.
Brad Nelford đã bình tĩnh lại một chút. Chúng tôi hỏi gã làm thế nào mà gã nẩy ra sáng kiến muốn giết chết Mike Kellin. Gã kể về kẻ gọi điện tới, nhưng đó không phải là kẻ đã gọi tới phi trường và nói chuyện với gã ở đó.
Cái đó tôi cũng không tin lấy một giây đồng hồ. Bởi Mike Kellin không phải là vấn đề của gã đàn ông Las Vegas. Nếu có chăng nữa, cũng chỉ là vấn đề hạng hai.
Tôi xem xét khẩu súng mà Nelford đã tìm thấy trong hốc giấu ngầm tại căn hộ kia. Đó là một khẩu Ruger P38 còn mới. Chúng tôi sẽ lần ngược con đường của món vũ khí này. Nhưng tôi tin chắc là con đường đó sẽ dẫn vào một ngõ cụt.
Mike Kellin rót cà phê. Bàn tay Nelford không còn run bần bật như ban nãy nữa. Tôi tháo còng cho bàn tay trái, để gã uống được đôi chút. Bàn tay phải bị tôi còng vào lưng ghế. Phil và tôi trao đổi thông tin. Rồi chúng tôi hỏi Kellin về những chi tiết còn thiếu. Nhất là anh ấy đã quen Cora Donna bằng cách nào, bao giờ và có thể là qua ai?
Giống như tất cả những người đang yêu, anh có thể miêu tả lại cuộc gặp gỡ đầu tới từng chi tiết nhỏ nhất. Nhưng vì chúng tôi chẳng mấy quan tâm đến khía cạnh lãng mạng, nên anh chỉ nêu những dữ liệu chính.
- Tôi là thành viên của một câu lạc bộ lái máy bay thể thao tại Freeport, khu Long island. Tôi cũng làm chủ một phần của một chiếc máy bay ở đó. Cách đây đúng bốn tuần, chúng tôi mở tiệc kỷ niệm hàng năm trong mùa thu. Lúc đó cô ấy…
- Cô ấy là thành viên sao?
- Không, dĩ nhiên là không. Lúc đó cô ấy mới đến New York được vài ngày. Cô ấy đến dự tiệc cùng một nhiếp ảnh gia. Ít nhất thì cô ấy cũng khẳng định như thế. Và vì cô ấy thích bữa tiệc đó, nên cô ấy đã ở lại tham dự.
- Dĩ nhiên là anh không quen nhiếp ảnh gia đó. Và anh cũng không thấy kỳ lạ trước việc cô gái đó lại sán lại gần anh?
Kellin duỗi cằm về phía trước. – Không. Tại sao ngày đó tôi phải nghi ngờ mới được chứ? Trong bữa tiệc có khoảng hai, ba phóng viên nhiếp ảnh của các tờ báo địa phương. Tôi đã mang về cho câu lạc bộ phần lớn những chiến thắng và huy chương. Suốt thời gian đó người ta thay nhau chụp ảnh tôi. Rồi đám nhà báo kéo đi, và Cora ở lại. Cora, chắc bây giờ tôi phải sửa lại là Donna, kể với tôi rằng cô ấy quan tâm đến thời trang và nhiếp ảnh, và muốn làm việc độc lập trong hai ngành đó. Chuyện có ấy quen các nhiếp ảnh gia cũng là điều dễ hiểu!
- Được, – tôi nói, bởi tôi không chờ đợi điều gì khác. – Greenfield có vô tình là thành viên trong câu lạc bộ đó không?
- Không …
- Ông ta có biết là buổi tối hôm đó anh sẽ có mặt ở chỗ đó không?
- Có. Trong thời gian đó tôi phải trực và luôn phải báo trước mỗi khi đi đâu khác.
Greenfield, Greenfield!
Chuông điện thoại réo lên. Kellin cầm ống nghe và đưa nó sang cho tôi. Đầu dây bên kia là George Baker.
- Trong kho ngân hàng dữ liệu không có thông tin nào về Muriel Hull. Tên cô ta có đứng trong ngôi nhà số 388, Phố Số 79 khu Đông trong niêm giám điện thoại. Nhưng cũng chỉ có thế thôi. Mình đã gọi điện đến hãng điện thoại hỏi xem số máy đó được trả tiền theo đường nào. Tiền được chuyển qua bưu điện. Người gửi tiền Muriel Hull.
Tôi cám ơn rồi đặt máy. Trầm ngâm, tôi tiếp tục ngắm nghía cái máy điện thoại. Máy điện thoại này có một cặp tai nghe cùng. Tôi nghĩ đến kẻ lạ mặt đã gọi điện cho Nelford, và nghĩ đến chuyện tôi muốn tới thăm Greenfield. Rất có thể giờ vẫn còn kịp cho chúng tôi thúc bách ngài ủy viên công tố thêm một chút. Tôi hỏi số của Kellin, yêu cầu anh và Phil im lặng rồi ra hiệu cho Nelford chụp tai nghe cùng lên đầu. Rồi tôi gọi số.
Đầu tiên, tôi va phải thái độ cấm cảu của Laura Oliphant. Chỉ sau khi tôi sắc giọng đòi hỏi, cô ta mới nói với ông Greenfield được miêu tả là bận bịu ngoài sức tưởng tượng.
- Vâng, ông Cotton, – cái giọng the thé của Greenfield vang lên. – Tôi đã có thể thống nhất được với sếp của anh là các anh không tiếp tục can thiệp vào chuyện riêng của tôi nữa.
- Có một vài việc thuộc diện liên bang, có phần nào liên quan đến khu vực của ông, và tôi nghĩ chỉ cần một cuộc nói chuyện ngắn cũng có thể mang lại kết luận rõ ràng, thưa ông, – tôi nói. Rồi tôi ném ra một khúc xương, một khúc xương mà chắc chắn ông ta sẽ phải ngoạm lấy, dù ông ta có là một con chó cong đuôi hay là không. – Có một vài dấu vết rõ ràng dẫn về hướng Las Vegas, và rõ ràng nằm trong lĩnh vực điều tra của FBI. Tôi thật chẳng hiểu tại sao Kellin ngày trước lại không để ý đến những dấu vết này.
Greenfield im lặng một thoáng. Chắc ông ta muốn gây ấn tượng là ông ta đang lật lật trong quyển lịch của mình. Rồi ông ta hỏi: – Bao giờ thì anh muốn tới đây?
- Tốt nhất là ngay lập tức. Điều đó có nghĩa là nửa tiếng nữa.
- Anh chờ đã, vậy thì tôi phải hoãn một cuộc hẹn khác. Đến 6 giờ 30 thì tốt hơn.
Đối với tôi như thế cũng thuận lợi, vì qua đó tôi có nhiều thời gian hơn cho một vài động tác chuẩn bị. Tôi chấp nhận thời điểm rồi đặt máy. Trong suốt cuộc nói chuyện, tôi đã gắng chủ ý không nhìn Brad Nelford. Khi bây giờ xoay về, tôi nhận được câu trả lời.
Nelford gật đầu. – Chính là ông ta, – gã nói khẽ.
- Greenfield! – Kellin nghiến răng, – Đồ chó đểu! Ra chính gã đã đẩy tay này, – anh trỏ về phía Nelford, – Đi giết Cora và tôi! Phải gã làm điều đó không?
- Đầu tiên, chắc người ta chỉ định đẩy người đàn bà đó tới bên anh để chuẩn bị sẵn một sợi dây thòng lọng, phòng dùng đến trong một thời điểm thích hợp.
Suy cho cùng, cô ta đã bị bắt giam vì tội giết người rồi sau đó bị truy nã về tội xúi giục giết người. Người ta có thể hủy hoại uy tín của anh bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó anh đã tiến quá nhanh, và người ta quyết định chọn một giải pháp mạnh tay hơn, cụ thể là vụ tấn công ở khách sạn Atlantis. Khi vụ đó thất bại, người ta không thể ngay lập tức tổ chức một vụ thứ hai. Bọn người ở Las Vegas sau đó đã cùng Greenfield nghĩ ra câu chuyện phức tạp với Nelford và Donna. Ngay cả khi nỗi nghi ngờ chống lại anh, Mike, không thể đứng vững, thì muộn nhất là đến ngày mai tất cả mọi người cũng sẽ chính thức được biết là anh đã che giấu cho một người đàn bà bị truy nã.
Đó là những dòng suy nghĩ điên khùng, xuất phát từ nỗi tuyệt vọng. Nhưng mọi dữ liệu đều rất khớp với nhau.
Tôi nói tiếp:
- Nhưng rồi sau đó Greenfield biết là chúng ta đã hiểu sát thủ thật sự là kẻ nào và thậm chí còn đang truy nã hắn. Ở vị trí của mình, gã thừa sức biết tên những kẻ đang bị truy nã. Gã biết Nelford đang ở đâu, gã có thể ép tay này lên đường thêm một lần nữa và giết người thêm một lẩn nữa. Nếu Nelford bắn chết được anh, trông nó sẽ giống một cuộc báo thù. Dù người ta có tóm được hắn đi chăng nữa, cũng sẽ chẳng một ai tin lời khai của Nelford về những người lạ mặt đã dùng điện thoại điều khiển gã đi giết người. Rất có thể rồi đến một thời điểm thích hợp, phía bên kia sẽ cho người loại trừ hắn. Chắc là qua một vụ tai nạn được dàn dựng. Và những hồ sơ về vụ án Donna và David Hayes cũng như vụ án Mike Kellin sẽ được khóa lại.
Phil lắc đầu. – Mình hoàn toàn không nhìn thấy một bằng chứng nào đủ sức đứng vững trước tòa.
- Mình cũng chưa thấy, – tôi dịu giọng đáp. – Nhưng mà dù sao, cũng là điểm tốt nếu người ta biết chính xác đối thủ của mình là ai, đúng không? – Một sự thật quá hiển nhiên, không còn thêm thắt gì được. Phil im lặng.
Dĩ nhiên, bản thân tôi cũng nhận ra những vấn đề mà chúng tôi phải đối mặt một khi muốn chứng minh sự tham gia trầm trọng, kể cả việc xúi giục giết người. Tôi vẫn chưa quên Mario Aldina, kẻ mà tôi nghi là thủ phạm đã giết chết Elmar Rank.
Chúng tôi chỉ có thể dẫn bọn đàn ông đó ra tòa, nếu chúng tôi đẩy được bọn chúng tới bước đường cùng, thúc cho chúng hành động thiếu cân nhắc trong tuyệt vọng, hay còn tốt hơn nữa là tóm quả tang chúng tại hiện trường.
Những khả năng hiện giờ còn đang quẩn quanh trong óc não tôi vừa ngoắt ngoéo mà vừa không chắc chắn.
Tôi xoay sang phía Nelford: – Ra anh đã kể chìa khóa của căn hộ 6E và 8C vào chỗ dấu ngầm bên lò sưởi. Người ta đã ra lệnh cho anh không để lại dấu vết nào trong căn hộ. Vì thế mà anh thậm chí đã găng tay suốt thời gian đó. Tôi đoán rằng người thuê nhà có thể sợ là bọn tôi sẽ tìm được ra dấu vết của họ một khi chúng tôi bắt đầu tìm kiếm ở đó. Ý anh sao, Nelford?
- Cái đó tôi không biết. Trong căn hộ không có đồ vật gì riêng tư. Chỉ có một vài két rượu sâm banh và thức ăn trong tủ lạnh.
Chắc chắn là trong căn hộ đó bây giờ đang đầy rẫy dấu vân tay của người sử dụng. Vì thế mà kẻ thuê nhà không thể mạo hiểm để bị nhận diện, nếu không người ta sẽ suy ra mối liên quan giữa gã và tay giết người. Bởi kẻ thuê căn hộ 6E, dù là đàn ông hay đàn bà, cũng chính là kẻ đã thuê căn hộ cho Donna Hayse và cho làm thêm chìa khóa.
- Phil, hãy gọi gọi O’Malley và yêu cầu anh ta gửi chìa khóa chính lại chỗ anh gác nhà Randy Edwards.
- Cậu không muốn…
- Chắc chắn bây giờ mình đáng được nghỉ ngơi một chút rồi. Mà nghỉ ngơi trong căn hộ bí hiểm của một cô nàng bí hiểm có tên là Muriel Hull cũng hay như ở những nơi khác thôi. M.H.., như nữ điệp viên nổi tiếng Mata Hari. – Nói xong, tôi cười. Nhưng Phil không cười. – Thôi nào, làm gì mà ra mặt nghiêm trọng thế. Chắc chúng nó không ngay lập tức gửi thêm một sát thủ nữa đâu! Bọn mình sẽ giữ liên lạc thường xuyên.
- Chắc chắn rồi. Còn mình thì được hưởng cái vinh dự đưa người này ra chỗ khác hả? – Phil chỉ về Phía Brad Nelford.
- Gọi cho George đi, bảo cho người đến đón gã! Nhưng mà lo lắng sao để hôm nay gã không được tiếp khách. Nãy giờ gã đã biết quá nhiều rồi.
Chúng tôi không còn cách nào khác, bởi chúng tôi không còn thời gian để kiếm một nơi bàn bạc kín đáo hơn.
Đúng 6 giờ 30, tôi bước vào căn phòng trước văn phòng của ủy viên công tố Greenfield. Laura Oliphant lạnh lùng yêu cầu tôi chờ một chút, ông Greenfield hiện đang có một cuộc nói chuyện rất quan trọng qua điện thoại. Vậy là tôi ngồi lên một chiếc ghế cứng quèo và có cơ hội để quan sát bà Oliphant, cô nàng có cái giọng the thé được Mike Kellin gọi là phù thủy.
Laura Oliphant trẻ hơn là tôi tưởng, có thể chỉ ngoài 30, cùng nhất là 35. Cô ta đeo một cặp kính có mắt kính hình ô-van, còn nhấn mạnh hơn nữa cái vẻ ngoài công sở tẻ nhạt. Nếu thân hình cô ta có đường nét hấp dẫn nào thì chúng đều được cô ta giấu kín bên dưới một tà váy len lù đù, vô vị.
Đột ngột, cánh cửa dẫn sang phòng làm việc của Greenfield mở ra, và công tố ủy viên bước thẳng về phía tôi. Ông ta chìa cả hai bàn tay ra và mỉm cười như một chính trị gia đang tiến đến bước cuối cùng trong cuộc chiến tranh cử. Một nụ cười mở rộng và trung thực, nhưng có vẻ hơi gắng sức.
- Ông Cotton! Tôi đã nghe kể rất nhiều về ông, nhưng chưa bao giờ được hưởng thú vui làm việc cùng với ông, mời ông vào đây! Ông muốn uống gì không? Cà phê? Trà? Hay cái gì mạnh hơn?
- Cám ơn, tôi không uống gì cả.
Greenfield trở về phía một chiếc ghế bành bọc da.
Tôi ngồi xuống, ông ta ngồi đối diện với tôi. Trên một chiếc bàn thấp có để xì gà và thuốc lá. Tôi rút một điếu thuốc lá khi Greenfield mời.
- Tôi không chủ đích chống lại ông khi liên lạc với sếp của các ông và than phiền về ông cũng như đồng nghiệp của ông. Đây là chuyện rạch ròi về lãnh vực hoạt động. Nếu người ta không vạch ranh giới rõ ràng ngay từ đầu, người ta sẽ không thể làm việc một cách hiệu quả.
- Với sự đồng ý và phê duyệt của cấp trên, tôi đã quan tâm đến nhiều khía cạnh của các vụ án mà Kellin xử lý, – tôi nói thẳng vào chuyện chính, bỏ qua tất cả những lời dẫn đầu của Greenfield. – Tôi phải nói thật, tôi rất ngạc nhiên. Tôi đã rất nhanh chóng va phải một số tên người. Như đã nói qua điện thoại, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao Kellin không phát hiện ra chúng. Có thể lý do nằm ở chỗ anh ấy không có được các bộ máy thông tin như của chúng tôi, và vụ ám sát hụt chắc chắn đã đẩy mọi việc tiến nhanh hơn.
- Tôi vẫn chưa nhìn ra lý do khiến cảnh sát liên bang phải quan tâm đến những vụ đó, ông Cotton, – Greenfield vui vẻ nói.
- Chúng tôi nghi thủ phạm đã giết chết Elmar Rank là một tay sát thủ chuyên nghiệp xứ New Jersey. Tay sát thủ này có quan hệ với một người đàn ông tên là Domenica Riccardi bây giờ lại hoạt động tích cực trở lại, cụ thể là hắn cộng tác với một số nhân vật từ Las Vegas, bọn người muốn cuỗm những món tiền rất lớn của thành New York. Mối quan hệ Riccardi với Las Vegas chưa được chúng tôi chứng minh chắc chắn, nhưng chúng tôi đang tiến bước. Chúng tôi là cảnh sát liên bang. – Tôi nhắc nhở ông ta, bằng giọng cũng rất vui vẻ và thân thiện.
- Tất cả chỉ có thế thôi sao? – Greenfield ngạc nhiên hỏi.
- Chưa, chưa hết. Cô Cora Dixon đã bị giết chết, vốn là bạn gái của Kellin, tên thật là Donna Hayes. Trước khi lấy David Hayes, cô ta đã nhảy thoát y và biểu diễn tại Las Vegas. Kẻ giết cô ta, một tay có tên là Brad Nelford, cũng có những mối quan hệ với Las Vegas. Bọn gangster xứ Las Vegas đã dụ gã lên New York để giết chết Donna Hayes và khoác tội giết người đó vào cổ Kellin.
- Tôi có nghe nói gã ta đang bị truy nã, – Greenfield vẫn bình thản.
- Chúng tôi tóm được gã rồi, – tôi nói.
Dĩ nhiên, vừa nói tôi vừa quan sát Greenfield rất chăm chú, nhưng không lộ cho đối phương được biết. Gã đàn ông kiểm chế bản thân rất tốt. Gã không hề để lộ kể cả một nét giật nhỏ nhất trên gương mặt, cho biệt liệu thông điệp vừa rồi có làm gã đau hay không.
- Gã ta muốn giết Kellin. Ông thử tưởng tượng xem! Rất may mà lúc đó tôi đang có mặt trong căn hộ của Kellin. Vì thế mà chúng tôi có thể khuất phục được gã. Gã đã bị thương.
- Kellin?
- Không, Nelford. Tới sáng mai người ta mới có thể hỏi cung gã được. Nhưng dù sao chúng tôi đã nói chuyện được với gã vài ba câu. Tôi đoán rằng gã biết chẳng nhiều. Gã không hề quen biết những người đã thúc gã đi giết Donna Hayes và Mike Kellin. Nhưng ông thử tưởng tượng xem, gã đã sống trong một căn hộ cùng tòa nhà với nạn nhân.
Greenfield lắc đầu, ra vẻ ngạc nhiên rất đạt.
- Gã không muốn công khai cho chúng tôi biết căn hộ đó là căn hộ nào. Nhưng thể nào chúng tôi sẽ tìm ra. Chắc là không khó khăn lắm đâu. Và một khi đã tìm đến đúng căn hộ rồi, chúng tôi cũng sẽ nhận diện được người đã thuê nó. Bởi chắc chắn con người đó đã có lần bị những người khác nhìn thấy. Những người gác cửa vốn là những người tinh mắt. Ngoài ra thể nào ở đó cũng có dấu vân tay.
- Chắc chắn thế. Nhưng ông muốn làm cách nào mà tìm ra nó?
- Ô, việc rất đơn giản mà. Nelford đã nhận được lệnh để lại chìa khóa trong căn hộ đó. Nhưng gã không làm. Gã muốn quay trở lại một lần nữa. Gã còn để lại túi du lịch của gã trong căn hộ. Ít nhất chúng tôi cũng đoán như vậy. Tôi nghĩ, đến sáng sớm ngày mai là chúng tôi có thể xin được giấy phép của tòa án, và dùng chiếc chìa khóa đó thử từng căn hộ trong ngôi nhà, ở tất cả những nơi khi bấm chuông không có người lên tiếng. – Tôi mỉm cười. – Rất ngu, cái nhà đó không ghi số vào chìa khóa.
Greenfield cũng mỉm cười. – Người ta đúng là không thể có được cả ông lẫn bà cùng một lúc, – gã đưa vào một câu phương ngôn chẳng mấy thông minh. – Nếu có thể giúp đỡ ông, ông Cotton, tôi rất sẵn lòng. Đã từ lâu tôi nghi rằng các doanh nghiệp xây dựng lừa đảo ở đây có quan hệ tới các tiểu bang khác. Nhưng tôi đã cố ý tìm cách đào cho tới tận gốc rễ cái ác ở đây. Nhờ vào hoạt động của Kellin, chúng tôi đã có một vài thành công. Dù chỉ là những thành công nhỏ, nhưng cũng còn hơn không. Sau này chúng tôi sẽ tiếp tục lần theo những sợi chỉ đó…
- Những sợi chỉ về Las Vegas, – tôi nói khô khan.
- Đúng, cho tới tận Las Vegas. Nhưng theo như tôi hiểu lời ông vừa nói, thì ông vẫn còn chưa nắm được trong tay những bằng chứng cần thiết.
- Một trong những lý do cho chuyện này là bởi vì trong văn phòng của ông có một lỗ rò rỉ, ông Greenfield.
Hai con mắt màu xám biến thành hai tảng băng lạnh giá. – Nếu ông đã nói với ban nội vụ, chắc ông phải biết rất rõ là người ta đang điều tra theo hướng đó, nhưng vẫn chưa có những điểm tựa cụ thể. Rất có thể Kellin đã tưởng tượng ra một chuyện không có thật.
- Có thể, – tôi đồng tình. – Nhưng chúng tôi hiện đang tiến rất nhanh. Suy cho cùng, chúng tôi đã thúc được một số người tới bước cùng đường.
Greenfield phẩy ta ra vẻ khinh thị. – Đó là những kẻ tay chân cấp dưới, những kẻ chẳng biết gì.
- Cứ mỗi đứa lại dẫn chúng tôi tìm đến đứa khác. Chúng tôi đã có thể chứng minh đó là tay chân của Riccardi. Nếu chúng tôi có thể bẻ gãy được Riccardi, thì gã đàn ông xứ Las Vegas sẽ đứng trắng tay, vô phương kháng cự. Thật ra thì tôi rất lạc quan, thưa ông, – tôi mỉm cười ấm áp với gã ta.
Hai con mắt màu xám của Greenfield xăm xoi tôi một cách lạnh lùng. Người đàn ông này lạnh như tiền. Đột ngột, tôi không tin là mình đủ sức dụ được gã vào bẫy. Bởi gã đâu có phải sợ gì? Người ta đâu có thể chứng minh được điều gì?
Không phải thế, tôi cân nhắc, có lẽ chúng tôi sẽ chứng minh được điều hơn là tôi nghĩ và nhiều hơn là gã ý thức ra. Nếu gã hoặc cô bạn gái của gã đã thuê căn hộ kia, thì gã đã phạm sai lầm nặng nề khi cho một tên sát nhân sử dụng nó. Chắc là cánh Las Vegas đã ép gã phải đưa căn hộ đó ra. Gã sử dụng nó làm tổ uyên ương. Greenfield đã có vợ. Và bởi gã rất có chí tiến thủ trong chính trường, nên chắc chắn gã phải bày được ra trước công luận một cuộc sống gia đình ấm cúng, hoàn hảo. Gã không thể xuất hiện trước công luận cùng một cô bạn gái. Tôi nẩy suy nghĩ rằng có lẽ cả bản thân gã cũng có thể đã bị thúc ép…
- Ông chờ đợi điều gì ở tôi? – Greenfield hỏi và cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
- Nếu ông quyết định cộng tác cùng với chúng tôi, ta có thể nhanh chóng cắt mọi mối quan hệ từ đây xuống Las Vegas, – tôi nói.
- Tôi có thể làm được gì?
- Bằng cách bị kín mọi thứ ở đây. Trong một hay hai ngày trời. – Tôi nhìn vào gương mặt vô cảm của Greenfield.
- Tôi phải hiểu điều đó ra sao?
- Tôi kh 303b ông nắm rõ quy trình làm việc trong văn phòng của ông. Nhưng tôi có thể tưởng tượng rằng chừng nào Kellin còn chưa quay trở lại làm việc, ông có thể tạm thời giữ im tất cả các hồ sơ, chặn lại các bước công việc. Một khi gã đàn ông ở Las Vegas không nhận được thông tin nữa và chúng tôi có thể xiết vòng vây quanh Riccardi tới một mức độ nhất định, gã ở Las Vegas sẽ nhanh chóng lộ ra một điểm yếu. Gã đang có việc nóng ở đây, ông Greenfield. Trong tuần sau, thành phố sẽ ký những hợp đồng quan trọng…
- Tôi hiểu, ông Cotton. Ông có thể tin vào tôi.
Đúng 2 giờ sáng, không khí lưu cữu trong căn hộ khiến tôi mỏi mệt.
Đã là lần thứ 20 tôi gắng gượng đứng dậy từ chiếc ghế bành thấp bè cọc vải hoa sặc sỡ và đi đi lại lại vài bước chân. Giờ thì tôi đã quen từng góc trong căn hộ. Nelford chắc chắn đã có lý khi đoán đây là một tổ uyên ương.
Căn hộ là một phòng khách và phòng ngủ kết hợp. Món đồ gỗ lớn nhất ở đây là một chiếc giường hình tròn.
Trong ánh sáng của một ngọn đèn pin được che bớt, tôi đã tìm thấy chỗ giấu ngầm bên lò sưởi và đi tìm tất cả những khả năng hộc giấu khác, có thể chứa chấp một bằng chứng về kẻ thuê nhà. Nhưng không thành công. Chỉ những chiếc chìa khóa mà Nelford đặt trong két sắt theo lệnh của kẻ gọi tới là vẫn còn đây. Giờ chúng đang kêu lanh canh khe khẽ trong túi tôi.
Tôi vươn tay vươn chân. Giá bây giờ được đốt một điếu thuốc lá. Nhưng tôi biết tôi không thể cho phép mình hưởng thụ niềm vui con con đó. Nếu không thì kẻ lạ mặt khi xuất hiện sẽ ngay lập tức phát hiện ra hiện tượng lạ và bỏ đi.
Trong phòng không tối hẳn. Qua những kẽ hở trên mành mành có một chút ánh sáng của những vòm cung đèn cao áp trên Đại Lộ Số Một hắt vào trong. Tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Dòng giao thông đã ngưng. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe buýt đơn lẻ xọc xạch chạy qua, hay một chiếc taxi phóng vù vù dọc đại lộ.
Máy bộ đàm trong túi kêu rọt rẹt. Tôi kéo nó ra, đưa lên miệng và ấn vào phím nói.
- Sao? – Tôi hỏi.
- Mình cứ tưởng cậu ngủ, – Phil nói.
- Giá mà ngủ được. – Tôi kiễng trên đầu ngón chân, nhưng vẫn không nhận ra vòm mái của chiếc xe Mercury đang có Phil ngồi bên trong, đậu cách cửa vào chỉ vài bước.
- Vừa có một người đàn ông bước vào nhà. Giờ mình xuống xe và nói chuyện Randy.
Tôi bước đến bên cửa và ép tai vào tấm gỗ. Tôi chỉ nghe thấy tiếng rì rào như trong những lần áp tai trước đó. Lần Phil lên tiếng gần đây nhất đã cách đây 15 phút. Lúc đó có một người phụ nữ đi taxi một mình tới đây. Cô ta đã tự tay mở cửa nhà. Phil đã nói chuyện với Randy sau khi người phụ nữ đó bước vào thang máy. Randy không biết người phụ nữ đó. Dựa vào dãy đèn trên bàn điều khiển, anh ta có thể theo dõi và biết cô ta đi thang máy lên tầng 11.
Giờ đến lượt một người đàn ông xuất hiện. Trên tầng 6 này vẫn chưa có gì động đậy.
Sau một chút, máy bộ đàm lại lên tiếng.
- Báo động sai, – Phil nói. – Randy biết mặt người đàn ông đó. Cậu có thể tiếp tục ngủ.
- Tình hình ở South Organge ra sao? – Tôi hỏi. Vào khoảng giữ đêm Mario Aldina đã bắt đầu chuyển những bông hoa phong lan của gã lên chiếc xe có dàn điều hòa nhiệt độ. Vậy là gã muốn tham dự chợ hoa nửa đêm ở Manhattan. Hoặc gã còn muốn thực hiện cả những vụ làm ăn khác?
- Gã đã lăn bánh cách đây vài phút, – Phil báo cáo. – Gã không đi một mình. Gã có một tay phụ tá.
Chắc đây là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sao tôi đột ngột có cảm giác là tất cả mọi thứ có thể sẽ diễn tiến hoàn toàn khác với kế hoạch của chúng tôi.
- Bảo họ bám sát! – Tôi thì thào vào máy.
- Rõ, – Phil khẳng định. – Mình có cần phải mang cho cậu một tách cà phê…
Tôi ấn vào phím nói, cắt ngang lời đề nghị tử tế của Phil. Bởi bên cửa vừa thoáng có tiếng cào rất nhẹ.
Với một bước nhảy câm nín, tôi lao ra phía sau chiếc giường, áp sát mình xuống nền. Có phải Phil đã bị kẻ khác qua mặt? Hay anh để sót mất ai?
Tôi nằm sấp. Nếu không chuyển động, tôi không thể rút khẩu Smith & Wesson mà cũng không thể sờ đến đèn pin. Mà tôi lại không được phép chuyển động, bởi cửa vừa được mở ra.
Một vệt ánh sáng rất nhỏ hắt xuống nền phòng. Cái vệt tối của một dáng người lướt qua một khoảng tường rồi biến mất khi cửa lại được đóng vào. Tiếng chân người rất khẽ trên nền thảm dày mềm, chuyển động xuyên qua căn phòng. Nếu bây giờ muốn nhìn về phía lò sưởi, tôi chỉ cần ngẩng đầu lên. Dù kẻ sử dụng chiếc giường tròn rộng quá khổ này có là ai chăng nữa, anh ta hay cô ta đã rất muốn thụ hưởng thứ hơi nóng địa dàng của làn lửa lách cách trong lò sưởi.
Phía trước lò sưởi hiện có để một chiếc túi du lịch. Chính tôi đã mang nó lại đây. Trong túi đựng một vài bộ quần áo của tôi. Brad Nelford trong sự thật đâu có để túi du lịch của gã ở lại đây. Tôi đã phát hiện ra túi của gã khi rời căn hộ của Mike Kellin. Nelford để túi ngay trước cửa, để có cả hai bàn tay rảnh cho vụ giết người. ..
Thật thận trọng, tôi ngẩng đầu lên. Tôi nhìn thấy một dáng người cao mảnh, mặc một áo bành-tô dài. Giờ cô ta cúi đầu xuống. Tôi nghe thấy tiếng ổ khóa bật ra, nhưng đúng vào lúc tôi muốn nhỏm lên và kết thúc tiết mục ảo thuật thì dáng người kia lại đứng thẳng dậy. Nhanh như chớp, tôi rụt đầu xuống.
Cây đèn đứng ở phía bên kia chiếc giường rộng thênh thang được bật lên. Thế rồi chiếc áo bành-tô bay lên giường. Ngay sau đó, có tiếng Click của máy điện thoại. Vành chọn số kêu rù rì.
- Làm ơn nối tôi với số 721, – một giọng phụ nữ nói. Rồi sau đó, mềm mại hẳn: – Hallo, Hugh. Đúng, cái túi ở đây.
Tôi đã từng gặp giọng nói này, nhưng the thé chói chang hơn bây giờ rất nhiều.
- Vâng, em sẽ ở đây, cho tới khi các cảnh sát viên đến. – Hugh, anh đừng lo, vâng, em làm được! Em sẽ thay một ổ khóa khác, đúng như anh nói. – Bây giờ anh làm gì? Anh có về nhà không? – Không, em hiểu rồi. Chẳng bõ công. – Em nghe lời anh mà! Em cũng đâu có nói lời nào khi anh quan hệ với con người đó? Trong nhà này nữa hả? Vâng, vâng, để giữ cô ta đi đúng đường. – Lẽ ra anh phải bỏ công giữ em đi đúng đường mới đúng hơn! – Xin lỗi, Hugh, em xin lỗi, nhưng mà em yêu anh. – Cám ơn. Ngủ ngon nhé!
Khi ống nghe điện thoại được đặt lên giá, tôi đứng thẳng dậy. Không còn cách nào khác, tôi phải đẩy cô ta vào một cú sốc.
- Chào bà Oliphant, – tôi nói.
Người phụ nữ xoay giật về. Tóc cô ta bây giờ bỏ xõa, cặp kính đã được tháo ra. Trông cô ta thật giống lời miêu tả của O’Malley về người đàn bà đi thuê căn hộ dành cho cái gọi là Cora Dixon.
Bà Oliphant há mồm ra. Rồi sau đó cô ta bắt đầu la lên chói chát như một cây còi. Tôi nhảy qua giường và tóm lấy cô ta. Lay lắc mãi mà không có tác dụng gì, tôi tát thẳng vào mặt cô ta hai lần. Tiếng la hét câm bặt, và cô ta thỉu xuống. Tôi để cô ta ngã xuống giường. Chỉ sau khi đã tin chắc là cô ta không mang súng bên mình, tôi mới rút máy bộ đàm ra.
- Ổn rồi, – tôi nói nhanh. – Lên ngay!
Một vài phút sau, khi Phil bước vào căn hộ thì tôi đang gắng đổ một chút sâm- banh ướp đá vào miệng Oliphant.
- Cho phép tôi giới thiệu, đây là bạn đồng nghiệp Phil Decker của tôi. Còn đây là bà Laura Oliphant, bàn tay phải của ngài ủy viên công tố.
Tôi giải thích cho cô ta biết là cô ta đã bị bắt, và đọc đoạn văn quy định cho cô ta biết quyền lợi của mình. Rồi tôi hỏi liệu cô ta sẵn sàng khai ra.
Cô ta không sẵn sàng. Dĩ nhiên là không. Greenfield đã đào tạo cô ta thành một chuyên viên lành nghề.
- Bà vừa gọi điện cho ông Greenfield, – tôi nhẫn nại thử lần cuối. – Ông ta bây giờ đang ngồi bình tĩnh trong một khách sạn, trong khi bà nhảy vào lửa để cứu đồ cho ông ta. Tôi dám cuộc rằng gã sẽ lạnh lùng để bà lao vào mũi giáo, nếu qua đó có thể cứu được mạng mình. Nhưng tôi cũng được phép cam đoan với bà rằng gã sẽ không làm được điều đó đâu. Greenfield là một tay tội phạm, bà Oliphant. Gã không phải chỉ kéo riêng cô vào cuộc.
- Anh ấy không làm khác được, – người phụ nữ lẩm bẩm. – Anh ấy bị lừa. Người ta đã hứa ủng hộ cho anh ấy ra tranh cử chức chủ tịch công tố đoàn tiểu bang New York. Nhưng rồi sau đó họ đã bày đặt sao để trông như thể anh ấy đã nhận tiền tư! Bắt đầu như thế, rồi từ đó trở đi chúng nó nắm anh ấy trong tay!
- Chúng nó là ai?
Oliphant im lặng. Tôi không thúc bách cô ta nữa. Giờ chúng tôi sẽ tóm được Greenfield, và gã sẽ không còn đường chối cãi.
- Đưa bà ta đi, – tôi quyết định.