Khuôn Mặt Bị Đánh Cắp Chương 5


Chương 5
Những cô bé ở hạt Taimani

Một buổi sáng tôi ở trong bếp pha trà cho bạn tôi, chị Farida, từ tầng sáu xuống trò chuyện với tôi. Chị cho rằng tôi nên biết phản kháng hơn trước tình hình này, và cho rằng tôi đang buông xuôi bản thân mình. Tôi không bị sốt nữa, phổi tôi đã khỏe hơn, và thời gian này chị Farida hay quấy rầy tôi để vực tôi thoát khỏi tình trạng ì trệ của mình. Chị muốn bắt tôi phải hoạt động và nâng cao tinh thần cho tôi. Thỉnh thoảng chị Farida vẫn ra ngoài, trong khi tất cả những gì tôi làm là lê khắp căn hộ nhà mình, đi từ bà mẹ đau ốm đến chị Soraya đang ủ rũ.

Chúng tôi mở cửa sổ nhà bếp để hít thở chút không khí, và tôi nhìn ra thánh đường như thường lệ qua các chấn song. Công trình này giờ đã được xây xong, có lẽ là nhờ tặng vật của Bin Laden, đúng như tôi đã viết trong bài thi của mình.

Các thánh đường biến thành thành trì của Taliban. Ở đó bọn chúng rao giảng thứ kinh Koran của mình. Tôi thấy một viên mullah đang đứng ở giữa sân trong. Bu quanh là những cậu bé đang tụng đi tụng lại mỗi lần ông ta ra lệnh. Ông ta cầm một cái gậy, chắc chắn là để đánh bất cứ đứa nào phạm lỗi hoặc tỏ ra ngập ngừng.

Farida xem tất cả tấn trò đó cùng tôi. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu lão ta bắt bọn trẻ đọc thuộc làu cái thứ hoàn toàn nhảm nhí đó nhỉ? Em nhìn cậu bé tội nghiệp kia xem. Lão ta vừa mới đánh vào các đốt ngón tay nó.”

Đúng vào giây phút ấy khi chúng tôi đang nhìn ra ô cửa sổ nhỏ, trí phán đoán của tôi bừng thức dậy. Đầu tiên, những trẻ em học trong trường dạy kinh Koran đương nhiên phải là con trai. Thêm vào đó, tất cả những gì các em này được học từ một mullah là các tiết trong kinh Koran. Tất nhiên giáo dục tôn giáo vốn vẫn quan trọng. Nó luôn là một phần của chương trình học, nhưng khi còn đi học, tôi đã được học nhiều hơn thế nhiều - lịch sử, địa lý, văn học tiếng Ba Tư, toán, và khoa học. Nhưng giờ đây ai sẽ dạy những cậu bé này tất cả các môn học đó chứ?

Trường học dành cho học sinh nam vẫn còn, nhưng không bắt buộc nữa. Một số bậc phụ huynh đến giờ vẫn nghĩ được rằng có chút học vấn vẫn hơn không. Nhưng cái chương trình giáo dục nghèo nàn kiểu này liệu có thể mang lại điều tốt đẹp nào đây? Chính sách tuyên truyền của bọn Taliban đã thâu tóm người dân quá nhanh.

Bây giờ, trong ba năm đầu đi học, các cậu bé phải đội một chiếc mũ nhỏ và mặc quần vải truyền thống. Đến năm tám hoặc chín tuổi, các em phải vận những chiếc khăn xếp màu trắng vẫn còn quá rộng so với các em. Nhiều cậu bé ở khu chúng tôi không được cho đi học nữa, vì cha mẹ đơn giản cho rằng các khóa học sẽ do Taliban lựa chọn và kiểm tra. Thêm vào đó, nếu cậu bé nào có mẹ là góa phụ, thì hãy quên hẳn chuyện học hành đi. Các cậu con đó sẽ phải giúp mẹ đi bán bất cứ thứ gì có thể bán được trên đường phố, hoặc đi ăn xin. Đối với những phụ nữ đã bị cách ly ra khỏi chế độ này, con trai họ là phương tiện để sống sót.

Nếu so với những trẻ em này, tôi thật may mắn. Tôi chỉ không được đi học nữa khi quân Taliban tràn vào mà thôi. Tôi đi học tiểu học năm lên năm, dưới thời Liên Xô đóng quân. Từ năm chín đến mười hai tuổi, cuộc Nội chiến giữa lực lượng Kháng chiến và chế độ Cộng sản không tác động mấy đến việc học hành của tôi. Rồi dưới thời Nhà nước Hồi giáo được thành lập bởi lực lượng Kháng chiến, tôi tốt nghiệp phổ thông và đã tham gia kỳ thi đầu vào đại học, khoa báo chí.

Giờ đây tôi 18 tuổi và hai năm nay tôi sống một cuộc sống ẩn dật và không làm gì cả. Thế nhưng tôi lẽ ra đã có thể giúp gì đó bằng cách truyền đạt lại chút ít kiến thức tôi đã được học. Sáng nay chị Farida cũng đang nghĩ đến những điều giống như tôi. Có lẽ bạn tôi đã nghĩ đến nó từ lâu rồi.

“Nghe này, Latifa,” chị Farida nói, “đối với em và chị thế là chấm hết rồi. Chúng mình sẽ không thể đi học tiếp được nữa. Nhưng chúng mình có thể làm điều gì đó cho các em kia. Ít nhất chúng mình cũng có thể giúp các em có được một số ý kiến rõ ràng, để chống lại cái lão mullah ở đằng kia.”

“Tổ chức một lớp học bí mật? Giống lớp học của cô Fawzia à?”

Cô Fawzia là một trong những cô giáo cũ của chúng tôi, mới đây bị Taliban bắt gặp ngay giữa giờ giảng. Đầu tiên chúng đánh các em, sau đó đánh cô giáo. Chúng ném cô xuống cầu thang mạnh đến nỗi cô đã bị gẫy chân. Sau đó chúng túm tóc cô lôi đi và tống giam. Rồi chúng bắt cô ký vào một tờ giấy cam kết rằng cô sẽ không tái phạm, rằng sẽ tôn trọng luật lệ của Taliban. Chúng đe dọa sẽ ném đá đến chết cả nhà cô trước mặt công chúng, nếu cô không chịu thừa nhận những việc mình làm là sai lầm.

Tôi vô cùng ngưỡng mộ người phụ nữ này. Cô đã dạy tôi rất nhiều điều khi tôi còn là học sinh. Khi mở lớp học bí mật, cô đã biết cô đang liều lĩnh làm gì. Các học sinh không bao giờ đến nhà cô để học vào cùng một giờ, cũng không bao giờ rời khỏi nhà cô cùng một lúc. Các em bỏ lại sách vở của mình ở nhà cô. Thế nên không có điều gì là bất hợp pháp, chiểu theo những sắc lệnh của bọn Taliban, lại bị lộ ra ngoài cả.

Hẳn là cô Fawzia đã bị người hàng xóm hoặc một tên ăn mày nào đó tố giác. Đám ăn mày luôn nghe ngóng xem có tin gì báo được cho Taliban; đó là cách bọn chúng kiếm ăn. Tuy nhiên cô Fawzia đã cẩn trọng thế kia mà. Mỗi khi bắt đầu học, cô đều nói với học sinh, “Các em hãy để một bản kinh Koran ở bên mình. Nếu có người vào trong lớp, các em phải nói là các em đang học kinh nhé, và đó là tất cả những gì chúng ta học nhé!”

Cảnh tượng những cậu bé ở trong thánh đường kia, vừa học thuộc lòng vừa lắc lư từ bên nọ sang bên kia, bị khủng bố hoặc thôi miên bởi viên mullah, bằng cách nào đó đã là tia lửa để tôi bắt đầu phản kháng lại tình cảnh của mình. Đôi khi đời như thế đấy. Đây như là số phận vậy. Chị Farida đề xuất tôi tiếp tục công việc cô Fawzia phải bỏ dở thay cô. Nó sẽ phần nào giúp cô cảm thấy trả được thù nếu biết rằng đã có người nhặt lại ngọn đuốc. Chị Farida và tôi bàn bạc về cách thức tiến hành, cách tổ chức lớp học của chúng tôi theo những nguyên tắc đã được cô giáo cũ đề ra.

“Chúng ta sẽ phải nói chuyện với cô giáo để dựng lại chương trình giảng dạy của cô, xem cô đang dừng lại ở đâu.”

“Chúng ta sẽ chỉ nhận những học sinh ở trong tòa chung cư này. Chúng ta sẽ chọn những ai ta biết rõ và có thể tin tưởng sẽ thận trọng.”

“Chúng ta sẽ phải tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè, như Maryam chẳng hạn, chị tin chắc là cô ấy thích việc này nhất đấy.”

“Mỗi người trong chúng ta sẽ phải giảng bài ở nhà riêng. Việc chia ra kiểu này sẽ là một cách nữa để đảm bảo an toàn.”

Cuối cùng tôi đã có được một mục tiêu để theo đuổi. Chúng tôi viết một lá thư ngắn gọn để bí mật gửi cho cô Fawzia. Tốt hơn là không đến nhà cô giáo, cũng không nên mời cô đến đây. Người phụ nữ tội nghiệp này đã bị tàn tật từ lúc bị tống giam và chỉ có thể đi lại được một cách khó khăn mà thôi.

Cô giáo hồi âm rất nhanh. Cô vui vẻ chấp thuận đề xuất của chúng tôi. Cô không chỉ đồng ý cung cấp chương trình giảng dạy để chúng tôi theo, mà còn có thể thỉnh thoảng đến giúp nữa. Sau tất cả những gì đã xảy ra với cô, rõ ràng là cô dũng cảm đến khó mà tin nổi.

Tôi thấy mình mạnh mẽ hơn sau khi tiến hành bước đầu tiên này, và tôi nói với cha tôi và anh Daoud về kế hoạch của chúng tôi. Farida cũng nói với bố chị ấy và cậu em Saber của mình. Bởi kế hoạch này không thể thực thi được nếu không được hai gia đình chúng tôi chấp nhận, họ sẽ phải đồng ý cho các học sinh bất hợp pháp học trong nhà mình.

Mọi người đều đồng ý với kế hoạch này, nhưng anh Daoud cũng cảnh báo chúng tôi, “Việc cô Fawzia đưa tài liệu cho các em là tốt, nhưng nếu cô giáo đến đây sẽ khiến người ta nghi ngờ. Các em đang khiến cuộc sống của cô giáo gặp nguy hiểm. Bởi nếu cô bị Taliban bắt lần thứ hai, cô sẽ không còn đường thoát. Các em không có quyền gây nguy hiểm cho cô ấy.”

Cả hai gia đình đều nhất trí rằng cô Fawzia không nên đến giúp ở nhà chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bắt đầu công việc ngay khi cô giáo gửi giáo án của mình đến.

Farida và tôi mỗi người nhận mười học sinh. Maryam, bạn chúng tôi, sẽ nhận khoảng năm em, tùy vào từng hôm. Các học sinh tầm bảy đến mười bốn tuổi, cả nam lẫn nữ. Chúng tôi đang liều lĩnh, tất nhiên, nhưng các nguy cơ đã được hạn chế. Các em sẽ không phải đi xa. Tất cả đều sống ở quanh khu này. Thậm chí một số em còn không phải ra khỏi tòa chung cư gồm 36 căn hộ này. Việc sống ở gần như thế này là cần thiết để đảm bảo an toàn cho các em.

Một người bà con sống ở hạt Taimani thuộc Kabul đã kể cho cha tôi một câu chuyện khiến chúng tôi bị chấn động mạnh, còn hơn cả giải thích cho sự cẩn trọng của chúng tôi.

Có một ngôi trường bí mật dành cho các em gái hạt Taimani nằm cách xa đó khoảng nửa tiếng đồng hồ. Các em đã mạo hiểm để đi học. Một hôm người ta đã tìm thấy thi thể của vài em trong một đống rác. Các em chỉ khoảng bảy hoặc tám tuổi. Các em đã bị bắt cóc, bị cưỡng hiếp và bị thắt cổ cho đến chết bằng chính quần áo của mình. Tôi nghĩ rất nhiều đến các cô bé ở hạt Taimani này khi chúng tôi tiến hành kế hoạch của mình. Để tưởng nhớ đến những cô bé đó, tôi muốn giúp các em hàng xóm của chúng tôi được học hành.

Bất chấp đau yếu, mẹ đột nhiên trở nên hào hứng và cổ vũ cho chúng tôi. Tôi cố gắng tránh cho mẹ khỏi bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn của bọn trẻ khi đến và ra về vào những giờ khác nhau trong ngày. Nhưng tôi nghĩ mẹ còn hưởng ứng nỗ lực của chúng tôi hơn bởi mẹ đã không còn cơ hội làm việc nữa.

Chị Soraya hứa sẽ chữa bài tập của các em vào các buổi tối. Đích thân anh Daoud đi mua những đồ dùng học tập chúng tôi cần như bút chì và vở viết. Mỗi gia đình đều cho chúng tôi một khoản tiền để anh có thể mua ở cửa hàng văn phòng phẩm. Khó khăn duy nhất là sách. Chúng tôi có thể tìm được sách, nhưng giá lại đắt: những 12 nghìn afghani một cuốn sách giáo khoa đơn giản. Trong tình hình lạm phát hiện nay thì đây đúng là một khoản tiền khổng lồ. Vì thế mỗi phụ huynh học sinh phải mua cho con mình một cuốn sách hướng dẫn, tùy khả năng tài chính của họ. Maryam dạy toán. Farida và tôi lo môn tập đọc, viết và lịch sử. Một người bạn nữa tình nguyện dạy tiếng Anh cho các em lớn hơn.

Vào cuối giờ học buổi sáng, bao giờ tôi cũng nhìn ra đường qua ô cửa sổ. Nếu tôi thấy có người lạ mặt, hoặc có ai đó khả nghi, các em sẽ chưa được ra về vội. Đôi khi các em thường ăn cơm luôn cùng chúng tôi. Sau đó tôi mới cho các cậu bé lớn nhất ra về đầu tiên. Rồi sau khi quan sát đường phố kỹ lưỡng một lần nữa, các em nữ mới được cùng nhau ra về; một người anh của một em nữ đợi để đưa các em về. Thật lạ là tôi không thấy sợ. Tôi thực thi những nhiệm vụ của mình một cách bình thản, các bạn của tôi cũng vậy. Mạng lưới rất kín đáo; chúng tôi quen hết cha mẹ của các em, các em tích cực học tập vì có mục tiêu rõ ràng và biết chính xác mình đang làm gì trong lớp học ngẫu nhiên này. Các em biết nó là một bí mật cần giữ kín và hiểu được tầm quan trọng của lớp học này trong tình cảnh thiếu thốn tri thức của chế độ Taliban. Các em không mang gì theo mình, không mang sách vở, kể cả bút chì cũng không, khi rời khỏi căn hộ. Tôi cất tất cả trong phòng tôi. Và các em đến lớp cũng y như vậy, vào những giờ giấc bất định, và đến tay không, như thể các em chỉ đi từ tòa nhà này sang tòa nhà bên cạnh mà thôi.

Tôi bắt đầu dạy học tầm 9 đến 10 giờ, tùy vào giờ các em đến, và các lớp học tan vào buổi trưa. Phòng của tôi trở thành lớp học. Tôi dạy tôn giáo, lịch sử và địa lý, văn học tiếng Ba Tư, và hai lần một tuần, dạy viết và chính tả. Tôi có năm học sinh nữ. Ramika mười bốn và là người duy nhất mặc áo burqa. Kerechma và Tabasom là hai chị em sinh đôi bảy tuổi. Malika sáu tuổi và Zakia năm tuổi. Ba học sinh nam đều còn nhỏ. Chaib bảy tuổi, Chekeb và Fawad mới lên năm.

Bắt chước các thầy cô dạy mình thời thơ ấu, tôi luôn bắt đầu ngày mới bằng câu: “Các em đã làm bài tập về nhà chưa? Nếu ai chưa làm, hãy đứng sang một bên rồi sau đó chúng ta sẽ nói về chuyện này.”

Tôi tiếp tục, “Hôm nay chúng ta sẽ nói về tầm quan trọng của nước trên trái đất và trong cuộc sống con người. Nước dùng để làm gì nào?”

Khi nói, tôi lại thấy mình còn là học sinh, đang lắng nghe cô giáo của mình. Mẹ đã cho tôi vào học ở một ngôi trường thuộc khu Mikrorayna 1, nằm trên bờ sông Kabul. Tôi đã học hết tiểu học ở ngôi trường đó. Hàng sáng cứ tám giờ cha lại đưa tôi đi học. Chị Chakila đến đón tôi về tầm mười một giờ rưỡi.

Trong lớp tôi có một bạn gái tên là Wahida. Wahida quê ở Kandahar, một thành phố lớn nằm bên sa mạc Rajistan. Vì bạn ấy hơn tuổi chúng tôi nên cô giáo đã bầu Wahida làm lớp trưởng, một chức mà đáng lẽ phải dành cho tôi vì điểm của tôi cao nhất lớp. Tôi cho rằng bạn ấy quá hách dịch, nhưng, tất nhiên là tôi ganh tị với Wahida mà thôi. Khi Wahida thông báo sẽ chuyển về quê, bạn ấy hy vọng tôi sẽ buồn. Nhưng ngược lại, tôi nhớ tôi đã nói với bạn ấy, “Bạn chuyển về quê là tốt quá đi mất.” Tôi đã lên làm lớp trưởng và rất lấy làm tự hào vì điều đó.

Khi nhớ lại những ngày tháng ấy, tôi thấy mình đúng là một cô bé khó ưa.

Suốt những năm tháng tiểu học, tất cả chúng tôi đều mặc quần áo truyền thống, nhưng vào đầu những năm cấp hai, chúng tôi chuyển sang mặc đồ đồng phục gồm có một chiếc váy màu nâu với áo vải trúc bâu thô màu trắng. Lúc đó người Liên Xô vừa mới xây xong một tòa nhà hiện đại ở khu Mikrorayna, tòa nhà này được đặt tên là Trường Cấp ba Hữu nghị. Sáu tháng sau, họ xây xong hai tòa nhà nữa theo mẫu tương tự. Việc đi học trở thành bắt buộc, và người ta đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để khuyến khích các gia đình cho con em mình đi học. Họ trợ cấp cho mỗi học sinh 1500 afghani hàng tháng và ở trường cấp ba quần áo được cấp không: có váy màu xanh cho các học sinh nữ và áo sơ mi màu xám cho tất cả các học sinh. Chế độ này được áp dụng chỉ vẻn vẹn sáu tháng. Chúng tôi gọi nó là Emdad, hoặc “trợ cấp disco”, bởi đối với chúng tôi, thời trang disco của những năm 1980 đồng nghĩa với sự xa xỉ vốn bắt nguồn từ dân Xô viết.

Năm 1989, khi quân đội Xô viết rút khỏi Afghanistan, dân Xô viết đã bỏ lại một số các “cố vấn” trong từng lĩnh vực. Chúng tôi gọi giễu những cố vấn ấy là “những người bị lỡ tàu”. Ở trường cấp ba của chúng tôi, trong suốt thời kỳ Liên Xô chiếm đóng, có nhiều giáo viên Xô viết, nhưng vào năm 1989, chỉ còn lại hai người bị “lỡ tàu”. Một người dạy lớp tôi. Bạn tôi, Farhad, người lúc nào cũng chả sợ ai cả, thường trêu tức giáo viên này bằng cách bắn đạn giấy vào đầu thầy giáo.

“Họ đi hết rồi thầy còn ở đây làm gì?” cậu ta hỏi.

Vì bố Farhad là một đảng viên cấp cao của đảng cầm quyền mới, không ai dám khiển trách cậu ta. Tôi nghĩ rằng cậu ta được nuông chiều quá đáng. Một thời gian sau hai giáo viên còn lại này cũng rời khỏi trường, mặc dù tôi không nghĩ điều này liên quan đến những quả bóng giấy của Fahad. Lòng căm ghét dân Xô viết của cậu ta cũng dễ hiểu thôi.

Ở khu chúng tôi có nhiều trẻ em đã bị mất cha trong những năm tháng đó. Cha các bạn này hoặc chết, hoặc bị đi tù, hoặc mất tích. Đó là Fereshta, Yama, Aymal và Babrak, những bạn cùng chơi với tôi, và nhất là Anita, người bạn đã khiến tôi rất buồn... Anita và tôi học chung một lớp trong chín năm liền. Tôi rất thích bạn ấy. Anita là một cô bé người mảnh mai với nước da tai tái và mái tóc màu hạt dẻ, lúc nào cũng duyên dáng và dịu dàng. Khi tôi biết bạn tôi mồ côi cha, chúng tôi còn thân nhau hơn. Cha bạn ấy bị người Liên Xô bắt. Từ đó không có tin gì của chú ấy cả. Mẹ Anita đã không thể biết được tại sao chồng mình lại bị bắt hoặc chú ấy bị giam ở đâu. Có lẽ chú ấy bị giam ở nhà tù Pol-e-Tcharkhi, như anh Wahid của tôi. Nhưng khác với hàng nghìn người khác, cha Anita đã không bao giờ trở về. Kỷ niệm duy nhất của bạn tôi về cha mình là một bức ảnh chụp bạn ấy hồi còn là một cô bé mới biết đi trong vòng tay cha mà thôi. Mẹ Anita đã khóc khi cho tôi xem tấm ảnh đó. Thật lạ là Anita không có cùng nỗi buồn của mẹ; bạn tôi sống như trên mây, lúc nào cũng như mơ, ham mê tham gia diễn kịch ở trường và đôi khi đi hát cho lớp. Đó là cách Anita sống sót và hy vọng. Anita thường nói với tôi, “Một ngày kia cha tớ sẽ về.”

So với Anita, tôi thật may mắn. Cha mẹ tôi vẫn còn sống và tôi biết được toàn bộ thiên tình sử của họ, nhờ một người dì vốn không bao giờ chán kể cho tôi nghe về toàn bộ chuyện đó. Cha mẹ tôi đã lấy nhau vì tình yêu khi mẹ vẫn còn là một sinh viên y khoa, đang theo học các khóa học miễn phí do các bác sĩ người Đức giảng dạy tại Viện Goethe ở Kabul, đồng thời theo học khóa y tá thực hành ở bệnh viện Mastourat. Đó là nơi cha tôi đã gặp và đem lòng yêu mẹ. Trong khoảng bốn năm liền, mặc dù cha đã gửi cho mẹ bao nhiêu bài thơ và làm mọi điều để tỏ ra đáng yêu trước người đẹp này, mẹ vẫn hờ hững với cha. Mẹ chỉ nhận thấy lòng tốt của cha mà thôi. Nhưng một người đồng nghiệp đã giúp mẹ tôi mở mắt.

Cuối cùng, khi mẹ đem lòng yêu cha, thì gia đình mẹ lại phản đối chuyện cưới xin. Cả bà nội của cha cũng vậy, vì bà sợ có một người phụ nữ có học có hành như thế trong nhà, lại còn làm việc ở bệnh viện và có thể sẽ không kính trọng bà như cần thiết. Cuối cùng cha nói với mẹ, “Nếu mọi người cứ phản đối chuyện cưới xin của chúng mình thì tệ quá. Anh đành bắt cóc em vậy.”

Cuối cùng họ đã chiến thắng hoàn cảnh và đã tận hưởng thời kỳ hứa hôn rất tuyệt vời. Cha đưa vị hôn thê của mình đi xem phim, đi dạo và đi nhà hàng. Một hôm, một người bạn của mẹ tôi làm việc trong lực lượng cảnh sát đã nhận xét với mẹ, “Alia à, bạn đã chọn được một người đàn ông tử tế đấy. Bằng chứng là anh ấy không ngần ngại đưa bạn đến nhà hàng!” Kể đến đây, dì tôi giải thích là người ta vốn cho rằng đàn ông chỉ đem những người đàn bà phóng túng đến các nhà hàng mà thôi.

Cha mẹ tôi cưới nhau năm 1964, và tất cả chúng tôi đều tự hào vì đã được sinh ra từ một cuộc hôn nhân như của họ. Đó là lịch sử của gia đình tôi, cái lịch sử phản ánh lịch sử của Afghanistan, cái lịch sử mà cả các cuộc chiến tranh liên miên lẫn giao tranh giữa các dân tộc, đều không tài nào chia rẽ được. Cha tôi là người dân tộc Pashtun, mẹ là người Tajik. Tự thân sự kết hợp của họ đã là một biểu tượng.

 

Một sáng nọ giữa mùa hè năm 1999, một phụ huynh học sinh đề nghị tôi, chuyển lời qua con trai ông ấy, giảng một buổi về cuộc chiến chống quân Anh xâm lược. Các phụ huynh thường đề xuất những chủ đề mà họ muốn tôi giảng dạy. Xét theo tuổi của con trai họ, tôi trình bày một cách đơn giản như sau.

“Quân Anh đã cố xâm lược đất nước chúng ta, nhưng người Afghanistan không thích giặc ngoại xâm, nên bất chấp người Anh có những vũ khí tinh vi còn người Afghanistan chỉ có gậy gộc, dân ta vẫn kháng chiến dũng cảm. Quân Anh vốn không biết gì về cách sống của chúng ta. Chị sẽ cho các em một ví dụ nhé. Chúng thấy là người Afghanistan thường nhai những viên hình tròn khô, trông như đất, nhưng lại bỏ trong túi mình. Điều này khiến người Anh ngạc nhiên. Chúng băn khoăn không hiểu ăn thế thì được gì.”

“Nó là gì vậy, chị Latifa?”

“Ở miền quê, người ta hái những quả mâm xôi, phơi khô chúng, rồi giã chúng ra thành bột và chế chúng thành một loại kẹo dẻo ngọt để được lâu. Nó được gọi là kẹo talkhan và mang lại sức mạnh cho những người lính trong trận đánh.

“Sau khi bị dân ta đánh bại, người Anh không đem theo kẹo talkhan về. Mà chúng lấy vàng, trang sức, đồ cổ quý hiếm. Nhưng chúng không biết làm thế nào vận chuyển chúng qua núi, nên đã ngụy trang chúng và giấu chúng ở nhiều nơi trên đường lui quân.”

Một hôm khác, một học sinh của tôi lại đưa ra một câu hỏi khác.

“Bố em nói với em rằng nhà Vua Habibullah Khan không mang lại điều gì tốt đẹp cho đất nước chúng ta, không giống như Tổng thống Daoud. Bố em muốn biết chị nghĩ sao về điều đó ạ.”

“Sáng mai chúng ta sẽ bàn đến câu hỏi này nhé.”

Tôi ngạc nhiên và không muốn trả lời khi chưa kiểm tra lại những điều mình biết. Tôi cũng muốn tham khảo ý kiến gia đình tôi về việc phải nghĩ gì về giai đoạn lịch sử này. Ngày hôm sau, sau khi đã xem lại, tôi đã có thể trả lời học sinh đó.

“Bố em nói đúng,” tôi nói với cậu bé. “Vị vua đó đã không phụng sự tốt đất nước của mình. Ông ta có đến 300 phụ nữ trong cung để mua vui cho mình. Con trai ông ta là Amanullah Khan đã mang lại nền độc lập và đánh đuổi người Anh ra khỏi bờ cõi nước ta, nhưng Tổng thống Daoud còn có những tham vọng khác; ông muốn biến Afghanistan thành một quốc gia phát triển, hiện đại và độc lập. Thí dụ, ông muốn chúng ta có thể sản xuất ô tô và những thứ đại loại như thế. Vì thế ông không muốn trở thành một ông vua, mà là tổng thống của một nước cộng hòa. Thật không may là ông đã không có nhiều thời gian để theo đuổi các kế hoạch của mình, bởi vì Liên Xô đã đến.”

Khi tôi còn học phổ thông, các lớp học lịch sử đều bắt đầu bằng cuộc chiến giữa Anh và Afghanistan. Tiếp theo đó là thời “hiện đại” mà bản thân cha mẹ tôi đã sống, dưới triều đại của Vua Mohammed Zahir Shah, và sau khi ông ta bị phế truất trong một cuộc đảo chính quân sự vào năm 1973, dưới tay người em họ Nohammed Daoud của ông ta.

Tôi vẫn nhớ chuyện thầy giáo dạy sử của mình, khi giảng về cuộc chiến tranh Anh-Afghanistan diễn ra vào thế kỷ XIX, đã bị lỡ lời rất buồn cười và lẫn lộn khi làm một so sánh lịch sử như thế này. “Người Liên Xô”, thầy nói, “đã rời khỏi Afghanistan vào năm 1878, giống như người Anh năm 1989. Ấy chết. Thầy nhầm. Mà dù sao thì cả hai trường hợp họ cũng về cùng một kiểu - bại trận rồi rút lui.”

Mùa đông năm 1988-89 là mùa đông tôi đặc biệt nhớ rõ. Liên Xô sắp sửa rút quân khỏi đất nước chúng tôi. Kabul năm đó lạnh chưa từng thấy. Hầu như trong thành phố không còn dự trữ. Lực lượng Kháng chiến đã tiến hành chiến thuật vây hãm thủ đô Kabul, chúng tôi đã bị thiếu thốn đủ điều. Tôi cùng chị gái tôi chia nhau ra xếp hàng trước hai hiệu bánh mì để mua sáu ổ bánh. Mua xăng dầu cũng vậy, vì các cột điện cao thế đã bị Lực lượng Mujahidin phá hủy, mọi người đã phải dùng mùn để nấu nướng và sưởi ấm bằng than. Khắp nơi các hàng người cứ nối ngày một dài. Chúng tôi đã phải đợi cả nửa ngày để mua một món đồ nhỏ nhặt nhất. Một số người bắt đầu xếp hàng chờ từ ba giờ chiều và cuối cùng lên tới đầu hàng vào lúc bảy giờ tối; những người khác đứng chờ trước các cửa hiệu trước cả bình minh, từ lúc ba giờ sáng chẳng hạn, hy vọng mua được thứ gì đó vào lúc chín giờ sáng. Tình cảnh khổ sở này kéo dài bốn tháng trời và người dân bỏ mạng chỉ vì xếp hàng.

Khi không còn bánh mì nữa, thì những người giàu có ăn bánh ngọt hoặc bánh nướng. Và đây là cái cuộc cách mạng mà chúng tôi đã được nghe nói đến đấy! Tôi đã ăn bánh ngọt đến phát ốm.

Các máy bay của Liên Xô chở hàng tiếp tế cho thủ đô chỉ có thể hạ cánh vào ban đêm. Báo chí nói về việc Kabul bị bao vây. Giữa hỏa lực rocket, giữa những hàng người dài vô tận, giữa giá gạo, giá đường và bột mì, thần kinh của người dân trở nên bức bối. Họ nổi giận với ngay cả những chuyện không đâu và đánh đấm lẫn nhau. 5386 Nhiều người chỉ nghĩ đến chuyện rời bỏ Kabul.

Một số người đã gả con gái cho những chàng trai sống ở phương Tây, để bằng cách ấy chuẩn bị cho cuộc lưu vong về sau của cả gia đình. Những người khác lại cố bán hết tài sản của họ để có tiền vượt biên ra nước ngoài. Kabul đã mất hết những niềm vui hời hợt từng có dưới chế độ Xô viết.

Sau đó, mùa xuân năm 1989, đài phát thanh thông báo rằng hàng hóa giờ đã chất đầy các cửa hàng và tình trạng khan hiếm của chúng tôi đã chấm dứt. Thật lạ là dân thành phố chúng tôi hồi đó rất ít biết đến những gì đang diễn ra ở nông thôn. Thời gian đó đài truyền hình phát nhiều chương trình giải trí như thể để chúng tôi sao lãng trước thế sự và thôi miên chúng tôi. Nào hòa nhạc, cuộc thi Hoa hậu Afghanistan, Hoa hậu Kabul, những bộ phim Ấn Độ... Nhà hát mở cửa, các đài phát thanh phát đầy các chương trình ca nhạc. Thỉnh thoảng chúng tôi nhận thấy trên các đường phố có nhiều người hơn, nhưng không hay biết gì về tất cả những gia đình đã phải bỏ nhà bỏ cửa lẫn quê hương bản quán, bởi chiến tranh liên miên giữa lực lượng Kháng chiến và quân đội của chính quyền. Dân số Kabul tăng vọt lên trước những con mắt mù lòa của chúng tôi. Chúng tôi không muốn đối diện với thực tế. Tất nhiên lực lượng Mujahidin vẫn hoạt động. Hiển nhiên phong trào Kháng chiến vẫn còn, thế nhưng không hiểu vì sao tất cả chúng tôi đều hy vọng rằng tình hình này sẽ tự mình chấn chỉnh một cách thần kỳ, rằng sẽ có thỏa thuận liên minh giữa chế độ thân Liên Xô và những người Kháng chiến, rằng hòa bình rồi sẽ được lập lại.

Sau đó đến Jalalabad. Suốt mùa hè năm 1991, hai năm sau khi quân đội Xô viết rút lui, lực lượng Kháng chiến đã lao vào trận đánh quan trọng để giành quyền kiểm soát thành phố. Quân đội Pakistan dành cho nó sự hỗ trợ khổng lồ. Quân đội Afghanistan và chính quyền Cộng sản đã huy động toàn lực. Chính trong dịp này Tiến sĩ Najibullah đã đọc bài diễn văn nổi tiếng của ông ta trên Quảng trường Ariana. Tất nhiên, chính quyền phải bảo vệ Jalalabad trước những cuộc tấn công của lực lượng Kháng chiến, nhưng trên hết phải chống lại sự can thiệp của Pakistan vào đất nước chúng tôi. Phụ nữ cũng được gọi nhập ngũ để bảo đảm an ninh cho thủ đô. Đó là lần đầu tiên tôi thấy phụ nữ mặc quân phục. Họ có mặt khắp mọi nơi - ở các ngã tư và trên các đại lộ. Họ làm việc trong hầm ủ tươi thức ăn ở Kabul hoạt động 24/24 để đảm bảo cho việc sản xuất bánh mì. Họ lái tàu điện. Họ làm việc trong chính phủ, trong các ngân hàng và hát trên đài truyền hình. Những cô gái trong đoàn Thanh niên Cộng sản đi khắp các trường học để thu thập quà tặng cho những người lính của chúng tôi. Đợt vận động này còn khiến cả những ca sĩ trẻ nghiệp dư tổ chức các buổi hòa nhạc từ thiện để ca tụng quân đội. Đó là khi chúng tôi đi xem các Madonna bản sao và Michael Jackson phẩy cất cao tiếng hát vì quân đội Afghanistan. Chỉ có một điều tôi không biết, đó là có những cô gái trong vùng hết sức buồn rầu khi nghĩ đến vị hôn phu của mình đang lên đường ra mặt trận.

Vào đêm trước khi lực lượng Mujahidin đến vào cuối tháng Tư năm 1992, chúng tôi được mời tới dự một đám cưới ở khách sạn Kabul, tọa lạc ở trung tâm thành phố, đối diện với ngân hàng nhà nước và cách Phủ Chủ tịch lẫn Kho bạc Nhà nước không bao xa. Lễ cưới cử hành tầm bốn giờ. Gái trai đều vận đồ tây và khiêu vũ. Chúng tôi ăn uống trong lúc chờ đợi nghi lễ tôn giáo được cử hành. Bỗng có một người lính xộc vào phòng và đòi gặp cha cô dâu. Viên sĩ quan này thông báo rằng các đơn vị Mujahidin đã lọt vào thủ đô nên hôn lễ phải kết thúc thật nhanh. Đa phần phụ nữ đều đang mặc y phục hở vai nên chồng họ vội vàng lấy áo vét của mình phủ lên vai họ trước khi chạy về nhà.

Năm phút sau tất cả chấm dứt. Anh trai của cô dâu đưa ba chị em tôi về nhà một cách nhanh chóng. Cha mẹ tôi ngạc nhiên khi thấy chúng tôi về sớm, bởi các đám cưới Afghanistan vốn thường kéo dài đến tận nửa đêm.

Chị Chakila muốn biết liệu có tin khẩn gì hay không, nhưng đài phát thanh lại không thông báo gì đặc biệt. Ngày hôm sau mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường. Tất cả chúng tôi vẫn ra khỏi nhà để làm việc của mình. Nhưng vào khoảng mười một giờ, chị Chakila đến trường đón tôi. Khi thầy giáo hỏi chị lý do, chị tôi trả lời đơn giản rằng tôi phải về nhà vì có việc quan trọng. Trên đường về, chị tôi giải thích, “Có lẽ sẽ có chiến tranh ở Kabul. Chị phải báo trước cho cả nhà mình biết.”

Chị gọi điện đến cửa hàng cho cha ngay khi về đến nhà. Tôi nghe thấy chị bảo cha mang đồ dự trữ rồi về nhà càng nhanh càng tốt. Sau đó chị gọi điện cho chị Soraya để cảnh báo và cũng bảo Soraya về nhà luôn. Nom Chakila có vẻ lạ lùng. Chị tôi đang giả vờ bình tĩnh, nhưng cứ năm phút lại nhỏm lên nhìn qua cửa sổ xem có thấy cha mẹ tôi đang trên đường về hay không. Một tiếng rưỡi sau, cả nhà tôi đã có mặt đầy đủ.

“Thế nghĩa là thế nào?” Cha hỏi.

“Sáng nay con vẫn đi đường thường ngày đến tòa soạn, và thấy ngay có nhiều điều bất ổn. Các cửa hàng đều đóng cửa. Có những chướng ngại vật bằng bao cát được dựng lên. Con nhìn thấy những người có vũ trang, đội khăn xếp, mà mọi người biết rằng không ai ngoài quân đội được phép mang vũ khí ở trong thành phố. Khi xe taxi chở con chạy đến trước Bộ Quản lý Điện nước, gần Quảng trường Lễ hội, một người lính ra hiệu dừng xe lại. Con cho anh ta xem thẻ nhà báo và bảo con đang đi đến tòa soạn. Nhưng anh ta đã ra lệnh cho con quay lại và nói, ‘Người của Gulbuddin Hekmatyar đang ở đây.’ Con hỏi tay Hekmatyar này là ai và lúc đó một người đàn ông vận y phục truyền thống liền thét lên - hú lên thì đúng hơn, ‘Chúng ta là đảng Hezb-e-Islami của Hekmatyar.’

“Rồi hết sức bất ngờ, chiếc xe bị đám đội khăn xếp bao vây. Con bảo người lái xe quay xe lại ngay lập tức. Anh ta đang quay xe thì người lính đã bắt con dừng xe ra hiệu cho xe dừng lại lần nữa. Anh ta muốn con mang theo hai nhân viên nữ trẻ của bộ. Hai cô đó ngồi vào trong xe và kể với con rằng những gã để râu này đã đánh họ và lăng nhục họ, tất cả chỉ vì họ mặc váy và đi tất dài. Những gã đó đã lột tất của họ ra và quấn quanh cổ họ. Sau đó chúng đã nhổ nước bọt vào mặt họ và chửi bới họ thậm tệ. Khi chúng con đi qua cầu để quay lại địa hạt của chúng ta, mọi thứ vẫn yên ả và thật khó hình dung được rằng cách đây vài trăm mét, tình hình lại khác đến vậy.”

Tối hôm đó chúng tôi ăn cơm tầm bảy rưỡi. Trận đánh bắt đầu ngay sau đó. Chị Chakila chạy lên căn hộ nhà Saber trên tầng sáu để xem các trận chiến đang diễn ra ở đâu rõ hơn. Mặc dù ống nhòm bị cấm sử dụng vào thời gian đó, nhưng Saber vẫn có một chiếc. Cậu ta yêu Victoria sống ở tòa nhà đối diện nên đã xoay xở kiếm được chiếc ống nhòm này để có thể nhìn thấy người mình yêu từ sân hiên nhà cậu ta. Mẹ Saber làm việc trong ban quản lý của Phủ Chủ tịch đã xác nhận với chị Chakila rằng cả ngày hôm đó những người để râu đội khăn xếp đó đã đuổi hết phụ nữ đang làm việc về nhà, và chửi bới, lăng nhục họ.

Điều đó nghĩa là quân lính của Hekmatyar đã đến Phủ Chủ tịch. Qua các ô cửa sổ tầng sáu, Chakila có thể trông thấy màn diễn kỳ quái do ánh sáng rocket và súng đạn ở quanh Pole Mahmoud Khan, đối diện ngay Phủ Chủ tịch, cũng như gần bệnh viện và Quận Shashdarak kế bên trụ sở đài phát thanh và đài truyền hình. Thật lạ là nhà đài vẫn phát sóng như thường, mặc dù chẳng đài nào đưa tin về cuộc chiến diễn ra ngay trước mũi chúng tôi cả.

Chị Chakila rất căng thẳng và nhắc đi nhắc lại, “Em thấy chưa. Em thấy chưa. Chị đã bảo mà.”

Chị Soraya và tôi lấy các tấm đệm ra bịt cửa sổ phòng ngủ lại. Tôi cứ nghĩ mãi đến điều các bạn nữ ở trường đã nói. “Nếu những kẻ cực đoan đến Kabul, phụ nữ sẽ không được trang điểm, không được vận âu phục. Rồi các bạn sẽ thấy. Thậm chí bọn chúng còn không cho chúng ta đi xe đạp nữa cơ.”

Vài phút sau, các vụ nổ diễn ra gần đến nỗi các hộ trên tầng năm và tầng sáu phải xuống trú ẩn ở dưới hầm. Bởi chỗ họ dễ trúng hỏa lực rocket nhất.

Trận đánh diễn ra trong hơn hai ngày, nhưng chính quyền không cho chúng tôi hay bất cứ tin tức gì. Cuối cùng, vào ngày thứ ba, Đài phát thanh Kabul thông báo rằng quân lính của Hekmatyar đã bị đuổi ra khỏi thành phố và nỗ lực xâm lược của chúng đã bị đánh bại.

Tiếp đó là đến bố cáo thành lập Nhà nước Hồi giáo Afghanistan, trực thuộc chính quyền mới của Thủ lĩnh Massoud, mà giờ đây được gọi là Chủ nhân của Kabul. Tôi vẫn thấy vẳng bên tai mình những lời trong bản tuyên ngôn này: “Từ thứ Bảy tuần sau, toàn thể nhân dân và nhất là phụ nữ, đều phải quay trở lại làm việc. Các trường học nam và nữ sẽ mở cửa trở lại.”

Cũng như tôi, các bạn cùng trường của tôi thở phào nhẹ nhõm. Hekmatyar đã khiến chúng tôi lo sợ cho những quyền lợi cơ bản nhất của mình. Chúng tôi muốn được tự do học tập và sau đó là tự do làm việc. Thế nên chúng tôi muốn đám cuồng tín này bị đánh đuổi càng xa càng tốt về phía Bắc hoặc sang Pakistan.

Một tuần sau trên tivi chiếu một bộ phim tài liệu về các tội ác mà chính quyền cũ gây ra. Có những hình ảnh về các nhóm tù nhân bị hành hình hàng loạt ở nhà tù Pol-e-Tcharkhi, hàng trăm đôi giày nằm rải rác, hàng trăm nấm mồ tập thể. Dưới chế độ này, hàng nghìn người bị buộc tội chống chính quyền đã bị bắt bớ, bị hành hình và bị ném xuống những nấm mộ chung. Nhan nhản những tin đồn về các chính trị phạm bị đày đến Siberia.

Vài tháng sau chuyện đó, Anita bạn tôi, vui sướng và tràn trề hy vọng, đã đến chào tạm biệt tôi. Bạn tôi và mẹ sẽ đi Liên Xô để tìm cha mình. Họ đã bán nhà bán cửa của mình để trang trải chi phí cho chuyến đi này. Tôi buồn, buồn kinh khủng khi chứng kiến họ ra đi chỉ để tìm một bóng ma. Thật lâu sau, Anita trở về, không bao giờ xác định nổi cha mình ở đâu.

Bầu không khí ở Kabul thật lạ lùng. Một mặt chúng tôi vẫn tự do thả bộ, học hành, làm việc; mặt khác chúng tôi lại đang sống giữa cảnh nội chiến hàng ngày do Hekmatyar và các môn đệ gây ra.

Năm 1993, các trận chiến diễn tiến đến hồi ác liệt và vô cùng dữ dội. Vào mùa đông, vốn không phải mùa đi học của người Afghanistan bởi trời quá lạnh, nhiều trường học ở Kabul đã biến thành các trại tị nạn dành cho những gia đình phải sơ tán. Phía Nam, phía Tây và trung tâm thủ đô nằm trong tầm lửa đạn dữ dội. Người dân sơ tán đến các quận phía Bắc, những người khác bỏ đến Jalalabad hoặc Pakistan. Chúng tôi phải chịu cảnh xung đột sắc tộc thực sự. Người Pashtun giết người Hazar, người Hazar giết người Tajik... Mọi người đều biết rằng, chịu trách nhiệm trước tất cả những vụ giết chóc lẫn nhau này vẫn là Gulbuddin Hekmatyar, kẻ đã hoàn toàn lệ thuộc vào các cơ quan mật vụ Pakistan.

Để khủng bố dân chúng, có những gã trai đã tiến hành chiến dịch đầu độc thực phẩm bằng cách tiêm chất độc vào hoa quả và rau cỏ của chúng tôi. Những ai ăn phải độc phẩm này sẽ bị ngộ độc. Thậm chí một số người đã chết. Người dân Kabul hoang mang. Họ không dám mua rau quả tươi của những người bán rong và chủ hàng hoa quả nữa. Vài tuần sau, một trong những nhóm trai trẻ này đã bị bắt và đưa lên truyền hình. Nỗi hoang mang cũng dịu bớt đi.

Đạn pháo rocket nã xuống thành phố một cách tùy tiện, ở mọi nơi mọi chốn. Có một số ngày chúng tôi đếm được 300 quả. Vào những hôm khác chúng còn lên đến đỉnh điểm 1000 quả. Các bệnh viện đầy người bị thương. Thuốc men thiếu thốn. Các bác sĩ phải làm việc cả đêm lẫn ngày.

Tháng Giêng năm 1994, quân đội của Gulbuddin Hekmatyar, lúc này được hỗ trợ thêm bởi quân của các Tướng Dostom và Mazari, hai thủ lĩnh của người Hazar, đã khai màn một chiến dịch đẫm máu. Vào bốn giờ sáng ngày mồng Một tháng Giêng, cuộc oanh tạc bắt đầu. Nó kéo dài không ngừng nghỉ suốt một tuần liền. Cùng với những người hàng xóm của chúng tôi, cả nhà tôi túm tụm lại dưới hầm trú ẩn. Điện nước đều bị cắt toàn thành phố. Sau đó các bên tham chiến đã quyết định tạm ngừng bắn để các nhà ngoại giao nước ngoài rời khỏi Kabul. Chúng tôi cũng tranh thủ dịp này để tìm chỗ nương náu ở phía Bắc thủ đô. Trên đường sơ tán chúng tôi gặp hàng nghìn người, đi theo cả gia đình, đã phải bỏ nhà bỏ cửa của mình.

Trận chiến này kéo dài hơn bảy tháng. Trong suốt thời gian này, phần lớn thành phố đã bị thiêu cháy và phá hủy. Trường đại học của chúng tôi - một trong những trường lớn nhất khu vực đã bị đốt trụi. Bị thiêu cháy và cướp phá có cả thư viện của trường, thư viện lớn thứ hai ở châu Á. Viện bảo tàng cũng bị đốt cháy và cướp phá. Nhưng không hiểu sao, bất chấp mọi sự, chúng tôi vẫn tiếp tục sống. Tôi vẫn đi học. Chị Chakila đi lấy chồng.

Nỗ lực hết sức để sống được qua thời chiến này đã bịt mắt chúng tôi trước toàn bộ tấn bi kịch ở đất nước mình. Hẳn đó chính là điều khiến chúng tôi không nhìn thấy được hiểm họa lớn nhất còn chưa tới. Khởi nguồn của nó là một phong trào bí mật của các sinh viên tôn giáo - một lực lượng dân quân mới mà sau này, tới cuối năm 1994, nhờ có cuộc chiến tranh ở Kabul, rồi sẽ chiếm được một phần ba vùng Đông Nam của đất nước. Chúng tôi đã có hơn hai năm một chút để tận hưởng cái tự do lạ lùng ở thành phố của mình trong thời gian bị bao vây hồi đó.

 

Ramika, một học sinh nhỏ tuổi của tôi, cởi áo burqa ra khi em bước vào và ngồi ngoan ngoãn xuống dưới chân tôi để nghe đọc một bài thơ của nhà thơ nổi tiếng Mohamad Hafez Cherazi.

 

Đối với tôi, thế giới là một ngôi nhà lớn

trong đó tôi kiếm tìm tri thức

dưới những bầu trời xa nơi tôi lang thang

để thấu hiểu từng tư duy tinh tế

về muôn loại quả cây

đã nuôi sống triết lý của tôi.

 

Ramika sẽ chép chính tả bài thơ này rồi đọc thuộc lòng cho tôi nghe sau.

Ramika mười bốn tuổi, bằng tuổi tôi hồi thành phố bắt đầu bị bao vây, và ở đúng độ tuổi mà Taliban có thể áp dụng sắc lệnh quái đản gần nhất của bọn chúng: “Tất cả các cô gái trẻ đều phải lấy chồng.” Tôi đã được nghe kể về hình thức áp dụng sắc lệnh này đúng một năm trước. Một phụ nữ ở tòa nhà gần đây đến gõ cửa một căn hộ. Mụ ta là một trong những do thám viên chuyên săn tìm các cô gái trẻ cho bọn Taliban. Bà chủ căn hộ đó ra mở cửa cho mụ ta. Bác ấy ở một mình với ba cô con gái và ngay khi vừa mở cửa ra thì bọn Taliban ở đằng sau mụ kia liền xông vào nhà. Chúng đánh bà mẹ cho đến bất tỉnh nhân sự rồi bắt cóc ba cô con gái. Mụ do thám đã nói với hàng xóm rằng các cô gái đó đã kết hôn với các con trai của mụ ta và mụ có quyền được mang các cô con dâu về sống với mình.

Kể từ khi nghe được câu chuyện này, chỉ anh Daoud hoặc cha tôi mới ra mở cửa cho người lạ. Một người chị họ của tôi đã mắc vào một cái bẫy hiểm ác của bọn Taliban. Có một tên Taliban muốn lấy chị, đã khăng khăng và đe dọa gia đình chị đến nỗi cuối cùng chị đành phải lấy một chàng trai khác ít tuổi hơn mình nhiều chỉ để thoát khỏi tên Taliban nọ, mặc dù trước đó chị đã luôn ương bướng không chịu cưới.

Có quá nhiều những câu chuyện kiểu này - đáng sợ, hoặc chỉ là đáng thương. Cuộc đời các cô gái trẻ ở độ tuổi tôi, hoặc Ramika, đang bị hủy hoại. Đêm nay tôi sẽ cầu nguyện cho những quyền tự do tưởng không thể có lại được của phụ nữ. Tôi cũng sẽ chăm chú hơn khi dõi theo chiếc áo burqa mà Ramika mặc, khi cô bé ra về dọc theo con phố ngoài kia.

Tôi đã thay đổi. Tôi đã trưởng thành.

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc!

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/27225


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận