Lá Cờ Ma Chương 4

Chương 4
Vua trộm mộ

Tượng đài chỉ là tượng đài, hướng ngón tay chỉ không nói lên điều gì đặc biệt. Cái cây cổ thụ đó đích thực là được Sở cây xanh thành phố Thượng Hải bứng từ nơi khác đến trồng ở đây từ ba năm trước để phục vụ công trình xây dựng Tòa thị chính thành phố. Nó hoàn toàn không có bất cứ mối liên hệ nào với anh em nhà họ Tôn.

Vệ Tiên sống trong khách sạn Hilton. Mối nghi hoặc của tôi về thực lực kinh tế của gã biến mất khi gã thẳng thắn thừa nhận nghề nghiệp của mình.

Bởi thế, tôi bắt buộc phải đính chính lại sai lầm của mình, gã không phải là một tên tiểu tặc mà là một kẻ đại tắc.

“Tôi là người chứng kiến lịch sử”, Vệ Tiên vừa nói vừa thong thả rót cho tôi một chén trà. Anh ta dùng loại ấm trà mỏ hạc tráng men bạc, và loại chén hoa cúc bằng bạc mạ vàng, toát lên vẻ cổ đại, mà trên thực tế thì chúng đúng là những cổ vật cực kỳ giá trị.

“Lần trước tôi tới Từ Châu, thấy sườn núi ở đó bị những chiếc xẻng Lạc Dương[1] đào xới thành những tổ ong, bọn anh chứng kiến lịch sử theo cách đó à?”, tôi cười gằn.

[1] Xẻng Lạc Dương: một loại dụng cụ đào mộ do một người trộm mộ ở Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc phát minh ra cách đây hơn 100 năm. Là một ống có tiết diện hình bán nguyệt, dài khoảng 20cm-40cm, đường kính 5cm-20cm, khi dùng cắm một cán gỗ sắc vào, có thể đào sâu xuống đất hơn mười mét, sau đó dựa vào kết cấu, màu sắc, các hợp chất của đất đào lên để phán đoán bên dưới có mộ cổ hay không.

“Hây, không cần phải hằn học với tôi như thế chứ hả? Đã quyết định hợp tác với nhau rồi thì đừng nên ghi thù nhớ hận nữa”, Vệ Tiên tươi cười nói.

Không ai giơ tay đánh người mỉm cười, Vệ Tiên đã tỏ rõ thành ý hợp tác như thế, tôi cũng không nên quá đáng quá.

“Anh là phóng viên, có điều mấy kẻ bức tử công nương Diana của nước Anh, có thể gọi là phóng viên hay không? Làm nhà văn nghe có vẻ cao quý lắm, nhưng những kẻ viết mấy thứ tiểu thuyết tình ái dung tục, có thể coi là nhà văn hay không? Mỗi lĩnh vực đều có người cao kẻ thấp, vì thế anh đừng có đánh đồng những người chứng kiến lịch sử như tôi với mấy gã trộm mộ nơi sơn dã, mấy gã đó chỉ biết phá hoại thôi, ngoài ra chẳng hiểu gì hết.”

“Về bản chất thì cũng có gì khác nhau đâu, phóng viên thì phải phỏng vấn, nhà văn thì phải viết văn, còn bọn anh thì phải chôm chỉa những thứ đáng tiền nhất trong mộ của người ta”, gã đụng chạm tới nghề nghiệp của tôi thì tôi không thể không phản bác và chế giễu hắn một cách sâu cay được.

“Ha ha, bản chất của phóng viên là phỏng vấn, bản chất của nhà văn là viết văn ư? Một cách nói tuyệt hay đấy, nhưng anh có thực sự nghĩ như thế?”, Vệ Tiên cười rất sảng khoái.

Tôi thấy lời mình vừa nói có phần ngô nghê, lúc này nếu cố tiếp tục tranh luận chỉ càng thêm ngu muội nên tôi lặng thinh, trong lòng không thể không thừa nhận rằng, trình độ của Vệ Tiên vượt hơn những gì tôi nghĩ nhiều.

“Nói chúng tôi chôm chỉa những thứ đáng tiền nhất trong mộ của người ta không phải là cách nói hợp lý nhất đâu anh bạn, trên thực tế, chúng tôi lấy ra những thứ giá trị nhất từ trong lòng đất. Để làm được những điều ấy, cần phải có sự tu dưỡng chuyên môn đấy, tay nghề không phải cao tay ở mức thông thường đâu.”

“Được rồi, được rồi, anh đừng tự thổi phồng bản thân nữa, chắc anh đã chú ý đến tôi từ bài viết của tôi đăng trên báo ‘Ngôi sao buổi sớm’ chứ gì, nhưng làm sao anh biết ‘khu ba tầng’?”

“Gia tộc chúng tôi là một gia tộc lớn, đa phần những người trong dòng họ đều… theo nghề này. Ở đời ông nội tôi có một người xuất chúng. Ông ấy được trời phú một trực giác đặc biệt đối với thế giới ngầm dưới lòng đất và nhờ nó mà ông ấy đã tìm kiếm thành công nhiều ngôi mộ trong truyền thuyết, phần lớn trong số đó vốn dĩ chỉ được ghi chép trong các điển tích. Tìm thấy những ngôi mộ như thế đã khó, mà sống được để trở lại với thế giới bên ngoài lại càng là một kỳ tích. Vậy nhưng ông ấy đã thành công liên tiếp, tiếng tăm vang dội, một thời không có đối thủ”. Ánh mắt của Vệ Tiên bừng lên vẻ ngưỡng mộ thần thánh, rõ ràng là gã vô cùng sùng bái nhân vật truyền kì này.

“Vua trộm mộ đệ nhất thiên hạ ư?”, tôi hỏi.

Vệ Tiên gật đầu: “Năm xưa Vệ Bất Hồi quả xứng đáng với danh hiệu này, nhưng một ngày kia, ông ấy đi trộm một ngôi mộ cổ và từ đó không bao giờ trở về nữa, đúng như cái tên của ông ấy.”

“Khu ba tầng?!”, tôi buột miệng thốt ra.

Vệ Tiên không trả lời câu hỏi của tôi mà tiếp tục tự lẩm bẩm một mình. “Khi đó bạn bè của ông ấy hoàn toàn không biết ông ấy đi đâu, chỉ biết ông ấy đã bắt đầu tìm kiếm ngôi mộ cổ này từ trước đó rất lâu, trước cả khi ông ấy có được những thành công vang dội, điều đó đủ chứng tỏ, ngôi mộ cổ này bí mật và quan trọng đến mức nào. Ông ấy ưa hành động một mình, vì thế tất thảy bạn bè ông ấy không ai rõ tình hình cụ thể về ngôi mộ cổ này, chỉ biết dường như ông ấy có được bước tiến quan trọng trong một thời gian ngắn nên bắt tay vào hành động và từ đó không bao giờ trở về nữa. Kể từ ngày ấy, biết bao người cũng muốn tìm kiếm ngôi mộ cổ đó, bởi lẽ ai tìm thấy nó người ấy sẽ trở thành đệ nhất thiên hạ.”

Đôi mắt của Vệ Tiên chừng như long lanh hơn khi nhắc đến bốn chữ “đệ nhất thiên hạ”.

Đệ nhất thiên hạ, cái danh hiệu chí tôn này luôn tiềm tàng sức hấp dẫn khó cưỡng.

“Đệ nhất thiên hạ, nó thật sự quan trọng đến thế à?”, tôi hỏi.

Vệ Tiên trầm mặc giây lát rồi cất tiếng: “Tôi có một cậu em cực kì xuất sắc.”

“Vệ Hậu à?”, tôi buột miệng.

Vệ Tiên mỉm cười: “Đúng thế, nó tên là Vệ Hậu, đứa chui ra trước tên là Vệ Tiên, đứa chui ra sau tên là là Vệ Hậu, may mà không có đứa thứ ba, nếu không thì phiền toái ra trò đấy”, lúc này, gương mặt gã đã trở lại vẻ tương cười lúc trước.

“Thực ra, không phải tôi muốn tranh giành gì với cậu em tôi đâu, có điều ngôi mộ huyền thoại đó mê hoặc người ta quá, không người nào làm trong nghề của chúng tôi không coi đó là mục tiêu cao nhất của mình”.

“Điều này thì tôi hiểu. Phóng viên chúng tôi cũng thế, khi đã đam mê với nghề thì sẽ có những thứ dù biết là chí mạng nhưng vẫn không thể cưỡng nổi”, vào giây phút này, tôi bắt đầu thực sự thấy có thiện cảm với người thanh niên trước mặt.

“Là cháu ông ấy, tôi vẫn có ưu thế hơn kẻ khác, chính là mảnh giấy này đây”, Vệ Tiên rút từ trong túi ra một mảnh giấy trải ra trước mặt.

Mảnh giấy là bản phô tô của một bức họa đồ.

“Tôi vốn cứ nghĩ đây là một tấm bản đồ nên đã mất khá nhiều công sức, thời gian đối chiếu với bản đồ của từng thành phố, huyện thị của Trung Quốc và cả của các nước lân bang, tất cả đều không khớp”.

Tôi quan sát tỉ mỉ bức họa đồ. Nó là hai hình vẽ không theo quy tắc, lồng ghép vào nhau. Hình vẽ bên trong nhỏ tí xíu, nằm ngay sát rìa hình vẽ to bên ngoài. Trí não tôi hiện lên những tấm bản đồ còn in trong trí nhớ rồi chúng tan đi rất nhanh, vì Vệ Tiên đã lấy bản đồ thực ra so sánh mà không tìm thấy nó thì tôi có cố nhớ cũng chẳng ích gì. Nếu nó thực sự là một tấm bản đồ thì tại sao trông nó lại lạ đến thế?

“Gần đây tôi mới biết nó chính là bản đồ Thượng Hải”, Vệ Tiên mỉm cười.

“Thượng Hải á?”, tôi chau mày quan sát lại lần nữa, “tại sao lại là Thượng Hải được nhỉ?”

“Nói chính xác hơn thì nó là quận Cối Kê[2]”.

[2] Quận Cối Kê: một địa danh cũ của Trung Quốc, do Tần Thủy Hoàng lập ra năm 223 TCN, là khu vực Giang Chiết lấy Tô Châu của Giang Tô làm trung tâm và một bộ phận của Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang ngày nay.

“Quận Cối Kê à? Là quận Cối Kê thời Tam Quốc?”, tôi từng chơi game Tam Quốc nhiều lần nên biết đại quân này.

“Năm 223 trước Công nguyên, sau khi nước Tần[3] tiêu diệt nước Sở[4] đã lập ra quận Cối Kê, gồm phần lớn diện tích của Thượng Hải và Tô Châu ngày nay. Trong một lần tình cờ đọc được cuốn bản đồ lịch sử ở hiệu sách, tôi mới nghĩ ra mình đã bỏ qua một manh mối lớn như thế.”

[3] Nước Tần (778 TCN-207 TCN): là một nước chư hầu thời Xuân Thu (722 TCN-481 TCN) và Chiến Quốc (481 TCN-221 TCN) ở Trung Quốc. Cuối cùng, nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn bộ các nước và lần đầu tiên thống nhất Trung Hoa, từ thời điểm này nó được gọi là Nhà Tần.

[4] Nước Sở (1030 TCN- 223 TCN): còn được gọi là Kinh và sau đó là Kinh Sở, là một vương quốc chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc, ở nơi hiện nay là phía nam Trung Quốc.

“Vậy còn hình vẽ này?”, tôi chỉ vào hình vẽ nhỏ bên trong, hỏi.

“Đây là bản phô tô nên nhìn không rõ, bản gốc khá rõ. Hai hình vẽ này thể hiện hai lần vẽ khác nhau, nói cách khác, lúc đầu Vệ Bất Hồi chỉ xác định được là ngôi mộ cổ mà ông ta muốn tìm kiếm nằm trong quận Cối Kê. Tấm bản đồ cho chúng ta biết chủ nhân của ngôi mộ cổ sống vào khoảng thời gian từ nhà Tần tới nhà Tùy[5], tức là trong một khoảng thời gian dài bảy, tám trăm năm. Về sau, những khu vực hành chính trực thuộc quận Cối Kê đã có nhiều thay đổi, nó từng được hợp nhất và chia tách với huyện Sơn Âm, có lúc những khu vực hành chính trực thuộc của nó gần giống với tấm bản đồ này nên rất khó thu hẹp phạm vi tìm kiếm. Nhưng hình vẽ ở mặt sau được Vệ Bất Hồi vẽ không lâu trước khi ông ấy rời đi, có lẽ ông ấy nghĩ mình không thể đoán định được nó nên vẽ tấm bản đồ này để người đời sau có thể dùng làm manh mối. Tôi đã mất rất nhiều thời gian tìm hiểu mọi tư liệu bản đồ mà tôi có được, thậm chí nghiên cứu không ít bản đồ quân sự thời cổ đại, tìm kiếm bản đồ từ thời Tần cho tới thời hiện đại.”

[5] Nhà Tùy (581-618 TCN): là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, tiếp theo thời kì Nam Bắc triều và trước nhà Đường.

“Kết quả thế nào?”, tôi sốt sắng hỏi.

“Thực ra nếu không bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của lần thứ nhất thì tôi vốn dĩ không mất nhiều thời gian như thế. Câu trả lời rất đơn giản, trước khi đi, Về Bất Hồi đã vẽ nói lại theo bản đồ quận Sạp Bắc.”

“Nhưng làm sao anh có thể xác định được đó là ‘khu ba tầng’?”

Vệ Tiên xua tay, nói: “Tôi không xác định đó là ‘khu ba tầng’”.

“Nếu không xác định đó là ‘khu ba tầng’ sao anh lại tìm tới tôi, lẽ nào anh không phải vì bài báo của tôi…”

“Không đọc bài báo thì không thể tìm được anh hay sao?”, Vệ Tiên cười tít mắt.

Tôi sững người, không biết nói gì.

“Xem chừng anh không biết tiếng tăm của mình trong thế giới dưới lòng đất đâu nhỉ, tôi nghe nói về anh từ rất lâu rồi đấy”.

Tôi hơi ngạc nhiên: “Anh biết những gì?”

“Người trong bóng tối tất có cách tìm kiếm thông tin của người trong bóng tối”. Nói tới đây, Vệ Tiên chợt ngừng lại, chừng như anh không muốn nói quá nhiều về vấn đề này.

“Vậy là vốn dĩ anh đã muốn đồng hành với tôi, nhưng chuyện tối qua là như thế nào?”

“Tôi định bụng tặng anh một cuộc gặp gỡ đặc biệt, hơn nữa chúng ta chưa từng quen biết nhau, tuy tôi có nghe người ta nói… cẩn thận một chút vẫn hơn. Có điều, tối qua lúc lẻn vào nhà anh, tôi thấy ngay cuốn sổ đó, bèn giở ra xem và có thể xác định đây chính là thứ tôi cần tìm. Tìm thấy mục tiêu rồi tôi bèn đổi ý, quyết định hành động một mình.”

“Bại trận rồi nên anh mới quay đầu lại, tìm tới tôi để hợp tác chứ gì?”

“Chẳng lẽ không được sao?”, Vệ Tiên nhìn tôi.

Tôi bất giác bật cười: “Không phải lúc trước chúng ta đã nói rồi à? Sao bây giờ anh còn hỏi lại?”

Tôi nhận ra anh chàng Vệ Tiên thật chẳng giống một người quen hoạt động trong thế giới hắc ám chút nào. Anh ta có một trái tim lương thiện. Lần này anh ta tình nguyện hợp tác với tôi, nguyên nhân chủ yếu nhất có lẽ là do anh ta cảm thấy áy náy trong lòng vì đã trộm đồ của tôi, bởi thế khi gặp lại tôi, anh ta không muốn lảng tránh, cũng không muốn phỉnh lừa tôi. Tôi và anh ta không phải người cùng nghề nên không có sự xung đột về lợi ích, có thể hợp tác.

“Oài, lúc nhìn thấy cái cây đó, tôi cứ tưởng mình đã tìm được lối vào, nhưng ngẫm lại cũng đúng thôi, làm gì có chuyện tìm thấy nó dễ dàng như thế”.

“Ít ra thì bức tượng ấy cũng giúp chún ta khẳng định được thân phận của bốn anh em nhà họ Tôn”.

“Thận phận, thân phận gì cơ?”, Vệ Tiên hỏi.

Tôi bèn chia sẻ những hiểu biết của mình về tướng mạo bên ngoài của bốn anh em nhà họ Tôn, về thời Tam Quốc và cả những suy đoán về ý nghĩa của bức tượng đài Tôn Quyền được đặt tại vườn hoa Sạp Bắc.

“Xem ra hợp tác với anh là một quyết định sáng suốt đấy. Thế là chúng ta có thêm một manh mối nữa”. Vệ Tiên uống một hơi cạn chén trà, tỏ ra vô cùng cao hứng.

“Đáng tiếc là ông lão Tiền Lục chết rồi, nếu không chắc chắn chúng ta sẽ biết thêm một số điều”.

Vệ Tiên cũng đã biết về cái chết của ông lão Tiền Lục, xem ra anh chàng này đã chuẩn bị khá nhiều rồi đây.

“Thế này nhé, mỗi người chúng ta tự điều tra và thông báo cho đối phương ngay khi có bước tiến mới. Cách tư duy và hành động của chúng ta khá khác nhau, nếu cùng nhau phân tích và suy đoán thì tôi e lại lầm đường như hôm nay đấy”, Vệ Tiên đề nghị.

“Anh vẫn nhớ chứ và anh cũng nên biết, tôi không ghi những suy đoán của mình vào trong cuốn sổ mà chỉ chép lại sự kiện, vì tôi với anh suy đoán và tư duy giống nhau nên hôm nay mới gặp mặt nhau thế này, không phải là tôi khiến anh đi nhầm đường đâu nhé. Tự mình hành động cũng được thôi, nhưng anh chớ đổ hết mọi việc lên đầu tôi đấy”, tôi cười nói.

Những kẻ trộm mộ cừ khôi thường ưa hành động một mình, ngay cả khi hợp tác với người khác đi nữa, trước lúc sự việc sáng tỏ, hắn vẫn thích đơn thương độc mã nếu có thể.

Tôi cáo từ ra về. Lúc bước chân tới cửa, tôi thấy chị phục vụ khệ nệ bê một chồng báo lớn tới gõ cửa phòng Vệ Tiên.

“Thưa ngài, báo của ngài đây ạ”.

“Anh đọc nhiều báo như vậy à?”, tôi ngạc nhiên hết sức.

“Khà khà, việc phải làm mỗi ngày ấy mà. Biết đâu trên báo lại có những mẩu tin thú vị đối với tôi”.

Tôi ưỡn vai, quay người bước ra khỏi phòng.

Tôi nín thở, lòng thầm mong tôi sẽ tiến thêm một bước trước Vệ Tiên, không ngờ ngay khi chỉ còn cách nhà vài trăm mét, tôi đã nhận được điện thoại của anh ta.

“Có manh mối rồi, anh tới chỗ tôi hay tôi tới chỗ anh?”

“Nhanh thế cơ à? Anh đừng đùa tôi đấy nhé”, tôi hơi buồn lòng, “À, thôi, để tôi tới chỗ anh vậy, anh đợi chút nhé”, dù sao đi nữa có thêm manh mối cũng là tốt rồi.

Chỉ trong thời gian ngắn như vậy, không biết anh ta có được tiến triển gì? Anh ta còn chưa đọc hết những chồng báo cao ngất ngưởng đó… hay là anh ta có được manh mối gì từ trên mặt báo?

Tôi bước vào phòng của Vệ Tiên trong khách sạn. Vệ Tiên trải một tờ báo lớn trước mặt tôi và tôi biết mình đã đoán đúng.

Đó là một mẩu quảng cáo trước ngày triển lãm của hội chợ đấu giá các tác phẩm nghệ thuật có giá trị mùa thu của Tập đoàn Đóa Vân Hiên với hình ảnh của một số cổ vật được đưa ra bán đấu giá trong hội chợ sắp tới.

“Có gì không đúng à?”, tôi hỏi.

“Là vật này”, Vệ Tiên chỉ tay vào bức ảnh to nhất.

Bức ảnh nổi rõ hình ảnh một chiếc bồn gốm, thoạt trông không bắt mắt lắm, nhưng hình ảnh khá sắc nét nên nếu quan sát kĩ có thể thấy những hoa văn tinh tế và sinh động in trên thân chiếc chậu gốm.

Bên dưới có một dòng chú thích nhỏ: Chậu nạp tài thời Minh, phỏng theo chậu của Thẩm Tú.

Kì lạ thật, vị trí này lẽ ra phải là bức ảnh chụp vật phẩm có giá trị nhất trong hội chợ đấu giá sắp tới chứ nhỉ, nhưng vật này…

“Anh cảm thấy kì lạ là tại sao vật này lại ở đây chứ gì? Tôi cũng thấy lạ, vì những vật như thế này thường là vật được đem đấu giá cuối cùng và chỉ những người tầm cỡ như các đại gia Hồng Kông mới đủ tiền mua”.

“Á, chiếc chậu này không phải chỉ là vật làm giả thôi sao, tuy được chế tác từ thời Minh nhưng cũng không đến mức đắt như thế chứ?”, câu nói của Vệ Tiên làm tôi vô cùng thảng thốt.

“Ha ha, anh có biết Thẩm Tú là ai không?”

Tôi lắc đầu, hỏi tôi Lưu Tú thì tôi còn biết, chứ Thẩm Tú thì tôi chịu, không có chút ấn tượng nào cả.

“Ở thời Minh người ta hay nhắc đến những nhà cự phú. Cự phú là ba hộ giàu có nhất trong một vạn hộ, bởi thế những nhà cự phú còn được gọi là vạn tam”.

“Vậy thì có quan hệ gì với Thẩm Tú… chờ đã, ý anh muốn nói Thẩm Tú chính là Thẩm Vạn Tam?”

“Đúng thế, người đời đều nghe danh nhà cự phú Thẩm Vạn Tam giàu có ngang với của cải của một đất nước, được Chu Nguyên Chương yêu mến xung quân mà không biết tên thật của ông ấy chính là Thẩm Tú”.

Phút chốc, tim tôi như đập nhanh hơn: “Vậy chiếc chậu nạp tài chính là…”

Vệ Tiên hơi nhếch miệng, nói: “Chính là chiếc chậu tụ bảo, chậu tụ bảo của Thẩm Vạn Tam”.

“Nhưng chiếc chậu nạp tài này chỉ là vật mô phỏng thôi mà, có phải là chiếc chậu tụ bảo thật đâu”.

“Chậu tụ bảo thật ư, có thể có chiếc chậu tụ bảo thật đó hay không, chúng ta không nhắc tới nữa. Tương truyền, chiếc chậu tụ bảo đó đã bị vỡ rồi. Còn ‘chiếc chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ cũng chỉ có một chiếc duy nhất thôi”.

“Tại sao lại chỉ có một chiếc duy nhất?”

“Lúc Thẩm Tú và Chu Nguyên Chương còn thân thiết, Thẩm Tú đồng ý để Chu Nguyên Chương mời những người thợ gốm giỏi nhất thiên hạ tới chế tác một chiếc chậu mô phỏng chiếc chậu tụ bảo. Chu Nguyên Chương tin rằng, những đường vân vấn vít nhau trên thân chiếc chậu tụ bảo đã làm nên tác dụng thần kì của nó, nên chiếc chậu mô phỏng được làm giống hệt nguyên mẫu, tuy thế, nó không có được công hiệu của chiếc chậu nguyên mẫu. Chu Nguyên Chương rất thất vọng vì điều đó, về sau ông đã ban chiếc chậu này cho đại tướng quân Thường Mậu”.

“Sao anh biết, câu chuyện này có trong lịch sử à?”

“Là một người chứng kiến lịch sử, đương nhiên tôi phải biết nhiều rồi”, Vệ Tiên tủm tỉm.

“Theo như anh nói thì chiếc chậu của Thẩm Tú đúng là một vật quý hiếm đấy. Nhưng manh mối mới mà anh muốn nhắc tới ở đây là gì thế?”

“Người ta chưa từng chính thức phát hiện mộ của đại tướng quân Thường Mậu. Ngôi mộ này cũng là một trong những ngôi mộ bí ẩn được lưu truyền trong giới trộm mộ, có điều bảy mươi năm về trước, ngôi mộ này đã bị…”

“Vệ Bất Hồi!”, Vệ Tiên chưa nói hết câu, tôi đã buột miệng thốt ra.

“Đúng thế, ngôi mộ này đã góp phần làm nên danh tiếng lẫy lừng của Vệ Bất Hồi. Vì thế, chiếc chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú này vốn dĩ phải ở trong tay ông ta”.

Tôi và Vệ Tiên ăn vội đồ ăn nhanh rồi tất tả đến Tập đoàn Đóa Vân Hiên. Tìm được người ủy quyền bán đấu giá tức là tìm được Vệ Bất Hồi, hoặc người đó chí ít cũng phải có mối quan hệ khăng khít với Vệ Bất Hồi.

Thế nhưng người ta bảo mật thông tin nên lần này ngay đến thẻ phóng viên của tôi cũng không giúp ích được gì.

Lời nói của vị giám đốc lúc tiếp chúng tôi đã cản ngay ý định của chúng tôi: “Thân phận của người ủy quyền bán đấu giá phải được bảo mật, đó là quy định trong ngành của chúng tôi. Nếu để lộ thông tin ra bên ngoài, ai sẽ đảm bảo an toàn cho họ?”

Tôi giơ thẻ phóng viên rồi đưa cả danh thiếp cho ông ta xem, tôi muốn chứng tỏ mình thật tâm muốn tìm hiểu câu chuyện sưu tầm chiếc ‘chậu nạp tài phỏng theo chậu của Thẩm Tú’.

Tôi phải nói cạn lời vị giám đốc mới miễn cưỡng đồng ý sẽ giúp chúng tôi xin ý kiến của người ủy quyền bán đấu giá, nếu người này nhận lời phỏng vấn, ông ấy sẽ cho tôi thông tin liên hệ.

“Nhưng theo hiểu biết của tôi về lão tiên sinh, có lẽ ông ấy sẽ không đồng ý gặp các anh đâu”.

Bỗng nhiên, tôi sực nhớ tới một người bèn hỏi: “Không lẽ lại là… Trương Khinh tiên sinh ư?”

Vị giám đốc “á” lên một tiếng, không giấu nổi vẻ sửng sốt.

Cuộc nói chuyện tiếp sau của chúng tôi trở nên dễ dàng hơn nhiều. Vì tôi đã đoán đúng tên người ủy quyền bán đấu giá nên vị giám đốc vui vẻ cung cấp cho chúng tôi thêm một số thông tin.

Trương Khinh vốn là một nhân vật nổi tiếng trong giới sưu tầm của Thượng Hải. Hội chợ bán đấu giá mùa thu của Tập đoàn Đóa Vân Hiên lần này thiếu một bảo vật uy chấn hội trường, nên ông giám đốc Dương tuy biết tính tình của lão Trương cổ quái khó gần nhưng vẫn đành mặt dày mày dạn tới gõ cửa nhà ông lão, cầu cứu người bạn quen biết đã hơn mười năm. Nài nỉ mãi cuối cùng ông ta cũng thuyết phục được ông lão Trương Khinh đem chiếc ‘chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ ấy ra.

Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra lão Trương Khinh chính là Vệ Bất Hồi từ lâu rồi chứ. Năm xưa, người bạn đồng hành thứ ba mà bốn anh em nhà họ Tôn mời tới, cũng chính là người bạn đồng hành tham gia nhiều nhất vào kế hoạch của họ, có thể ai ngoài “Vua trộm mộ”?

Biết được điều này, mọi việc sẽ vô cùng thuận lợi.

Thực ra, tôi vốn dĩ đã hoài nghi thân phận của lão Trương Khinh, ông lão luôn không chịu hợp tác với tôi nên khi nghe ông giám đốc nói thế, tôi thử thăm dò xem sao, quả nhiên tôi đã đoán đúng.

Về tới khách sạn, tôi và Vệ Tiên cùng nhau ngồi làm sáng tỏ những manh mối thu thập được kể từ khi bắt đầu cho tới thời điểm hiện tại.

Mỗi khi điều tra tới một giai đoạn nào đó, chúng tôi đều phải làm cho đầu óc tỉnh táo trở lại, vừa là để tư duy trở nên minh mẫn hơn vừa là để tĩnh tâm suy nghĩ, biết đâu có thể phát hiện ra những chi tiết quan trọng mà chúng tôi đã bỏ sót trước đó do quá hấp tấp thì sao.

Bốn anh em nhà họ Tôn muốn tìm kiếm một ngôi mộ cổ. Ngôi mộ cổ này có niên đại từ sau thời Tần, vị trí của nó nằm dưới lòng đất của “khu ba tầng”. Dựa vào những manh mối hiện có thì nhiều khả năng ngôi mộ cổ này được kiến tạo vào thời Tam Quốc. Bốn anh em nhà họ Tôn sở hữu một lá cờ có công dụng thần kì, lá cờ này giúp họ xác định được vị trí của ngôi mộ cổ.

Bốn anh em nhà họ Tôn xây dựng “khu ba tầng”, thực chất là để khoanh vùng phạm vi. Họ tiến hành giải phóng mặt bằng rồi bắt đầu đào công trình ngầm dưới lòng đất và để che mắt thiên hạ, họ phải tiến hành đồng thời cả việc xúc ủi những ngôi nhà mái bằng xung quanh và lấp ao Khâu Gia, xây vườn hoa Sạp Bắc để người đời không chú ý nhiều tới lượng đất khổng lồ mà họ vận chuyển ra khỏi “khu ba tầng”.

Tượng đài Tôn Quyền đặt tại vườn hoa Sạp Bắc và ngoại hình của bốn anh em nhà họ Tôn cho phép chúng tôi suy đoán, anh em nhà họ Tôn có thể là hậu duệ của Tôn Quyền, nên hẳn nhiên họ có những hiểu biết nhất định về ngôi mộ cổ này, chí ít thì họ cũng hiểu biết việc thâm nhập vào ngôi mộ cổ là vô cùng khó khăn, thậm chí có cả nguy hiểm rình rập nữa. Bởi thế, họ phải mời tới ba trợ thủ.

Trợ thủ đầu tiên là nhà sử học Chung Thư Đồng. Bốn anh em nhà họ Tôn hi vọng tri thức lịch sử của Chung Thư Đồng có thể giúp họ tìm kiếm ngôi mộ cổ hoặc có thể biết thêm một số chi tiết về nó. Nhưng rõ ràng ý định của họ đã thất bại. Một nhà sử học không thể biết chân tơ kẽ tóc như thế nên họ quyết định gạt bỏ Chung Thư Đồng sau vài lần thử thăm dò. Và do đó, Chung Thư Đồng gần như không biết gì về kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn.

Trợ thủ thứ hai là Đại sư Viên Thông. Bốn anh em nhà họ Tôn thầm mong khả năng tiên đoán của Đại sư Viên Thông có thể giúp họ biết được một số thông tin quan trọng và cầu đảo phúc lành, tránh kị điều dữ. Nhưng họ không thể ngờ, sau khi Đại sư Viên Thông đến ở trong “khu ba tầng” thì khả năng tiên đoán của ngài vấp phải một lực cản vô cùng mạnh mà không rõ nguyên nhân. Chỉ có một lần duy nhất ngài tiên đoán thành công nhưng dự cảm đó cũng rất mơ hồ, khi ấy, bốn anh em nhà họ Tôn mất tích đã chứng minh dự cảm của Đại sư Viên Thông khá chuẩn xác. Xét từ góc độ tham gia vào kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn, Đại sư Viên Thông hẳn nhiên là người ngoài cuộc.

Trợ thủ thứ ba là Trương Khinh, cũng chính là Vệ Bất Hồi. Từ trước đó rất lâu, Vệ Bất Hồi đã bắt đầu tìm kiếm ngôi mộ cổ này nhưng chỉ xác định được trên một phạm vi rộng lớn, không thể tìm thấy vị trí cụ thể của nó. Bởi thế, khi gặp bốn anh em nhà họ Tôn, ông “Vua trộm mộ” thích hành động đơn lẻ này đã nhận lời đồng hành ngay. Điều kiện mà bốn anh em nhà họ Tôn đưa ra để Vệ Bất Hối trực tiếp tham gia vào kế hoạch của họ chắc chắn là năm người cùng nhau phân chia đồ tùy táng trong đó. Vì lẽ đó, khi ở vào giai đoạn cuối cùng, khi đường hầm dưới lòng đất đã nối liền cửa vào mộ cổ, bốn anh em nhà họ Tôn sẵn sàng bỏ ngoài lời tiên đoán chẳng lành của Đại sư Viên Thông mà vẫn cùng Vệ Bất Hồi tiến vào ngôi mộ cổ. Nói chính xác hơn thì Vệ Bất Hồi có lẽ là người tiên phong mở đường, vì trong những ngôi mộ cổ như thế, khắp nơi đều có các hệ thống bảo vệ ngầm có thể lấy đi mạng sống của những kẻ cả gan bước vào.

Thời điểm quân Nhật ném bom oanh tạc Thượng Hải, đường hầm dưới lòng đất đã gần xong, bốn anh em nhà họ Tôn lo sợ công trình ấy sẽ bị tổn hại bởi bom đạn nên đã mượn sức mạnh của lá cờ ma thêm lần nữa để đuổi quân Nhật, nhờ thế mà “khu ba tầng” may mắn thoát nạn. Sau đó ít lâu, họ thâm nhập vào ngôi mộ cổ và không bao giờ trở ra được nữa.

Nhưng Vệ Bất Hối lại có thể thoát ra ngoài. Ông ta đổi tên thành Trương Khinh, mai danh ẩn tính, thôi không thể hiện uy phong của một “Vua trộm mộ” nữa. Những cổ vật thu thập được từ những lần trộm mộ trước đó khiến ông ấy trở thành một nhà sưu tầm.

Rốt cuộc ông ấy đã gặp phải điều gì dưới lòng đất? Vì sao chỉ có một mình ông ấy có thể ra ngoài?

Muốn biết được điều bí mật đó thì phải chờ đợi những lời kể trực tiếp của ông lão đó thôi.

Tôi trở lại tòa nhà ba tầng trung tâm trong tâm trạng rối bời.

Nhất là Vệ Tiên, anh chàng thường ngày vẫn có cái vẻ không kiêng sợ của một kẻ chừng như chỉ dạo chơi chốn nhân gian hôm nay bỗng trở nên rất nghiêm túc. Có lẽ, Vệ Bất Hồi là thần tượng của anh ta, một thần tượng ở nơi cao thăm thẳm mà anh ta luôn ấp ủ một niềm tôn kính vô bờ.

Hai chúng tôi đã đến trước cửa nhà lão Trương Khinh. Bàn tay của Vệ Tiên ngừng lại giây lát trên không trung rồi hạ xuống cánh cửa.

Cửa mở.

Thoáng thấy gương mặt già nua trước mặt, toàn thân Vệ Tiên run rẩy.

Tôi ngạc nhiên thấy anh ta đột ngột cúi thấp người, quỳ một chân trên mặt đất, phủ phục vái chào ông lão trước mặt.

“Vệ Tiên, con trai của Vệ Duyên Vũ bái kiến Tứ Thúc Công”.

Ông lão Trương Khinh nhìn chàng trai trẻ đang phủ phục vái chào trước mặt, lặng im hồi lâu rồi thở dài: “Đứng lên đi”. Nói rồi, ông lão quét mắt một lượt qua anh chàng bên cạnh là tôi đang đứng cách xa cánh cửa, sau đó quay người bước vào trong phòng.

Vệ Tiên đứng dậy, ngoái nhìn tôi một cái, rồi đi vào.

Tôi theo gót Vệ Tiên vào phòng.

Tôi nhìn một lượt khắp gian phòng. Đây mà là nhà của “Vua trộm mộ” ư? Cách bài trí trong nhà gần giống với gian phòng của bác Tô Miễn Tài, mọi đồ đạc đều hết sức giản dị, không thấy chút phong thái cổ kính nào như trong tưởng tượng của tôi.

“Vua trộm mộ” giàu có bạc tỷ, ấy là chưa kể nhà trưng bày bảo vật sưu tầm có khi được xây ở một nơi khác.

“Ngồi đi, tôi già rồi, khó cất chân động tay lắm, muốn uống trà thì tự rót”, ông Trương Khinh chỉ tay vào hai chiếc ghế gỗ nói.

Tôi và Vệ Tiên dè dặt ngồi xuống. Tôi có cả tá câu hỏi muốn hỏi ông lão trước mặt, nhưng lúc này để Vệ Tiên mở lời trước có lẽ tốt hơn. Anh chàng Vệ Tiên vẫn chưa hết câu nệ nên chưa biết nên bắt đầu từ đâu.

“Cháu, cháu biết anh ta hả?”, ông lão Trương Khinh liếc xéo tôi một cái nhưng lại hỏi Vệ Tiên.

“Dạ, cũng… cũng chỉ sơ sơ thôi ạ”.

Quỷ tha ma bắt, anh ta nói cái gì thế, tôi lườm anh ta một cái.

“Dạ, là như thế này ạ…”, Vệ Tiên đã lấy lại tinh thần. Anh ta tiếp lời câu hỏi của ông lão Trương Khinh, bắt đầu kể lại chân thực những sự việc từ khi anh ta bắt đầu điều tra tấm bản đồ đó cho đến lúc gặp được tôi.

Ông lão Trương Khinh, mà lúc này có lẽ nên gọi là ông lão Vệ Bất Hồi, lẳng lặng lắng nghe câu chuyện của Vệ Tiên, ngón tay gõ nhịp xuống mặt bàn, vẻ mặt không có chút thay đổi đặc biệt nào. Nhưng một người nhìn chằm chằm vào ông lão như tôi vẫn có thể phát hiện thấy đuôi mắt ông lão khẽ nhếch lên vài lần, nhất là khi Vệ Tiên nói tới những phân tích hiện tại của tôi và anh ta về sự việc năm xưa.

Xem ra những gì chúng tôi biết được đã vượt ra ngoài suy nghĩ của ông lão.

Vệ Tiên đã ngừng lời. Tôi và anh ta chờ đợi ông lão Vệ Bất Hồi cất tiếng nói, nhưng lão vẫn im lặng.

Rốt cuộc ông lão đang ngẫm ngợi điều gì? Tôi ngầm suy đoán trong lòng, tuyệt nhiên không có ý định phá vỡ trạng thái câm lặng này.

“Cháu đã nói hết chưa?”, cuối cùng, ông lão Vệ Bất Hồi cũng lên tiếng.

Vệ Tiên gật đầu.

“Còn gì muốn nói nữa không?”.

“Có lẽ… có lẽ chỉ thế thôi ạ”.

“Tôi đã nghe hết câu chuyện, giờ thì các anh có thể về rồi đấy”.

“Tứ Thúc Công!”, Vệ Tiên vội vã.

“Vệ lão tiên sinh, chúng cháu đã điều tra tới mức này rồi thì dù thế nào cũng không thể quay lại được. Mà với tiến độ như bây giờ, chuyện tìm thấy ngôi mộ cổ dưới lòng đất đó chỉ còn là vấn đề thời gian, rốt cuộc thì nó nằm ở đây, có đúng không ạ?”, tôi chỉ tay xuống dưới đất.

“Nếu đã như thế, các anh còn tìm tới lão già như tôi làm gì?!”

“Chúng cháu điều tra tới thời điểm hiện tại cũng biết rằng ngôi mộ cổ đó không chỉ là một ngôi mộ đơn thuần, nếu không tại sao trong số những người thâm nhập vào ngôi mộ cổ năm đó lại chỉ còn duy nhất một mình bác sống sót trở về?” Nói tới đây, tôi trộm liếc ông lão Vệ Bất Hồi, ông lão vẫn trầm ngâm, không có một phản ứng nào. Nhưng điều đó cũng đủ để tôi biết, năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn quả nhiên đã vùi xác trong ngôi mộ cổ.

“Có lẽ bác ghét cay ghét đắng gã phóng viên thích đào gốc tróc rễ sự việc như cháu. Nhưng cháu điều tra sự việc chỉ là để thỏa mãn lòng hiếu kì của riêng cháu, cháu không có ý định công bố điều ấy với công chúng. Hơn nữa, ở đây còn có cháu của bác. Anh ấy luôn coi bác là thần tượng, và mơ ước có thể giải được câu đố năm xưa bác đã để lại. Để lần theo dấu vết của bác, anh ấy không màng nguy hiểm. Anh ấy đã có lòng như thế, lẽ nào bác không muốn nói cho anh ấy biết, năm xưa bác đã gặp phải chuyện gì và sắp tới đây, anh ấy có thể phải đối mặt với điều gì khi thâm nhập vào lòng đất ạ?”

Tôi lấy tình thân để lay chuyển ông lão. Ban nãy, ông lão để chúng tôi vào trong nhà, để Vệ Tiên nói một tràng giang đại hải như vậy chứng tỏ trái tim ông lão đã rung động khi gặp được người thân sau bao nhiêu năm xa cách, chứ không phải lạnh lùng như vẻ bên ngoài. Ngay bản thân tôi cũng cảm thấy xúc động trước những lời vừa rồi của mình, nếu ông lão vẫn không có xúc cảm gì thì tôi thật hết cách.

“Hừ, nếu các anh thâm nhập vào trong ngôi mộ cổ đó tức là tự tìm đến cái chết đấy”.

Rốt cuộc, ông lão Vệ Bất Hồi đã chịu mở lời, tốt rồi, chỉ cần khích ông lão thêm chút nữa.

“Trước khi tới đây, cháu được nghe Vệ Tiên kể về uy danh của bác năm xưa, nức tiếng xa gần, một thời không có đối thủ. Nhưng rốt cuộc ngôi mộ cổ đó là ngôi mộ như thế nào mà ngay cả một ông vua dưới lòng đất như bác cũng bị cản giữ suốt hơn sáu mươi năm qua thế ạ?”

Tôi cứ nghĩ, nghe xong những lời này, với tính khí của ông lão, ông lão không đập bàn mới là lạ, nhưng không ngờ ông lão chỉ nén một tiếng thở dài.

Tôi chợt thấy ớn lạnh trong lòng. Đến một “Vua trộm mộ” như Vệ Bất Hồi mà còn phải kiêng dè như thế khi nhắc đến ngôi mộ cổ này thì kết cục của tôi và Vệ Tiên sẽ ra sao nếu cứ liều mình thám hiểm nó?

Ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu đã bị tôi gạt đi ngay tức khắc. Nhớ lại những lần trước, lần nào cũng vô cùng nguy hiểm, lần này chắc cũng không ngoại lệ.

Vệ Tiên cũng rất bất ngờ trước phản ứng của của Tứ Thúc Công nhà anh ta nên hỏi dò: “Ngôi mộ cổ đó thật sự nguy hiểm đến thế cơ ạ?”

“Ngay cả cửa ngôi mộ cổ đó ta cũng không dám bước chân vào”.

Vệ Tiên trợn tròn mắt: “Lại có cả những ngôi mộ mà Thúc Công không dám vào cơ ạ? Cửa đó có hệ thống ngầm gì ạ, là đấu xoay lật, hoa mai ngầm,… hay… hay là cửa nhảy quỷ[6]?”

[6] Đấu xoay lật, hoa mai ngầm, cửa nhảy quỷ: tên một số cơ quan được bố trí ngầm trong các ngôi mộ cổ của Trung Quốc, chưa có khái niệm tương tự trong tiếng Việt nên xin được tạm dịch.

Vệ Tiên nói một mạch những danh từ mà tôi chưa từng nghe thấy trong đời, có lẽ đó là tên những cơ quan cực kì nguy hiểm trong các ngôi mộ cổ.

“Đấu xoay lật, hoa mai ngầm, mấy cái này ta nghĩ bây giờ chắc cháu cũng qua được, nhưng còn cửa nhảy quỷ, nếu không vượt qua nó thì ta có lấy được chiếc ‘chậu nạp tài, phỏng theo chậu của Thẩm Tú’ đó hay không?”

Tôi hơi ngạc nhiên. Chúng tôi chưa tiết lộ điều gì mà ông lão Vệ Bất Hồi đã biết vì sao chúng tôi có thể gõ cửa nhà ông lão.

“Vậy…”, Vệ Tiên cau mày.

“Cháu đừng nghĩ nữa, thực ra là ta không dám vào thôi”.

“Tức là sao ạ?”

“Ta đã thâm nhập vào 132 ngôi mộ cổ, trong đó có bảy ngôi mộ cổ phải bỏ dở giữa chừng và hai ngôi mộ cổ vừa trông thấy cửa đành ngậm ngùi quay về, cháu không ngẫm ra nguyên nhân hay sao?”, ông lão Vệ Bất Hồi hỏi lại Vệ Tiên.

Vệ Tiên suy tư hồi lâu rồi lắc đầu.

“Vậy thì cháu đừng tiếp tục làm cái nghề này nữa, nếu không ắt có một ngày sẽ chôn thây trong mộ của người ta đấy”.

Vệ Tiên bàng hoàng nhìn ông lão Vệ Bất Hồi. Gương mặt anh đỏ rần, rõ ràng là anh rất bất mãn với câu nói vừa rồi của ông lão nhưng không ra mặt phản bác lại.

Một người ấp ôm hoài bão trở thành “Vua trộm mộ” lại bị “Vua trộm mộ” đời trước mà mình luôn sùng bái dè bỉu ngay trước mặt như thế tất nhiên phải cảm thấy vô cùng chua chát trong lòng.

“Là trực giác phải không ạ?”, tôi đột ngột hỏi.

Ông lão Vệ Bất Hồi nhìn tôi chòng chọc suốt mấy giây, đây có lẽ là lần đầu tiên ông lão nhìn thẳng vào tôi.

“Lần đó, khi cách cửa mộ khá xa, ta đã biết hễ bước vào bên trong chỉ có một con đường là về nơi chín suối. Bốn anh em nhà họ Tôn không có bất cứ cảm giác nào, nhưng ta gần như không dám tiến lên phía trước, dù chỉ một bước. Còn có cả cái lão Tiền Lục nữa, trực giác của lão ấy cũng không đến nỗi nào, lão ấy rốt cuộc cũng không bước vào bên trong cửa mộ. Đáng tiếc là sau khi ra ngoài, lão ấy trở nên dở dại dở điên”.

“Bác còn không dám vào, tại sao bốn anh em nhà họ Tôn lại liều lĩnh thế ạ?”

“Bọn họ chờ đợi giây phút ấy đã quá lâu rồi. Dự cảm của Đại sư Viên Thông khiến họ dự liệu tới tình huống xấu nhất, nên làm sao họ có thể dừng chân chỉ vì chút cảm giác của ta? Bọn họ theo ta học hành mấy tháng, cứ nghĩ là mình đã luyện được chút bản lĩnh nên khi ta không dám xông vào thì bọn họ cứ liều mình tiến bước. Ta chỉ biết đau lòng nhìn bọn họ bỏ mạng ngay trước mặt”, ông lão Vệ Bất Hồi nói, giọng trầm khàn.

“Bọn họ chết như thế nào ạ?”

“Ta nghe thấy tiếng của ba anh em nhà họ Tôn, còn Tôn Lão Tam thì cố nhao ra khỏi cửa mộ, toàn thân tua tủa gai nhọn như gai nhím. Tôn Lão Tam cường tráng là thế mà chi đi vài bước đã tắt thở. Lúc lâm chung, ông ta ôm khư khư một cái đầu, không lẽ đó chính là thứ bọn họ muốn tìm kiếm?”

“Một cái đầu, là đầu gì thế ạ?”

“Là một cái đầu lâu của con người nằm trong ngôi mộ cổ ấy”, gương mặt của ông lão Vệ Bất Hồi thoáng chút không tự nhiên.

“Người đó là ai và bọn họ cần cái đầu đó để làm gì ạ?”

“Đủ rồi đấy, các anh đừng hỏi nữa”, sắc mặt ông lão Vệ Bất Hồi chuyển sang màu trắng, đôi lông mày hơi rung rung, rõ ràng là ông lão đang hoảng sợ.

Đừng nói là “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi mà ngay cả một anh chàng trộm mộ trẻ tuổi như Vệ Tiên cũng từng tận mắt trông thấy không ít đầu lâu, vậy tại sao khi nhắc đến cái đầu lâu này, ông lão Vệ Bất Hồi lại thất kinh đến thế?

Rốt cuộc cái đầu lâu đó là đầu của ai? Vì sao Tôn Lão Tam khi chết vẫn ôm riết lấy nó, có thật là ông ta đã lấy nó ra khỏi quan tài không?

Ông lão Vệ Bất Hồi nhắm nghiền đôi mắt. Khi mở mắt ra, dường như ông ta đã lấy lại được tinh thần: “Lúc đó ta chỉ cách Tôn Lão Tam có mười mấy bước chân, nhưng không dám bước lên phía trước để nhặt xác ông ta. Cái lão Tiền Lục muốn nhặt xác chủ, nhưng đi được mươi bước, lão đã phải quay lại ngay”.

“Chỉ cách có mấy bước thôi, hơn nữa Thúc Công nói Tôn Lão Tam chết ở ngoài cửa mộ, nếu ngoài cửa mộ không có cơ quan ngầm nào thì vì sao, vì sao… Thúc Công…”, Vệ Tiên ấp a ấp úng, anh ta muốn tránh không nói hai từ “không dám”.

“Đó là lý do tại sao ta khuyên cháu không nên tiếp tục làm cái nghề này nữa, nhất là anh đấy”, ông lão Vệ Bất Hồi nhìn tôi, “nếu anh bước chân tới đó, chắc chắn anh sẽ hiểu được cảm giác của ta năm xưa”.

“Nhưng cháu là cháu của ta, sau này dù cháu thế nào đi nữa, ta cũng không bao giờ mong muốn cháu thâm nhập vào ngôi mộ cổ đó, vì thế ta sẽ không nói cho cháu biết đó là mộ của ai. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của bốn anh em nhà họ Tôn là gì, ta cũng không biết”, ông lão Vệ Bất Hồi nói rành rọt từng câu, từng chữ với Vệ Tiên.

“Chúng cháu đã điều tra tới mức này rồi, Thúc Công không cần nói cho cháu biết đó là mộ của ai cũng được, nhưng xin Thúc Công hãy nói cho cháu biết phải thâm nhập mộ cổ như thế nào và cửa vào của nó ở đâu thôi ạ”, Vệ Tiên tha thiết nói. Anh ta đã bị thôi thúc tới mức phải quyết tâm thám hiểm ngôi mộ cổ này.

Ông lão Vệ Bất Hồi thoáng chút ngạc nhiên, nói: “Thâm nhập như thế nào ư? Ha ha, ngay cả điều ấy mà cháu không nghĩ ra thì làm gì có tư cách vào trong mộ cổ đó chứ!”

Nhìn biểu hiện của ông lão Vệ Bất Hồi thì hình như chúng tôi vừa hỏi một câu thật ngu ngốc.

Ra khỏi tòa nhà ba tầng trung tâm, đầu óc tôi luôn bị ám ảnh bởi biểu hiện cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi.

“Này, anh thử nói xem, những lời cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi muốn ám chỉ điều gì nhỉ?”, tôi hỏi anh chàng Vệ Tiên đi ngay bên cạnh.

“Á, là ý gì, ý gì cơ?”

Tôi nhìn Vệ Tiên, anh ta đang thẫn thờ.

Trước khi đi, anh ta tràn trề hi vọng, nào ngờ chẳng những không có thêm nhiều manh mối mà còn bị chê bai thẳng thừng “đừng tiếp tục làm cái nghề này nữa” nên giờ đây, trong lòng anh ta chắc hẳn lẫn lộn nhiều cảm xúc chua cay, đắng chát, mặn ngọt, vì thế không mấy để tâm tới lời nói và biểu hiện cuối cùng của ông lão Vệ Bất Hồi.

“Ý tôi muốn nói là hình như bác Vệ Bất Hồi hơi ngạc nhiên khi thấy chúng ta không tìm được lối vào ngôi mộ cổ”.

“Điều đó thì có gì lạ đâu, có lẽ chuyện này với Thúc Công tôi thì dễ như bỡn, nhưng có phải tất cả mọi người đều cảm thấy đơn giản như thế đâu, Thúc Công tôi là ai cơ chứ!”

Tôi cau mày: “Không phải thế đâu, tôi luôn cảm giác có điều gì đó không ổn”.

Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy, dưới lòng đất của vườn hoa Sạp Bắc không thể có đường hầm, có lẽ do bọn tôi đọc tiểu thuyết nhiều quá nên bị bản năng đánh lừa khi trông thấy tượng đài Tôn Quyền và cái cây đại thụ đó. Thực ra, khi đầu óc minh mẫn và ngẫm nghĩ kĩ một chút, chúng tôi sẽ suy đoán được đường hầm không thể kéo dài tới tận vườn hoa Sạp Bắc, không chỉ vì lượng công trình đồ sộ mà xét từ manh mối bác Chung Thư Đồng đã tận mắt trông thấy lượng đất đào được từ “khu ba tầng” được những công nhân dùng tay đẩy xe đẩy vận chuyển tới ao Khâu Gia, vậy thì làm sao người ta có thể đào một đường hầm khác cơ chứ?

Thình lình, tôi không đi tiếp nữa. Anh chàng Vệ Tiên thần hồn thơ thẩn đi xa khỏi tôi thêm vài bước nữa mới nhận ra biểu hiện lạ lùng của tôi.

“Na Đa, anh làm sao thế?”

“Anh tỉnh táo lại chút đi, đừng quá buồn nản vì lời nói của ông lão Vệ Bất Hồi nữa. Tôi nghĩ, tôi đã biết lối vào ngôi mộ cổ nằm ở đâu rồi”, tôi nói với anh ta.

Nguồn: truyen8.mobi/t80514-la-co-ma-chuong-4.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận