Chúng tôi chẳng thấy có gì lạ cả ngoài việc cảm thấy xao xuyến với cảnh khu hầm mộ có lẽ được xây lên bởi cánh tay người La Mã. Những cái vòm thấp và những chiếc cột dày đúng kiểu La Mã chứ không giống những công trình thô mộc của người Xắc-xông. Trên các bức tường là rất nhiều những dòng chữ đã được các nhà khảo cổ mô tả, chẳng hạn: “Nhà vua… thời… chống… Pontific… xứ Atis…” Khi thấy dòng chữ về Atis tôi bất giác giật mình nhớ lại rằng tôi đã đọc tác giả Katulla về những lễ nghi khủng khiếp dâng lên vị thần phương Đông này. Sự cúng tế vị thần ấy đã hoà trộn với sự sùng kính Đức mẹ vĩ đại Kibela. Dưới ánh sáng đèn pin, tôi và Norris chẳng có gì thành công đặc biệt khi cố gắng lý giải những bức vẽ đã bị mờ phần nửa trên những khối đá vuông từng được dựng làm bàn thờ. Chúng tôi bỗng nhớ lại là có một hình vẽ Mặt trời với các tia sáng đã được các nhà khoa học xác định niên đại vào thời kỳ trước La Mã. Thế có nghĩa là các bàn thờ đã được các quan tư tế La Mã lấy từ khu đền thờ cổ xưa hơn của dân địa phương ở chỗ này. Những vết màu nâu trên một bàn thờ đã thu hút sự chú ý của tôi. Trạng thái bề mặt của bàn thờ lớn nhất trong số đó đã cho thấy người ta đã đốt lửa trên đó: Có lẽ vật hiến tế, nạn nhân đã bị đốt cháy ở đấy.
Tôi với Norris quyết định qua đêm ở trong hầm mộ này nơi lũ mèo đã cào cửa. Gia nhân đã khiêng mấy cái đi văng xuống và họ được ra lệnh không được chú ý đến cuộc di chuyển của đàn chuột lúc ban đêm. Con Niggerman được chúng tôi mang theo vì tin tưởng vào sự thính nhạy của nó. Chúng tôi khép cánh cửa gỗ sồi nặng nề lại, châm đèn và chờ đợi.
Tầng ngầm rất sâu vì móng của nó có lẽ ăn sâu thậm chí vào cả núi đá vôi với ghềnh đá lơ lửng tr6n khu thung lũng hoang vắng. Tôi không hồ nghi việc lũ chuột không biết từ đâu tới đã lùng sục lao tới chính nơi đó. Trong khi nằm đợi thỉnh thoảng tôi lại chìm vào một giấc ngủ chập chờn rồi lại choàng tỉnh vì những cử động đầy căng thẳng của con mèo.
Tôi lại mơ thấy chuyện kinh hãi, nhưng lần này mọi chi tiết của cơn ác mộng dường như gần lại hơn, nhìn thấy rõ ràng hơn. Tôi chăm chú nhìn những đường nét nhoè của một con vật rồi bỗng thức dậy với tiếng hét to đến nỗi con Niggerman nhảy bật sang bên, còn đại uý Norris thì cất tiếng cười.
Khi mọi sự bắt đầu, Norris liền đánh thức tôi và bảo tôi lắng nghe các con mèo. Từ phía ngoài cửa vọng lại tiếng mèo kêu xé ruột và tiếng vuốt cào, còn con Niggerman chẳng hề chú ý đến các đồng loại bên ngoài mà cứ chạy đi chạy lại dọc các bức tường trần trụi.
Vì một điều gì đó dị thường không thể giải thích nổi nên tôi thấy kinh sợ. Nếu như tôi và lũ mèo không có ảo giác thì đúng là đàn chuột đang sột soạt kia chui từ trên xuống dưới bên trong những bức tường La Mã mà tôi cho rằng được xây bằng những khối đá đặc. Nhưng thậm chí nếu điều đó có là như vạây, nếu trong đó có những sinh vật sống thì vì sao Norris không nghe thấy chúng? Vì sao Norris rất chú ý đến Niggerman và lũ mèo ở bên ngoài song lại không hề đoán định xem hành vi của chúng do cái gì gây ra.
Nghĩ vậy tôi liền cố gắng kể một cách bình tĩnh và lôgíc cho Norris nghe về những gì tôi đã nghe thấy, song ngay lúc đó tiếng động tắt hẳn. Tiếng động đã tới xa hơn xuống dưới, vào sâu hơn, thấp hơn tất cả mọi tầng hầm có thể và dường như tất cả ghềnh đá dưới chân chúng tôi đều chen chúc những con chuột đang chạy ầm ầm. Norris không hề bộc lộ chút nghi ngờ nào mà ngược lại, chàng nghe tôi một cách chăm chú. Bằng cái khoát tay chàng chỉ cho tôi hay bọn mèo ngoài cửa đã im lặng, dường như mọi dấu vết của bầy chuột đã mất, song con Niggerman lại gầm gừ và bây giờ rối rít như điên dại cào xuống nền bàn thờ ở giữa khu hầm mộ.
Có một cái gì lạ thường đang xảy ra. Tôi thấy đại uý Norris, giờ cũng có vẻ lo lắng thật sự. Chúng tôi lo lắng nhìn con mèo bây giờ đang dần dần bình tĩnh trở lại, tuy nhiên vẫn cứ chạy quanh bàn thờ.
Norris đưa chiếc đèn lại gần bàn thờ hơn, chàng quỳ xuống và dùng tay bới lớp rêu xưa cũ để nhìn cho rõ hơn cái nơi tấm đá nặng đè xuống sàn. Norris chẳng tìm thấy gì và đã muốn đứng dậy thì bỗng nhiên tôi nhận ra một tình huống giản đơn nhưng đã khiến tôi phải run rẩy mặc dầu điều đó chỉ khẳng định cho những mối hoài nghi đã hình thành trong tôi.
Tôi nói ngay điều đó cho Norris hay và chúng tôi hồi hộp quan sát cái hiện tượng thông thường không gì bác bỏ được: ngọn lửa của cây đèn đặt gần bàn thờ đã bị xiên lệch đi sang một bên như có cơn gió lùa. Không nghi ngờ gì nữa, luồng khí bốc ra từ khe hở giữa sàn và bàn thờ.
Phần đêm còn lại trôi qua trong phòng làm việc tràn ngập ánh sáng, chúng tôi ngồi thảo luận những hành động tiếp theo. Người ta sẽ rất kinh ngạc khi chỉ cần biết một phát hiện rằng dưới khối đá xây La Mã cổ xưa này còn tồn tại một hầm mộ sâu hơn nữa mà hiện thời chưa có ai trong số các nhà khảo cổ đã làm việc ở đây suốt ba trăm năm qua. Mà nơi đây còn có biết bao truyền thuyết ghê rợn xung quanh lâu đài nữa chứ, ý thức bị kích động của chúng tôi nhắc nhở đến hai lối thoát: hãy rời bỏ lâu đài này mãi mãi, hoặc lấy hết can đảm để quyết định thực hiện những cuộc mạo hiểm và tiến hành việc khai quật sàn nhà lên để tiến vào lòng đất.