Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt.
Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi.
Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn.
Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi.
Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt.
Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng.
Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc.
Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”.
Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng... nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện.
Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ.
Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về.
Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên giường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động.
Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu.
Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên giường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét.
Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ.
Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh.
Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật.
Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa.
Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước giường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”.
Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”.
Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa.
Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết.
Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước.
Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất.
Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc.
Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”.
Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy.
Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn.
Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”.
Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”.
Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc.
Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi.
Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy.
Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”.
Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ.
Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”.
Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”.
Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh... huynh hà tất...”.
Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên...”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “... những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.
Nước mắt nhập nhòa rồi tuôn như mưa xuống má, cũng không muốn lau. Một trận gió thổi tới, rẽ ra những sợi dây leo trước mặt, tôi hốt hoảng nép người về phía sau, nhưng chỉ là hoảng sợ vô ích, ngước mắt đã thấy bóng hai người một trước một sau chầm chậm ra khỏi cửa, trong động chỉ còn ánh đuốc tàn đổ bóng xuống mặt đất.
Tôi tưởng tất cả sẽ kết thúc ở đó, không ngờ mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Mộ Ngôn không phát hiện ra tôi, bởi trong động không có dấu vết của người sống. Tôi là người chết, không cần nồi niêu bát đũa, cũng không cần đốt lửa xua đuổi dã thú, lại thêm sức lực yếu dần, trước khi chàng đến, tôi đã nằm lỳ hai ngày trong hốc đá.
Thầm nghĩ có thể họ sẽ quay lại, ngày hôm đó tôi vẫn không ra khỏi chỗ ẩn náu, sáng hôm sau đoán là sẽ không có gì sơ sảy, mới loạng choạng ra khỏi động đến con suối gần đó. Mang mái tóc dài đẫm nước quay về, lại sững người nhìn thấy cô gái áo xanh đứng cạnh chiếc giường đá cúi đầu chăm chú vẽ gì đó trên giấy.
Không kịp trốn, tôi ngẩng đầu, đôi mắt đen tròn như hạnh nhân của cô ấy bỗng mở to, nhìn chằm chằm bóng người ở cửa động. Tôi bước đến, nhẹ giọng hỏi: “Ba tháng không gặp, muội vẫn khỏe chứ, Mộ Nghi?”.
Bức họa trong tay cô hơi run, chằm chằm nhìn tôi, lát sau đôi tròng đen giàn giụa nước mắt: “Muội không biết tẩu là người hay là ma, có phải tẩu vẫn ở trong động này? Nhưng tại sao bây giờ mới xuất hiện, người tẩu cần gặp phải là ca ca của muội chứ”.
Không thể nói sự thật với cô, nhưng thấy cô khóc như vậy, tôi không đành lòng, mặc dù tôi cũng thường xuyên rơi nước mắt, nhưng sợ nhất người khác khóc trước mặt mình. Không biết làm thế nào, đành quay người định đi, đằng sau truyền đến tiếng khóc to hơn của Mộ Nghi: “Tẩu nhẫn tâm như vậy ư?”.
Bên ngoài có gió, mấy chiếc lá phong rơi trên cửa động, tôi dằn lòng cắm cúi bước tiếp, được mấy bước, hai chân chậm dần, cuối cùng dừng lại.
Sau lưng là tiếng nói nghẹn ngào của Mộ Nghi: “Ngày tẩu rơi xuống vực, ca ca cũng nhảy theo, ca ca muốn đuổi theo tẩu, từ vách núi lăn xuống dòng sông nước xiết, vùng vẫy tìm kiếm cuối cùng chỉ vớt được chiếc áo tím của tẩu, tẩu không biết khi thị vệ tìm thấy, bộ dạng ca ca thế nào đâu, cơ hồ nửa mạng sống đã bị Diêm vương lấy đi, nhưng trở về hành cung tuyệt nhiên không nhắc tới tẩu nửa câu, nghỉ ngơi nửa ngày liền bắt tay lo liệu tang lễ cho phụ vương. Ca ca xưa nay dù gặp bất cứ việc gì cũng luôn điềm tĩnh, chúng tôi đều tưởng ca ca chỉ là mê muội nhất thời, dường như đã nghĩ thông, không ngờ lo xong tang lễ cho phụ vương, ca ca đóng cửa giam mình ba ngày trong phòng. Ngày đăng quang, tay bê linh vị của tẩu, đích thân đặt vào bảo tọa dành cho vương hậu sau lưng, tẩu nhất định không biết, linh vị đó ca ca tự tay tạc suốt ba ngày không ngủ”.
Tôi ngước mắt nhìn trời, tầng không thăm thẳm xanh ngắt bao la, mây trắng lững lờ. Đó là lỗi của tôi, là niềm lưu luyến của tôi, chàng không nên yêu tôi. Một người sống yêu một người đã chết làm sao có tương lai.
Ngày trước tôi chỉ muốn ở bên chàng, gần chàng hơn nữa, để sau khi ra đi không còn gì tiếc nuối, nhưng hoàn toàn không nghĩ nếu có ngày tôi rời xa chàng, chàng sẽ thế nào. Tôi đã sai.
Mộ Nghi từ phía sau bước đến, giọng vẫn run run nghẹn ngào: “Tại sao tẩu vẫn không ngoái lại? Tẩu cảm thấy như thế vẫn chưa đủ sao? Nếu muội nói với tẩu, giờ đây vì tẩu ngay cả kiếm ca ca cũng không muốn động vào nữa, tẩu có động lòng hay không?”.
Tôi quay phắt lại, khó nhọc nói: “Thế là thế nào?”.
Cô giơ ống tay áo lau nước mắt, cố nở nụ cười còn khó coi hơn khóc: “Ca ca kiếm thuật cao cường như vậy, gặp sự cố ra tay nhanh như chớp, khiến hộ vệ tùy tùng xấu hổ. Nhưng hôm đăng quang, trên yến tiệc có thích khách, rõ ràng có thể kịp thời tránh mũi kiếm, ca ca lại... muội đi xem vết thương của ca ca, hỏi mãi, ca ca chỉ nói, ca ca đã không thể dùng kiếm nữa. Về sau muội mới biết, do ca ca đã đâm nhầm tẩu nên không thể chạm vào kiếm nữa. Lần này cũng thế, để kịp sinh nhật tẩu, cơ thể ca ca dù chưa bình phục, vẫn vượt ngàn dặm trở về núi Nhạn Hồi. Mặc dù ca ca không nói gì, nhưng muội cũng nghĩ, ca ca đến đây hoàn toàn là vì tẩu. Vậy mà tẩu lại nhẫn tâm như thế, nhẫn tâm đến mức rõ ràng vẫn sống mà lại giấu ca ca, ca ca ở trước mặt tẩu, tẩu cũng không lộ diện, tẩu nhẫn tâm để ca ca...”.
Hang động rất cao, lần đầu phát hiện thì ra trên đỉnh có nhiều chỗ bị xói mòn. Phải, sao lại nhẫn tâm đến thế, tôi không nhẫn tâm, nhưng nỗi đau trong lòng lại từ từ dâng lên, lát sau, tôi nghe thấy tiếng mình lạc giọng: “Mộ Nghi, giúp tôi một việc được không”.
Trên đường đến Hạo thành, nghe đồn hai nước Triệu - Khương khai chiến. Chuyện này vừa trong dự đoán lại vừa ngoài dự đoán. Cuối tháng tám, Mộ Ngôn đến Triệu, cùng hội đàm với Triệu vương, với tính cách nóng nảy của Triệu vương, tôi tưởng nhiều nhất không quá nửa tháng sẽ tuyên chiến với Khương, không ngờ lại kìm được cơn thịnh nộ, trì hoãn đến tận đầu tháng mười.
Nghe đồn hôm tuyên chiến, Triệu vương đích thân đứng trước trận tiền vạch ra bảy tội lớn của Khương quốc, trong đó tội lớn nhất vô cùng thú vị, nhân chứng vật chứng chỉ thẳng chuyện tháng tư vừa rồi Khương mượn dao giết người giá họa cho Triệu giết Trần quốc thế tử Tô Dự.
Triệu vương lời lời đanh thép lên án Khương quốc lòng lang dạ sói, rắp tâm hùng bá một cõi, trăm phương ngàn kế chia rẽ hai nước Triệu, Trần hòng mưu lợi, may thay hai nước giao hảo đã lâu, lại có liên hôn tín ước mới tránh được cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Không ngờ Khương vương đến chết không chừa, để che giấu tội bất nghĩa với hai nước Trần, Triệu, lại bày ra khổ nhục kế tự chặt tay mình, giết chết thừa tướng Bùi Ý, chủ mưu hãm hại Triệu rồi giá họa lên đầu Triệu, hành động này của Khương vương trăm lần trái đạo quân vương, trên bất trung với thiên tử, dưới bất nghĩa với trung thần, khiến thiên hạ rùng mình.
Tôi cảm thấy lời cáo trạng đó, đoạn trước còn được, đoạn sau quả thật oan uổng cho Khương vương. Có thể đoán ra, tháng trước Mộ Ngôn đã nói thế nào để đánh lừa Triệu vương, cũng có thể đoán ra tại sao Triệu vương nhất nhất tin lời chàng, quả nhiên xuất binh, không có nguyên nhân khác, tất cả nhờ vào tài diễn xuất bẩm sinh của Mộ Ngôn.
Lấy gậy ông đập lưng ông, nước cờ này Mộ Ngôn đi rất tuyệt, lúc đầu khi Khương quốc bày mưu giăng lưới đâu có ngờ dẫn đến kết cục hôm nay, cũng đâu ngờ người có tư cách thu lưới cuối cùng lại không phải là mình mà chính là con cá mình giăng lưới muốn bắt.
Nhưng tôi nghĩ, với quốc lực của Triệu, dám tuyên chiến với Khương lại không phải là sự mạnh động nhất thời, ắt là khi kết đồng minh Mộ Ngôn đã hứa, nếu hai nước khai chiến, Trần sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Triệu. Nhưng khi Mộ Nghi bí mật đưa tôi trở về Hạo thành lại không hề nghe nói Triệu đã thu được lợi gì trong chiến sự này.
Trái lại, nghe nói Khương vương phẫn nộ bởi bản cáo trạng bảy tội danh kia, lập tức điều binh khiển tướng kháng cự, toàn quốc trên dưới một lòng quyết kháng địch rửa hận, liên tục bảy ngày đại quân Triệu quốc không những không thể tiến thêm bước nào vào lãnh thổ của Khương, trái lại liên tục rút lui. Xem ra Mộ Ngôn đã không giữ lời khi kết đồng minh với Triệu.
Mộ Nghi với tầm mắt của một công chúa không hiểu gì thế sự, cũng cho rằng hai nước Khương, Triệu đều bại là tốt nhất, như vậy Trần quốc láng giềng có thể kê cao gối ngủ yên vài chục năm.
Ngay Mộ Nghi cũng có thể nhìn ra bí ẩn đằng sau thế cục này, tin là Triệu vương đang lún sâu vào vũng lầy cũng hiểu ra, nhưng lúc này ngoài giương cờ trắng cầu Trần cứu viện ông ta còn có thể làm gì hơn. Mà khi hai nước chưa đến lúc sức cùng lực kiệt, tôi dám cược Mộ Ngôn quyết không xuất binh. Quả thực tôi rất hiểu chàng, chỉ cần tôi muốn.
Ngày hai mươi lăm tháng mười, trời u ám, từ khi chia tay ở Bích sơn, tôi và Mộ Ngôn đã tròn nửa tháng xa nhau, đối với chàng, quãng thời gian xa tôi còn dài hơn.
Chiến tuyến trải quá dài, Triệu vương cuối cùng không trụ nổi, hoảng hốt cấp tốc cử người đến Hạo thành xin cứu viện. Nghe Mộ Nghi nói, Mộ Ngôn viện cớ ốm mệt, sáng không thiết triều, coi như phớt lờ sứ thần nước Triệu, buổi chiều mới truyền chỉ báo, sức khỏe đã khá lên, buổi tối sẽ mở tiệc ở Trân Long viên khoản đãi sứ thần nước bạn.
Mộ Nghi đứng bên an ủi tôi: “Sức khỏe của ca ca gần đây tuy có hơi kém, nhưng vết thương trên người không đáng ngại, chắc là do thức đêm giải quyết chính sự, không hề gì. Dạ tiệc hôm nay, muộn một chút tẩu có thể nhìn thấy ca ca...”.
Lời vừa dứt mắt đã đỏ hoe, tôi cười chun mặt làm xấu với cô: “Nếu tối nay muội vẫn mau nước mắt như thế, không khéo chúng ta bị lộ tẩy, nếu chàng phát hiện thì biết làm sao, nếu bị ăn đòn muội phải đứng chắn cho tôi đấy”.
Cô ngẩn người, lau nước mắt: “Chuyện buồn như vậy mà tẩu vẫn còn tâm trạng đùa giỡn, tẩu đúng thực như ca ca nói, khi không có ca ca ở bên...”. Trong đầu tôi hiện ra câu nói, “... khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.
Tôi phấn chấn tinh thần, ôm đầu than thở: “Muội xem, chàng đã nói vậy, khiến tôi vốn định khóc lại không dám khóc, phải làm gương cho muội”.
Mộ Nghi rầu rĩ nhìn tôi, buồn bã nói: “Ngoài làm cho ca ca quên, không còn cách nào khác sao, tẩu tẩu?”. Tôi ngẩng đầu nhìn lên xà nhà, nụ cười vụt tắt: “Đúng, không còn cách nào khác”.
Cuối cùng tôi đưa ra quyết định sẽ gảy một Hoa Tư điệu cho Mộ Ngôn, Hoa Tư điệu Tý Ngọ, lấy đi ký ức của chàng.
Thực ra phương thức có được Hoa Tư điệu Tý Ngọ không khác nhiều so với Hoa Tư điệu tôi thường tấu, chỉ là nhất định phải tấu vào giờ Tý, lấy viên giao châu làm khế ước, niệm lời chú để thôi động cây đàn tấu ra nhạc khúc chứ không phải dùng ngón tay.
Khúc nhạc tấu ra có thể dệt được ảo mộng đặc biệt cho người khác, ảo mộng này mặc dù cũng là tái hiện quá khứ nhưng không phải thu hút tính mạng của người đó mà là lấy đi tình cảm sâu sắc nhất trong lòng người đó.
Tý Ngọ là chỉ từ giờ Tý đến chính Ngọ, người rơi vào ảo mộng không thể thoát ra khỏi tình cảm đau đớn giày vò, tự mình thoát ra khỏi mộng cảnh, sau giờ Ngọ khi người đó tỉnh lại, phần tình cảm đó sẽ biến mất do bị ảo mộng thu hút. Nhưng ảo mộng mà Hoa Tư điệu Tý Ngọ dệt ra không giống ảo mộng thường ở chỗ, cho dù người được dệt mộng không thoát ra khỏi mộng cảnh, cũng không bị mất tính mạng, đến giờ Ngọ sẽ tỉnh lại còn mộng cảnh sẽ được tiếp diễn ở một không gian khác.
Đây có lẽ là bí mật lớn nhất của Hoa Tư dẫn, có lẽ ngay cả Quân sư phụ cũng không biết, đó là cấm thuật trái đạo lý. Bởi trên thế gian không nên có ai có quyền tước đi ký ức tình cảm của người khác, cũng không nên vạch ra khoảng không thời gian mà ngay trời cũng không nhìn thấy, cho nên phép thuật một khi thực thi thành công, tác dụng tương phản đối với người thực thi phép thuật sẽ rất lớn, lúc này viên giao châu mà Hoa Tư dẫn ký thác sẽ vỡ vụn, công lực của phép thuật cũng theo đó tiêu tan. Tất cả sẽ trở về cát bụi.
Trước kia, tôi muốn để Mộ Ngôn nhớ tôi, nhớ suốt đời. Nhưng nếu nhớ tôi chỉ khiến chàng đau khổ, chi bằng để chàng quên đi.
Buổi tối, Mộ Nghi dẫn tôi đến Trân Long viên dự tiệc. Theo phong tục nước Vệ, công chúa chưa xuất giá tuyệt đối không được lộ diện ở chốn xã giao cung đình, Trần và Vệ chỉ cách một con sông, phong tục về mặt này lại khác nhau.
Tôi phục trang vào vai người hầu của Mộ Nghi, theo sát bên cô, đi thẳng tới Trân Long viên, dưới bầu trời đêm thu, giữa trùng trùng đèn cung sáng rực, một biển hoa thiên trúc trải ra trước mắt, kéo tới tận chân vương tọa bằng ngọc tạc, giống như bữa tiệc được mở trên một biển hoa.
Cảnh trí trang nhã, du nhàn như bức họa mới tinh, vừa nhìn là biết đó là phong cách của ai. Từ xa truyền đến tiếng hô của thị quan, khóe mắt liếc thấy dải thắt lưng của hầu nữ bay bay trong gió, Mộ Nghi kéo tay tôi, lúc này mới phát hiện quần thần đã nhất loạt quỳ phục dưới vương tọa, khiêm nhường chờ đợi quân vương giá đáo.
Tôi quỳ theo mọi người, thầm nghĩ sau nửa tháng xa cách, không biết bây giờ trông Mộ Ngôn thế nào. Không nén nổi hơi ngẩng đầu, dưới ánh sáng cung đăng, cuối cùng tôi nhìn thấy bóng chàng khoan thai bước đến, nhưng không phải là áo chùng gấm màu lam như trước, mà là toàn thân long bào gấm đen tuyền, mái tóc đen ẩn trong vương miện, chín tua ngọc châu rủ quanh vương miện, bóng đổ xuống hơi che khuất sắc diện ngược chiều sáng của chàng. Lần đầu tiên nhìn thấy chàng trong trang phục như vậy, ở ngôi cao xa vời như vậy, trông chàng càng bội phần tuấn tú.
Tất cả sau đó giống như trong một giấc mộng, luôn có cảm giác không thực, nghe tiếng chàng chỉ vài câu lạnh lùng đã khiến sứ thần nước Triệu đang thao thao bất tuyệt không nói tiếp được, vừa nghĩ bình thường chàng chẳng phải vẫn thế sao, lại vừa nghĩ bình thường chàng như thế thật sao?
Trong ký ức tôi cơ hồ có hai con người, một người là Tô Dự, một người là Mộ Ngôn. Một người là chính trị gia bẩm sinh, một người là phu quân tôi.
Một người điềm tĩnh đối diện mọi nguy biến, ung dung điều hành triều chính, một người bỏ lại kinh thành phồn hoa, đêm ngày ngồi trong sơn động tấu ra những khúc đàn bi thương vì tôi.
Mặc dù hai người đó là một, nhưng nhìn thấy Mộ Ngôn lúc này, trong một khắc nào đó tôi không thể gắn hai người đó làm một.
Tôi không biết rốt cuộc tôi muốn nhìn thấy chàng quên tôi, sống vui vẻ hay là muốn thấy chàng suốt đời đau khổ, có lúc bản thân cũng cảm thấy ý nghĩ của mình thực quái dị, nhưng không sao kìm được tình cảm mâu thuẫn đó, đành để nó lan tràn như cỏ dại.
Trên bàn tiệc, bá quan đang đua nhau nâng cốc chúc tụng, chợt có tiếng kêu “ối” bật ra đầy kinh ngạc của Mộ Nghi, luồng suy nghĩ đang miên man đi xa bỗng quay về, mới phát hiện trên bàn tiệc, tiếng cười nói, tiếng chạm cốc một khắc trước còn ồn ào chợt im bặt, trên đài cao nơi các ca kỹ cung đình múa hát, không biết lúc nào xuất hiện một thiếu nữ áo đỏ muôn phần xinh đẹp, sứ giả Triệu quốc đang hướng về phía Trần vương thao thao bất tuyệt gì đó.
Tôi dỏng tai nghe, thấy ông ta tán tụng cô thiếu nữ xinh đẹp thế nào, đàn giỏi múa hay ra sao, tinh thông lễ nghĩa thế nào, cho dù mãi vẫn chưa đi vào chuyện chính, nhưng trong hoàn cảnh này, mang đến một mỹ nhân khuynh thành như thế, ai cũng hiểu ông ta muốn gì.
Không biết tại sao Mộ Nghi lại kinh ngạc như vậy, mặc dù xưa nay trong chuyện tình cảm tôi rất ích kỷ, chỉ muốn độc chiếm người mình yêu, nhưng trong hoàn cảnh này cũng không phải nghĩ không thông. Các nước tặng nhau mỹ nhân cũng bình thường như tôi và Quân Vỹ tặng nhau dưa gang, cũng không phải dưa gang nhận về đều ăn, mà đa phần đem tặng cho đầu bếp.
Trên trời sao ẩn hiện, theo tính cách Mộ Ngôn chàng vẫn giữ thái độ dửng dưng, không ngờ lời sứ giả vừa dứt, lại thấy chàng cúi nhìn cô gái áo đỏ rất lâu, đoạn trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.
Tôi băn khoăn nhìn lên đài cao, đúng lúc bắt gặp khuôn mặt từ từ ngẩng lên của cô gái. Hai hàng lông mày thanh như làn khói, đôi mắt hạnh nhân đen láy, chiếc mũi xinh, đôi môi nhạt như sắc xuân hơi mím.
Tôi kinh ngạc lùi lại một bước.
Chẳng trách Mộ Nghi chấn động như vậy. Khuôn mặt đó có vài phần giống tôi, một năm trước khi còn ở Vệ cung thường gặp. Cô gái áo đỏ đó chính là thập nhị tỷ Diệp Minh của tôi.
Tôi có mười bốn chị gái, cơ hồ tôi và Diệp Minh giống nhau nhất, nhưng sao tỷ tỷ có thể biến thành mỹ nhân do Triệu cống lên? Sau khi Vệ mất, tỷ tỷ đã cùng phụ hoàng và mẫu phi bị quản thúc ở biệt viện ngoại vi Hạo thành cơ mà?
Vẫn còn chưa hết bàng hoàng, lại nghe tiếng Triệu sứ giả gần như nói lại những lời tán tụng đã nói.
Mộ Nghi kéo váy tôi, dùng ngón tay chấm rượu viết lên bàn: “Cho dù ca ca thu nhận cô ấy, cũng bởi vì người ta giống tẩu, ca ca nhớ tẩu...”.
Chữ cuối cùng tôi không nhìn hết, trong lòng bất chợt như có nước băng thấm vào, lạnh đến tận đáy lòng. Thậm chí tôi còn chưa nghĩ đến điều đó, lúc này bị nhắc như vậy, đột nhiên nhớ lại chuyện này hình như đã từng có tiền lệ.
Nhưng sao có thể hoang đường như vậy, sao có thể vừa nhớ nhung một người vừa thu nhận một người khác. Dung Viên yêu Oanh Ca như vậy nhưng cũng không nói yêu Cẩm Tước giống hệt Oanh Ca.
Tôi ngẩng đầu nhìn Mộ Ngôn trên cao, trong khi sứ giả vẫn đang tiếp tục thao thao bất tuyệt, có lẽ do góc độ của ánh đèn trên đài cao, tôi lại có thể nhìn rõ thần sắc của chàng sau những tua rèm vương miện, chàng hơi nghiêng đầu hướng về tể tướng Doãn Từ ngồi bên trái bàn tiệc: “Quả nhân xưa nay không mấy hứng thú với ca vũ, còn nhớ Doãn khanh rất có nhã hứng về khoản đó, vậy ban Mạnh Diệp cô nương cho Doãn khanh”.
Tôi thở phào.
Sắc mặt Triệu sứ giả đang đỏ hồng biến thành trắng bệch khi Mộ Ngôn nói vậy, nhưng nhất thời không biết đối đáp ra sao, Diệp Minh bên cạnh đã lạnh lùng lên tiếng: “Hai chân Mạnh Diệp đứng trên quốc thổ nào chỉ biết phục hầu người cường đại nhất của quốc thổ đó, bệ hạ nếu không muốn để Mạnh Diệp hầu hạ, lại ban cho người khác, chi bằng hãy giết chết Mạnh Diệp”.
Diệp Minh, Mạnh Diệp. Nói thật tôi hầu như không có tình cảm gì đối với người chị này, nhưng trong mười bốn chị gái có ai có thể khiến tôi thích một chút, người đó chính là Diệp Minh .
Nghe nói trước khi tôi trở về Vệ quốc, người phụ hoàng thích nhất là Minh tỷ. Vệ quốc thập nhị công chúa Diệp Minh kiêu sa cao ngạo, trong cung không ai dám động đến. Nhưng tôi không hiểu, Diệp Minh tỷ tỷ của tôi tuy đã là công chúa vong quốc, nhưng với tôn nghiêm và hào quang đã có sao có thể hạ mình biến thành món cống vật trong tay người khác.
Tôi thấy Mộ Ngôn cười một tiếng, lòng đang run sợ liệu chàng có bị nhan sắc của Diệp Minh cám dỗ, lại nghe thấy giọng nói thanh lạnh quen thuộc: “Vương hậu của quả nhân rất hay ghen, thu nạp nàng rất dễ, nhưng vương hậu sẽ không vui, nàng nói xem, quả nhân nên để cho nàng không vui hay để cho vương hậu của quả nhân không vui?”.
Tay tôi nắm chặt run run, Mộ Nghi bật cười thành tiếng, trên bàn tiệc yên tĩnh, tiếng cười nghe rất rõ, ánh mắt Mộ Ngôn liếc lại, tôi vội cúi đầu. Lại nghe tiếng Diệp Minh không chút nao núng: “Bất luận vương hậu không vui hay Mạnh Diệp không vui đều không quan trọng, quan trọng là bệ hạ thuận theo tâm ý của người”.
Mộ Ngôn bỏ tay chống cằm để lên tay ghế: “Thuận theo tâm ý của quả nhân?”.
Chàng cười, thong thả nói: “Tâm ý của vương hậu là tâm ý của quả nhân”.
Hai tay nắm ống tay áo khẽ run. Quần thần bên dưới nhất định cảm thấy vui mừng vì vương hậu của họ chỉ là một linh vị, nếu không thì đây đúng là một hôn quân.
Cuối cùng Diệp Minh vẫn lựa chọn đi theo tể tướng Doãn Từ, không biết kết cục đó là tốt hay xấu, có nhiều lựa chọn, nhưng tỷ tỷ đã lựa chọn như vậy, cũng giống như có nhiều con đường, nhưng tôi lại lựa chọn tuẫn tiết cùng xã tắc, một việc không cho phép hối hận.
Khi bữa tiệc sắp kết thúc, Mộ Ngôn ban cho Mạnh Diệp một chén rượu, nhưng chén rượu của chàng lại do Mộ Nghi rót.
Lòng bàn tay dâm dấp ướt, tôi thầm mong mọi sự suôn sẻ, mấy giọt máu đựng trong lọ sứ đưa cho Mộ Nghi, cô đã thêm vào mấy giọt nước cỏ đắng, hơn nữa chỉ cho vào rượu ba giọt, dù lưỡi chàng có tinh đến mấy cũng không thể nhận ra mùi máu mới phải.
Khi Mộ Nghi rót rượu, hình như Mộ Ngôn nói gì với cô, chỉ nhìn thấy bàn tay rót rượu của cô hơi run, Diệp Minh bên cạnh đón chén rượu từ tay hầu nữ, mặt bỗng trắng bệch, tay run đến nỗi cơ hồ không cầm nổi chén rượu.
Khi chàng uống cạn, dưới đài ca vũ đã ngừng, trên đài cao, Mộ Ngôn lặng ngồi trên bảo tọa tay chống cằm, nửa người chìm trong bóng hai cánh chim khổng tước trên cao, không biết đang nghĩ gì.
Lát sau nhạc khúc thuộc về chàng văng vẳng vang lên trong ánh đèn hắt ra từ cung Thiện Mộc, âm phù xao động như một khúc vũ điển nhã, từng chút, từng chút, đi vào lòng tôi.
Tất cả đều theo đúng kế hoạch, thuận lợi không ngờ, cũng may kế hoạch đã vạch định chu toàn, tâm thần mới không bị rối loạn bởi thắng lợi nhất thời, vẫn nhớ bước tiếp theo là tìm một nơi không bị ai quấy rầy đợi đến giờ Tý, niệm lời chú khởi động Hoa Tư điệu Tý Ngọ của Mộ Ngôn.
Nhìn bóng Mộ Ngôn rời bàn tiệc, tôi không thể kìm lòng, bước lên hai bước nhìn chàng. Đây là lần cuối cùng nhìn chàng trên đời, lại diễn ra trong màn đêm với mấy ngôi sao tàn trên trời, chỉ nhìn thấy bóng áo đen của chàng. Hoa thiên trúc trải đầy mặt đất, như nở ra từ gót chân chàng, sắc hoa ánh lên xiêm áo chàng, lung linh theo nhịp bước chân.
Mộ Ngôn. Em sẽ không quên những ngày đẹp nhất của chúng ta, nhưng đời này em không thể gặp lại chàng được nữa.
Mộ Nghi hỏi tôi: “Tẩu có biết vừa rồi ca ca nói gì với muội không?”.
Tôi lắc đầu.
Cô quay đi, khẽ nói: “Ca ca bảo ‘Đến bây giờ ta mới cảm thấy A Phất đã đi thật rồi, nhìn thấy cô gái giống cô ấy, ta không nén nổi ý nghĩ, tại sao người chết không phải là bọn họ mà lại là A Phất. Một mình cô ấy sẽ rất cô đơn, ta lại không thể ở bên cô ấy, nếu đưa những cô gái đó đến bên cô ấy để bầu bạn, không biết A Phất có vui”.
“Choang!”. Tôi tuột tay đánh rơi chiếc cốc, Mộ Nghi thở dài: “Đi thôi, muội đưa tẩu đến một nơi không ai quấy rầy. Tẩu nói không thể để ca ca nhớ đến tẩu nữa”. Cô ngoái đầu lại: “Cuối cùng muội đã thấy tẩu nói đúng”.