Lúc này đã gần tới tháng Mười hai, khí trời rét lạnh, hoa cúc sớm đã lụi tàn. My Trang đang ngồi dưới mái hiên sưởi nắng cùng Thải Nguyệt.
Không khí tuy lạnh nhưng ánh dương lúc chính ngọ như tấm lụa mềm phủ xuống thân thể, khiến người ta có cảm giác khá ấm áp. Tôi ngồi xuống ngay sát My Trang, cười nói: “Tỷ biết hưởng phúc thật đấy!”
My Trang uể oải ngước mắt, ra hiệu cho Thải Nguyệt lui đi, nói: “Muội rốt cuộc đã tới rồi!”
Tôi “ừm” một tiếng, khẽ nói: “Tỷ tỷ vẫn còn giận muội sao?”
Tỷ ấy đưa mắt nhìn tôi, nói: “Ta chỉ giận mình khi đó đã mất công đưa bọc vải bông kia đến cho muội thôi, lẽ ra nên để muội chịu lạnh ở Vô Lương điện mới phải, bây giờ ta đang hối hận lắm đây!”
Tôi cười khúc khích, lật chiếc áo choàng trên người ra. “Bây giờ có hối hận thì cũng muộn rồi, muội đã cho người làm thành áo bông và mặc rồi đây này.”
My Trang khẽ cười tủm tỉm, đột nhiên nắm lấy bàn tay tôi, bình tĩnh nói: “Ngày đó là ta không tốt, ta không nên nghi ngờ muội.”
Thoáng im lặng, tôi nói: “Ngày đó vì việc có liên quan đến tình hình ở tiền triều, muội quả thực không thể giải thích, do đó mới khiến tỷ tỷ hiểu lầm.”
My Trang hơi nhếch khóe môi, nở một nụ cười buồn bã, ngơ ngẩn nói: “Ta cũng không rõ ngày đó mình bị làm sao, không ngờ lại có thể nói với muội những lời như vậy.”
Tôi vội nắm lấy bàn tay tỷ ấy, cười nói: “Tỷ tỷ xưa nay vẫn luôn miệng cứng lòng mềm mà, muội lại còn không biết hay sao?” My Trang ngước lên, trong mắt đong đầy vẻ thành khẩn. Hai chúng tôi nhìn nhau cười khẽ, mọi sự không vui trong ký ức đều hoàn toàn tan biến.
My Trang kéo tôi vào tẩm điện, cho người đặt thêm chậu than sưởi ấm, sau khi đuổi hết người dưới ra mới nói: “Hiện giờ Hoa Phi đã chẳng còn ai để dựa dẫm, như cánh bèo trôi, nghe nói Kiều Tuyển thị cũng không dám ở cùng ả ta nữa, sớm đã dọn đi chỗ khác để tránh bị liên lụy rồi.”
Tôi biết My Trang có ý nhắc tới điều gì, bèn nói: “Chúng ta tất nhiên không thể ra mặt, dù gì cũng phải tránh mối hiềm nghi. Hơn nữa, nếu không phải là người gần gũi với ả ta thì cũng không thể biết được nhiều điều.” Tôi mím môi cười khẽ. “Cũng đã đến lúc dùng người rồi!”
Ngày hôm sau, Tiệp dư Tào Cầm Mặc tới Phượng Nghi cung tố cáo với Hoàng hậu việc Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan từng bỏ bột sắn vào trong canh mã đề của Ôn Nghi Công chúa hòng giá họa cho Hoàn Quý tần, sau khi giá họa không thành lại sai Tiểu Đường ở ngự thiện phòng nhận tội thay.
Hoàng hậu hỏi: “Nếu ngươi đã biết sự việc, tại sao không nói ra từ sớm mà phải đợi tới lúc này mới nói?”
Tào Tiệp dư cung kính thưa: “Thần thiếp vốn cũng không biết nội tình, lại bị Hoa Phi mê hoặc, thành ra một mực cho rằng việc này là do Hoàn Quý tần làm. Mãi về sau, thần thiếp nghe thấy Hoa Phi sai Tiểu Đường đi nhận tội thay mới hiểu rõ nguồn cơn sự việc, đáng tiế lại không cẩn thận bị Hoa Phi phát hiện ra. Hoa Phi uy hiếp thần thiếp, không cho thần thiếp nói ra chuyện này, nếu không sẽ đoạt lấy Công chúa về nuôi dưỡng.”
Nàng ta vừa kể vừa khóc lóc, khiến người nghe đều như muốn rơi lệ. “Thương thay cho Ôn Nghi Công chúa, còn nhỏ tuổi mà đã phải chịu khổ như vậy, thiếu chút nữa còn mất đi tính mạng. Thần thiếp là người làm mẹ thật đau lòng vô cùng, nhưng lại sợ không thể tự mình nuôi nấng Công chúa.”
Việc Ôn Nghi Công chúa trúng độc ngày đó kỳ thực ai cũng ôm lòng nghi ngờ, chỉ hiềm rằng Huyền Lăng không cho điều tra tiếp. Hoàng hậu khẽ thở dài. “Nếu quả là như vậy thì Hoa Phi thực tàn độc quá. Nàng ta tuy không phải thân mẫu của Ôn Nghi Công chúa nhưng cũng là thứ mẫu, sao có thể đối xử với một đứa bé như vậy được?”
Kính Phi đứng bên cạnh nói với vẻ hết cách: “Bây giờ Tiểu Đường đã bị xử tử, coi như là chết không đối chứng rồi.”
Tào Tiệp dư không chút hoang mang, lau nước mắt nói: “Ngày đó Hoa Phi sai khiến hai cung nữ nói là từng thấy Hoàn Quý tần đi ngang qua Yên Vũ trai, về sau được Đoan Phi nương nương chứng thực thì đã rõ là vu cáo, qua đó có thể thấy được mưu đồ của Hoa Phi. Chỉ đáng thương cho Ôn Nghi Công chúa, từ lúc ở trong nôi đã bị người ta lợi dụng như vậy.”
Hoàng hậu quay sang nhìn tôi: “Hoàn Quý tần, việc này có liên quan đến ngươi, ngươi có điều gì muốn nói không?”
Tôi đứng dậy, khom người vái một cái thật sâu, nói rành rọt từng từ: “Việc ngày hôm đó, thần thiếp quả thực bị oan.”
Hoàng hậu khẽ gật đầu, nói: “Ngươi ngồi xuống đi, người đâu, đi mời Hoa Phi tới đây.”
Tôi đưa mắt chăm chú nhìn Tào Tiệp dư, việc Ôn Nghi Công chúa vốn đã rõ ràng, tuy không có chứng cứ xác thực nhưng trong lòng mỗi người đều có sự nghi hoặc riêng, lần này nàng ta nhắc lại chẳng qua là muốn khiến việc tiếp theo dễ khiến người ta tin tưởng hơn mà thôi.
Quả nhiên tôi vừa mới ngồi xuống, Tào Tiệp dư đã lập tức ngước mắt nhìn về phía Hoàng hậu. “Thần thiếp có tội, có một chuyện vẫn một mực không dám nói.”
Hoàng hậu bình tĩnh cất tiếng: “Ngươi cứ việc bạo dạn nói ra.”
Thoáng do dự, Tào Tiệp dư dập đầu một cái thật mạnh. “Cái chết của Thuần Tần…”
Lời này vừa nói ra, mấy vị phi tần đang có mặt đều cả kinh. Hân Quý tần nôn nóng cất tiếng trước: “Thuần Tần không phải bị chết đuối sao?”
Tôi ngồi bên cạnh Hân Quý tần, nhẹ nhàng nói: “Theo thần thiếp được biết, Thuần Tần bơi lội rất giỏi.”
Bầu không khí lập tức như đông cứng lại, Hoàng hậu nghiêm giọng nói: “Tào Tiệp dư, ngươi nói tiếp đi!”
Tào Tiệp dư dường như vô cùng kinh hãi, lắp bắp thưa: “Hôm đó Thuần Tần tới bên bờ hồ nhặt diều, thần thiếp vừa khéo bế Công chúa đứng sau ngọn giả sơn, ai ngờ lại nhìn thấy Hoa Phi nương nương sai thủ hạ là thái giám Chu Ninh Hải ấn đầu Thuần Tần xuống nước. Thuần Tần giãy giụa chẳng được bao lâu thì mất mạng rồi bọn họ liền vứt Thuần Tần xuống hồ, làm ra vẻ như chết đuối.” Tào Tiệp dư nói tới đây, hai mắt ngợp đầy vẻ sợ hãi, nắm chặt lấy chiếc khăn trong tay, không dám nói gì thêm.
Mấy người Kính Phi đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều sợ đến nỗi sắc mặt trắng bệch. Bàn tay tôi bấu chặt vào tay cầm của chiếc ghế, không ngờ Thuần Nhi lại chết thảm như vậy!
Hoàng hậu bình tĩnh hỏi: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó…” Tào Tiệp dư nghẹn ngào khóc lóc. “Thần thiếp sợ đến nỗi hồn bay phách tán, chỉ muốn chạy đi thật nhanh, ai ngờ đúng lúc này Công chúa lại bật khóc, làm kinh động tới Hoa Phi.” Tào Tiệp dư lẩm bẩm nói: “Thần thiếp sợ quá, tay chân mềm nhũn ra, Hoa Phi nói nếu thần thiếp dám nói việc này ra ngoài, nhất định sẽ giết thần thiếp và Công chúa. Thần thiếp sợ hãi tột độ, không ngờ nàng ta lại dám giết người trong cung… Về sau thần thiếp đêm đêm mất ngủ, hễ ngủ là mơ thấy bộ dạng của Thuần Tần khi chết… Thần thiếp không thể chịu nổi nữa rồi!”
Trong ống tay áo tôi có ủ một chiếc lò sưởi cầm tay loại nhỏ, không ngừng tỏa ra hơi ấm, nhưng khóe môi lại dần xuất hiện một nụ cười mỉm lạnh lùng. Đây vốn không phải là chân tướng, nhưng được nói ra từ miệng Tào Cầm Mặc thì lại hệt như thật. Nàng ta hoàn toàn gạt mình ra khỏi những việc ác mà Hoa Phi làm, cùng lắm chỉ là một người mẹ yếu đuối bị Hoa Phi uy hiếp, đáng để tha thứ và xót thương.
Hoa Phi vốn không ngốc, có điều đã bị sự sủng ái của Huyền Lăng trước đây làm mờ mắt, mài mòn trí tuệ, Tào Cầm Mặc mới thực sự là người đáng sợ. Không có Tào Cầm Mặc, Hoa Phi giống như một con chim ưng già mất đi đôi cánh, lỗ mãng và không có phương hướng, chỉ biết dùng bạo lực; mà sau khi bị Tào Cầm Mặc cắn lại một miếng, Hoa Phi sẽ như thế nào đây? Tôi bất giác khẽ mỉm cười.
Hoàng hậu cố sức kìm nén cơn giận, hỏi: “Vậy tại sao nàng ta phải giết Thuần Tần? Là vì đố kỵ Thuần Tần đắc sủng sao?”
Tào Tiệp dư hoang mang lắc đầu. “Về sau thần thiếp để tâm nghe ngóng, mới hay Thuần Tần vô ý bắt gặp cảnh Hoa Phi nói chuyện với tên tiểu thái giám mà Nhữ Nam Vương… à không, là thứ dân Huyền Tế, an bài trong cung, biết được việc Hoa Phi ngầm qua lại với đại thần, do đó mới bị diệt khẩu.”
Mọi người vừa sợ hãi vừa tức giận. Kính Phi đưa mắt nhìn Hoàng hậu, nói: “Không ngờ Hoa Phi lại dám…”
Cơn giận của Hoàng hậu dâng lên cuồn cuộn, tích tụ tại nơi ấn đường, đang định nói gì đó thì chợt nhìn thấy Hoa Phi đã đứng bên ngoài điện, bèn cất tiếng: “Tốt! Ngươi tới rồi.”
Tôi nghe thấy thế liền đưa mắt nhìn qua, thấy trên đầu Hoa Phi vẫn quấn vải trắng, sắc mặt tái xanh, chắc hẳn những lời mà Tào Tiệp dư vừa nói, ả ta đã nghe thấy hết, không kìm được nở nụ cười lạnh.
Hoa Phi sao kìm nén được tính tình, lập tức gạt tay ả cung nữ đang dìu mình ra, chạy như bay vào, tát cho Tào Tiệp dư một cái thật mạnh. Hoàng hậu giận dữ quát: “Hoa Phi, ngươi làm gì vậy? Trước mặt bản cung chớ có càn rỡ!”
Hoa Phi chẳng thèm để ý đến Hoàng hậu, túm lấy Tào Tiệp dư định đánh tiếp, nhưng đã bị một đám cung nữ, thái giám ra sức kéo ra. Ả ta không chịu thôi, cất tiếng mắng lớn: “Hay cho con tiện nhân ngươi, không ngờ lại dám bán rẻ bản cung, ngậm máu phun người, uổng cho bản cung hậu đãi ngươi bao nhiêu năm nay!” Tào Tiệp dư chỉ một mực nấp s lưng Kính Phi, nghẹn ngào khóc lóc như chuột nhìn thấy mèo.
Hoa Phi bị mấy gã thái giám khỏe mạnh ấn chặt xuống ghế không thể cựa quậy, hai mắt đỏ rực lóe lên vẻ hung dữ, ra sức nhìn chằm chằm vào Tào Tiệp dư, cất tiếng mắng lớn: “Tiện nhân, ngươi đã quên mất năm xưa là ai cất nhắc ngươi tới vị trí này, là ai ra sức lấy lòng bản cung sao? Uổng cho bản cung tin tưởng ngươi như vậy!”
Hoàng hậu đứng bật dậy, lạnh lùng nói với người xung quanh: “Nhớ lấy, là Hoa Phi tự mình nói đã từng qua lại thân mật với Tào Tiệp dư, do đó lời của Tào Tiệp dư đáng tin.” Hoàng hậu khẽ mỉm cười. “Vốn dĩ chỉ là lời từ một phía của Tào Tiệp dư, bản cung chưa tin hoàn toàn, nhưng Hoa Phi ngươi tự mình nói ra là từng tin tưởng Tào Tiệp dư, có thể thấy quan hệ giữa hai bên hết sức thân mật, do đó lời của Tào Tiệp dư nhất định là sự thực!” Sau đó, Hoàng hậu lại nghiêm nghị nói: “Đi bẩm với Hoàng thượng, xin cho Thận hình ty đi thẩm vấn Chu Ninh Hải.”
Hoa Phi ngây người như tượng gỗ, sau một khoảnh khắc chột dạ, ả ta rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, ánh mắt lẳng lặng nhìn quét qua khuôn mặt những phi tần đang ngồi đây, khiến người ta bất giác cảm thấy chấn động.
Cuối cùng, ánh mắt của ả ta dừng trên người tôi, ả ta gằn giọng quát: “Là ngươi? Hay là hoàng hậu? Hay là ai trong số các ngươi? Đã sai khiến ả vu cáo bản cung như vậy?”
Tôi bình tĩnh nhìn lại ả ta, hờ hững nói: “Việc gì phải vu cáo? Nếu muốn người ta không biết, trừ phi mình đừng làm”
Hoa Phi căm phẫn chỉ mặt mọi người. “Các ngươi… rặt một lũ ném đá xuống giếng, giậu đổ bìm leo! Bản cung đã mất đi cha anh…”
Hoàng hậu hơi nhếch khóe môi, cắt ngang lời Hoa Phi: “Bọn họ chẳng qua tự làm tự chịu mà thôi. Nhìn bộ dạng này của ngươi, bản cung cũng không thể hỏi gì được nữa, hãy về cung trước đi.” Thoáng dừng lại một chút, nàng ta nói tiếp: “Đừng có giống như một ả đàn bà đanh đá nơi phố chợ, dù thế nào thì ngươi cũng vẫn còn là Hoa Phi đấy!”
Tà váy dài của Hoàng hậu tựa như một áng mây màu rực rỡ lướt đi trên mặt đất, cung nữ của Hoa Phi thì ủ rũ đỡ ả ta bước lên kiệu. Hân Quý tần đứng cạnh tôi cất tiếng cười vui vẻ, nói: “Bị nàng ta chèn ép bao nhiêu năm rốt cuộc đã có ngày này, đúng là sảng khoái!”
Rốt cuộc đã có ngày này, khóe môi tôi bất giác hơi nhếch lên.
Chu Ninh Hải từng là thái giám tổng quản đắc lực nhất dưới trướng Hoa Phi, ngày xưa cũng có thể nói là phong quang vô hạn. Tiếc rằng rơi vào tay Thận hình ty, dù là ai cũng đều giống nhau. Thận hình ty là nơi trừng phạt các cung nữ, thái giám phạm lỗi trong cung, cũng là nơi thẩm vấn. Đêm đó, sau khi nhận được ý chỉ “có thể dùng hình” của Huyền Lăng, lại được Hoàng hậu đích thân dặn dò, thế là bọn họ hết sức cố gắng, trời còn chưa sáng, Chu Ninh Hải đã không chịu nổi sự tra tấn mà cung khai.
Sau khi nhận được tờ khai, Huyền Lăng lập tức triệu các phi tần từ chính tam phẩm trở lên và Tào Tiệp dư, người đã đứng ra tố cáo, tới cung của Hoàng hậu. Lời trần thuật trên tờ khai khiến Huyền Lăng vô cùng tức giận, trên đó không chỉ có những tội trạng mà Tào Tiệp dư tố cáo như sự kiện bột sắn, cái chết của Thuần Tần, việc câu kết với đại thần, còn có cả việc sai khiến Dư Canh y hạ độc vào thuốc của tôi, đẩy My Trang xuống nước, vu cho My Trang giả vờ có thai cùng rất nhiều lần hãm hại các phi tần khác.
Gã thái giám tổng quản đưa tờ khai từ Thận hình ty tới, dè dặt thưa: “Chu Ninh Hải đã bị ngất đi hai lần, hắn nói hắn chỉ biết thế này thôi, những việc khác thì đều không rõ.”
“Những việc khác?” Huyền Lăng phẫn nộ nói: “Còn có những việc khác nữa sao? Nàng ta tạo nghiệt như thế hãy còn chưa đủ?”
Hoàng hậu cầm tờ khai xem tỉ mỉ một lượt, cau mày nói: “Quả là trúc Nam Sơn không ghi hết tội.” Rồi lại hỏi Huyền Lăng: “Hoàng thượng định xử trí Hoa Phi thế nào?”
Tôi lẳng lặng nhìn Huyền Lăng, dưới ánh bình minh, y chắp tay sau lưng đứng trước cửa sổ, thần sắc có chút mơ hồ giữa làn ánh sáng mịt mờ. Sau khi im lặng hồi lâu, y mới chậm rãi nói từng từ: “Đi điều tra! Phàm là những thái giám hình tích khả nghi có qua lại với Hoa Phi đều nhất loạt xử tử! Hoa Phi Mộ Dung thị vào cung đã lâu, đức hạnh suy đồi, nay phế bỏ phong hiệu, giáng làm Tuyển thị tòng thất phẩm, buộc rời khỏi Mật Tú cung đến ở tại Vĩnh Hạng.”
Lòng tôi trầm xuống, Huyền Lăng, y rốt cuộc vẫn không đành lòng ra tay.
Hoàng hậu ôn tồn nói: “Hoàng thượng có cái tâm nhân đức, rộng lòng với hậu cung, đoán chừng Mộ Dung Tuyển thị nhất định sẽ có thể sửa chữa lỗi lầm, làm lại cuộc đời. Thần thiếp xin thay Mộ Dung Tuyển thị tạ ơn Hoàng thượng.” Rồi lại tiếp: “Mộ Dung Tuyển thị vẫn luôn mong muốn diện kiến Hoàng thượng, chắc hẳn thứ nhất là vì muốn biện bạch, còn thứ hai là để xin Hoàng thượng khoan thứ cho người nhà của mình.”
Huyền Lăng mím môi, lắc đầu nói: “Giữa trẫm và nàng ta đã không còn gì để nói nữa rồi!”
Y đột nhiên xoay người, hỏi Tào Tiệp dư: “Nàng đã biết những việc mà nàng ta làm, tại sao đến bây giờ mới nói?”
Tào Tiệp dư cúi đầu thưa: “Thần thiếp thật sự không dám. Khi xưa Hoa Phi như mặt trời giữa ngọ, vô cùng độc đoán, từng hãm hại vô số phi tần, dưới uy thế của nàng ta, thần thiếp chỉ có thể kín miệng như bưng, mong giữ cho bản thân và Công chúa được an toàn. Hiện giờ Công chúa đã dần khôn lớn, thần thiếp không muốn Công chúa cũng bị người khác uy hiếp giống như mình.” Nàng ta khấu đầu nói tiếp: “Tính mạng của thần thiếp thì chẳng đáng gì, nhưng Công chúa là cốt nhục của Hoàng thượng. Mà lúc này, Hoàng thượng vừa bình định tiền triều, do đó thần thiếp mới có đủ dũng khí tố cáo việc này với Hoàng thượng.” Nàng ta nói với giọng hoàn toàn đúng mực nhưng lại khiến lòng người chấn động.
Tôi thầm khen vẻ bình tĩnh của nàng ta lúc này, nếu có một tia hoảng loạn thôi, Huyền Lăng nhất định sẽ nghi ngờ là có người sai khiến. Nhưng sau khi nàng ta nói như vậy, sự việc liền trở nên hợp tình hợp lý hơn nhiều, lại tỏ rõ tấm lòng thương yêu con gái của nàng ta, càng khiến mọi người càng thêm tin tưởng.
Quả nhiên Huyền Lăng nói: “Đứng dậy đi!”
Tôi thấp giọng than: “Tấm lòng che chở con thơ ấy thật khiến người ta phải xúc động.”
Kính Phi cũng nói: “Tào Tiệp dư vì bảo vệ con gái mình mà bị uy hiếp như vậy, thực đã phải chịu ấm ức rồi!”
Huyền Lăng quay sang hỏi Hoàng hậu: “Con gái của công thần đã chọn những ai? Khi nào thì vào cung?”
Hoàng hậu lấy ra một tờ giấy, chậm rãi đọc: “Thần thiếp vâng theo lời của Hoàng thượng chọn được con gái của Đề đốc Bắc Môn là Lê thị, em gái của Phó đô đốc Vũ Lâm quân là Quản thị, con gái của Ngự sử Đô Sát viện là Nghê thị và con của Lệnh doãn kinh thành là Lạc thị, tất cả đều phong làm Quý nhân chính lục phẩm.” Hoàng hậu khẽ nở nụ cười hờ hững. “Phủ Nội vụ đã soạn sẵn mấy phong hiệu để lựa chọn, Hoàng thượng nói sự vụ bận rộn, giao việc này cho thần thiếp. Thần thiếp đã chọn lấy bốn chữ ‘Phúc, Kỳ, Tường, Thụy’, Lê thị sẽ là Phúc Quý nhân, Quản thị sẽ là Kỳ Quý nhân, Nghê thị sẽ là Tường Quý nhân, Lạc thị sẽ là Thụy Quý nhân, tất cả cùng nhập cung vào ngày Mười hai tháng Mười hai tới đây.”
Tôi tỉ mỉ lắng nghe, tuy đều là con gái của công thần nhưng phẩm cấp chức quan của cha anh những vị quý nhân mới đều không cao, đại để là Huyền Lăng không muốn có những phi tử xuất thân từ gia tộc tay nắm binh quyền như Hoa Phi vào cung nữa.
Huyền Lăng thoáng xem qua rồi nói: “Rất tốt, như thế mở miệng gọi cũng thấy dễ chịu.”
Hoàng hậu nở một nụ cười tươi tắn. “Hoàng thượng hài lòng là tốt rồi!”
Hân Quý tần đứng một bên nói: “Vậy Kiều Tuyển thị vốn luôn đi cùng Mộ Dung Tuyển thị thì sao, Hoàng thượng định xử trí thế nào?”
Huyền Lăng không nói gì. Hoàng hậu cất tiếng: “Kệ nàng ta đi, bảo Kính sự phòng triệt bỏ lục đầu bài của nàng ta, không cho thị tẩm nữa là được, Hoàng thượng thấy thế nào?”
Huyền Lăng nói: “Nàng là Hoàng hậu, mấ việc thế này nàng tự quyết định đi!”
Tôi cố ý nói: “Tào Tiệp dư tựa hồ cũng từng đi lại gần gũi với Mộ Dung Tuyển thị…”
Tào Tiệp dư vội vàng khấu đầu thưa: “Thần thiếp có tội, không nên để Mộ Dung Tuyển thị uy hiếp.” Nàng ta rưng rưng nước mắt, ngẩng đầu nhìn Huyền Lăng. “Thần thiếp nguyện chịu mọi hình phạt, chỉ mong Hoàng thượng đừng trách Công chúa.”
Kính Phi có chút không đành lòng, nói: “Tào Tiệp dư cũng chỉ bất đắc dĩ mà thôi, huống chi Công chúa còn nhỏ như vậy.”
Huyền Lăng dừng ánh mắt trên người Tào Tiệp dư hồi lâu, suy nghĩ một chút rồi nói: “Tiệp dư Tào thị có công vạch trần tội trạng của Mộ Dung thị, sắc phong làm quý tần chính tam phẩm, phong hiệu là ‘Tương’, cũng sẽ được cử hành lễ sắc phong vào ngày Mười hai tháng Mười hai này.”
Tào Cầm Mặc được như ý nguyện, nước mắt còn chưa khô, mặt đã lộ nét mừng, vội vàng khấu đầu tạ ơn không ngớt.
My Trang sớm đã chờ sẵn trong cung của tôi, nghển cổ trông đợi, thấy tôi trở về liền vội vàng hỏi: “Sao rồi?”
Tôi khẽ lắc đầu. “Không ban cho cái chết.”
My Trang biến hẳn sắc mặt, lại hỏi thêm: “Vậy có bị đày vào lãnh cung không?”
Tôi cũng hết sức thất vọng, hậm hực đáp: “Chỉ bị phế bỏ phong hiệu, giáng làm tuyển thị, phải dọn đến ở trong Vĩnh Hạng.”
My Trang đứng bật dậy, hai tay nắm chặt thành quyền, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, vừa ngẩn ngơ vừa phẫn nộ, hồi lâu sao mới nói: “Chỉ có vậy thôi sao?”
Tôi gật đầu. “Tội ác của ả, Hoàng thượng đều biết cả nhưng Hoàng thượng ôm lòng áy náy với ả.” My Trang ngơ ngẩn nhìn tôi, tôi khẽ buông tiếng thở dài, tỉ mỉ kể lại việc Hoan nghi hương với My Trang: “Ngày đó ả ta sảy thai, về sau lại mãi không có thai được, ấy đều là vì Hoàng thượng. Thêm vào đó, cha anh ả đã bị xử tử, Hoàng thượng khó tránh khỏi sinh lòng thương hại.”
My Trang ban đầu nghe đến ngẩn ngơ, đợi tôi kể xong, sắc mặt đã khôi phục lại vẻ lạnh lùng. “Cha anh của ả ta đã bị xử tử nhưng những người khác trong gia tộc đều giữ được tính mạng. Ngày đó, Hoàng thượng có thể nhẫn tâm trừ bỏ mối họa trong bụng ả ta, hôm nay sao lại nhân từ đến vậy?”
Tôi cười lạnh, nói: “Một đêm phu thê, trăm ngày ân ái, huống chi bao năm nay, ả ta luôn đắc sủng, Hoàng thượng khó tránh khỏi có chút tình cảm với ả.”
My Trang cắn chặt răng, lạnh lùng cất tiếng: “May mà bây giờ, ả ta không còn là Hoa Phi nữa, ta tất nhiên có cách ứng phó.”
Tôi sợ tỷ ấy nôn nóng quá mà hỏng việc, vội nói: “Ả ta tuy bị giáng cấp nhưng dù sao cũng vẫn là cung tần, tỷ đừng kích động.”
My Trang nở một nụ cười tươi tắn mà lạnh lẽo, nói: “Tất nhiên rồi, ta sẽ không đặt bản thân mình vào nơi nguy hiểm đâu.”
Tôi thoáng im lặng, mối thù sâu sắc như ghi khắ vào lòng, gằn giọng nói: “Con của muội và Thuần Nhi đều chết trong tay ả, tỷ và muội cũng có mấy phen cơ hồ mất mạng. Thù này tỷ không thể quên, muội tất nhiên cũng không thể quên.”
Dù còn chút dư âm nhưng sự việc cũng coi như tạm thời kết thúc. Sau khi trừng phạt phe phái của Nhữ Nam Vương, việc phong thưởng cho các công thần cũng được lần lượt tiến hành. Cha tôi được thăng làm Thượng thư bộ Lại chính nhị phẩm, gia phong Thái tử Thái bảo; ca ca được thăng làm Thị lang Bộ binh, Đô đốc Vũ Lâm quân, kiêm Thị giảng học sĩ của Hàn Lâm viện.
Huyền Lăng cười, nói với tôi: “Xưa nay văn thần võ tướng rất ít khi hòa hợp, trẫm để ca ca nàng kiêm luôn cả chức quan văn lẫn quan võ, thực là trường hợp đầu tiên của triều ta từ xưa tới nay.”
Tôi nở nụ cười tươi tắn, khẽ tựa người vào lòng y. “Hoàng thượng dụng tâm vất vả, nhưng chỉ sợ ca ca của thần thiếp hãy còn trẻ tuổi, không thể đảm đương trách nhiệm nặng nề này.”
Huyền Lăng đang có tâm trạng tốt, cười nói: “Nàng không được thấy đó thôi, hôm đó ca ca nàng cầm đao ngồi trên lưng ngựa, một mình giao đấu với mười mấy tử sĩ của phủ Nhữ Nam Vương, quả đúng là thiếu niên anh hùng!”
Tôi cũng thầm vui vẻ, khiêm nhường nói: “Mong Hoàng thượng hãy để ca ca của thần thiếp rèn luyện nhiều hơn, ngọc mà không mài thì không thể thành ngọc quý được.”
Y vui mừng đồng ý, nói: “Lần này tẩu tẩu của nàng cũng góp công không ít, trẫm đang tính phong nàng ta làm mệnh phụ chính lục phẩm Tân Bình huyện quân, như vậy ca ca của nàng sẽ không dám bỏ vị phu nhân mà trẫm mới phong nữa.”
Tôi khẽ phỉ phui một tiếng: “Vở kịch đó đúng là vất vả, hại thần thiếp phải rơi không biết bao nhiêu nước mắt. Nếu không nhờ có Hoàng hậu nương nương giúp đỡ, chỉ e không thể hoàn thành được.”
Y khẽ hôn lên tai tôi, thấp giọng nói: “Trẫm sẽ không để nàng rơi nhiều nước mắt như thế nữa đâu.”
Sau khi tôi từ Vô Lương điện về cung, sự sủng ái của Huyền Lăng với tôi lại giống hệt như trước. Còn Lăng Dung, vì trong khoảng thời gian tôi bị giam lỏng ở Vô Lương điện đã xin tới ở cùng tôi, Huyền Lăng lại càng nhìn nàng ta bằng con mắt khác, hết sức sủng ái. Thế nên Lăng Dung tuy không có phong hiệu nhưng sự đãi ngộ còn hơn xa một số người có phong hiệu khác.
Đợi đến khi trận tuyết đầu tiên rơi thì đã là mùng Bảy tháng Mười hai. Hôm ấy chính là ngày tẩu tẩu tôi vào cung tạ ơn sau khi được phong làm mệnh phụ chính lục phẩm Tân Bình huyện quân.
Sau khi tẩu tẩu bái kiến Hoàng hậu, Hoàng hậu liền tươi cười rạng rỡ nói: “Hiện giờ vợ chồng các ngươi đã hòa hảo, lại sinh được con trai, thực là tốt quá rồi!”
Hai má tẩu tẩu đỏ bừng, vội cùng ca ca kính cẩn tạ ơn. Hoàng hậu nói: “Hiếm hoi lắm các ngươi mới tới đây một lần, tất nhiên có rất nhiều lời muốn nói riêng với Hoàn Quý tần, bản cung không giữ các ngươi lại thêm nữa, mau tới cung của Hoàn Quý tần đi!”
Trời đang có tuyết rơi, trên đường gió lớn, phải ngồi kiệu một lúc mới tới được Đường Lê cung. Lưu Chu và Hoán Bích sớm đã dẫn người chờ sẵn ngoài cửa cung, vừa nhìn thấy kiệu đã chạy tới, khom người tươi cười nói: “Chúc mừng công tử và thiếu phu nhân.”
Hiện giờ tôi ở trong cung, ca ca và tẩu tẩu lại càng khách sáo với Lưu Chu và Hoán Bích hơn, vội đỡ họ dậy, nói: “Xin chào hai vị cô nương.”
Cứ như vậy mọi người cùng náo nức tiến vào, bức rèm bông nặng nề vừa được vén lên, một làn gió ấm áp lập tức phả thẳng ra ngoài. Tẩu tẩu không kìm được cười nói: “Thì ra lúc ở trên kiệu chỉ là không lạnh lắm, bây giờ mới thực là ấm áp như mùa xuân.”
Tôi và bọn họ cùng ngồi xuống, lại sai người dâng trà, sau đó mới tỉ mỉ ngắm nghía ca ca và tẩu tẩu. Sau khi sinh nở, trông tẩu tẩu đẫy đà hơn một chút, sắc mặt hồng hào khỏe mạnh, ca ca cũng có tinh thần sảng khoái, khí khái bừng bừng, khuôn mặt lộ rõ vẻ uy phong.
Tôi cười nói: “Quả đúng là người gặp việc mừng thì tinh thần thoải mái.” Sau đó lại hỏi: “Sao không thấy cháu của muội đâu?”
Tẩu tẩu vội đáp: “Ta sợ thằng bé quấy khóc sẽ quấy rầy nương nương. Nếu nương nương muốn gặp, vậy để ta bảo nhũ mẫu bế nó vào đây.” Thế rồi bèn ra lệnh cho nhũ mẫu: “Mau bế tiểu công tử tới đây.”
Tôi không đợi nhũ mẫu thỉnh an, nhẹ nhàng bế đứa bé vào lòng.
Tẩu tẩu nói: “Động tác bế trẻ con của nương nương quả là thuần thục.”
Tôi thoáng ngẩn ra, kế đó liền tươi cười, nói: “Đúng thế, ở trong cung muội thường xuyên bế hai vị công chúa mà.”
Thằng bé còn chưa đầy tháng, cơ thể vẫn đỏ hỏn, mái tóc sơ sinh khá dày, chắc hẳn vừa được bú no sữa nên ngủ rất ngon, mơ gì đó mà khẽ cười, hoàn toàn không hay biết tới những nỗi sầu khổ giữa thế gian. Tôi thầm cảm thấy vui vẻ, nhưng đồng thời cũng thoáng qua nét ưu sầu. Đứa con của tôi nếu có thể ra đời, bây giờ sẽ có bộ dạng thế nào?
Đứa con của tôi! Tôi không kìm được khẽ hôn lên bờ má non nớt của đứa bé, nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó, nói với Hoán Bích: “Mang chiếc khóa vàng trường thọ trăm tuổi trong tráp của ta tới đây, còn nữa, bốc thêm chút hạt vàng bỏ vào túi thơm cho ta.” Hoán Bích mới đi được hai bước, tôi đã lại nói thêm: “Đi lấy một cây gậy ngọc như ý nữa.”
Ca ca vội nói: “Nương nương, đứa bé còn nhỏ, không dùng được nhiều như vậy đâu.”
Tôi khẽ hôn lên bàn tay thằng bé rất mực thương yêu, nói với giọng cưng nựng: “Bây giờ không dùng được, lẽ nào sau này vẫn không dùng được? Đây là một chút tâm ý của người làm cô cô này.”
Tẩu tẩu cười, nói: “Nương nương thương yêu đứa bé này như vậy là phúc của nó, có điều thế này quả có hơi nhiều.”
Tôi thầm chua xót, nói: “Tẩu tẩu không biết đấy thôi, con của muội không thể ra đời, đứa bé này muội coi như con ruột của mình vậy, tất nhiên sẽ thương yêu nhiều hơn một chút.” Đương lúc trò chuyện, Hoán Bích đã bưng đồ ra, cười tủm tỉm, nói: “Ngọc như ý sẽ giúp tiểu công tử sau này gặp chuyện gì cũng được như ý, túi hạt vàng sẽ giúp tiểu công tử phúc thọ lâu dài, còn khóa vàng thì tất nhiên sẽ giúp tiểu công tử trường thọ trăm tuổi.” Những lời ấy khiến mọi người đều cười đến nỗi không khép được miệng.
Tôi hỏi: “Thằng bé đã được đặt tên chưa?”
Tẩu tẩu thấy tôi thương yêu đứa bé như vậy, bèn vui mừng nói: “Chưa đâu.” Nói rồi lại đưa mắt liếc nhìn ca ca. “Ý của phu quân là xin nương nương ban tên cho nó.”
Tôi tất nhiên hết sức vui mừng. “Đây là con trưởng của ca ca và tẩu tẩu, nhất định phải đặt một cái tên thật hay mới được.” Tôi suy nghĩ một chút, chậm rãi nói: “Hãy gọi là Trí Ninh đi. Gia Cát Khổng Minh tiên sinh dạy con cháu rằng ‘đạm bạc dĩ minh chí, ninh tĩnh dĩ trí viễn[1]’, ấy mới là cái đạo dài lâu.”
[1] Có nghĩa là sống đạm bạc thì mới tỏ được chí khí của bản thân, lòng bình lặng thì mới thực hiện được chí hướng cao vời - ND.
Ca ca thoáng chút trầm tư, nói: “Ninh tĩnh dĩ trí viễn. Lời của nương nương quả là chứa đầy thâm ý.”
Tôi gật đầu, nói: “Đây là sự kỳ vọng của muội với đứa bé, cũng là lời muốn nói với ca ca và phụ thân. Hiện giờ gia tộc Mộ Dung đã trở thành quá khứ, nhà họ Chân chúng ta rất được ân sủng, thanh thế ngày một hiển hách, nhưng nhất định không được kiêu căng nóng vội, phải thận trọng trong từng hành vi, cử chỉ.” Tôi thấy xung quanh đều là người thân tín, mới thấp giọng nói tiếp: “Gia tộc Mộ Dung chính là tấm gương tày liếp của chúng ta, cần phải lấy đó làm điều răn.”
Ca ca lộ rõ vẻ nghiêm túc, sau khi liếc nhìn tẩu tẩu, bèn nói: “Dạ, thần xin ghi nhớ kỹ.”
Tôi cảm thấy thư thái hơn, nghiêng đầu qua, thấy Hoán Bích đang chăm chú nhìn đứa bé trong lòng tôi, bất giác lòng thầm máy động, liền nói với nàng ta: “Ngươi cũng bế thử đi.”
Hoán Bích cơ hồ không thể tin nổi, do dự nói: “Nô tỳ cũng có thể bế sao?”
Tôi khẽ gật đầu. “Đúng vậy!” Hoán Bích cẩn thận đón lấy đứa bé, ôm vào lòng như đang ôm một món đồ quý báu tột cùng.
Ca ca tất nhiên hiểu rõ duyên cớ bên trong, tôi nói với tẩu tẩu: “Hoán Bích là thị nữ tùy thân của muội từ nhỏ, muội xưa nay vẫn luôn coi muội ấy như muội muội ruột thịt của mình, đang có chuyện muốn dặn dò ca ca đây.”
Ca ca vội đứng dậy, nói: “Mời nương nương nói.”
Tôi nở nụ cười tươi, kéo tay Hoán Bích lại nói: “Hoán Bích đã đến tuổi gả chồng, xin ca ca hãy giúp muội chọn một người phẩm hạnh đoan trang, nghi biểu đường hoàng trong triều, muội sẽ nhận Hoán Bích làm nghĩa muội rồi gả muội ấy đi thật phong quang.”
Ca ca mặt lộ nét mừng, chăm chú nhìn Hoán Bích một lát, nói: “Thần nhất định sẽ dốc hết sức lực.”
Hoán Bích cả thẹn, xoay người, lựa lúc không ai chú ý đưa tay lên lau nước mắt, tôi cũng không kìm được sự thổn thức trong lòng. Lúc này, nhà họ Chân đang đắc thế, tôi sẽ cố hết sức tìm cho Hoán Bích một nơi chốn tốt nhất có thể. Rồi tôi lại mỉm cười, nói: “Cũng xin để ý giúp Lưu Chu.”
Ca ca nói: “Lần này tới đây thần còn có một chuyện mừng muốn nói với nương nương.”
Tôi khẽ “ồ” một tiếng, tò mò hỏi: “Là chuyện mừng gì vậy?”
Tẩu tẩu cất tiếng trả lời trước: “Cha đã định được hôn sự cho nhị muội Ngọc Diêu rồi, lễ thành hôn sẽ cử hành vào dịp Trùng Dương năm sau.”
Tôi mừng rỡ vô cùng, hỏi: “Là công tử nhà nào vậy?”
Ca ca tươi cười đáp: “Là Quản Khê, đệ đệ của Phó đô thống Vũ Lâm quân Quản Lộ, đồng liêu với thần, cũng là ca ca của Kỳ Quý nhân chuẩn bị vào cung. Trong việc bình định Nhữ Nam Vương lần này, y cũng lập được không ít công lao.”
Tẩu tẩu cũng khẽ nở nụ cười. “Lần này Quản Khê thành hôn với Diêu muội muội nhà chúng ta còn là với cao đấy, nhưng may mà y hãy còn trẻ tuổi, cũng coi như là khá có tương lai.”
Tôi mỉm cười, gật đầu nói: “Đã là đồng liêu của ca ca, tất nhiên hai bên đều hiểu rõ nhau rồi. Đây là việc tốt.” Thoáng trầm ngâm, tôi nói tiếp: “Người chồng huynh tìm cho Hoán Bích muội muội không được kém vị muội phu tương lai này đâu đấy nhé!”
Hoán Bích không sao nghe tiếp được nữa, vội giao trả Trí Ninh lại cho nhũ mẫu, xoay người chạy đi mất.
Tôi giữ ca ca và tẩu tẩu lại ăn đồ điểm tâm, để ý quan sát thần sắc của bọn họ, thấy hai người quả nhiên vợ chồng hòa hợp, phu thê ân ái, mới cất tiếng hỏi: “Nữ tử tên Giai Nghi kia được xử trí thế nào rồi?”
Ca ca ung dung đáp: “Đã chuộc thân cho cô ta và mua cho một ngôi nhà để ở tạm rồi. Nếu sau này cô ta muốn lấy chồng, bọn ta sẽ bỏ tiền chuẩn bị của hồi môn thật hậu cho cô ta.”
Tôi dùng nắp chén chậm rãi gạt bọt trà qua một bên, khẽ nhấp một ngụm, cất giọng trêu đùa: “Chắc ca ca không định cưới vị Giai Nghi cô nương đó về làm thiếp đấy chứ?”
Ca ca liếc nhìn qua phía tẩu tẩu bằng ánh mắt đầy tình cảm, sắc mặt vừa kiên định vừa dịu dàng, thể hiện rõ sự quan tâm sâu sắc của một người chồng đối với vợ. “Thiến Đào tình sâu ý nặng với thần, lại vì thần mà hy sinh nhiều như thế, kiếp này thần tuyệt đối không bao giờ phụ nàng ấy.”
Hai gò má tẩu tẩu bất giác ửng hồng, lộ rõ dáng vẻ của một người vợ đang đắm chìm trong hạnh phúc. “Ta cũng từng nghĩ vị Giai Nghi cô nương đó tuy thân ở nơi nhơ nhớp nhưng cũng là một người tốt hiếm có, nếu phu quân có ý thì chi bằng hãy nạp về làm thiếp. Nhưng phu quân lại nhất quyết không chịu.” Vừa nói nàng ta vừa đưa mắt nhìn ca ca bằng ánh mắt tràn đầy tình cảm.
Tảng đá đè nặng trong lòng tôi rốt cuộc đã được gỡ xuống, nếu thực sự như lời thị nữ của tẩu tẩu nói, Giai Nghi trông rất giống Lăng Dung, vậy thì hành động này của ca ca chứng tỏ huynh ấy không có ý gì với Lăng Dung cả.
Tôi thầm cảm động vì tình cảm giữa ca ca và tẩu tẩu, đặc biệt mối tình phu thê ấy đã trải qua hoạn nạn nên lại càng sâu sắc hơn. Tôi và Huyền Lăng cũng có thể coi là từng cùng trải qua hoạn nạn, chỉ có điều chúng tôi lại không phải là phu thê.
Tôi gạt bỏ suy nghĩ vu vơ ấy ra khỏi đầu, mỉm cười, nói với ca ca và tẩu tẩu: “Ngày đó chọn tẩu tẩu cho ca ca hoàn toàn là vì muội ngưỡng mộ danh tiếng của tẩu tẩu trong khuê các, nhưng ca ca lại chưa từng gặp tẩu tẩu, do đó muội luôn lo rằng vì duyên cớ này mà hai người không được hòa hợp. Mãi tới hôm nay muội mới có thể thực sự yên tâm.” Lời của tôi tuy là nói với họ nhưng lại giống như đang an ủi trái tim mình. “Qua đó có thể thấy chỉ cần vợ chồng đồng lòng, dù trước khi thành hôn chưa từng gặp mặt vẫn có thể chung sống hòa thuận bên nhau.”
Ca ca cất tiếng cười sang sảng: “Nguy hiểm thật! Nguy hiểm thật! Nương nương không biết đấy thôi, ngày đó thần thực rất lo sẽ phải cưới một cô nàng ghê gớm về làm vợ.”
Tẩu tẩu cũng cười, nói: “Nguy hiểm thật! Nguy hiểm thật! Ngày đó ta cũng sợ sẽ bị gả cho một tay vũ phu lỗ mãng!”
Tôi bật cười. “Bây giờ thì đều hài lòng cả rồi chứ? Kỳ thực người ghê gớm thành đôi với kẻ vũ phu lỗ mãng cũng là điều rất tuyệt.”
Tôi trò chuyện với ca ca và tẩu tẩu hồi lâu, lại hỏi về việc ăn uống ngủ nghỉ của cha mẹ, đợi khi sắc trời gần tối mới lưu luyến tiễn bọn họ tới ngoài cửa và cáo biệt.
Gió mạnh nổi lên, những bông tuyết to như lông ngỗng bay lất phất. Trời tuyết rơi thế này tối rất nhanh, bầu trời ngợp giữa màu vàng và xám xịt, những đám mây hạ xuống rất thấp. Ca ca đỡ tẩu tẩu lên kiệu, thấy mái tóc của tẩu tẩu bị gió thổi rối liền đưa tay vuốt lại giúp, sau đó mới ngồi vào chiếc kiệu phía sau.
Tôi thấy ca ca chu đáo như vậy, trong lòng cảm thấy vô cùng ấm áp. Phu thê ân ái thế này chắc hẳn có thể dắt tay nhau đi tới lúc đầu bạc răng long.
8
Thấy bọn họ đã đi xa, tôi chuẩn bị xoay người trở vào, chợt thấy một người cầm ô đứng lẻ loi ở nơi xa tít bên ngoài cửa cung, bộ đồ màu trắng bạc trên người càng khiến bóng dáng ấy thêm phần cô quạnh.
Tôi tỉ mỉ nhìn kĩ, thấy đó hình như là Lăng Dung. Vừa rồi tôi đặt cả tâm tư lên người ca ca và tẩu tẩu, chẳng biết nàng ta tới đây từ bao giờ, nhìn thấy cảnh tượng vừa rồi, chắc chắn nàng ta sẽ cảm thấy vô cùng thương tâm. Tôi đang định cho người đi mời, người đó đã cất bước tới gần, quả nhiên chính là Lăng Dung. Nàng ta chỉ vận một chiếc áo chẽn màu trà bên trong, bên ngoài khoác chiếc áo choàng bông dày viền da chồn trắng, trên đầu cài đủ thứ đồ trang sức châu ngọc, đúng là bộ dạng của một sủng phi chốn hậu cung, có điều sắc mặt nàng ta trắng bệch, thực không hợp với lối ăn mặc này chút nào.
Lòng tôi thầm giá lạnh, biết là có điều không ổn, vội kéo tay nàng ta lại, nói: “Trời đang đổ tuyết lớn thế này, sao muội lại một mình chạy tới đây thế?”
Lăng Dung chậm rãi ngoảnh đầu qua, nở một nụ cười mỉm với tôi, nhưng nụ cười ấy lại giá lạnh như băng tuyết. “Muội vừa từ chỗ Lý Tu dung qua đây, định thăm tỷ tỷ một chút, không ngờ lại nhìn thấy một cảnh đẹp tuyệt vời thế này.”
Tôi nắm chặt bàn tay Lăng Dung, nói: “Bên ngoài trời lạnh, có gì chúng ta vào trong nói chuyện.”
Lăng Dung chỉ khẽ lắc đầu. Tôi vội nói với người sau lưng: “Các ngươi vào trong đi, ta với An Tần ở ngoài này ngắm cảnh tuyết.”
Mọi người đều rời đi. Lăng Dung chăm chú nhìn mặt đất đầy tuyết trắng đến ngơ ngẩn, hồi lâu sau mới khẽ nở nụ cười. “Tỷ tỷ giấu kĩ quá, khiến muội uổng công lo lắng cho công tử.”
Tôi không khỏi có chút xót xa. “Chuyện này có mối liên quan rất lớn, ý của Hoàng thượng là càng ít người biết càng tốt. Hơn nữa, muội quan tâm tắc loạn, dù gì không biết vẫn hơn.”
Cây trâm vàng khảm ngọc cài trên búi tóc Lăng Dung lóe lên những tia sáng lạnh băng. “Đúng thế! Muội biết nhiều như thế để làm gì? Chi bằng không biết.” Vẻ mặt nàng ta vừa như vui vẻ vừa như đau buồn. “Công tử và thiếu phu nhân hòa hợp với nhau là tốt rồi.”
Tôi bất giác ngây ra, khẽ cất tiếng gọi: “Lăng Dung…”
Nàng ta chậm rãi quay đầu sang, thần sắc đã dần khá hơn, khẽ cười, nói: “Tỷ tỷ nhầm rồi, Hoàng thượng chỉ quen gọi muội là Dung Nhi thôi.”
“Dung Nhi?” Tôi hơi ngây người, rồi chợt cười, nói: “Muội nhớ được vậy là tốt.”
Nàng ta lẩm bẩm: “Tất nhiên là muội nhớ chứ.” Sau đó lại tiếp: “Sắc trời đã tối, muội phải về cung đây, tỷ tỷ cũng mau vào trong đi.”
Trên cổ chiếc áo choàng mà tôi đang mặc có viền một lớp lông hết sức mềm mại, từng làn hơi thở phả ra, những sợi lông màu xám bạc đó dần khiến tầm mắt tôi trở nên mơ hồ.
Bóng dáng Lăng Dung từ từ biến mất giữa trời tuyết bập bùng, chỉ còn một hàng dấu chân lưu lại trên mặt đất. Những bông tuyết lớn tung bay giữa trời như đang nhảy múa, lại giống như những giọt nước mắt đang rơi, chẳng bao lâu sau đã phủ kín những dấu chân mà Lăng Dung để lại.
Tất cả trở về như cũ. Dường như Lăng Dung chưa từng tới đây. Dường như, nàng ta chưa từng yêu bao giờ.