Chuyến vượt biển kết thúc; chúng tôi lên bờ, đi tiếp tới Paris. Tôi thấy ngay mình đã quá tin tưởng vào sức lực của mình, và cần nghỉ ngơi trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Sự quan tâm chăm chút của cha tôi không hề lơi lỏng, nhưng vì không hiểu căn nguyên nỗi khổ của tôi nên ông đã tìm đến những phương pháp sai lầm hòng trị căn bệnh vô phương cứu chữa. Ông muốn tôi khuây khỏa nhờ giao tiếp xã hội. Tôi lại ghét cay khuôn mặt con người. Mà không, không phải là căm ghét! họ là anh em tôi, bè bạn tôi, tôi cảm thấy yêu mến ngay cả những bộ mặt khó ưa nhất, như thể đó là những sinh vật mang một bản chất thánh thiện hoạt động theo những nguyên lý thiêng liêng. Thế nhưng tôi thấy mình không có quyền giao tiếp với họ. Tôi đã thả một con quỷ ra thế giới của họ, một kẻ lấy máu của họ làm vui thú, lấy tiếng rên xiết của họ làm hoan hỉ. Giả sử họ biết những hành động phạm thánh của tôi, biết tôi là nguồn gốc của bao tội ác, chắc hẳn họ, không trừ ai hết, sẽ ghê tởm tôi và săn đuổi tôi ra khỏi thế giới này!
Cuối cùng cha tôi chịu thua ý muốn xa lánh xã hội của tôi, và cố tìm đủ mọi lý lẽ xua đuổi khỏi tôi nỗi thất vọng não nề. Đôi lúc ông nghĩ tôi bị ám ảnh bởi nỗi ô nhục phải ra trước tòa xử tội sát nhân, ông cố gắng chứng tỏ cho tôi không cần kiêu hãnh vô lối làm gì.
“Cha ơi!” tôi nói. “Cha hiểu con quá ít. Nhân loại này, tình cảm và đam mê của họ, mới phải chịu nhục nhã nếu một kẻ khốn nạn như con mà dám lấy làm kiêu hãnh. Justine bất hạnh cũng vô tội như con đấy thôi, cũng chịu cùng lời buộc tội; cô đã phải chết vì nó; và con là nguyên nhân – con đã giết cô ta. William, Justine, Henry – tất cả đều chết vì tay con cả.”
Trong thời gian tôi còn ở tù, cha tôi đã thường xuyên nghe tôi khẳng định như vậy; những lần đó, cha tôi đôi lúc tỏ ra muốn đòi một lời giải thích, lúc khác ông cho đó là di chứng của cơn mê sảng, rằng ý tưởng đó đã nảy sinh trong khi tôi ốm, và trí óc tôi bám lấy nó trong thời kỳ dưỡng bệnh. Tôi tránh mọi lời giải thích, và một mực giữ kín tất cả những gì liên quan đến của khốn nạn mình đã tạo ra. Tôi tin chắc mọi người sẽ cho là tôi bị điên, và chỉ riêng việc này cũng đủ khóa chặt lưỡi tôi. Nhưng hơn nữa, làm sao tôi dám tiết lộ một bí mật sẽ khiến người nghe thất kinh, gây nên một nỗi hoảng sợ và ghê rợn phi tự nhiên suốt đời sống trong tim họ. Vì vậy tôi kiềm chế mọi khao khát được ai chia sẻ lại, và nín thinh những lúc tôi có thể đánh đổi cả thế giới để được tâm sự điều bí mật chết người này. Thế nhưng thỉnh thoảng những lời như tôi vừa nhắc đó, lại buột ra không kìm được khỏi miệng tôi. Tôi không giải thích được gì về chúng, nhưng sự thành thực đó cũng phần nào làm nhẹ đi nỗi thống khổ bí ẩn của tôi.
Còn lần này cha tôi bảo tôi, gương mặt lộ vẻ ngạc nhiên hết sức: “Victor, con nói điều rồ dại gì vậy? Con yêu ơi, cha yêu cầu con đừng bao giờ khăng khăng nhắc lại như thế này lần nữa.”
“Con không điên,” tôi kêu lên mãnh liệt, “mặt trời kia, bầu trời kia đã chứng kiến những hành động của con, có thể làm chứng con nói thực. Con chính là kẻ đã giết những nạn nhân hoàn toàn vô tội ấy, họ chết bởi những mưu mô của con. Con ngàn lần sẵn sàng đổ máu mình, từng giọt một, để cứu lấy cuộc đời của họ; nhưng con không thể, cha ơi, không thể nào hiến sinh cả loài người.”
Đoạn kết của bài ca này khiến cha tôi càng tin chắc đầu óc tôi không tỉnh táo, và ông lập tức thay đổi đề tài chuyện trò, cố gắng đưa tôi chuyển dòng suy nghĩ. Ông hết lòng mong xóa sạch khỏi ký ức tôi những cảnh tượng xảy ra ở Ireland, và không bao giờ còn nói bóng gió đến chúng, cũng không bao giờ bắt tôi nhắc lại những bất hạnh của mình.
Thời gian trôi đi, tôi dần dần bình tĩnh lại; nỗi khổ vẫn chứa chất ở tận đáy lòng, nhưng tôi không còn nói những câu không đầu không đuôi về tội ác mình như trước nữa; ý thức về chúng với tôi là đủ. Tự đè nén một cách vô cùng hung bạo, tôi cố áp chế tiếng kêu gào khẩn thiết của nỗi khốn nạn cất lên, mấy lần đòi hỏi được công bố ra cho cả thế giới biết; và tác phong tôi trở nên bình tĩnh và điềm đạm hơn bao giờ hết kể từ chuyến thăm viếng biển băng đến nay.
Vài ngày trước khi rời Paris lên đường về Thụy Sĩ, tôi nhận được bức thư sau đây của Elizabeth:
Bạn yêu quý,
Em sung sướng vô hạn khi nhận được thư bác viết từ Paris; anh giờ không còn cách xa vời vợi như trước nữa, chỉ hai tuần thôi là em đã có thể gặp lại anh rồi. Anh họ tội nghiệp của em! Anh hẳn đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ! Gặp anh hẳn em sẽ thấy anh ốm yếu hơn cả lúc ra đi từ Geneva nữa. Mùa đông vừa qua em chẳng khác gì bị tra tấn, khắc khoải, khổ sở không biết chừng nào; tuy nhiên em hy vọng sẽ nhìn thấy vẻ thanh bình trên nét mặt anh, thấy trái tim anh chưa đến nỗi mất hết ấm áp và yên tĩnh.
Ấy thế nhưng em vẫn sợ rằng những xúc cảm cách đây một năm khiến anh khổ sở ghê gớm vẫn còn nguyên như trước, với thời gian có thể còn tăng mạnh hơn. Thâm tâm em không muốn làm bận lòng anh lúc này khi bao bất hạnh vẫn còn đè nặng, nhưng sau cuộc nói chuyện với cha anh trước hôm ông đi, em nghĩ nên đòi hỏi ở anh vài lời giải thích trước khi ta gặp nhau.
Giải thích ư! Có thể anh sẽ bảo đâu có gì phải giải thích với Elizabeth! Nếu thực sự anh nói vậy thì câu hỏi của em thế là đã được giải đáp, và mọi nghi ngờ của em tiêu tan. Nhưng anh đang ở xa, biết đâu anh vừa sợ vừa mừng có được lời giải thích này thì sao, và vì rất có thể là như vậy nên em phải viết ngay không dám chần chừ gì nữa về những điều mà suốt thời gian anh vắng nhà, em vẫn luôn luôn mong giãi bày được với anh mà chưa đủ can đảm.
Victor ạ, như anh biết đấy, cuộc hôn phối của chúng ta đã được cha mẹ anh ủ ấp từ lâu, khi chúng ta còn thơ ấu. Còn nhỏ, chúng ta đã được nghe về nó, và tập coi nó như một sự kiện chắc chắn sẽ tới trong tương lai. Từ lúc còn thơ dại ta đã là bạn chơi đùa biết bao thương mến; lớn lên, em tin chắc, đã là bạn thân tin cậy của nhau. Nhưng bởi anh em ruột cũng có thể đối với nhau thương yêu nhất mực mà không cần phải có một sự hợp nhất gần gũi hơn, biết đâu chúng ta không nằm trong trường hợp đó? Anh Victor thân mến, hãy cho em biết. Em yêu cầu anh trả lời em, vì hạnh phúc chung của chúng ta, sự thật giản dị này: anh có yêu ai khác không?
Anh đã đi tới nhiều nơi, đã sống ở Ingolstadt bảy năm đời mình; và phải thú thật với anh rằng hồi mùa thu năm ngoái trông thấy anh bất hạnh đến thế, trốn chạy khỏi bất cứ ai để chìm vào cô độc, em không thể không ngờ rằng anh hối tiếc về mối quan hệ giữa chúng ta, và nghĩ rằng danh dự buộc mình phải thực hiện mong muốn của bố mẹ, cho dù điều đó trái với nguyện vọng của anh. Nhưng lý luận như vậy là sai lầm. Em thú thật rằng, bạn ạ, em yêu anh, và trong những giấc mơ viển vông của em về tương lai sắp tới, anh bao giờ cũng là người bạn, người bạn đời vĩnh hằng của em. Tuy nhiên, em mong mỏi hạnh phúc của anh như của chính mình, và nay em tuyên bố rằng, cuộc hôn phối của chúng ta sẽ chỉ khiến em khổ sở suốt đời, trừ phi đó là kết quả của việc anh tự ý lựa chọn. Ngay cả lúc này đây em đã khóc khi nghĩ rằng, đang phải chịu đựng những bất hạnh tàn ác nhất đời này, anh vẫn sẽ vì cái từ “danh dự” mà đè nén mọi hy vọng về tình yêu và hạnh phúc, thứ duy nhất có thể khiến anh hồi phục lại là mình. Em vốn dành cho anh một tình cảm vô tư đến thế, lại có thể làm anh khổ gấp chục lần nếu trở thành chướng ngại cho mong ước của anh. Ôi Victor! Hãy tin rằng cô em họ của anh, bạn chơi đùa với anh hồi nhỏ, yêu anh quá chân thành nên không thể khổ sở vì giả thiết này đâu. Bạn của em ơi! Hãy cứ hạnh phúc đi, và nếu như anh tuân theo một yêu cầu này thôi của em, hãy yên tâm không gì trên đời này đủ khả năng làm cho tâm hồn em mất yên tĩnh.
Đừng để lá thư này làm anh rối trí; anh chưa cần trả lời ngay ngày mai, hay ngày kia, hay cả lúc anh về tới nhà nếu như nó khiến anh khổ tâm. Bác trai sẽ cho em biết tin tức về sức khỏe anh; và khi gặp anh, nếu chỉ cần nhìn thấy nụ cười trên môi anh, do việc em vừa hỏi hay từ bất cứ việc nào khác mà em đã cố gắng làm, thì em cũng không cần hạnh phúc nào hơn thế nữa.
ELIZABETH LAVENZA
Geneva, 18 tháng Năm 17....
Lá thư này làm sống lại trong hồi ức tôi lời hăm dọa của con quỷ mà tôi đã quên – “ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn!” Lời tuyên án tôi là thế, và đêm đó tên ác thần sẽ dùng mọi mưu mô hủy diệt tôi, dứt tôi ra khỏi chút hạnh phúc mong manh hứa hẹn phần nào an ủi cho những đau đớn trong lòng. Đêm đó hắn đã quyết định hoàn tất những tội ác của mình với cái chết của tôi. Được, vậy cứ thế; chắc chắn một cuộc vật lộn sinh tử sẽ không thể nào tránh khỏi; nếu hắn thắng tôi sẽ được yên nghỉ, và quyền lực của hắn đối với tôi đến đó là hết. Còn nếu hắn bị tiêu diệt, tôi sẽ là người tự do. Hỡi ôi! tự do kiểu gì đây? Như thể người nông dân nhìn gia đình bị tàn sát trước mắt mình, nhà tranh bị thiêu rụi, đất đai bị bỏ hoang, tự mình bị trục xuất, vô gia cư, không xu dính túi, và đơn độc, nhưng tự do. Tự do của tôi sẽ như thế đó, ngoại trừ một điều rằng có Elizabeth là tôi đã sở hữu cả một kho báu; với cái giá – hỡi ôi! – là nỗi khiếp đảm vì ân hận và tội lỗi sẽ theo đuổi tôi cho đến lúc chết.
Elizabeth dịu dàng, thân thương! Tôi đọc đi đọc lại thư nàng, và một tình cảm êm đềm len vào trái tim tôi, thậm chí còn dám thì thầm với tôi những giấc mộng thiên đường về tình yêu và niềm vui sướng; thế nhưng quả táo đã cắn rồi, cánh tay thiên thần để trần đã tước đi của tôi mọi hy vọng_. Thế nhưng tôi có thể chết để đem lại hạnh phúc cho nàng. Nếu con quái vật thực hiện lời đe dọa, cái chết với tôi sẽ là không tránh khỏi; thế nhưng, tôi nghĩ kỹ, liệu đám cưới có thực sự đẩy nhanh số phận tôi? Sự hủy diệt tôi quả thật có thể tới sớm hơn vài tháng, nhưng nếu kẻ ưa hành hạ kia nghi ngờ tôi trì hoãn vì những lời đe dọa của hắn, chắc chắn hắn sẽ tìm biện pháp khác, biết đâu còn kinh khủng hơn để trả thù tôi. Hắn đã thề ở bên tôi vào đêm tân hôn; nhưng hắn cũng không hề coi mình bắt buộc phải án binh trong thời gian chờ đợi; bởi như thể để chứng tỏ cơn khát máu của mình chưa thỏa mãn, hắn đã giết Clerval ngay sau khi thốt ra lời đe dọa. Cứ thế, tôi quyết định, nếu như việc kết hôn lập tức với cô em họ tôi có thể đem lại hạnh phúc cho nàng hoặc cho cha tôi, mưu toan của kẻ thù nhằm hãm hại tôi sẽ không thể cản trở nó thêm một giờ nào.
Trong tâm trạng ấy tôi viết cho Elizabeth. Thư tôi rất bình tĩnh và đầy trìu mến. “Cô gái thân yêu,” tôi viết, “chẳng còn mấy hạnh phúc cho chúng ta trên trái đất này; thế nhưng toàn bộ những gì một ngày kia anh có thể được hưởng đều nằm ở nơi em. Hãy gạt bỏ những ưu tư vô nghĩa; anh hiến cho em cả cuộc đời anh cùng mọi cố gắng khiến em vui lòng. Elizabeth ạ, anh mang nặng trong lòng một bí mật đáng sợ; thổ lộ với em hẳn sẽ làm em kinh sợ lạnh toát người; em sẽ không còn ngạc nhiên về nỗi khổ tâm của anh, mà còn lấy làm lạ vì sao anh sống nổi sau những gì đã qua. Anh sẽ kể em nghe câu chuyện bi thương kinh hoàng đó ngay ngày hôm sau đám cưới, vì, cô em dịu dàng của anh ạ, giữa chúng ta nhất thiết phải có sự tin cậy tuyệt đối. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, anh xin em đừng nói gì đến nó dù chỉ là bóng gió. Anh tha thiết nài nỉ em điều đó và anh biết em sẽ làm đúng như lời anh yêu cầu.”
Một tuần sau khi nhận được thư Elizabeth, chúng tôi về tới Geneva. Cô gái dịu dàng đón tôi với tình thương yêu nồng ấm, nhưng nàng trào nước mắt khi trông thấy thân hình còm cõi và đôi má bỏng rực của tôi. Tôi thấy nàng cũng thay đổi nhiều. Nàng gầy đi và đánh mất khá nhiều vẻ linh hoạt trời ban trước kia vẫn khiến tôi mê mẩn; tuy nhiên sự dịu dàng của nàng cùng ánh mắt thương cảm nhẹ nhàng lại khiến nàng thích hợp hơn để bầu bạn với một kẻ tan hoang thảm hại như tôi.
Tôi hưởng thụ niềm yên bình không được bao lâu. Ký ức trở lại với những cơn điên dại; và cứ nghĩ đến những chuyện đã qua, tôi hóa rồ thực sự; đôi khi tôi lên cơn cáu giận đùng đùng, lúc lại u uất và suy sụp. Tôi không nói gì, cũng không nhìn ai, chỉ ngồi bất động một chỗ, hoang mang ngơ ngẩn vì hàng ngàn nỗi khổ xâm chiếm lấy mình.
Chỉ riêng có Elizabeth là lôi được tôi khỏi những cơn bột phát đó; giọng nói êm đềm của nàng xoa dịu khi tôi bị cuốn đi trong cơn mê hoảng, gieo vào tình cảm con người kéo tôi khỏi những cơn trầm uất. Nàng khóc cùng với tôi và khóc cho tôi. Khi lý trí tôi trở lại, nàng bày tỏ sự ưu phiền và cố truyền cho tôi lòng cam chịu. Ôi! người bất hạnh có thể dễ dàng cam chịu, nhưng kẻ tội lỗi làm sao có được bình tâm. Nỗi thống khổ vì ân hận đã đầu độc cả niềm vui xa xỉ lẽ ra tôi có thể tìm được khi buông thả mình cho đau buồn quá trớn.
Không lâu sau khi về, cha tôi nói đến việc tổ chức đám cưới sớm với Elizabeth. Tôi im lặng.
“Vậy là con đã có ràng buộc nào khác?”
“Tuyệt nhiên không. Con yêu Elizabeth và sung sướng trông đợi ngày thành hôn. Ta ấn định ngày đi thôi; và hôm đó con sẽ nguyện hết lòng hiến mình cho hạnh phúc của nàng, dù sống hay là chết.”
“Victor yêu dấu, đừng nói thế con ạ. Những bất hạnh lớn đã rơi xuống đầu chúng ta thật; nhưng hãy vì thế mà xích gần lại nhau hơn, hãy đem tình yêu đối với người ta đã mất bù đắp cho những người còn sống. Gia đình ta bé nhỏ, nhưng sẽ gắn bó với nhau bởi tình cảm thiết tha và nỗi bất hạnh chung. Và khi thời gian đã làm dịu dần thất vọng của con, các đối tượng mới để ta yêu thương chăm sóc sẽ được sinh ra, thay thế cho những người mà ta đã bị tước đi một cách tàn ác.”
Đó là những lời dạy của cha tôi. Nhưng tôi thì nhớ lại lời đe dọa; hẳn anh không lấy làm lạ rằng, bởi con quỷ toàn năng đến thế trong những hành động khát máu của hắn, tôi đã coi hắn như không thể địch nổi; và khi hắn thốt ra mấy lời “ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn”, tôi đã coi đó là số phận không thể tránh khỏi. Nhưng cái chết đối với tôi chẳng tệ hại bằng để mất Elizabeth, cho nên với vẻ mặt hài lòng, thậm chí tươi tỉnh, tôi nhất trí với cha tôi, nếu cô em họ tôi đồng ý, lễ cưới sẽ được tiến hành sau mười ngày, và như vậy – tôi hình dung – số phận tôi thế là sẽ kết thúc.
Trời cao đất dày ơi! giá có bao giờ tôi hiểu ý định hắc ám của kẻ thù ma quỷ của tôi, tôi thà vĩnh viễn rời khỏi nơi quê cha đất tổ, lang thang trên trái đất như một kẻ tứ cố vô thân, còn hơn chấp thuận đám cưới bất hạnh này. Nhưng cứ như thể có phép màu, con quái vật đã che mắt tôi khỏi ý định thực của hắn; trong khi đinh ninh đang chuẩn bị cho số phận của riêng mình, tôi đã đẩy nhanh cái chết của một nạn nhân biết bao quý giá hơn.
Hôn lễ ngày một đến gần, và không hiểu vì thói hèn nhát hay do một linh cảm báo trước, tim tôi se lại. Nhưng tôi cố che giấu tình cảm của mình bằng cách khoác vẻ vui nhộn, đủ để mang lại nụ cười và niềm vui trên mặt cha tôi, tuy nhiên không lừa nổi đôi mắt luôn luôn cảnh giác và sát sao hơn của Elizabeth. Nàng trông cho tới ngày chúng tôi đoàn tụ với vẻ hài lòng bình thản, tuy vẫn pha chút e sợ, do ảnh hưởng của những việc không may trong quá khứ, rằng biết đâu hạnh phúc giờ tưởng chắc chắn, vững bền, mai kia lại tan biến thành giấc mộng hư không, chẳng để lại gì ngoài tiếc nuối sâu xa và vĩnh cửu.
Mọi chuẩn bị cho ngày vui được tiến hành; những chuyến thăm mừng nườm nượp, ai nấy đều tươi cười vui vẻ. Tôi hết sức khép kín trong tim nỗi lo lắng đang gặm nhấm, tỏ ra hăm hở thực hiện các kế hoạch của cha tôi, dù rất có thể chúng rồi sẽ chỉ tô điểm thêm cho thảm kịch của mình. Qua những nỗ lực của cha tôi, một phần tài sản thừa kế của Elizabeth được chính phủ Áo trả lại cho nàng, trong đó có một dinh cơ nhỏ trên bờ hồ Como. Chúng tôi thỏa thuận ngay sau hôn lễ sẽ tới biệt thự nhà Lavenza, hưởng thụ những ngày hạnh phúc đầu tiên bên hồ nước rất đẹp ở cạnh đó.
Trong khi chờ đợi, tôi chuẩn bị thật kỹ để bảo vệ mình, phòng trường hợp con quỷ công khai tấn công tôi. Tôi thường xuyên mang theo người súng lục và dao găm, luôn luôn canh chừng mọi mưu mẹo xảo trá; những biện pháp này khiến tôi được yên tâm hơn trước. Quả thật càng gần ngày cưới, lời dọa dẫm càng như chỉ là ảo tưởng, không đáng làm người ta bận trí đến thế, trong khi hạnh phúc tôi đang hy vọng ở cuộc hôn nhân càng có vẻ chắc chắn hơn; và tôi nghe mọi người nhắc hoài tới nó như một sự kiện không bất ngờ nào ngăn trở nổi.
Elizabeth có vẻ hạnh phúc; thái độ bình tĩnh của tôi làm nàng an lòng hơn nhiều. Nhưng vào cái ngày mà mong ước cũng như số phận tôi sẽ hoàn tất, nàng lại u buồn, và một linh cảm bất an choán lấy trí nàng; cũng có thể nàng nghĩ tới điều bí mật khủng khiếp tôi đã hứa sẽ thổ lộ vào ngày hôm sau nữa. Cha tôi thì sung sướng vô tả, giữa cảnh chuẩn bị rối rít tưng bừng, chỉ cho nét buồn ở cô cháu gái là sự bối rối thông thường của mọi cô dâu mà thôi.
Sau hôn lễ, một buổi liên hoan lớn được tổ chức ở nhà cha tôi; nhưng kế hoạch là Elizabeth và tôi sẽ khởi đầu chuyến đi của mình bằng đường thủy, ngủ lại đêm đó ở Evian_, sáng hôm sau đi tiếp. Thời tiết đẹp, gió thuận chiều, tất cả như muốn chúc phúc cho chuyến đi trăng mật của chúng tôi.
Đây là những giờ phút hạnh phúc cuối cùng của đời tôi. Chúng tôi lướt khá nhanh dọc theo dòng nước; mặt trời dữ dội, nhưng chúng tôi tránh nắng dưới một tán dù, trong khi thưởng ngoạn cảnh đẹp, lúc thì ở bờ hồ bên này, nơi chúng tôi trông thấy ngọn Salêve, những đoạn bờ hồ vui mắt của Montalègre, và ở xa xa, vươn cao hơn tất cả, là đỉnh Mont Blanc tuyệt đẹp, và rặng núi phủ tuyết quần tụ chung quanh, hoài công đua tranh cùng nó; lúc thì chúng tôi sang bờ hồ bên kia chiêm ngưỡng núi Jura hùng vĩ đưa mặt tối chắn đường kẻ tham lam muốn vượt xứ sở mình, và là rào cản gần như không vượt nổi với kẻ xâm lăng muốn biến nó thành nô lệ.
Tôi cầm tay Elizabeth: “Em yêu, trông em buồn rầu quá thế! A! Nếu em biết anh đã phải đau khổ như thế nào và rồi đây sẽ còn chịu đựng ra sao, em sẽ càng cố gắng giúp anh hưởng thụ niềm tĩnh lặng, và thời gian lánh mặt tạm thời khỏi tuyệt vọng, mà ít ra anh cũng được phép hưởng ngày hôm nay.”
“Hãy cứ hạnh phúc đi anh Victor thân yêu,” Elizabeth đáp, “em hy vọng chẳng có gì khiến anh phải buồn khổ; anh hãy tin rằng nếu như nhìn mặt em anh không thấy niềm vui sống động, thì trái tim em cũng đang tràn đầy mãn nguyện. Có gì đó đang thì thầm với em rằng đừng nên quá tin tưởng vào triển vọng đang mở ra trước mắt, nhưng em sẽ không nghe cái giọng độc địa ấy đâu. Kìa anh hãy nhìn xem chúng ta đi nhanh làm sao, những đám mây lúc che khuất Mont Blanc lúc bay cao hơn đỉnh vòm của nó làm cho quang cảnh xinh đẹp này còn thú vị lên nhiều nữa. Anh hãy nhìn cả xuống vô vàn cá đang bơi lội, trong làn nước trong vắt đến phân biệt được từng hòn sỏi dưới đáy. Ngày hôm nay tuyệt trần quá! Thiên nhiên sao mà trong sáng và hớn hở!”
Elizabeth đã cố khiến tâm trí nàng và cả tâm trí tôi lãng đi những vấn đề không vui như thế đó. Tuy nhiên tâm trạng nàng thường xuyên thay đổi; niềm vui đôi lúc cũng lóe lên trong mắt nàng, nhưng lập tức nhường chỗ cho lơ đãng và tư lự.
Mặt trời xuống thấp dần; chúng tôi vượt qua con sông Drance_, nhìn theo dòng chảy của nó qua các kẽ nứt trên đồi cao và những thung lũng dưới đồi thấp. Chỗ này dãy Alps tiến sát gần hồ, chúng tôi tới những dãy núi vòng cung chắn phía Đông của nó. Tháp chuông thị trấn Evian lóng lánh dưới cánh rừng bao quanh nó, và dưới những dãy núi trùng điệp hết tầng này đến tầng kia.
Gió lúc ban ngày đã đưa chúng tôi đi nhanh với tốc độ không ngờ, nay hoàng hôn đến đã dịu xuống thành làn gió nhẹ; luồng không khí êm đềm chỉ gợn lăn tăn mặt nước và làm xao động cây cối khi chúng tôi tới gần bờ đang tỏa ngào ngạt hương hoa và cỏ khô. Chúng tôi lên bờ thì mặt trời đã lặn khỏi chân trời, và vừa đặt chân lên mặt đất, tôi cảm thấy những nỗi sợ hãi lo âu sống dậy, rồi chẳng mấy chốc sẽ siết chặt lấy tôi và bám vào tôi mãi mãi không rời.
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !