Theo như Al thấy, chỉ có một giải pháp. Anh phải quẳng con chó đi mà không để Betty hay bọn trẻ biết về chuyện đó. Đơn giản anh chi cần chở con Suzy tới – ừm, một chỗ nào đó, anh sẽ quyết định sau – mở cửa, đẩy nó ra, lái đi. Càng sớm càng tốt. Anh thấy nhẹ nhõm vì đã quyết định xong. Anh bắt đầu tin rằng bất cứ hành động gì thì cũng tốt hơn là không làm gì hết.
Hôm đó là Chủ nhật. Sau khi một mình ăn xong bữa sáng muộn trong bếp anh đứng bên cạnh bồn rửa bát, thọc tay túi quần. Gần đây chẳng có việc gì ổn thỏa. Nếu không phải lo toan về con chó hôi hám này thì cũng đã có đủ thứ để anh phải vật vã rồi. Ở Aerojet người ta đang sa thải thay vì mướn người. Hồi giữa hè vừa rồi, các hợp đồng quốc phòng trên khắp cả nước bị đình trệ và Aerojet tính đến chuyện cắt giảm nhân sự. Thực tế là, đang cắt giảm nhân sự, mỗi ngày một nhiều hơn. Anh chẳng an toàn hơn bất cứ ai khác cho dù anh làm ở đó năm nay đã là năm thứ ba. Anh quan hệ tốt với những nguời cần thiết, ừ thì vậy, nhưng thâm niên hay bạn bè, cái nào cũng vậy, thời buổi này chẳng có ý nghĩa quái gì. Nếu tới lượt bạn thì, a lê hấp – không ai có thể giúp được gì. Họ sẵn sàng cho thôi việc, thì họ cho thôi việc. Năm mươi, một trăm người một lúc.
Chẳng ai an toàn, từ đốc công, giám sát cho đến nguời trực tiếp đứng dây chuyền. Và cách đây ba tháng, ngay trước khi những vụ sa thải bắt đầu, anh đã để Betty thuyết phục dọn vào cái căn nhà tươm tất hai trăm đô một tháng này. Thuê, kèm quyền chọn mua. Cứt thật!
Al đã không thực sự muốn rời chỗ cũ. Chỗ đó khá tiện nghi đối vói anh. Ai mà biết chỉ hai tuần sau khi anh dọn nhà người ta bắt đầu sa thải? Nhưng thời buổi này thì ai mà biết được chuyện gì? Jill là một ví dụ. Jill làm kế toán ở Weinstock. Cô là một cô gái dễ thương, nói rằng cô yêu Al. Cô chỉ cô đơn, đêm đầu tiên cô bảo anh như thế. Cũng trong đêm đầu tiên cô bảo cô không có thói quen đi lại với đàn ông có vợ. Anh gặp Jill cách đây chừng ba tháng, khi anh đang rất chán nản và nhạy cảm vì những bàn tàn về việc sa thải mới bắt đầu. Anh gặp cô ở quán Town and Country, một quán bar không quá xa chỗ ở mới của anh. Họ nhảy với nhau một chút rồi anh đưa cô về và họ hôn nhau đắm đuối trong xe hơi ngay trước căn hộ của cô. Tối đó anh không lên nhà cùng cô, dù anh chắc rằng anh có thể. Anh lên nhà cùng cô tối hôm sau.
Giờ thì anh đang ngoại tình, ôi Chúa, và anh chẳng biết phải xử trí thế nào. Anh không muốn tiếp tục, mà cũng chẳng muốn cắt đứt: người ta không quăng mọi thứ khỏi thuyền trong cơn bão. Al đang trôi dạt, anh biết anh đang trôi dạt, và anh chẳng đoán định được tất cả sẽ kết thúc ở đâu. Nhưng anh đang bắt đầu cảm thấy mất khả năng kiểm soát mọi sự. Mọi sự. Cũng gần đây, sau mấy ngày bị táo bón – một niềm đau khổ mà anh luôn gán cho người già – anh chợt thấy mình suy nghĩ về tuổi già. Rồi còn có vấn đề một chấm hói nhỏ khiến anh bắt đầu lo không biết sẽ chải tóc kiểu khác như thế nào. Anh sẽ làm gì với đời mình? anh muốn biết.
Anh ba mốt tuổi.
Đang phải đương đầu với tất cả thứ này thì cách đây bốn tháng Sandy, cô em vợ, cho bọn trẻ, Alex và Mary cái con chó lai đó. Anh ước gì anh chưa bao giờ nhìn thấy con chó ấy. Hay kể cả Sandy cũng vậy. Cái con điếm! Cô ả luôn xuất hiện với một thứ thối tha nào dó khiến anh phải hao tốn tiền của, một thứ tào lao nào đó sau một hai ngày là trục trặc và cần phải sửa, một thứ nào đó khiến bọ trẻ hú hét đánh lộn giành giật nhau. Lạy Chúa! Và xoay sang anh để vòi vĩnh, thông qua Betty, hai mươi lăm đô. Nội ý nghĩ về những tấm séc hai mươi lăm hay năm mươi đô, và tấm séc tám mươi lăm đô cách đây mấy tháng thanh toán tiền xe ô tô cho ả – thanh toán tiền xe ô tô cho ả, Chúa ạ, khi ngay cả anh cũng không biết liệu có chỗ chui ra chui vào hay không – là cũng đủ khiến anh muốn giết cái con chó khốn kiếp đó.
Sandy! Betty và Alex và Mary! Jill! Và con chó Suzy khốn kiếp!
Đây là Al.
***
Anh phải bắt đầu từ đâu đó – đưa mọi thứ vào nề nếp, thu xếp mọi chuyện. Đã đến lúc phải làm gì đó, đến lúc cần có suy nghĩ thẳng thắn để thay đổi. Và anh dự định bắt đầu vào đêm nay.
Anh sẽ lén dụ con chó vào xe, tìm cớ gì đó để ra khỏi nhà. Tuy nhiên anh ghét nghĩ đến cái kiểu Betty hạ mắt nhìn anh thay quần áo, và rồi, sau đó, ngay trước khi anh bước ra cửa, liền hỏi anh đi đâu, đi bao lâu, v.v… bằng cái giọng cam chịu khiến anh cảm thấy càng khó chịu hơn. Anh chẳng bao giờ quen với việc nói dối. Ngoài ra, anh ghét phải dùng nốt chút tình cảm còn sót lại của Betty cho việc nói dối về một điều khác với điều chị nghi ngờ. Một lời nói dối lãng phí, có thể nói vậy. Nhưng anh không thể nói sự thật với chị, không thể nói rằng anh không đi uống,không gặp gỡ ai, thay vào đó sắp sửa thủ tiêu con chó chết tiệt kia và qua đó thực hiện buớc đầu tiêntrong quá trình thiết lập trật tự trong nhà.
Anh xoa mặt, cố xua mọi thứ ra khỏi đầu một lúc. Anh lấy trong tủ lạnh ra một chai nửa lít bia Lucky lạnh và gỡ cái nắp nhôm ra. Đời anh đã trởthành một mê cung, cái này chồng chéo lên cái kia đến mức anh không chắc anh có thể lần ra đầu mối nếu như anh buộc phải làm vậy.
“Đồ chó chết tiệt,” anh nói to lên.
“Nó không biết điều,” là cách Al mô tả nó.Ngoài ra, nó là con vật đê tiện. Ngay khi cửa sau đểmở và mọi người đi vắng, nó sẽ khều cánh cửa luới cho mở ra, chui vào phòng khách và đái lên thảm.Trên tấm thảm bây giờ có ít nhất nửa chục vết bẩnto cỡ tấm bản đồ. Nhưng chỗ yêu thích nhất của nó là phòng giặt, nơi nó sẽ rúc vào quần áo bẩn, khiếncho hết thảy quần soóc và quần lót đều bị cắn đũng hay mông. Nó còn gặm cả dây ăng ten ti vi bên ngoài nhà, và có lần Al lái xe về nhà thấy nó đang nằm ờ sân trước với một chiếc giày Florsheim của anh trong mõm.
“Nó điên,” anh nói, “và nó làm mình phátđiên. Mình không làm ra tiền đủ nhanh để mua đồ mới. Cái con chó mất dạy, bữa nào mình ssẽ phải giết nó!”
Betty chịu đựng con chó được lâu hơn, có vẻ chung sống hòa bình một thời gian, nhưng đột nhiên chị sẽ có thể lên cơn, nắm chặt tay lại, gọi nó là đồ con hoang, con điếm, quát tháo bọn trẻ bắt chúng đuổi chó ra khỏi phòng chúng, phòng khách, v.v… Betty đối xử với bọn trẻ cũng theo cung cách đó. Chị có thể hòa bình với bọn trẻ từng ấy, để chúng tự do từng ấy, rồi lại lên cơn hung hăng với chúng, tát chúng, gào thét, “Ngừng lại, ngừng lại, tao không chịu nổi nữa.”
Nhưng lúc đó Betty nói, “Đó là con chó đầu tiên của các con. Anh hãy nhớ lại anh đã mê con chó đầu tiên của anh như thế nào.”
“Chó của anh có đầu óc,” anh sẽ bảo. “Nó là một con chó săn giống Ai len.”
***
Buổi chiều trôi qua. Betty và lũ trẻ đi đâu đó về bằng xe, và tất cả bọn họ ăn sandwich và khoai tây chiên trong sân. Anh lăn ra ngủ trên bãi cỏ, khi anh thức dậy thì đã gần tối.
Anh tắm, cạo râu, mặc quần dài và áo sơ mi sạch. Anh cảm thấy thoải mái nhưng uể oải. Trong khi mặc đồ anh nghĩ về Jill. Anh nghĩ về Betty và Alex và Mary và Sandy và Suzy. Anh thấy say thuốc.
“Mình sắp ăn tối đấy,” Betty nói, đi đến của buồng tắm nhìn anh chằm chằm.
“Đâu có sao. Anh không đói. Nóng quá chẳng muốn ăn,” anh vừa nói vừa mân mê cổ áo. “Có lẽ anh lái qua chỗ Carl, chơi vài cơ, uống vài ly bia.”
Chị nói, “Em hiểu rồi.”
Anh nói, “Chúa ơi!”
Chị nói, “Đi đi, em không quan tâm.”
Anh nói, “Anh không đi lâu đâu.”
Chị nói, “Đi đi, em nói rồi. Em nói em không quan tâm.”
Trong ga ra, anh nói, “Chết tiệt tất cả các người!” và đá cái cào văng từ bên này qua bên kia sàn xi măng. Rồi anh châm một điếu thuốc và cố gắng kiềm chế. Anh nhặt cái cào lên cất lại chỗ cũ. Anh đang lầm bầm một mình, “Trật tự, trật tự,” thì con chó đi vào ga ra, ngửi quanh cánh cửa, nhìn vào.
“Đây. Lại đây, Suzy. Đây, cô bé,” anh gọi.
Con chó vẫy đuối nhưng cứ đứng yên.
Anh đi lại cái tủ phía trên máy cắt cỏ lấy ra một, rồi hai, cuối cùng là ba hộp thức ăn.
“Tối nay mày muốn gì cũng được, Suzy, gái già. Cho mày ăn thả ga,” anh dụ, mở cả hai đầu của hộp đồ ăn thứ nhất và trút đổng lổn nhổn vào đĩa của con chó.
***
Anh lái xe vòng vòng cả tiếng đồng hồ, không sao quyết định được địa điểm. Nếu anh thả nó ở bất cứ khu lân cận nào và có người báo cho trạm chó lạc thì con chó sẽ quay về nhà trong vòng một hai ngày. Trạm chó lạc của hạt sẽ là nơi đầu tiên mà Betty gọi. Anh nhớ mình đã từng đọc chuyện những chú chó tìm đường về nhà xa hàng trăm dặm. Anh nhớ tới các chương trình chống tội phạm khi ai đó thấy một biển số xe, và ý nghĩ đó làm tim anh đập thình thịch. Dưới quan điểm của công chúng, không cần biết mọi sự kiện liên quan, nếu bị bắt gặp vứt bỏ một con chó thì thật là xấu hổ. Anh sẽ phải tìm ra một địa điểm thích hợp.
Anh lái xe đến gần sông American. Dù sao con chó cũng cần được đưa ra ngoài nhiều hơn, để được cảm thấy gió lùa trên lưng, được bơi và được lội nước khi nó muốn; thật tội nghiệp nếu lúc nào cũng nhốt chó sau hàng rào. Nhưng bãi đất gần bờ đê có vẻ quá hoang vắng, chẳng có nhà cửa nào xung quanh. Dù sao anh vẫn muốn con chó được ai dó tìm thấy và chăm sóc. Anh muốn tìm một ngôi nhà hai tầng lớn, nơi có những đứa trẻ vui vẻ, biết điều và cần một con chó, đang hết sức cần một con chó. Nhưng chẳng có căn nhà hai tầng cũ kỹ nào ở đây, chẳng có lấy một cái.
Anh vòng xe lại xa lộ. Từ lúc anh lùa nó vào xe anh chưa nhìn lại nó. Nó nằm yên lặng trên băng ghế sau. Nhưng anh khi tấp vào vệ đường và dừng xe lại, nó ngồi thẳng lên càu nhàu, nhìn quanh.
Anh ngừng ở một quán bar, hạ tất cả kính xe xuống trước khi đi vào trong. Anh ở đó gần một tiếng đồng hồ, uổng bia và chơi trò tạt đĩa. Anh cứ băn khoăn liệu có nên hé cả các cửa xe không. Khi anh quay ra, Suzy ngồi thẳng lên trong ghế cuộn luỡi lại, phô hàm răng.
Anl ngồi vào xe và lại nổ máy.
***
Rồi anh nghĩ tới chỗ đó. Cái khu mà họ từng sống, có đầy trẻ con và ngay bên kia địa phận hạt Yolo, đó sẽ là chỗ thích hợp. Nếu con chó được ai đó tìm thấy, nó sẽ dược đưa đến trạm chó lạc ở Woodland, không phải trạm ở Sacramento. Chỉ cần lái đến một trong những con đường ở cái khu cũ đó, ngừng lại, quẳng ra một nắm cái thứ đồ ăn thối tha cho nó, mở cửa, giúp nó một tí bằng cách ẩy ra, và nó sẽ ra ngoài trong khi anh lái đi. Xong! Việc sẽ xong.
Anh vội vã lái xe ra đó.
Đèn cổng các nhà đã sáng và khi lái xe ngang ba hay bốn căn nhà anh thấy đàn ông đàn bà ngồi ngay bậc thềm trước. Anh đánh xe dọc theo con đuờng, và khi tới nhà cũ của mình anh chạy chậm lại gần như dừng hẳn đăm đăm ngó cánh cửa trước, cái cổng, ô cửa sáng đèn. Càng nhìn căn nhà, anh càng cảm thấy không hiện hữu. Anh đã sống đó ư – trong bao lâu? Một năm, mười sáu tháng? Trước đó nữa, Chico, Red Bluff, Tacoma, Portland – nơi anh gặp Betty – Yakima… Toppenish, nơi anh sinh ra và học trung học. Dường như với anh, kể từ khi không còn là trẻ con, chưa bao giờ anh biết sống mà không phải lo âu và không phải chịu những thứ còn tệ hơn. Anh nghĩ đến những mùa hè đi câu cá và cắm trại ở Cascades, những mùa thu đi săn trĩ chạy theo sau con Sam, bộ lông đỏ của con chó săn nhấp nháy như ngọn đèn hiệu băng qua những cánh đồng ngô và đồng cỏ linh lăng nơi cậu bé là anh và con chó của anh hai đứa chạy như điên. Anh uớc gì đêm nay anh có thể lái mãi, lái mãi cho đến khi lái trên con đường chính lát gạch cũ kỹ của Toppenish, rẽ trái ở chỗ có đèn giao thông đầu tiên, rồi rẽ trái tiếp, dừng lại khi tới chỗ mẹ anh sống, và không bao giờ, không bao giờ, vì bất cứ lý do gì, ra đi lần nữa.
Anh tới phía đầu tối của con phố. Có một bãi đất trống lớn ngay trước mặt và con phố rẽ sang bên phải men theo bãi đất đó. Gần như nguyên cả dãy nhà này không có căn nào nằm ở phía gần bãi đất hơn và chỉ có một căn, hoàn toàn tối, nằm phía bên kia. Anh dừng xe, không nghĩ ngợi gì thêm về việc anh định làm, bốc một nắm đồ ăn cho chó, nghiêng người qua ghế, mở cánh cửa phía sau gần bãi đất, ném đồ ra, và nói, “Đi nào, Suzy.” Anh đẩy nó cho đến lúc nó nhảy xuống đầy vẻ miễn cưỡng. Anh chồm tới chút nữa, kéo cánh cửa đóng lại, và từ từ lái đi. Rồi anh phóng càng lúc càng nhanh hơn.
***
Anh ngừng lại ở Dupee, quán bar đầu tiên anh gặp trên đường về lại Sacramento. Anh bồn chồn, mồ hôi lấm tấm. Anh đã nghĩ sẽ cảm thấy thoát nợ hay nhẹ nhõm, nhưng giờ anh không thực sự thấy thế. Nhưng anh tự trấn an mình rằng đó là một bước đi đúng đắn, rằng cảm giác yên ổn sẽ đến với anh vào ngày mai. Cái cần làm bây giờ là chờ đợi.
Uống được bốn ly bia thì một cô gái mặc áo cổ lọ, đi xăng đan xách một cái va li đến ngồi cạnh anh. Cô để va li ở giữa mấy cái ghế quầy bar. Có vẻ như cô quen anh bartender, và anh chàng bartender cứ nói gìđó với cô mỗi khi đi ngang, một đôi lần cònđứng lại một chút để trò chuyện. Cô bảo Al cô tên là Molly, nhưng cô không đồng ý để anh mời cô bia. Thay vào đó, cô đề nghị ăn nửa cái pizza.
Anh mỉm cười với cô, và cô mỉm cười lại. Anh lấy thuốc lá và bật lửa ra để trên quầy bar.
“Thì pizza!” anh nói.
Chốc sau, anh nói, “Em có cần đi nhờ xe anh không?”
“Không, cám ơn. Em đang đợi một người,” cônói.
Anh nói, “Em định đi đâu?”
Cô nói, “Không đâu cả. Ồ,” cô nói, ngón chân chạm vào cái va li và cười xòa, “ý anh nói cái này?” “Em ở đây, Wet Sac. Em không định đi đâu cả. Trong này chỉ là cái động cơ máy giặt của mẹ em. Jerry – anh bartender kia – sửa đồ rất giỏi. Jerry nói anh ấy sẽ sửa không lấy tiền.”
Al đúng dậy. Anh hơi lảo đảo chúi người về phía cô gái. Anh nói, “Thôi, chào tạm biệt, cưng. Hẹn gặp lại.”
“Hẹn gặp lại!” cô nói. “Và cám ơn về vụ pizza nhé. Chưa ăn gì từ trưa. Đang cố giảm một ít cái này.” Cô kéo áo thun lên, bóp một nắm thịt quanh eo.
“Chắc chắn là em không đi nhờ xe anh chứ?” anh nói.
Cô gái lắc đầu.
Vào lại trong xe, lái tiếp, anh thò tay tìm thuốc lá và cuống cuồng tìm bật lửa thì nhớ ra đã để quên mọi thứ ở quầy bar. Khỉ gió thật, anh nghĩ, hãy để cho cô ta giữ nó. Để cho cô ta nhét cái bật lửa và thuốc lá vào trong va li cùng cái máy giặt. Anh ghi sổ cho con chó, thêm một chi phí nữa. Nhưng ơn Chúa, là chi phí cuối cùng! Bây giờ nó làm anh nổi giận, vì rằng anh đang sắp xếp mọi thứ đâu vào đấy, rằng cô gái kia đã không thân thiện hơn. Nếu đang có tâm trạng khác, có thể anh đã tán tỉnh cô. Nhưng khi nguời ta đang chán nản, điều đó lộ khắp người, kể cả trong cách châm thuốc.
Anh quyết định đi gặp Jill. Anh ghé một cửa hàng bán rượu mua một panh whiskey rồi leo cầu thang lên căn hộ của cô, dừng lại ở chiếu nghỉ để thở và dùng lưỡi chà răng. Anh vẫn có thể nghe mùi nấm của pizza, còn miệng và cổ họng thì khô khốc vì whiskey. Anh chợt nhận ra điều anh muốn làm bây giờ là vào phòng tắm của Jill và dùng bàn chải đánh răng của cô.
Anh gỏ cửa. “Al đây,” anh thì thầm. “Al,” anh nói to hon. Anh nghe thấy chân cô chạm xuống sàn. Cô mở khóa và cố tháo sợi dây xích ra trong khi anh đè mạnh vào cửa.
“Từ từ nào, cưng. Al, anh đừng đẩy nữa… em không mở ra được. Rồi,” cô nói và mở cửa, nhìn thoáng qua mặt anh trong khi nắm lấy tay anh.
Họ ôm nhau một cách vụng về, và anh hôn lên má cô.
“Ngồi xuống, cưng. Đây.” Cô bật đèn lên và đưa anh tới sofa. Rồi cô đưa tay lên sờ mấy cái cuốn tóc, nói, “Em tô son một chút. Trong lúc đó anh muốn uống gì không? Cà phê? Nước trái cây? Bia? Chắc em sẽ uống bia. Anh có gì đó… whiskey hả? Anh muốn uống gì, cưng?” Một tay cô nghịch tóc anh và cô chồm qua người anh, nhìn vào mắt anh. “Tội nghiệp cưng của em, anh muốn gì?” cô nói.
“Chỉ muốn em ôm anh,” anh nói. “Đây. Ngồi xuống. Không cần son,” anh nói, kéo cô ngồi lên lòng. “Ôm. Anh đang ngã,” anh nói.
Cô vòng tay quanh vai anh. Cô nói, “Anh lại giuờng đi, cưng, anh muốn gì em chiều.”
“Này, Jill,” anh nói, “mình đang truợt trên băng mỏng. Có thể vỡ bất cứ lúc nào… Anh không biết.” Anh nhìn cô đăm đăm với một vẻ mặt bất động, đờ đẫn mà anh có thể cảm thấy nhưng không sửa được ‘Nghiêm túc đấy,” anh nói.
Côgật đầu. “Đừng nghĩ gì cả cưng. Thả lỏng đi,” cô nói. Cô kéo mặt anh về phía cô, hôn lên trán và môi anh. Cô khẽ xoay người trong lòng anh nói, “Đừng, đừng nhúc nhích, Al,” những ngón tay của hai bàn tay cô thình lình luồn ra sau cổ anh và cùng lúc ôm lấy mặt anh. Anh nhìn vơ vẩn quanh phòng một thoáng, rồi cố tập trung xem cô đang làm gì. Cô giữ yên đầu anh trong mấy ngón tay khỏe mạnh. Cô nặn được một cái mụn đầu đen bên cánh mũi anh bằng hai móng tay cái.
“Ngồi yên!” cô nói.
“Không,” anh nói. “Đừng! Thôi đi! Không có hứng cho chuyện đó.”
“Em nặn gần xong rồi. Ngồi yên, em bảo!… Đó, nhìn đi. Anh nghĩ sao? Không biết nó ở đó, đúng không? Bây giờ chỉ một cái nữa, một cái to, cưng. Cái cuối cùng,” cô nói.
“Vào nhà tắm,” anh nói, hất cô ra, lấy đường đi.
***
Ở nhà, đang ngập ngụa nuớc mắt, rối tinh. Mary chạy ra xe, khóc, trước cả khi anh đỗ xe.
“Suzy mất rồi,” nó thút thít. “Suzy mất rồi. Nó không bao giờ trở về nữa. Bố ơi, con biết thế mà. Nó mất rồi!”
Chúa ơi, tim anh chùng xuống. Mình đã làm gì thế này?
“Đừng lo nào, con yêu. Chắc nó chỉ quanh quẩn đâu đây. Nó sẽ trở về,” anh nói.
“Nó không trở về, bố. Con biết là nó không về. Mẹ nói mình có thể phải kiếm một con chó khác.”
“Như vậy không được sao con?” anh nói. “Một con chó khác, nếu Suzy không quay lại. Mình sẽ đến cửa hàng thú nuôi…”
“Con không muốn một con chó khác!” đứa bé khóc, bám vào chân anh.
“Mình kiếm một con khỉ được không bố, thay vì con chó?” Alex hỏi. “Nếu như mình đến cửa hàng thú nuôi để tìm một con chó, thì thay vào đó mình kiếm một con khỉ được không?”
“Con không muốn con khỉ!” Mary khóc. “Con muốn Suzy.”
“Tất cả buông ra nào, để bố vào nhà đã. Bố đang nhức đầu kinh khủng, kinh khủng,” anh nói.
Betty nhấc đĩa thức ăn trong lò ra. Trông chị mệt mỏi, bực bội… già xọm. Chị chẳng nhìn anh. “Connói với anh rồi? Suzy đi mất? Em đã tìm kỹ trong vùng. Mọi nơi, em thề.”
“Con chó sẽ xuất hiện,” anh nói. “Chắc chỉ quẩn quanh đâu đó. Con chó đó sẽ quay về,” anh nói
“Nói nghiêm túc,” chị nói, quay sang anh tay chống nạnh, “Em nghĩ tới chuyện khác. Em nghĩ chắc nó bị xe cán. Em muốn anh lái xe lòng vòng xem. Tối qua các con gọi nó, lúc đó đã không thấy nó. Đó là lần cuối thấy nó. Em gọi trạm chó lạc và mô tả nó, họ nói các xe chưa về hết. Sáng nay em định gọi lại.”
Anh vào nhà tắm mà vẫn nghe chị tiếp tục. Anh bắt đầu mở nước vào bồn, băn khoăn, cảm thấy nhộn nhạo trong bụng, không biết sai lầm của anh nghiêm trọng chừng nào. Khi tắt vòi rồi, anh vẫn nghe thấy tiếng vợ. Anh cứ nhìn cái bồn đăm đăm.
“Anh có nghe em nói không?” chị gọi. “Sau bữa tối em muốn anh lái xe vòng quanh tìm nó. Con cũng có thể đi cùng anh để tìm… Al?”
“Ừ, ừ,” anh trả lời.
“Gì?” chị nói. “Anh nói gì?”
“Anh nói ừ. Ừ! Được rồi. Gì cũng được. Nhưng phải để anh rửa mặt một cái, được không?”
Chị nhìn từ bếp sang. “Hừ, mặt mũi anh bị cái quái gì vậy? Em có bảo anh say xỉn tối qua đâu, phải không? Em ngán lắm rồi, em bảo anh! Hôm nay em có một ngày chả ra sao, nếu anh muốn biết. Alex vào giường đánh thức em dậy lúc năm giờ, bảo rằng bố nó ngáy to quá đển nỗi… đến nỗi anh làm nó sợ. Em thấy anh ngoài kia quần áo đầy đủ đi ngang qua còn căn phòng thì bốc mùi lên tận trời. Em bảo anh em ngán lắm rồi!” Chị đảo mắt nhìn quanh bếp như muốn chộp cái gì.
Anh đá cánh cửa ập lại. Mọi thứ đang trở nên tồi tệ. Trong lúc cạo râu, có lúc anh ngừng lại cầm dao cạo trong tay nhìn mình trong gương: mặt anh đông cứng, vô hồn – vô đạo đức, đó mới là từ chính xác. Anh để cái dao cạo xuống. Tôi tin rằng lần này tôi đã phạm sai lầm nghiêm trọng nhất. Tôi tin rằng tôi đã phạm sai lầm nghiêm trọng nhất trong đời. Anh đưa dao cạo lên ngang cổ họng và kết thúc.
***
Anh không tắm, không thay quần áo. “Cất phần ăn của anh vào trong lò,” anh nói. “Hoặc trong tủ lạnh. Anh đi ra ngoài. Ngay bây giờ,” anh nói.
“Anh có thể đợi đến lúc ăn tối xong. Con có thể đi cùng.”
“Không, đi làm quái gì. Để cho con ăn tối, tìm quanh nếu chúng muốn. Anh không đói, mà trời sắp tối rồi.”
“Mọi người phát điên hết rồi sao?” chị nói. “Em không biết chuyện gì sắp xảy ra với chúng ta. Em muốn quỵ ngã rồi. Em muốn mất trí rồi. Các con sẽ ra sao nếu em mất trí?” Chị sụp vào kệ bát đĩa, mặt nhăn nhúm, nước mắt lã chả trên má. “Dù sao thì anh có yêu con đâu! Chưa bao giờ anh yêu con. Em không lo lắng về con chó. Mà về chúng ta. Về chúng ta! Em biết anh chẳng còn yêu em – quỷ tha ma bắt anh! – nhưng thậm chí con anh cũng chẳng yêu!”
“Betty, Betty!” anh nói. “Chúa ơi!” anh nói. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Anh hứa với em,” anh nói. “Đừng lo,” anh nói. “Anh hứa với em, chuyện sẽ ổn cả. Anh sẽ tìm thấy con chó và rồi chuyện sẽ ổn,” anh nói.
Anh lao ra khỏi nhà, nép vào lùm cây khi nghe tiếng các con anh đi tới: con gái anh khóc, gọi, “Suzy, Suzy”; con trai anh nói chắc nó đã bị tàu cán. Khi chúng vào nhà rồi, anh đi về phía cái xe.
Anh cáu kỉnh khi phải đợi đèn xanh, bực bội khi mất thời gian đổ xăng. Mặt trời xuống thấp và nặng nề, ngay trên dãy đồi thâm thấp phía đầu kia thung lũng. Tối đa anh còn khoảng một tiếng đồng hồ ánh sáng ban ngày.
Anh thấy cả cuộc đời anh lụi tàn từ đây. Nếu sống được thêm năm mươi năm nữa – hầu như không thể – anh cảm thấy anh chẳng bao giờ vượt qua nổi chuyện này, chuyện vứt bỏ con chó. Anh cảm thấy đời anh xem như xong nếu không tìm thấy con chó. Người nào vứt bỏ một con chó nhỏ thì nguời đó chẳng đáng xu nào. Loại người đó hẳnviệc gì cũng dám làm, không chùn bước trước bất cứviệc gì.
Anh nhấp nhổm trên ghế, đăm đăm nhìn bộ mặt sưng phồng của mặt trời khi nó hạ xuống dãy đồi. Anh biết tình hình bây giờ đã nghiêm trọng, nhưng anh chẳng làm gì được. Anh biết bằng cách nào đó anh phải lần ra con chó, hệt như đêm hôm trước anh đã biết anh phải dứt bỏ nó.
“Mình là người sắp điên,” anh nói và tự gật đầu tán thành.
***
Lần này anh tới khu đất nơi anh bỏ con chó từ đầu bên kia, vừa đi vừa để ý có dấu hiệu chuyển động nào không.
“Mong rằng nó ở đây,” anh nói.
Anh dừng xe lại và lục soát khu đất. Rồi anh lái tiếp, chầm chậm. Một chiếc 10bc moóc đang nổ máy ì ì đỗ trong lối vào một căn nhà riêng lẻ, anh thấy một nguời phụ nữ ăn mặc chỉn chu mang giày cao gót đi ra cửa trước cùng một bé gái. Họ nhìn anh chằm chằm khi anh lái xe ngang. Thêm một đoạn nữa anh rẽ trái, anh nhìn suốt con phố và các khoảnh sân ởcả hai bên dường xa hết tầm mắt. Chẳng thấy gì. Hai đứa bé có xe đạp dứng bên cạnh một chiếc xe đang đổ cách đó một dãy nhà.
“Xin chào,” anh rề xe lại, nói với hai thằng bé. “Hôm nay các em có thấy một con chó nhỏ màu trắng quanh đây không? Một loại chó trắng lông xù? Anh mất một con.”
Một cậu chỉ nhìn anh. Cậu kia nói, “Chiều nay em thấy đám trẻ con chơi với một con chó ở đằng kia. Ở con phố phía bên kia phố này. Em không biết đó là loại chó gì. Có thể là màu trắng. Có khá nhiều trẻ con ở đó.”
“OK, tốt quá. Cám ơn nhé,” Al nói. “Cám ơn rất rất nhiều,” anh nói.
Anh rẽ phải ở cuối đường. Anh tập trung vào con đường truớc mặt. Mặt trời giờ đã lặn. Trời đã gần tối. Những căn nhà đứng kề nhau, cây cối, bãi cỏ, cột điện thoại, những chiếc xe đỗ, cảnh tượng đó làm anh xáo động vì vẻ yên bình, không phiền muộn. Anh nghe tiếng một người đàn ông gọi con; anh thấy một phụ nữ mặc tạp dề bước ra chỗ cánh cửa sáng đèn.
“Có còn cơ hội nào cho mình không?” Al nói. Anh cảm thấy mắt rơm rớm. Anh kinh ngạc. Anh không thể không tự cười mình và lắc đầu trong khi lấy khăn tay ra. Rồi anh thấy một tốp trẻ con đang đi xuống phố. Anh vẫy tay để thu hút sự chú ý.
“Các cháu có nhìn thấy một con chó trắng nhỏ không?” Al nói với chúng.
“Ồ, chắc rồi,” một đứa nói. “Chó của chú à?”
Al gật đầu.
“Cách đây chừng một phút bọn cháu vừa mới chơi với nó, hướng này. Trong sân nhà Terry.” Cậu bé chỉ. “Hướng này.”
“Chú có con chứ?” một đứa bé gái lên tiếng.
“Có, chú có con,” Al nói.
“Terry nói nó sẽ giữ con chó. Nó không có chó,” cậu bé nói.
“Chú không biết,” Al nói. “Chú không nghĩ con chú sẽ thích điều đó. Con chó là của chúng mà. Nó chỉ bị lạc,” Al nói.
Anh lái xe theo hướng đó. Lúc này trời đã tối, khó mà nhìn thấy gì, và anh lại bắt đầu lo sợ, thầm nguyền rủa. Anh chửi mình vì cái tội thay đổi như thời tiết, lúc thế này lúc thế nọ.
Lúc đó anh thấy con chó. Anh hiểu anh đã nhìn nó được một lúc. Con chó di chuyển chậm chạp, ngửi đám cỏ dọc theo hàng rào. Al ra khỏi xe, đi băng qua bãi cỏ, vừa đi vừa cúi nguời xuống phía trước, gọi, “Suzy, Suzy, Suzy.”
Con chó ngừng lại khi thấy anh. Nó ngẩng đầu lên. Anh ngồi xuống trên gót chân, chìa tay ra, chờ đợi. Cả hai nhìn nhau. Nó ngoe nguẩy đuôi mừng. Nó lăn kềnh ra hai chân trước ôm đầu chào anh. Anh đợi. Nó đứng dậy. Nó đi vòng quanh rào rồi khuất tầm mắt.
Anh ngồi đó. Sau khi ngẫm nghĩ hết mọi lẽ anh nghĩ là anh cảm thấy không quá tệ. Thế gian đầy những chó. Đâu cũng chó và đâu cũng chó. Có những con chó ta chẳng làm gì được.