Bác sĩ Craven đợi ở nhà được một lúc khi chúng trở về. Ông bắt đầu tự hỏi có nên cho người đi thăm dò các đường mòn xung quanh khu vườn. Khi Colin được đưa về phòng, con người tội nghiệp ấy nhìn nó với vẻ nghiêm nghị.
- Cháu không nên ở ngoài lâu như vậy. Lại càng không được gắng sức.
- Cháu chẳng thấy mệt tí nào. Chuyện này làm cháu thấy dễ chịu. Ngày mai cháu sẽ ra khỏi nhà cả sáng lẫn chiều.
- Chú không chắc chú có thể cho phép điều đó, - bác sĩ Craven trả lời. - Chú e rằng đó không phải là một quyết định khôn ngoan.
- Và chắc chắn là không khôn ngoan khi chú cứ cố ngăn cản cháu, - Colin nói hết sức nghiêm trang. - Cháu sẽ đi.
Ngay cả Mary cũng nhận ra cái thói kỳ quặc nổi bật ở Colin khi nó tuyệt nhiên không thèm để tâm tới thái độ cộc cằn bất lịch sự mà nó vẫn thường thể hiện khi ra lệnh cho ai việc gì đó. Nó đã sống một cuộc đời như thể trên hoang đảo, và từ khi trở thành ông vua của hòn đảo ấy, nó có lối cư xử riêng chẳng có ai để mà so sánh với chính mình. Thật ra Mary cũng giống thằng Colin thôi. Kể từ ngày về Misselthwaite, dần dà nó phát hiện ra rằng cách cư xử của bản thân cũng chẳng lấy gì làm bình thường hay được nhiều người ưa thích cho cam. Từ khi nhận ra điều đó, tự nhiên nó thấy cần phải nói cho Colin biết. Bác sĩ Craven đi khỏi rồi, nó liền ngồi xuống và tò mò nhìn thằng bé mấy phút liền. Nó chỉ muốn Colin hỏi nó tại sao lại làm vậy, và quả nhiên thằng bé lên tiếng.
- Cậu đang nhìn gì tớ thế?
- Tớ nghĩ mà lấy làm buồn cho bác sĩ Craven.
- Tớ cũng vậy, - Colin điềm tĩnh nói, không phải là không có một thoáng tự mãn. - Bây giờ thì ông ấy không thể đoạt lấy Misselthwaite được nữa rồi. Tớ sẽ không chết.
- Dĩ nhiên, tớ thấy buồn cho ông ấy vì điều đó, - Mary bảo, - nhưng chính lúc đó tớ chợt nghĩ rằng quả là khủng khiếp khi phải giữ phép lịch sự trong suốt mười năm qua với một thằng bé luôn luôn thô lỗ. Tớ thì chẳng đời nào chịu làm việc đó.
- Tớ mà thô lỗ à? Colin vặn lại, không một chút bối rối.
- Nếu cậu là con ông ấy và ông ấy thuộc hạng người hay đánh trẻ con thì thể nào ông ấy cũng phát vào đít cậu.
- Ông ấy chẳng dám đâu, - Colin trả lời.
- Ừ, ông ấy chẳng dám, - Mary trả lời, nó đang suy nghĩ những điều sắp nói sao cho hoàn toàn không thành kiến. - Chưa một ai dám làm bất cứ điều gì mà cậu không thích. Bởi họ cho rằng cậu sắp chết, rằng cậu chỉ là một kẻ đáng thương.
- Nhưng, - Colin tuyên bố một cách bướng bỉnh, - tớ không có ý định trở thành một kẻ đáng thương. Tớ không cho phép người ta nghĩ tớ là một kẻ như vậy. Chiều hôm nay, tớ đã đứng được trên đôi chân của mình.
- Chính việc cậu luôn có được điều mình muốn mới khiến cậu trở nên kỳ cục đến vậy, - Mary tiếp tục nói lên thành lời những suy nghĩ của nó.
Colin nhăn mặt ngoái đầu lại.
- Tớ là kẻ kỳ cục sao?
- Phải, - Mary đáp, - rất kỳ cục là đằng khác. Nhưng cậu không cần phải cáu làm gì, - nó nói thêm với vẻ hết sức vô tư, - bởi vì tớ cũng là một đứa kỳ cục... Và ngay cả ông Ben Weatherstaff cũng vậy. Nhưng tớ không còn kỳ cục như trước, khi tớ bắt đầu thấy quý người khác, khi đã tìm ra khu vườn.
- Tớ không muốn là một kẻ kỳ cục, - Colin nói. - Tớ không muốn trở thành như vậy, - nó nghiêm mặt tỏ vẻ quyết tâm.
Colin quả là một thằng bé rất biết tự trọng. Nó nằm suy nghĩ hồi lâu và chính lúc ấy, Mary nhận ra nụ cười tuyệt đẹp của nó bắt đầu nở trên môi và từ từ làm biến đổi toàn bộ gương mặt nó.
- Từ nay tớ sẽ thôi không còn là kẻ kỳ cục, nếu hằng ngày tớ được tới khu vườn ấy. Ở đấy hẳn phải có Phép màu nào đó, một thứ Phép màu tử tế, mà cậu cũng biết rồi còn gì, Mary. Tớ cam đoan rằng nó có tồn tại đấy.
- Tớ cũng tin như vậy.
- Cho dù đó không phải là Phép màu thật đi chăng nữa, - Colin bảo, - chúng ta vẫn có thể coi như thế. Có một cái gì đó ở đấy... một cái gì...!
- Thì đấy chính là Phép màu, - Mary nói, - nhưng nó không hắc ám, mà tốt đẹp, trong trẻo.
Hai đứa luôn gọi đó là Phép màu, và quả thực mọi thứ cũng dường như thế trong những ngày tiếp theo, những ngày tháng kỳ diệu, rực rỡ và quá đỗi lạ lùng. Ôi! Biết bao chuyện đã xảy ra trong khu vườn ấy! Nếu bạn chưa bao giờ có một khu vườn, bạn chẳng hiểu nổi đâu; nhưng nếu bạn có một khu vườn rồi thì bạn sẽ hiểu rằng bạn phải viết cả một cuốn sách để tả lại tất cả những gì đã xảy ra nơi đó. Đầu tiên, dường như những gì có màu xanh đang không ngớt tìm đường vươn lên mặt đất, giữa đám cỏ, trong các luống hoa, thậm chí ngay cả từ các khe nứt trên tường. Rồi mầm xanh bắt đầu nhú thành chồi, chồi đâm lá và lá lại khoe sắc, mọi sắc độ của màu xanh, màu tím, và đỏ thẫm. Để rồi vào những ngày hạnh phúc của mình, muôn vàn đóa hoa cùng bừng lên khắp nơi, trên từng tấc đất, từng xó xỉnh trong vườn. Lão Ben Weatherstaff đã bao lần chứng kiến cảnh tượng ấy, lão đã tự tay cạo sạch lớp vữa giữa các viên gạch trên bức tường rồi nhồi từng vốc đất vào đó giúp cho các thứ rêu cỏ đáng yêu mọc được dễ dàng hơn. Diên vĩ và loa kèn trắng ngoi lên khỏi cỏ dại thành từng búi hoa, còn các khoảng bóng râm trong vườn thì phủ đầy phi yến và thạch thảo.
- Chỉ có bà ấy là quyến luyến chúng nhất, bà ấy... - lão Ben nói, - bà ấy thích tất cả các loài đầy nhựa sống đang vươn lên trời xanh, bà thường bảo vậy. Chẳng phải vì bà coi thường mặt đất đâu, bà yêu nó lắm nhưng bà bảo bầu trời xanh mới tuyệt vời làm sao.
Chỗ hạt giống mà Dickon và Mary gieo đã mọc xanh rờn như thể được các nàng tiên chăm sóc. Các giống hoa anh túc mịn như sa tanh đang rập rờn trong gió nhẹ, vui vẻ thách thức những cây đã ở trong vườn từ nhiều năm nay - bọn này dường như muốn thú nhận chúng đang tự hỏi làm cách nào mà những kẻ lạ mặt đó lại vào được đây. Và kìa! Những khóm hồng, những đóa hoa hồng! Chúng đang mọc lên khỏi thảm cỏ, quấn quanh chiếc đồng hồ mặt trời, ôm lấy các thân cây để rồi buông chùng xuống đất. Chúng còn bò ngược lên các bức tường rồi mới chịu tỏa rộng ra các cành, buông rủ xuống khác nào thác nước. Chúng đang sống lại từng ngày từng giờ. Những chiếc lá tươi xinh xắn, những nụ hoa... thoạt tiên chỉ là những chấm li ti, rồi phình to ra và Phép màu đã ra tay, cho tới khi chúng bừng ra thành những đài hoa thơm ngát, dịu dàng tràn ngập khắp không gian khu vườn.
Colin đã thấy tất cả, đã quan sát từng đổi thay đang diễn ra. Sáng nào nó cũng được đưa tới đây, và từng giờ trong ngày, hễ trời không mưa là nó luôn có mặt trong vườn. Ngay cả những ngày âm u cũng khiến nó thích mê. Nó sẽ nằm dài trên thảm cỏ mà nhìn “vạn vật sinh sôi” - nó bảo thế. Nếu bạn để tâm ngắm thật lâu, nó cả quyết, thì ta có thể xem được cảnh các nụ hoa đang tự mình nhú ra. Và bạn cũng bắt gặp bao điều mới lạ, vô số loài côn trùng bận rộn chạy tứ phía nhưng với mục đích rõ ràng của chúng, lúc thì tha những mẩu rơm, cái lông hay thức ăn, lúc thì bò trên nhánh cỏ như thể đó là những cái cây, để từ đó có thể bao quát cả giang sơn của chúng. Một chú chuột chũi đang đùn lên cả đống đất ở cuối hang của mình và cuối cùng chú ta cũng đào xong một lối thoát với những cái móng sắc dài nom chẳng khác nào những bàn tay yêu tinh, và chuyện này thu hút thằng Colin cả buổi sáng. Nào hang kiến, nào hang của bọ cánh cứng, rồi thì tổ ong, hang ếch, tổ chim và cây cối. Đối với Colin thì đó là cả một thế giới mới mẻ để khám phá. Khi Dickon tiết lộ tất cả những điều này, lại cho nó biết thêm về hang cáo, hang rái cá, hang chồn sương, tổ sóc, luồng cá hồi, rồi thì hang chuột nước, hang lửng thì câu chuyện tưởng như không có hồi kết và người nghe cứ muốn nghe mãi không thôi.
Và đó vẫn chưa phải là một nửa của Phép màu. Việc nó thực sự đứng được trên đôi chân của chính mình đã khiến Colin suy nghĩ rất nhiều, cho nên khi được Mary cho hay câu thần chú mà con bé đã đọc, thằng bé vô cùng phấn khích và đồng tình ngay. Nó thường xuyên bàn luận về điều này.
- Dĩ nhiên, có rất nhiều Phép màu trên thế gian này, - một hôm, thằng Colin ra vẻ khôn ngoan, - nhưng người ta không rõ nó như thế nào và làm sao để tạo ra nó. Có lẽ thoạt tiên chỉ là nói rằng những điều tốt đẹp sắp xuất hiện, cho tới khi cậu làm cho nó xuất hiện. Tớ định làm thí nghiệm xem sao.
Sáng hôm sau, khi cả bọn kéo đến khu vườn bí mật, nó lập tức cho gọi lão Ben Weatherstaff. Lão Ben vừa tất tưởi đến nơi thì đã thấy vị tiểu vương đang đứng dưới một gốc cây, trông thật đường bệ trong nụ cười rạng rỡ.
- Chào ông, ông Ben Weatherstaff, - thằng bé bảo. - Tôi muốn ông và Dickon cùng với cô Mary đứng thành hàng ngang mà nghe tôi nói, bởi vì những điều tôi sắp nói với mọi người hôm nay hết sức quan trọng.
- Vâng, vâng, thưa ngài! - Lão Ben Weatherstaff đáp, đưa tay lên ngang trán. (Một trong những nét đáng yêu lâu nay vẫn giấu kín của Ben Weatherstaff là vào thời trai trẻ, lão đã có những cuộc hành trình trên biển. Bởi thế lão có thói quen đáp lời như một thủy thủ.)
- Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học, - vị tiểu vương giải thích. - Khi nào lớn lên tôi sẽ có những phát minh khoa học vĩ đại và tôi định bắt đầu ngay từ giờ với thí nghiệm này.
- Vâng, vâng, thưa ngài! - Lão Ben mau mắn, mặc dù đây là lần đầu tiên lão nghe đến từ phát minh khoa học vĩ đại.
Đây cũng là lần đầu tiên Mary nghe thấy từ đó, và cho đến giờ nó bắt đầu nhận ra, cũng kỳ cục như chính thằng bé, rằng Colin đã đọc được rất nhiều điều kỳ thú, và chẳng hiểu tại sao nó lại là một đứa bé rất biết cách thuyết phục người khác. Hễ nó ngẩng cao đầu và nhìn đăm đăm vào bạn bằng cặp mắt kỳ lạ của nó, thì bạn hầu như tin nó ngay, dù nó mới lên mười, sắp bước sang tuổi mười một. Vào giây phút đó, nó lại càng đặc biệt thuyết phục bởi bỗng nhiên chính nó cũng cảm thấy sự mê hoặc trong cách nói năng chẳng khác gì một người trưởng thành của mình.
- Những phát minh khoa học vĩ đại mà tôi định tiến hành sau đây, - nó tiếp tục, - sẽ liên quan đến Phép màu. Phép màu là một điều vĩ đại, rất hiếm người hiểu được, trừ một vài người được ghi nhận trong các cuốn sách cổ, - và Mary cũng hiểu đôi chút, bởi vì cô ấy sinh ra ở Ấn Độ, nơi sản sinh ra các vị pha-kia(1). - Tôi cũng tin rằng Dickon biết một số Phép màu, nhưng có thể cậu không ý thức được rằng mình biết. Cậu ấy mê hoặc muông thú và con người. Tôi sẽ không đời nào để cậu ấy đến thăm tôi nếu cậu ấy không phải người biết thu phục loài vật, cũng như thu phục bọn trẻ, bởi vì một đứa trẻ, nói cho cùng, cũng là một con thú nhỏ. Tôi tin chắc rằng có Phép màu trong mọi vật quanh ta, chỉ có điều chúng ta không đủ ý thức để nắm bắt và buộc nó phục vụ chúng ta, như điện năng, sức kéo và hơi nước chẳng hạn.
Những lời ấy vang lên oai nghiêm đến nỗi làm lão Ben Weatherstaff phấn chấn không sao trấn tĩnh được.
- Vâng, vâng, thưa ngài, - lão nói và rướn người thẳng tắp.
- Khi Mary phát hiện ra khu vườn này thì nó như không còn chút sinh khí nào nữa, - nhà hùng biện tiếp tục, - và rồi có một sức mạnh huyền bí nào đó thôi thúc muôn vật vươn lên mặt đất và tạo ra nhiều thứ từ chỗ chẳng có gì hết, hôm trước chưa có gì mà hôm sau đã vô vàn. Trước đó tôi chưa từng thấy chúng, và chúng làm tôi vô cùng tò mò. Những người làm khoa học luôn luôn tò mò, mà tôi thì sẽ trở thành nhà khoa học. Tôi thường tự hỏi: “Đó là cái gì? Đó là gì?” Đó phải là cái gì chứ! Tôi không biết tên của nó, vì vậy chỉ biết gọi nó là Phép màu. Tôi cũng chưa từng được thấy cảnh mặt trời mọc, nhưng Mary và Dickon đã thấy, và từ những gì mà họ nói với tôi, tôi dám khẳng định rằng đó cũng là Phép màu. Có cái gì đó đã đẩy nó lên rồi lại kéo nó xuống. Đôi lúc, kể từ ngày tôi được ở trong khu vườn này, và nhìn lên vòm trời qua tán lá, trong tôi bỗng nảy sinh một cảm xúc kỳ lạ đầy hạnh phúc, như có một cái gì đang đẩy lên rồi lại kéo xuống trong lồng ngực khiến tôi phải thở gấp. Phép màu đã luôn thúc đẩy, lôi kéo và tạo nên mọi thứ từ hư không. Vạn vật đã được tạo nên bởi Phép màu: cỏ cây, hoa lá, chim muông, chồn, cáo, sóc và cả con người. Bởi vậy, nó tồn tại quanh ta. Ngay trong khu vườn này... và khắp nơi khắp chốn. Phép màu trong khu vườn này đã giúp tôi đứng thẳng người lên và ý thức được mình đang sống để trở thành một con người. Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học nhằm tìm kiếm một phép màu rồi đưa nó vào bản thân, để nó thúc đẩy tôi, khiến tôi trở nên vững mạnh. Tôi chưa biết làm cách nào để đạt được điều đó, nhưng tôi cho rằng nếu người ta cứ tiếp tục suy nghĩ về nó, và gọi nó thì rất có thể nó sẽ tới. Có lẽ đây chỉ được coi là một phương pháp non kém ban đầu để đạt được điều đó. Khi lần đầu tiên tôi cố gắng đứng vững, Mary đã luôn miệng nói thầm thật nhanh câu này: “Cậu có thể làm được điều đó! Cậu có thể làm được!”, và quả nhiên tôi đã làm được. Vào lúc ấy, tôi đã cố gắng, hết sức mình, dĩ nhiên là vậy, nhưng phải nói Phép màu của cô ấy đã giúp tôi - và cả của Dickon nữa. Mỗi buổi sáng, mỗi buổi tối và mỗi ngày trôi qua, chừng nào tôi còn nhớ được, tôi sẽ bảo rằng: “Phép màu ở trong chính ta! Phép màu đang giúp ta khỏe mạnh! Ta đang trở nên khỏe mạnh như Dickon, khỏe mạnh chẳng kém gì Dickon!” Ngay cả mọi người cũng phải làm thế. Đấy là thí nghiệm của tôi. Liệu ông có giúp tôi không, ông Ben Weatherstaff?
- Vâng, vâng, thưa ngài. - Lão Ben đáp - Vâng, vâng!
- Nếu mọi người giữ vững ý chí, làm việc đều đặn hằng ngày như những người lính đang khổ luyện ngoài thao trường, chúng ta sẽ tận mắt thấy những gì sắp xảy ra và biết được nếu thí nghiệm ấy thành công. Nếu như bạn học hỏi mọi điều, nghiền ngẫm thấu đáo tới mức chúng in sâu vào tâm trí, thì tôi cho rằng điều đó cũng như một thứ Phép màu. Nếu bạn gọi nó tới giúp, nó sẽ trở thành một phần của các bạn, nó sẽ ở lại và làm nên mọi chuyện.
- Có lần tớ đã nghe một viên sĩ quan ở Ấn Độ bảo với mẹ tớ rằng có những vị thầy tu khất thực cầu nguyện một câu đến cả ngàn lần, - Mary bảo.
- Tôi cũng từng nghe bà vợ ông Jem Fettleworth lải nhải gọi ông Jem là một tay cục súc nghiện rượu hàng ngàn lần, - lão Ben Weatherstaff nói tỉnh queo. - Ông ta vốn hay giấu vợ lỉnh tới quán “Sư tử xanh” nốc cho thật đẫy.
Colin nhăn mày suy nghĩ giây lát. Rồi nó hăng hái nói tiếp.
- Chà, - nó nói, - mọi người có nhận ra điều gì đi kèm câu chuyện vừa rồi không? Bà ta đã sử dụng một thứ phép thuật sai đến nỗi ông ấy phải nện cho. Nếu bà ta sử dụng một phép màu đúng đắn và nói năng tử tế, có lẽ ông ấy đã không nốc rượu xả láng đến vậy và... biết đâu ông ấy chẳng mua tặng bà một chiếc mũ mới.
Colin vừa dứt lời, lão Ben đã cười khùng khục, để lộ vẻ thán phục qua đôi mắt già nua bé tí của lão.
- Cậu là một anh chàng vừa thông minh, vừa có đôi chân thẳng tắp, cậu Colin ạ. Lần tới gặp bà Bess Fettleworth tôi sẽ gợi ý cho bà ấy về những gì mà Phép màu có thể mang lại. Bà ấy chắc sẽ lấy làm mừng nếu thí nghiệm khoa học có thể cải tạo được lão Jem nhà bà.
Từ nãy tới giờ, Dickon cứ đứng mà nghe bài thuyết trình, đôi mắt tròn xoe của nó ánh lên niềm vui xen lẫn vẻ tò mò. Hạt dẻ và Vỏ sò ngồi hai bên vai nó, trong khi một tay nó còn ôm một con thỏ trắng tai dài, tay kia gại gại nhẹ vào con vật. Con thỏ cụp đôi tai dài của nó dọc theo thân mình ra chiều thích thú lắm.
- Cậu có cho rằng thí nghiệm sẽ thành công không? - Colin hỏi Dickon và băn khoăn không biết thằng bé đang nghĩ gì. Nó vẫn thường tự hỏi đâu là những điều Dickon đang nghĩ khi thấy Dickon nhìn nó hay một trong các con vật cưng kia với nụ cười rộng ngoác vẻ hạnh phúc.
Lúc này, Dickon cũng đang cười, miệng còn rộng hơn mọi bữa.
- Vâng, tôi cho rằng vậy, - thằng bé trả lời. - Điều đó sẽ diễn ra, như hạt giống cựa mình dưới ánh mặt trời. Đó là điều chắc chắn sẽ đến. Vậy bao giờ ta sẽ bắt đầu?
Colin phấn khởi, Mary cũng vậy. Nhớ lại hình ảnh các vị thầy tu và những kẻ mộ đạo trong các hình vẽ minh họa, Colin đưa ra gợi ý cả bọn nên ngồi khoanh chân dưới tán cây.
- Cũng tựa như đang ngồi trong một ngôi đền, - Colin bảo, - vả lại bây giờ tớ khá mệt rồi, tớ muốn ngồi.
- Ấy! - Dickon bảo, - cậu không được bắt đầu bằng cách nói rằng mình bị mệt. Cậu có thể làm hỏng Phép màu mất.
Colin quay sang nhìn nó, nhìn sâu vào đôi mắt tròn ngây thơ của thằng bé.
- Đúng thế, - nó chậm rãi nói, - tớ chỉ được nghĩ đến Phép màu mà thôi.
Quang cảnh hết sức trang trọng và huyền bí khi cả bọn ngồi xuống thành vòng tròn. Lão Ben Weatherstaff có cảm tưởng như đang bị dẫn ra mắt tại một buổi cầu nguyện nào đó. Bình sinh lão vốn có thành kiến với những cái được gọi là “tụ tập cúng bái”, vậy nhưng đây lại là công chuyện của vị tiểu vương, lão không hề bực bội, thậm chí còn thấy biết ơn vì được mời tham dự. Cô chủ nhỏ Mary thì mê mẩn một cách trang nghiêm. Dickon ôm con thỏ trong tay, có lẽ nó đang ra một hiệu lệnh riêng của người dạy thú mà không ai nghe thấy. Rồi nó ngồi xếp bằng tròn như những người khác. Con quạ, con cáo, hai tên sóc và con cừu non từ từ sán lại tạo thành một vòng quanh thằng bé.
- Bọn thú đã tới, - Colin nói vẻ trang nghiêm - Chúng muốn giúp chúng ta.
Colin trông thật đẹp, Mary nghĩ thầm. Thằng bé ngẩng cao đầu và cảm thấy mình như một vị trưởng tế, đôi mắt lạ kỳ của nó lúc này lấp lánh những ánh nhìn tuyệt đẹp. Ánh nắng xuyên qua tán cây chiếu vào người nó.
- Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu, - nó nói, - chúng ta sẽ lắc lư về phía trước và phía sau, phải không Mary, như thể chúng ta là những giáo sĩ Hồi giáo thần bí.
- Tôi không thể lắc lư về phía trước về phía sau được, - lão Ben bảo - Tôi bị đau khớp mà.
- Phép màu sẽ đẩy lùi chúng, - Colin đáp lại bằng giọng của một Thầy Cả. - Nhưng ta sẽ không lắc lư cho đến khi nó làm điều đó. Ta sẽ chỉ hát thánh ca.
- Tôi không thể hát thánh ca, - lão Ben nói hơi gắt gỏng - Họ đã đuổi tôi ra khỏi đội hợp xướng nhà thờ ngay cái lần duy nhất tôi thử hát.
Không ai cười. Mọi người đều giữ vẻ mặt nghiêm trang. Thậm chí khuôn mặt Colin không gợn thoáng tức giận. Nó mải mê suy nghĩ về Phép màu.
- Vậy thì tôi sẽ hát thánh ca. - Nó nói. Và nó bắt đầu, với khí thế của một chàng trai - “Mặt trời đang tỏa rạng - mặt trời đang tỏa rạng. Ấy là Phép màu. - Hoa lá đang đua nở. Rễ cây đang vươn lên. - Ấy là Phép nhiệm màu. - Được sống là màu nhiệm. - Khỏe mạnh là nhiệm màu. - Nhiệm màu ở trong ta. - Nhiệm màu ở trong ta. - Nó đang ở trong ta, nó đang ở trong ta. Ở trong mỗi chúng ta. Trong tấm lưng của Ben Weatherstaff. Phép màu! Phép màu! Hãy tới và cứu rỗi chúng con!”
Thằng bé đã đọc đi đọc lại câu ấy không biết bao nhiêu lần, nếu chưa đến ngàn lần thì chắc cũng phải nhiều lắm. Mary lắng nghe mê mải. Nó cảm thấy có cái gì đó vừa kỳ quặc vừa đẹp đẽ trong bài thánh ca đó và nó muốn Colin cứ tiếp tục. Lão Ben cũng cảm thấy như người ta đang ru lão vào một giấc mộng vô cùng dễ chịu. Tiếng vo ve của bầy ong giữa những bông hoa đang nở rộ hòa lẫn cùng giọng hát dần biến thành một cơn buồn ngủ dễ chịu. Dickon ngồi khoanh chân, con thỏ đang ngủ trên tay, còn tay kia của nó đặt trên lưng con cừu non. Bồ hóng vừa hích được con sóc ra khỏi chỗ của nó rồi ghé sát lại trên vai thằng bé, mắt Dickon cũng đang ríu lại vì buồn ngủ. Cuối cùng, Colin ngừng lại.
- Bây giờ tôi muốn đi dạo quanh khu vườn, - nó tuyên bố.
Đầu lão Ben vừa chúi về phía trước bỗng ngật trở lại.
- Ông không ở trong nhà thờ, - Colin bảo.
- Đâu có ạ, - lão Ben nói lí nhí. - Bài thuyết giáo nghe hay quá. Tôi vừa cúi xuống xem đang ở chương nào đấy chứ.
Lão có vẻ vẫn lơ mơ chưa tỉnh hẳn.
- Ông đâu ở trong nhà thờ, - Colin bảo.
- Ai bảo không nào? - Lão Ben nói và rướn thẳng người lên. - Tôi nghe rõ từng câu một. Cậu chẳng bảo Phép màu trong lưng tôi là gì. Nhưng bác sĩ thì gọi đó là chứng thấp khớp.
Vị tiểu vương xua tay.
- Đấy là thứ Ma thuật sai trái. Rồi ông sẽ khỏi thôi. Ông được phép đi làm việc. Nhớ quay lại vào ngày mai đấy nhé.
- Tôi chỉ muốn được thấy cậu đi dạo quanh vườn, - Lão Ben nói càu nhàu.
Nhưng đó không phải những tiếng càu nhàu khó chịu, mà chỉ đơn thuần tính lão hay cấm cảu. Vốn là một lão già bướng bỉnh ương ngạnh, không tin lắm vào Phép màu nên lão quyết định nếu bị đuổi đi thì lão sẽ trèo lên thang mà nhòm qua bờ tường, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì lão có thể khập khiễng quay trở lại giúp.
Do vị tiểu vương không phản đối việc lão ở lại, nên mọi người tập hợp thành một đoàn. Trông họ chẳng khác nào một đám rước. Colin đi đầu, kế đến là Dickon rồi Mary. Lão Ben lẽo đẽo theo sau, đám thú hoang bám sau rốt. Cừu non và cáo con theo sát Dickon, thỏ trắng cũng nhảy nhảy bám gót, thỉnh thoảng còn dừng lại gặm mấy cọng cỏ non. Con Bồ hóng thì không chịu rời thằng bé một bước, với vẻ trang nghiêm của một kẻ ý thức được trách nhiệm của mình.
Đám rước di chuyển chậm rãi, nhưng dáng vẻ chững chạc đàng hoàng. Cứ vài mét họ lại dừng lại để nghỉ. Colin tựa người vào cánh tay Dickon, lão Ben kín đáo để mắt coi chừng, thỉnh thoảng Colin lại gỡ tay khỏi Dickon và tự đi mấy bước. Những lúc như thế, đầu nó ngẩng cao hết sức kiêu hãnh.
- Phép màu ở trong ta! - Nó cất tiếng nói - Phép màu đang làm ta khỏe mạnh! Ta có thể cảm nhận được nó! Ta có thể cảm nhận được nó!
Dường như chắc chắn có một cái gì đang nâng đỡ nó. Thằng bé ngồi xuống những chiếc ghế bên đường, thỉnh thoảng nó còn ngồi bệt xuống bãi cỏ, có lúc lại dừng bước trên con đường mòn, tựa người vào Dickon, nhưng nó nhất định không chịu bỏ cuộc cho tới khi đã làm một vòng quanh khu vườn. Lúc trở về cái cây dùng làm mái che thì hai má nó đỏ bừng đầy vẻ đắc thắng.
- Ta đã làm được! Phép màu đã ra tay! - Nó kêu to. - Đây là phát kiến khoa học đầu tiên của ta.
- Không biết bác sĩ Craven sẽ nói gì nhỉ? - Mary buột miệng bảo.
- Ông ấy sẽ chẳng thể nói gì, - Colin đáp, - bởi vì ông ấy không được ai bảo cho mà biết. Đây có lẽ là bí mật lớn nhất trong tất cả các bí mật. Không ai được biết gì về nó cho tới khi tớ trở nên khỏe đến nỗi có thể đi đứng, chạy nhảy như mọi đứa trẻ khác. Từ hôm nay tớ sẽ tới đây hằng ngày rồi trở về bằng chiếc xe đẩy của tớ. Tớ không muốn mọi người xì xào bàn tán hay hỏi han, và càng không muốn để cha tớ nghe thấy chuyện này cho tới khi nào thí nghiệm thành công. Rồi đến lúc nào đó, khi ông trở về Misselthwaite, tớ sẽ bước thẳng tới phòng làm việc của ông mà bảo: “Con đây - giờ thì con cũng như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Con hoàn toàn khỏe mạnh và sẽ sống để trở thành một người đàn ông. Đây chính là kết quả của một thí nghiệm khoa học.”
- 9f0 Ông ấy sẽ ngỡ là mình đang mơ cho mà xem, - Mary bật cười. - Ông ấy không tin nổi vào mắt mình đâu.
Colin đỏ bừng mặt đắc thắng. Nó đã khiến cho chính nó tin rằng mình đang khá lên, và vậy đã là hơn nửa trận chiến rồi, nếu nó nhận ra điều đó. Và cái ý nghĩ khuấy động tâm hồn nó hơn bất kỳ điều gì khác, là mường tượng ra cảnh cha nó nhận ra ông có một đứa con trai cũng thẳng thớm và khỏe mạnh như con cái nhà ai. Một trong những bất hạnh đen tối nhất của nó trong những ngày bệnh tật đau yếu vừa qua, chính là nỗi uất hận khi phải làm một thằng bé gù lưng còi yếu đến độ cha mình cũng phải hãi hùng khi nhìn thấy.
- Ông ấy sẽ phải tin thôi, - nó nói. - Một trong những việc tôi sắp làm, sau khi được Phép màu phù hộ và trước khi tôi bắt tay vào các khám phá khoa học, là trở thành một vận động viên điền kinh.
- Chúng tôi sẽ dạy cậu chơi đấm bốc chỉ trong vòng một tuần, - lão Ben bảo. - Cậu sẽ là người chiến thắng với việc giành Đai Vàng và trở thành nhà vô địch toàn nước Anh cho mà xem.
Colin đưa mắt nhìn lão một cách nghiêm khắc.
- Ông Weatherstaff này, nói vậy là thiếu tôn trọng đấy. Ông đừng tùy tiện sỗ sàng, bởi vì ông cần phải giữ bí mật. Dù Phép màu có hiệu nghiệm đến đâu, tôi cũng sẽ không vô địch quyền anh đâu mà sẽ trở thành một nhà phát minh khoa học.
- Ấy, xin cậu thứ lỗi, thưa cậu, - lão Ben vừa đáp, vừa đặt tay ngang trán để chào. - Có lẽ tôi nên đi gieo hạt hơn là ở đây mà tán dóc.
Đôi mắt lão nheo nheo lấp lánh, tự đáy lòng lão cảm thấy hết sức vui vẻ. Thực tình lão không hề bận lòng vì bị bẽ mặt, bởi vì việc làm lão bẽ mặt có nghĩa là, anh chàng này đã lấy lại được sức mạnh và tinh thần.
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !