Hồ Phần 5


Phần 5
“Gì thế này! Tớ tưởng là chuyện đùa cơ đấy!”

Tôi bật cười, Sayuri cũng cười lớn.

Song cả tôi lẫn Sayuri đều biết, những chuyện đùa thế này lại rất thường xảy ra trong đời thực. Thế nên khi cười ngớt, tôi chùi chỗ nước mắt chảy ra do cười quá nhiều và bảo:

“Không được đâu. Vì tớ đã vẽ phác xong gần hết rồi.”

Mặc dầu vậy tôi vẫn thử tính cách thiết kế biểu tượng sao cho ngộ nghĩnh, thú vị để đưa vào trong tranh, nhưng xem chừng vô vọng. Vả lại, tôi cũng lờ mờ hiểu rằng, họ sẽ chẳng thích thú nỗi gì nếu tôi vẽ theo kiểu ấy.

“Trước mắt để tớ thử thương lượng xem sao. Cậu có yêu cầu gì không?” Sayuri hỏi.



Tôi thấy sao mà phiền phức, bèn bảo:

“Vậy thì tớ sẽ rút lui ngay bây giờ để họ tiện vẽ lại từ đầu với biểu tượng. Hoặc là họ đi mà tìm người nào biết cách nhét cái biểu tượng đó vào trong tranh.”

“Sao cậu lúc nào cũng phải hoặc là tất cả hoặc là không gì hết như vậy chứ?” Sayuri nói với vẻ mặt chán nản.

Tôi đành nói tiếp:

“Vậy thì thế này đi, đằng nào tớ cũng sẽ viết tên thành phố lên phía trên chữ ký của tớ vì đã hỗ trợ dự án này, hay là đề nghị họ để tớ vẽ nho nhỏ cái biểu tượng vào chỗ ấy có được không?”

“Nhưng nguyện vọng của ông giám đốc là muốn biểu tượng được lồng vào như một phần của bức tranh với kích thước lớn hơn ý cậu nói nhiều.” Sayuri đáp. “Nhưng tớ đang dọa họ rằng, nếu đã thể hiện thì chẳng cần nhờ tới Chihiro làm gì, và nếu vẽ lại từ đầu sẽ phải cần đến số tiền là một triệu yên.”

Sayuri nở một nụ cười.

Vì rất quý mến cái con người ấy ở Sayuri, nên tôi đã chọn cách nói mềm mỏng nhất có thể để Sayuri đừng nghĩ là tôi đang chê trách.

“Thú thực, tớ không hề nghĩ tranh mình đặc biệt xuất sắc. Nên tớ mới vẽ với một tâm thế chấp nhận rằng có thể bức tường rồi sẽ bị phá vào một ngày không xa.”

“Nhưng tớ cho rằng hai cách nghĩ: ‘đằng nào cũng bị phá thì vẽ làm gì’ và ‘đằng nào cũng bị phá thì vẽ gì chả được’ là hoàn toàn khác nhau.”

“Cái mà tớ đang làm không phải kiểu công việc cứ vẽ xoèn xoẹt cho xong bức tranh được yêu cầu, hay vẽ một tấm áp phích quảng cáo phim, ít ra là như vậy. Khi nhận bất kỳ lời đề nghị nào, tớ luôn đặt điều kiện rằng đó phải là tranh của tớ, vì thế mặc dù rất khó khăn để tìm được một công việc phù hợp với điều kiện này, song tớ vẫn duy trì. Thế nên, nếu có người yêu cầu tớ thêm vào tranh một cái gì đó, bất kể là cái gì... dù đơn giản như biểu tượng một miếng thạch Konjac thật dễ thương, Pikachu, Gundam hay Ham-taro, nghĩa là họ đã thuê tớ mà không hiểu gì về công việc tớ đang làm.”

“Được rồi, tớ rất hiểu. Tớ biết điều ấy nên mới nhờ Chihiro, trách nhiệm thuộc về tớ, cậu đừng lo. Tớ tới đây để nói cho cậu biết chứ không phải để thuyết phục cậu.”

Đúng là một giáo viên, Sayuri tỏ ra bình tĩnh và vững vàng.

“Dù thế nào, nếu đây là một yêu cầu tuyệt đối phải tuân theo, thì tớ không thể làm việc được trong một hệ thống như thế. Họ thuê nhầm người rồi, nhầm ngay từ đầu. Cậu nói lại với họ rằng hãy thuê một người làm công việc kẻ vẽ biển hiệu. Tớ không hạ thấp những người kẻ vẽ biển hiệu, chỉ là bởi nghề nghiệp khác nhau. Cho dù vẫn còn là một kẻ non tay, chỉ chuyên vẽ tranh trên những bức tường đầy rêu, song không có nghĩa là tớ sẽ thay đổi nghề nghiệp của mình.” Tôi nói.

Rồi nhìn bức tranh. Lũ khỉ đáng thương, rất có thể chúng sẽ bị phủ một lớp màu lên trên và biến mất. Tuy nhiên, biết đâu dù chỉ tồn tại ở đây trong một thời gian ngắn ngủi, song Yotchan và bạn bè sẽ vẫn còn nhớ mãi.

Nghĩ đến đây, tôi thấy trong lòng một cảm giác tự do, tựa như mọi sự cố chấp của mình đều biến mất trước một cơn gió bất chợt dịu dàng thổi tới. Một cảm giác như thể: A, mình có thể đi đến bất cứ đâu.

Một thứ cảm giác tự do chẳng mấy khi có được.

Được rồi, được rồi, tôi tự nhủ.

Dù sao mình cũng phải lưu lại hình ảnh này, nghĩ thế tôi chụp lại bức tranh bằng máy ảnh kỹ thuật số với hậu cảnh là bầu trời. Để ghi lại niềm vui của quãng thời gian đặc biệt này.

“Sẽ có cách nào đó, chắc chắn là như thế.” Sayuri nói. “Trước mắt, tớ sẽ cho mấy ông bên trên và cả công ty kia xem băng video chương trình phóng sự về Chihiro, để khẳng định với họ về giá trị nghệ thuật.”

“Thật hổ thẹn là nó lại không đến mức ấy.” Tôi nói.

Lúc này, lần đầu tiên tôi cảm thấy mình hơi nghiêm túc về nghề nghiệp của bản thân. Chẳng thể nói gì được bởi vì ông giám đốc của công ty thạch Konjac kia chưa từng xem tranh của tôi, nhưng cũng phải thừa nhận trách nhiệm của tôi là ở chỗ chưa biết cách vẽ sao cho không ai còn muốn lồng biểu tượng vào trong tranh của mình nữa.

Tóm lại mình phải học thêm về hội họa, phải xem thật nhiều thật nhiều tuyệt tác, để biết sự nhỏ bé của mình... Con đường tới Paris cứ tự động mở ra trước mặt tôi. Tôi bất thần hình dung gương mặt nhìn nghiêng của Nakajima đang miệt mài học trong căn hộ của mình.

Tôi cũng muốn mình có được vẻ mặt như thế khi vẽ tranh. Tôi muốn chuyển hóa tất cả bộn bề thường nhật sang một dạng năng lượng khác, biến chúng thành một phần của chính tôi chứ không phải trốn chạy khỏi chúng. Giống như Nakajima đã làm.

Nhưng trước đó, tôi phải giải quyết chuyện này đã.

“Rõ rồi, vậy tớ sẽ tìm cách xuất hiện trên các tạp chí, kiếm thêm chút tiếng tăm cho mình. Mấy bác già hẳn sẽ xiêu lòng vì ba cái chuyện này. Hơn nữa, giáo sư hướng dẫn tốt nghiệp của tớ khá là nổi tiếng, nên có thể nhờ thầy ấy viết đôi lời cho ngài thị trưởng. Thầy lại là người vùng này, nên chắc là có sức ảnh hưởng tương đối. Chính thầy đã sáng tác bức tượng đồng lạ mắt trước cửa ga đấy.” Tôi nói. “Ngoài ra, cùng với việc gửi cho họ một bộ tài liệu giải thích các vấn đề như đã nêu ở trên, tớ sẽ thử gửi thư tay nhằm thuyết phục ông giám đốc công ty thạch Konjac với lời lẽ ôn hòa để không làm mếch lòng ông ta. Đó là tất cả những gì tớ có thể làm, mà nếu vẫn thất bại, tớ đành phải bỏ cuộc thôi.”

Tôi tự nhủ, đây thật là một ý tưởng tuyệt vời nếu so với khả năng của mình. Tôi đoán nếu ông giám đốc công ty thạch Konjac không phải kẻ có quá nhiều tiền và dị hợm, thì chẳng hơi đâu lại đi yêu cầu xóa một bức tranh đã vẽ rồi, sau đó bỏ tiền ra để vẽ lại, nên chắc sẽ xuôi chèo.

“Nghe có vẻ sẽ ổn thỏa. Dù thế nào cũng cho tớ xin lỗi nhé, đã làm phiền cậu vì những việc không đâu.” Sayuri nói.

“Đừng lo, tớ sẽ làm mọi điều có thể.”

Bởi đây có thể sẽ là dự án cuối cùng tớ thực hiện ở Nhật Bản, tôi nghĩ bụng. Tôi không định gắn bó với việc vẽ tranh tường nên chính tôi cũng không biết mai sau mình sẽ ra sao. Dù kiếm sống bằng nghề gì thì chắc cũng còn phải gặp nhiều chuyện tương tự, tuy nhiên trong mọi hoàn cảnh, bất kể sự việc có suôn sẻ hay không, tôi chỉ cần làm hết khả năng, giống như thế này, là được. Và tôi sẽ hít thật sâu cơn gió tự do ngát thơm và dịu ngọt lâu lâu lại thổi tới.

“Khi nào có quyết định, Sayuri cho tớ biết nhé.” Tôi nói. “Từ giờ đến lúc ấy tớ sẽ tạm nghỉ ngơi. Tất nhiên, tớ hiểu cậu chẳng có lỗi gì.”

Tôi phải hành động, đồng thời cũng cần làm nguội cái đầu, hơn nữa cứ nhìn bức tranh sắp hoàn thành là lòng lại xót xa, nên tôi nhanh tay thu dọn đồ đạc.

Tất nhiên, tôi không giận. Thậm chí còn cảm thấy áy náy với Sayuri.

Tôi không phải một nghệ sĩ danh tiếng, nên họ tưởng có thể thuê được với giá rẻ. Cứ coi điều đó là đương nhiên đi. Và họ cũng nghĩ, một kẻ hạng xoàng như tôi thì nhất định sẽ ngoan ngoan đưa phần quảng cáo của nhà tài trợ vào tranh theo đúng yêu cầu.

Tất nhiên, xét theo một nghĩa nào đó, yêu cầu này là không thể tránh khỏi. Cách làm linh động như thế luôn đầy rẫy trong từng ngóc ngách của xã hội này. Từ ngân hàng cho tới nước xốt ponzu... tất nhiên đây chỉ là ví dụ, nhưng ta có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu những quyền lợi nhỏ nhặt mà thiên hạ luôn theo đuổi một cách mơ hồ như vậy. Tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp, vì những quyền lợi nhỏ nhặt mà bất chấp ranh giới, người ta sẵn sàng về hùa với phe kia, khéo léo dằn kín chính kiến của mình, sau đó chẳng bao giờ gánh trách nhiệm mà vo thành một mớ bùng nhùng bỏ đấy cho bạn cùng thuyền, mọi ranh giới càng lúc càng trở nên mơ hồ, rồi không hiểu sao tất cả lại bị nhốt vào một cái khuôn chật cứng.

Nhưng, tôi đã chán ngấy tất cả những sự lửng lơ kiểu ấy.

Tôi muốn vừa được sảng khoái chơi đùa cùng thế giới xung quanh vừa vẽ nên một cái gì khả dĩ chấp nhận, và muốn được bay bổng đôi chút, thế mà lại rơi vào cảm giác chán chường.

Giả sử tôi là Sayuri, một khi đã yêu quý lớp học vỡ lòng hơn hết thảy và đứng trong tổ chức, chắc chắn sẽ có vô vàn cách thức giải quyết, tôi sẽ chọn lấy cách tốt nhất cho tất cả các bên.

Tuy nhiên, nếu bây giờ tôi nghe theo những lời bùi tai, thì ý nghĩa nghề nghiệp của tôi sẽ khác đi. Hoặc nếu tôi là một du khách ngang qua, nhìn thấy tranh tường vẽ hình quảng cáo, hẳn tôi sẽ nghĩ: “Cái gì mà kệch cỡm thế này.” Tiếp theo, tôi sẽ nghĩ, một công ty bỏ ra vỏn vẹn năm trăm ngàn yên mà cứ khăng khăng đòi ghi tên mình vào thi công ty đó liệu có ra gì?

Năm trăm ngàn yên là số tiền lớn đối với tôi, nhưng không phải vì thế mà tôi sẵn sàng làm mọi thứ. Nhất là khi vì nó tôi phải thay đổi cả nghề nghiệp của mình, thì cuộc đời tôi từ nay về sau sẽ biến thành dị dạng, mềm nhũn không ra hình thù gì nữa.

Nghĩ đến đây, tôi chợt nhớ lại câu chuyện về một nhà điêu khắc mà tôi kính trọng.

Khi được yêu cầu dựng tượng cho quảng trường của một thành phố, ông đã đề xuất làm tượng người Di-gan bởi nơi đó vốn là khu rừng mà người Di-gan từng sống và có rất nhiều người Di-gan đã chết trong chiến tranh tại đây. Ông luôn canh cánh sự kỳ thị đáng sợ mà người Di-gan phải gánh chịu. Ông cho rằng nơi này phù hợp với họ, những kẻ bị vùi dập bởi sự tăm tối của con người - một sự thật luôn bị giấu nhẹm để rồi chìm dần vào bóng tối. Nhưng ngài thị trưởng và các công dân thành phố nói rằng họ không tán thành việc dựng tượng người Di-gan, những kẻ còn sống sờ sờ ra đấy, làm nghề cướp giật, móc túi khiến du khách khiếp sợ, vậy là câu chuyện mãi dừng lại ở đó.

Tùy từng góc nhìn mà các sự vật sẽ khác nhau theo một cách hết sức bình thường như thế.

Tôi nghĩ, quan trọng nhất không phải là đấu tranh để xóa đi sự khác biệt, mà là thấu hiểu sự khác biệt và lý do tồn tại của những người khác.

Về phần mình, tôi cần phải trau dồi kỹ thuật hơn nữa, bởi thứ xuyên suốt quan điểm của tôi là công việc. Dù tôi nổi tiếng hơn nhiều lần thì sự khác biệt vẫn luôn còn đó, nên về căn bản, sự non kém trong hội họa của tôi chẳng mấy can hệ tới vấn đề.

Nhưng không phải. Tôi cho rằng nếu bản thân đủ tự tin, tôi sẽ dễ dàng vượt qua sự khác biệt hơn. Đấy mới là điều quan trọng.

Thú thực, bản thân tôi cũng không đủ tự tin mà khẳng định rằng người dân thành phố sẽ thấy bức tranh của tôi tuyệt vời hơn cái biểu tượng kỳ quặc kia. Đáng buồn là như vậy. Tôi bỗng cảm thấy đôi chút hổ thẹn khi nghĩ rằng đó chính là vì tôi còn trẻ và chưa chín chắn.

Tôi về nhà sớm, Nakajima đang tra từ điển và học say sưa bên chiếc PowerBook để mở.

“Ô kìa, sao về sớm vậy?” Hắn cất tiếng.

“Tớ mua thức ăn về rồi, tối nay cậu không phải nấu nữa đâu.” Không hẳn là tôi muốn nói thế, nhưng chẳng hiểu sao lại buột ra.

“Vậy à, thế mà tớ đang định hôm nay lại làm cơm tối cho thay đổi không khí.” Nakajima nói. “Thôi thì nhân lúc đi dạo tớ sẽ mua cà phê ở hàng rang xay đem về.”

Đến lúc ấy hắn mới nhìn kỹ mặt tôi.

“Có chuyện gì không hay phải không?”

Tôi gật đầu, thuật lại chuyện hôm nay.

“Ừm, nếu xét về mức độ nổi tiếng cộng với trình độ của Chihiro, và mức độ nhà quê về văn hóa của cái thành phố ấy, thì âu cũng là chuyện thường tình.” Nakajima nói.

“Cậu dám nói toạc ra những chuyện khó nói ấy nhỉ.” Tôi tỏ ra thán phục.

“Bởi vì nếu không nói ra điều mình nghĩ khi cần phải nói cho đàng hoàng, thì chẳng hóa ra là giả dối à?” Nakajima nói.

“Nhưng dù sao, tớ cũng không thể tìm ra cách để vẽ thêm biểu tượng của cái công ty thạch Konjac ấy lên bức tranh của tớ được.”

“Cậu đã xem qua biểu tượng đó chưa?”

“Xem rồi, họ kết hợp các chữ cái một cách kỳ quặc phía trên một cậu bé thạch Konjac, ngớ ngẩn không chịu được.”

“Sao cậu không cho vào một góc nhỏ nào đó?”

“Nếu thế thì đã không sao, nhưng nghe nói điều kiện tiên quyết họ đặt ra là phải thật lớn.”

“Thế thì phải bảo ngay từ đầu chứ nhỉ.”

“Đúng chưa?”

“Mặc dù vẫn còn non nớt và đang trên chặng đường phát triển, nhưng chắc chắn là trong tranh của Chihiro có những tia sáng lấp lánh giống như hạt mầm mà rồi đây sẽ lớn lên thành cái cây to, vấn đề là họ không nhìn ra điều này.”

“Lại một lần nữa nói thẳng ra điều khó nói... Tớ cũng đâu nghĩ rằng tranh của mình có giá trị. Chính vì thế mới chấp nhận vẽ ở một nơi chưa biết chừng sẽ bị phá bỏ chứ.”

“Tớ hiểu, tớ hiểu. Tuy nhiên, sự tự ý thức một cách khiêm tốn như thế và việc người ta cho rằng nó giống với biển quảng cáo là hai chuyện khác nhau.”

“Tớ cũng nghĩ vậy.”

“Nhưng mà nói gì thì nói, đã thuê rồi, người ta bắt tay vào việc rồi, đến giữa chừng lại nhập nhèm về nội dung yêu cầu thì đúng là khó nghĩ thật.”

“Đúng.”

“Sao cậu không bảo họ rằng ‘nếu các ông không chấp nhận để biểu tượng vào một góc nhỏ với tư cách một nhà tài trợ, tôi sẽ từ chối’?”

“Tớ bảo rồi.”

“... Ngoài ra, cậu có người quen nào là giáo sư ở trường Đại học Nghệ thuật, hay nhà phê bình mỹ thuật nổi tiếng không? Một vài mối quan hệ kiểu như vậy.”

“Có.”

“Nên nhờ những người như thế nói giúp. Lấy quyền uy đối chọi với quyền uy. Sau đó, nếu bên báo chí đến phỏng vấn sớm được thì nhờ họ đi cho một bài hàm ý về giá trị nghệ thuật trong tranh của Chihiro, tớ nghĩ như thế sẽ rất có lợi. Chẳng may xảy ra tranh cãi hay kiện tụng thì cũng chẳng sao. Phía Sayuri thế nào thì Sayuri phải tự lo liệu lấy thôi.”

“Theo tớ, những kẻ như bọn mình rốt cuộc chẳng thể đứng ở giữa mãi được. Là những kẻ bên rìa, tớ nghĩ bọn mình đừng nên quá nổi bật. Phần lớn những phán đoán, nhận định đều đối lập với mọi người, thành thử nếu nổi bật nhất định sẽ bị đánh giá xấu. Tuy nhiên, điều gì không thể nhân nhượng thì phải kiên định đến cùng, bằng không bọn mình sẽ chỉ là những kẻ trốn chạy cuộc đời mà thôi.” Nakajima nói.

Tư tưởng của hắn giống với của tôi quá, khiến tôi tưởng như thấy phép mầu trong lúc nghe hắn nói. Nhờ thế mà tâm trạng bức bối “muốn dừng việc vẽ tranh lại và làm cho lũ đó biết tay” trong tôi tự nhiên biến mất. Nó biến mất cũng như có phép mầu.

Giả thử là ngày xưa, hôm nào gặp phải chuyện không vui bên ngoài, được trở về nhà, sờ vào mèo là tôi sẽ lập tức vui vẻ trở lại. Giờ đây tôi cũng có được cảm giác ấy, tựa hồ Nakajima vừa mới trung hòa các độc tố đang cuộn lên trong tôi.

Nếu là mình trước đây, tôi sẽ nín lặng trở về, làm tình với bạn trai để xả hết những bức bối, nhưng thay vì tiết lộ chuyện đã xảy ra thì tôi sẽ chôn chặt chúng trong lòng. Bạn trai trước đây đối với tôi chỉ có tác dụng như vậy mà thôi.

Nhưng Nakajima thì khác, vì hắn là người mà tôi đang nuôi ý định nghiêm túc. Tôi cảm thấy thế.

Đây là lần đầu tôi thực lòng thích một ai đó. Tuy nặng nề nhiêu khê, nhưng sự đền đáp thì lớn lao. Lớn lao vô cùng, khiến tôi cảm thấy như đang nhìn lên bầu trời. Cảm thấy như đang ở trong máy bay mà ngắm biển mây bừng sáng bên ngoài.

Nó quá ư đẹp đẽ, thành ra cũng giống như một nỗi buồn.

Nó thật giống với cái cảm giác khi chợt nhận thức rằng, nếu nhìn đời bằng đôi mắt mở to, ta sẽ thấy thật ra khoảng thời gian mình được sống trên cõi đời này chẳng nhiều nhặn gì.

Tôi còn một việc khác phải làm.

“Bố, con đang ở ga, hôm nay bố có thời gian để gặp con một chút không?”

Tôi ngại gọi tới công ty bố nên gọi vào điện thoại di động của ông từ nhà ga.

“Sao đột ngột thế?” Bố hỏi.

“Là bởi công việc của con đột nhiên bị ngưng lại.” Tôi đáp. “Không phải vì chuyện này, chắc con khó mà đến gặp bố được.”

Bố nói: “Buổi tối bố có thể tranh thủ ra ngoài một chút, khoảng hai tiếng nữa bố con mình đi ăn tối nhé.”

Chỗ bố tôi đề nghị là một nhà hàng Ý nửa mùa nhất thế gian, tôi rất ngại tới đó vì mỗi lần đến đây ông luôn thể hiện rằng mình là một danh gia trong vùng.

Nhưng không phàn nàn được, mình gọi cho bố quá đường đột, vả lại dù gì thì bố cũng đãi mình, tôi nghĩ.

Dạo này tôi thường hay đem mình ra so sánh với Nakajima và nhận thấy, với hoàn cảnh gia đình mình, tôi chưa bao giờ phải chịu bất kỳ vết thương lòng nào trong quá khứ, có chăng chỉ là do mình tự tạo ra mà thôi. Tôi vẫn luôn tin rằng bản thân mình cũng khá cứng cỏi, vậy mà đứng ở ga tôi vẫn khóc.

Những ngày tháng tôi qua lại nơi đây, hồi mẹ còn sống, dường như vẫn in bóng khắp nơi.

Không khí nhà ga khơi nguồn hồi tưởng, làm tôi như thấy mình đang chạy đến bệnh viện trong niềm hạnh phúc. Hạnh phúc luôn là thứ mà về sau người ta mới nhận ra. Phải chăng là tại những cảm giác của nhục thể như mùi vị hay sự mệt mỏi không tồn tại trong kỉ niệm? Mà chỉ có những điều tốt đẹp chợt bừng lên trước mắt?

Có những đoạn ký ức mà tôi coi là hạnh phúc bỗng ùa về theo một cách không thể ngờ tới.

Lần này là cảm giác khi đặt chân xuống sân ga: sau đây tôi sẽ đi gặp mẹ, ít nhất thì hôm nay mẹ vẫn còn sống, niềm hạnh phúc khi được cảm thấy như thế vừa ùa về.

Và tiếp đến là nỗi buồn của hiện tại. Một cảm giác chống chếnh không chỗ dựa.

Bởi tới ga này, lát nữa tôi sẽ gặp được bố, nhưng không có nghĩa là lại được gặp mẹ như mọi lần.

“Bếp trưởng nhà này từng sống ở Ý bốn năm liền đấy con ạ! Này cậu, khi nào bếp trưởng Sugiyama rảnh tay thì nhắn cậu ấy ra đây một chút được không? Tôi muốn giới thiệu cậu ấy với con gái tôi.”

Biết ngay bố sẽ nói thế mà. Tôi nghĩ thầm trong bụng: chuyện này mình đã từng nghe rồi, mà đang đông khách thế này làm sao có lúc nào rảnh tay được chứ, nhưng chỉ im lặng.

Cuối cùng, có một người đội mũ cao bước tới, chuyện trò với bố một chập, rồi quay sang chào cả tôi nữa, nên tôi mỉm cười.

Nghĩ đến việc sắp rời xa Nhật Bản và không được gặp bố trong một thời gian dài, tôi cảm thấy chuyện khoe khoang nào của bố cũng thành ra đáng yêu.

Sau đó, đồ ăn liên tiếp được bưng ra: món pasta đầy ắp, chắc chắn đã bị luộc quá tay, mặc dầu bếp trưởng từng ở Ý bốn năm, rồi đến món chính chỉ được có tí tẹo. Hẳn là để phù hợp với thị hiếu của các vị khách nhà quê nên mới bất đắc dĩ thành ra thế này, tôi tự nhủ. Hồi đại học, tôi biết mấy lưu học sinh người Ý và từng đôi lần du lịch bụi tới thăm quê họ. Tất nhiên, ở Ý không có những nhà hàng nửa mùa thế này.

Trong lúc bồi hồi nhớ lại chuyện ấy, cái cảm giác “ôi, vậy là mình sắp được sang châu Âu rồi” càng lúc càng mãnh liệt. Tôi đi cùng là vì chính bản thân mình. Tôi nói với bố: “Bố này, sang năm con định sang Paris du học.”

“Bạn trai cũng cùng đi chứ?”

Câu hỏi tức thì của bố khiến tôi bất ngờ.

“Sao bố lại nghĩ vậy?” Tôi hỏi.

Bố đáp: “Vì vẻ mặt con lạ lắm, trông như sắp có mang vậy.”

“Thật vậy sao?”

Tôi khẽ cười. Có lẽ tôi đang phấn khích hơn mình tưởng.

“Nhưng cũng tốt chứ sao? Chỉ cần con hào hứng là tốt rồi. Trước khi đi, nhớ đưa thằng ấy đến chỗ bố.”

“Vâng, khi nào có thể. Nhưng bố phải đợi ít lâu đã.” Tôi đáp.

Tôi không thể đưa một người khác thường như thế về gặp gia đình.

“Thằng ấy nó làm gì? Đừng bảo nó muốn trở thành họa sĩ đấy nhé.” Bố nói.

“Không đâu ạ.” Tôi nói.

“Nó kém tuổi con hả? Đang là sinh viên?” Bố hỏi.

Bố nói nhiều chỗ trúng phóc khiến tôi thầm thán phục: cha mẹ quả là đáng gờm.

“Cậu ấy theo ngành y khoa. Bằng tuổi con nhưng đang học cao học. Cậu ấy bảo khi nào xong chương trình tiến sĩ sẽ sang bến đó, vào một viện nghiên cứu theo chế độ học bổng.”

“Hóa ra là vì đàn ông, chả hay hớm gì, bố nói thật đấy, chả hay hớm gì.” Bố thực sự có vẻ không vui.

“Bố không đàng hoàng, dám đánh bẫy con nhé.” Tôi cười.

“Thôi được rồi, vậy khi nào con chọn được trường mỹ thuật bên kia thì gửi cho bố bảng kê chi tiết số tiền cần dùng. Ngoài ra, phải hứa là sẽ thỉnh thoảng về nước để cho bố được nhìn thấy mặt con.”

“Bố không cần cho con nhiều thế đâu, vì con vẫn còn tiền của mẹ.” Tôi nói. “Vả lại, dù bố không cho con tiền, con vẫn về gặp bố mà. Bố cũng sang Paris chơi một chuyến đi. Nhưng thật lòng mà nói, con chỉ muốn gặp riêng bố thôi. Còn những người xung quanh bố, con chẳng muốn gặp chút nào.”

“Bố cũng không muốn con phải cảm thấy khó chịu khi gặp cô con hay những người trong họ.” Bố nói. “Khi nào bố chuyển tiền thì đừng gửi trả lại đấy nhé. Thêm nữa, nếu có chuyện gì thì nhất định phải cho bố biết. Nhớ đấy, ví như khi đổ bệnh, mang thai, chia tay bạn trai và sống một mình, hay thôi học chẳng hạn. Còn một điều nữa, hễ có dịp thì nhớ thu xếp cho bố gặp thằng đấy, lúc nào cũng được.”

“Vâng.” Tôi vừa ăn món pasta đã trương vừa thầm cảm ơn bố.

Mối quan hệ của cha con tôi lại ghi thêm một dấu mốc.

Con người ta dù không có ý định làm người lớn, nhưng khi bị xô đẩy và phải lựa chọn, tự nhiên người ta sẽ trưởng thành. Tôi cho rằng lựa chọn là quan trọng.

Đứng cạnh bố, tôi bỗng nhận ra: không biết tự lúc nào, từ ông đã toát ra dáng vẻ của một người già, chứ không còn ở độ tuổi trung niên nữa.

Sống xa nhau là như thế đấy.

Suốt cuộc đời này, có lẽ chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn sống chung dưới một mái nhà. Nghĩ đến đó, tôi chợt thấy chuỗi ngày tháng vô nghĩa đã trở thành những kỉ niệm không thể đánh đổi. Tôi tình cờ gặp lại những ngày tháng mà tôi đã bỏ lại đằng sau. Ở đó, bố nằm lẫn giữa những màu sắc giống nhau đến mức không sao phân biệt nổi trong cuộc sống của tôi.

Nhưng đời người là không thể ngờ. Biết đâu công việc của bố thất bại, phá sản, mọi người ở phố thị này sẽ ruồng bỏ bố, khi ấy rất có thể bố sẽ về sống gần tôi. Tôi bất ngờ trở thành một kẻ cực kỳ giàu có và thuê cho bố một căn hộ. Mặc dầu biết là không tưởng, nhưng sự không tưởng ấy ít nhiều xoa dịu lòng ghen ghét trong tôi.

Lòng ghen ghét vì bị phố thị này giành mất bố ngay sau khi mẹ qua đời.

Đứa trẻ bên trong tôi đang khóc. Sau khi mẹ mất đi, sao bố không sống với con như một người bố, chỉ là một người bố thôi? Sao bố vẫn cứ làm bộ mặt tỉnh bơ tiếp tục điều hành cái công ty ấy và sống cùng những người họ hàng? Thời gian của gia đình chúng ta rốt cuộc là cái gì? Nó chẳng qua chỉ là một “trò chơi đồ hàng” thôi ư?

Nhưng con người trưởng thành bên trong tôi lại thèm khát tự do, nên sợ rằng bố sẽ cứ ở rịt bên mình.

Bởi thế mà, từng chút một, cả hai chúng tôi đều mong được sống cùng nhau, nhưng cả hai đều tuyệt đối im lặng, giống như đôi trai gái đang che giấu tình yêu.

Hóa ra có một thứ tình yêu như thế, tôi nghĩ.

Thứ tình yêu không chỉ là lo lắng cho nhau, ôm nhau vào lòng, muốn được ở cùng nhau, mà là thứ tình yêu chính vì phải cố kìm nén thật chặt ở trong lòng nên mới cảm nhận được một cách tuyệt đối đến vậy. Là thứ tình cảm thực sự đằng sau những giăm bông và tiền mặt.

Chẳng gì đáng quý bằng sự nhạy cảm để nhìn thấu được điều đó.

Phương pháp thương lượng có vẻ hiệu quả, nhờ đó mà mọi việc tiến triển thuận lợi.

Tôi đã kịp trả lời một bài phỏng vấn ngay trước khi tờ tạp chí lên khuôn. Thời điểm vừa khéo, trong lúc tôi vẽ tranh, có người đọc được bài phỏng vấn đã tìm đến xem. Người dân thành phố khi thấy bài phỏng vấn cũng bắt đầu nghĩ r 348b ng, đã được đăng lên tạp chí thì chắc chắn phải có giá trị gì đó trong cái bức tranh như của trẻ con vẽ bậy kia.

Bức thư tôi viết bằng lời lẽ nghiêm túc cùng với lá thư giới thiệu của vị giáo sư trường đại học đã tới tay ông giám đốc công ty thạch Konjac, ông giám đốc liền đến tận nơi xem xét và vô cùng hài lòng trước sự rộn ràng ở đây nên đã kết luận rằng: bỏ bức tranh này đi thì phí quá, chỉ cần cho biểu tượng vào một góc là đủ rồi. Thật may mắn vì đó là một người đàn ông trung niên vóc dáng phương phi, tốt bụng và giống như viên thạch Konjac. Rồi ông ta bảo, khi nào xong sẽ có báo địa phương và đài truyền hình cáp tới lấy tin, lúc ấy tôi muốn cô nhắc đến tên công ty tôi.

Vâng, điều gì tôi cũng có thể miễn là bức tranh được cứu vãn. Với tâm trạng như vậy, tất nhiên là tôi mỉm cười và nhận lời. Sayuri, sau toàn bộ những lần thương lượng và điều phối kế hoạch đã trở nên thông thạo nghề quản lý, bảo tôi rằng: nếu mất việc tớ sẽ làm bầu sô cho cậu.

“Cảm ơn cậu, Nakajima. Bức tranh dự kiến sẽ hoàn thành suôn sẻ. Mọi việc đang tiến triển rất tốt.”

Tôi nói lời cảm ơn hắn trong lúc ăn phần cơm thịt lợn rang gừng ở một quán cơm suất gần nhà.

“Vậy à, quả nhiên là những kẻ lẫn lộn giữa biển quảng cáo và tranh tường không thể không nao núng trước một người nổi tiếng do được giới truyền thông lăng xê.”

Nakajima lại nói huỵch toẹt lần nữa.

Tôi có cảm giác cái kiểu thẳng tuột này phần nào rất giống với Chii.

“Chuyện đấy thì ở nước nào cũng thế cả thôi.”

“Đối thủ của cậu mà là những người thường ngày vẫn chiêm ngưỡng các công trình lịch sử, hoặc những bức tranh tuyệt đỉnh vẽ trên trần nhà thờ thì sẽ khác đấy. Tớ thì mù tịt về mỹ thuật, nên hoàn toàn không hiểu mức độ nghệ thuật của những tác phẩm ấy, nhưng sang tới nơi tớ nhất định sẽ đi xem thật nhiều.” Nakajima trả lời tôi trong lúc ăn phần cơm cá thu kho. “Tớ có cảm giác ngay cả quan điểm nghiên cứu bên ấy cũng rất khác biệt, nên đã bắt đầu hồi hộp từ bây giờ rồi. Chắc sẽ có vô vàn những điều mà mình không thể nào bì được.”

“Tớ cũng vậy. Nếu sang đó, tớ sẽ được thoải mái chiêm ngưỡng, vào bất cứ thời gian nào mình thích, những bức tranh mà phải xếp hàng dài trước cửa Bảo tàng Mỹ thuật Ueno chỉ để nhìn lướt qua trong năm mươi giây. Cậu thử tưởng tượng số lượng tranh mà xem, hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa, tớ còn có thể thỏa sức đến thăm thú và học hỏi về tranh tường trong nhà thờ. Vì tớ thích nhất là dòng tranh tường affresco.” Tôi nói. “Nếu có cơ hội, tớ muốn học thêm về phục chế tranh. Có biết bao nhiêu việc muốn làm. Tất cả đều là những cái tớ sẽ học từ bây giờ. Chỉ từ sau khi quen biết với Nakajima, tớ mới nhận ra rằng mình muốn học nhiều hơn nữa về những thứ mình quan tâm.”

Quán cơm chật kín sinh viên và những người đàn ông độc thân, ti vi đang phát một trận bóng chày. Tiếng gọi món vang lên không ngớt khiến các nhân viên trong quán tất bật chạy tới chạy lui. Rất hiếm khi ăn quán nên toàn bộ những cảnh tượng ấy đều mới mẻ trong mắt tôi. Tựa như con chuột chũi mới từ trong hang chui ra, mọi thứ đều sáng chói.

Hôm nay, để bày tỏ lòng biết ơn, tôi đã có một quyết định hiếm hoi là ra ngoài ăn tối, tôi khao hắn. Thỉnh thoảng như thế này thì cũng tốt, Nakajima bảo, rồi miễn cưỡng đi theo tôi.

Lâu rồi tôi mới đi ăn ở một quán cơm suất gần nhà, chuyện chỉ đơn giản vậy thôi chứ có gì đâu. Mọi thứ diễn ra trước mắt vốn chỉ là quang cảnh tẻ nhạt thường ngày hồi tôi sống một mình, nhưng mỗi cách nghĩ của Nakajima lại đưa tôi đến với một vũ trụ khác, khiến cho lớp vỏ ngoài thường nhật dần tan chảy, để lộ ra một chiều không gian chưa từng hay biết.

“Điều tớ lo nhất là Chihiro sẽ ngày một nổi tiếng ở Nhật Bản, nhận được nhiều công việc hơn, rồi thì cậu chẳng còn muốn đi Paris nữa.” Nakajima vừa nói vừa nhìn xuống, tỉ mẩn ăn từng con hến trong bát xúp miso.

“Tất nhiên, nếu có việc làm, tớ sẵn sàng đi đến bất cứ đâu trên đất nước này, với mọi khả năng có thể. Và cũng kiếm tiền bằng mọi khả năng có thể.” Tôi nói. “Thế nhưng tớ sẽ đi Paris. Bởi lẽ cuộc sống với Nakajima là quan trọng, vả lại khi tuổi trẻ không còn nhiều, tớ muốn bị hạ gục bởi một cái gì đó lớn lao. Từ đó hoàn thiện bản thân mình.”

“Thế thì tốt rồi.” Nakajima nói.

Có thể trong lòng thực sự thấy vui sướng, nhưng không để lộ cảm xúc ra ngoài cũng là một đặc trưng của hắn.

Thật giống như màn đối thoại của một cặp vợ chồng, tôi nghĩ.

Giả làm vợ chồng, giả làm cha con, giả làm một thành viên của xã hội, mọi thứ đối với tôi thảy đều là một trò chơi bắt chước. Nhưng tôi buộc phải làm vậy để phù hợp với hoàn cảnh sống, chứ không phải tôi vô tâm.

Lịch trình hơi thúc bách nên có mấy bận tôi phải ở lại đến nửa đêm, tuy nhiên bức tranh cuối cùng cũng hoàn tất. Xong xuôi tôi chụp ảnh lưu niệm với Sayuri và người chủ của lớp vỡ lòng, trả lời phỏng vấn báo địa phương, cố ý nhắc đến tên ông giám đốc công ty thạch Konjac và nói lời cảm ơn trước máy quay truyền hình như đã hứa, đứng trước bức tranh chụp ảnh chung với lũ trẻ mà tôi đã trở nên thân thiết như vừa cùng nhau đi cắm trại về, và cuối cùng để chia tay, tôi được chiêu đãi món thịt nướng.

Đúng nửa đêm cái hôm kết thúc tất cả những công đoạn ấy, tôi trèo qua cổng, một mình kín đáo đi vào trong, đứng đối diện bức tranh.

Trông bức tranh thật tuyệt với, phải chăng do cảm giác được ngắm nó ngay khi vừa vẽ xong. Đây là cái khá nhất trong số các tác phẩm của tôi từ trước tới nay. Mặc dù vào lúc này chẳng ai nhìn đến, nhưng nom nó thật kiêu hãnh, uy nghi chẳng thua gì bóng tối.

Cuối cùng, một cảm giác tự tin yếu ớt cũng đã cắm neo chắc chắn ở nơi sâu nhất trong ngực tôi.

Tôi nghĩ, vậy là mình đã có thể bỏ lại nơi này.

Lũ khỉ trong bức tranh nhảy nhót khắp nơi như tiếc thời gian trôi. Màu sắc tạo thành những vụ nổ nhỏ liên tiếp và tuôn ra như một chiếc cầu vồng. Lúc nhìn đến con khỉ uống hồng trà và con khỉ nằm trên giường, trong tôi chợt lóe lên một ý nghĩ.

Phải rồi, tôi sẽ thử một mình tới gặp anh em nhà Mino.

Tôi sẽ đem theo tấm hình chụp bức tranh này cho họ xem, nhân tiện hỏi cô em mấy chuyện.

Nhưng mình phải di chuyến nào, chuyến tàu ra sao, cái hồ đó là hồ gì? Nghĩ đến đây, tôi chợt nhớ lại lời Yotchan: “Những bóng ma.”

Và tôi bỗng nghĩ.

Hay là nơi ấy không có thật, mà chỉ tồn tại trong trí óc Nakajima. Biết đâu những con người đó đã không còn trên thế giới này? Phải chăng Yochan nói đúng?

Tôi rùng mình. Bởi điều này logic hơn nhiều so với việc cho rằng nơi đó có thật trên đời.

Vì là kẻ rất thực tế, đáng lẽ tôi không bao giờ có những ý nghĩ kiểu này, vậy mà… tại sao cách lập luận ấy lại ăn khớp với hoàn cảnh một cách kỳ lạ, khiến cho tôi không sao rũ bỏ được cảm giác lạc lối trong màn sương ký ức của chính mình. Ở Nakajima, có một sức mạnh khiến cho mọi thứ không còn là những gì có thật mà trở nên mơ hồ tới độ không sao phân biệt nổi đâu là những đoạn ký ức có được từ trải nghiệm của chính cơ thể mình, và đâu thì không phải. Tôi cảm thấy ngay bản thân sự tồn tại của Nakajima cũng hoàn toàn không phải để nhằm tới một nơi tươi sáng.

Về phần mình, tôi luôn thấy dễ chịu khi ở bên hắn và ít nhiều mang lòng yêu hắn, nên thường không để ý đến điều đó, nhưng lúc này thì tôi không thể không bận tâm dù chỉ chút ít tới cơn rùng mình mà thi thoảng tôi vẫn cảm thấy kia.

Tôi nghĩ rằng, cảm giác này thật ra lúc nào cũng tồn tại khi người ta thực sự yêu nhau.

Chỉ là bởi chúng ta đang ra sức khỏa lấp để đừng cảm thấy mà thôi, chứ chắc chắn nó vẫn luôn ở đó.

Một nỗi cô độc đặc trưng như thể đang nhìn xoáy vào bóng đen thăm thẳm này.

Đương nhiên thôi, bởi vũ trụ tiếp nối với nhau mà.

Chẳng hạn như hồi còn nhỏ, tôi đã chứng kiến vô số những thứ mà người ta nôn ọe ra, đã quen mắt với những chiếc áo ngực thít chặt lấy tảng thịt lưng của các bà mợ đã say bí tỉ, đã dạn dĩ với ánh mắt hau háu nhìn như muốn liếm láp khắp cơ thể thơ ấu của mình từ các chú già. Thế rồi, tôi tưởng tượng ra rằng sẽ còn những chuyện kinh khủng hơn nữa ở phía trước, chẳng hạn một thế giới nơi việc giết người đã thành chuyện bình thường… Đấy không phải thế giới của tôi, cũng không phải thế giới của cha mẹ tôi, nhưng tôi hiểu rằng, nếu lột lớp vỏ ở bất cứ chỗ nào, con đường dẫn tới thế giới ấy sẽ hiện ra ở chỗ đấy.

Ai cũng hiểu rõ sự nặng nề tiềm ẩn ấy, nhưng ai cũng giả đò như không biết để mà sống. Hằng ngày, người ta chỉ nhìn thấy những gì mình muốn thấy.

Tuy nhiên, đôi khi có một thực thể, giống như Nakajima, sẽ khiến người ta nhớ ra tổng thể. Mặc dù chẳng phải do bản thân hắn nói ra, nhưng khi nhìn hắn, người ta như đang được quan sát kích cỡ tổng thể của cả cõi đời này. Bởi vì hắn không chịu sống trong sự nhỏ hẹp mang tính bộ phận. Và bởi hắn không chịu rời mắt khỏi bất cứ điều gì.

Lúc nào tôi cũng muốn được nhìn sang hắn với tâm trạng như vừa tỉnh giấc. Tôi nghĩ chính là nhờ điều này. Tôi cảm thấy một nỗi nể sợ trước sự sâu sắc đáng gờm của hắn.

Vào một buổi sáng sau đó ít hôm, tôi một mình đi đến thị trấn ấy.

Xuống tàu một mình, tôi cảm thấy nhà ga càng thêm hiu hắt. Xem ra chỉ có duy nhất tòa nhà siêu thị đèn đuốc sáng trưng là còn sức sống ở thị trấn vào buổi chiều này. Những bậc cao niên, và các bà nội trợ với vẻ bề ngoài già hơn tuổi như đang bị hút vào nơi đó.

Đi bộ một mạch trên con đường độc đạo trước ga, tôi tìm thấy lối tắt xuyên ra hồ. Trong gió có lẫn mùi của nước. Đi qua một nhà thuyền nhỏ, một cửa hàng đồ câu cũ kỹ và một quán cơm suất đang đóng cửa, tôi ra tới bờ hồ.

Tôi bỗng run lên khi nghĩ đến sự nâng niu Nakajima dành cho mình, điều mà tôi càng lúc càng nhận rõ khi thiếu vắng hắn.

Lần trước khi hai đứa cùng thả bộ qua nơi này, mặt hồ nhìn lấp lánh và đẹp hơn. Tôi đang yêu mất rồi. Chắc là thế.

Lúc này mặt hồ tĩnh lặng như bị bỏ lại phía sau sự vận hành của thế giới. Sương chưa xuống, ánh nắng chiếu lên những cành cây trần trụi đến nhức mắt.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/80375


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận