Lão Già Mê Đọc Truyện Tình Chương 8


Chương 8
Họ bỏ cả buổi chiều còn lại để xử lý hai kẻ xấu số.

Sau khi quấn hai cái xác trong tấm võng của Miranda, cho chúng úp mặt vào nhau, để khi đi vào cõi vĩnh hằng cả hai không thành những kẻ xa lạ, họ khâu chặt lại  và buộc các tảng đá to vào mỗi góc.

Họ lôi cái bọc tới cái đầm gần đó, nâng lên và đu qua đu lại lấy đà trước khi quăng nó vào giữa đám lau sậy và hoa hồng đầm lầy. Cái bọc sủi bọt chìm xuống, kéo theo cả những cây cỏ tang ma và những con cóc còn đang kinh ngạc.

Họ trở về cửa hiệu khi bóng tối đã phủ lấy khu rừng, và tên béo bắt đầu sắp xếp phiên canh gác.

Hai người sẽ thức, và hai người khác sẽ thay thế sau bốn tiếng đồng hồ. Còn bản thân hắn thì sẽ được ngủ thẳng giấc tới sáng.

Trước khi đi ngủ, họ nấu cơm và rán chuối xanh, và sau bữa tối Antonio José Bolívar rửa sạch bộ răng giả trước khi gói vào chiếc khăn tay. Mấy người kia trông thấy lão ngần ngừ một chút, rồi, trước sự ngạc nhiên của họ, lão lắp nó trở lại vào mồm.

Vì thuộc vào phiên canh đầu, lão giữ lấy cây đèn dầu.

Người đàn ông gác cùng dõi theo lão đầy khó hiểu khi lão di chiếc kính lúp qua những kí hiệu in trên các trang giấy.

“Này bạn già, lão biết đọc thật à?”

“Một ít.”

“Lão đang đọc gì thế?”

“Tiểu thuyết. Nhưng yên nào. Hễ ông nói là đèn bập bùng và chữ nghĩa cứ như nhảy loạn cả lên.”

Người đàn ông lùi ra tránh làm phiền lão, nhưng có vẻ như lão già đắm chìm hết cả tâm trí vào cuốn sách đến mức ông ta không thể bỏ qua được.

“Chuyện về cái gì thế?”

“Tình yêu”

Nghe được câu trả lời, ông ta xích lại gần, đầy hứng thú.

“Không đùa đấy chứ? Có những cô em bé bỏng xinh đẹp bốc lửa chứ?”

Lão già sập quyển sách lại khiến ngọn lửa giãy nảy lên.

“Không. Đây là kiểu tình yêu khác. Kiểu đau đớn.”

Người đàn ông thất vọng. Ông ta nhún vai và lùi ra xa. Đầy vẻ phô trương, ông ta rót một cốc rum lớn, đốt một điếu xì gà, và bắt đầu mài con dao rựa của mình.

Mài với viên đá xong, ông ta nhổ nước bọt lên thanh kim loại, mài lần nữa, rồi lấy đầu ngón tay thử độ sắc.

Lão già lại cắm đầu vào cuốn sách, mặc kệ tiếng kêu kin kít khó chịu của đá cọ vào kim loại. Lão lầm bầm trong miệng như thể đang cầu nguyện.

“Nào, đọc to lên chứ.”

“Ông cũng thích à?”

“Tất nhiên là có. Tôi đã từng đi xem nhiều phim ở Loja, và còn xem được một bộ phim tình yêu ở Mexico. Tôi không biết tại sao lại đi kể với lão chuyện này, nhưng thực là tôi đã khóc hết nước mắt đấy.”

“Nếu vậy thì tôi phải đọc lại từ đầu, để ông còn phân biệt được người tốt với kẻ xấu.”

Antonio José Bolívar trở lại trang đầu tiên. Lão đã đọc lại nó mấy lần và thuộc nằm lòng.

“Paul hôn nàng đắm đuối, trong khi người lái thuyền, kẻ đồng lõa trong những chuyến phiêu lưu của bạn mình, vờ quay nhìn một hướng khác, và chiếc gondola, được lót đệm mềm dọc hai thành, êm đềm trôi dọc những con kênh thành Venice.”

“Đừng đọc nhanh quá,” một giọng nói cất lên.

Lão già nhướng mày. Cả ba người đàn ông đang quỳ gối ngồi quanh lão. Xa hơn một chút, viên thị trưởng đang nằm duỗi thẳng cẳng trên một chồng bao bố.

“Có nhiều từ tôi không hiểu,” người vừa lên tiếng nói thêm.

“Lão có tự hiểu được hết không?” một người khác hỏi.

Lão già bắt đầu nói về cách lý giải của mình với những từ lạ.

Công việc của người lái gondola, chiếc gondola, và cả cái nụ hôn nồng nàn nọ trở nên sáng tỏ hơn chút ít sau hai giờ bàn luận được thêm mắm thêm muối với những truyện tình ái thú vị. Nhưng cái thành phố bí ẩn, nơi người ta phải đi lại trên thuyền, thì đã vượt quá tầm hiểu biết của họ.

“Tôi đồ là họ bị mưa nhiều lắm.”

“Hoặc là những con sông lúc nào cũng lũ lụt hết cả.”

“Chắc họ còn bị ướt hơn cả bọn ta nữa.”

“Tưởng tượng nhé. Ông uống vài chén, ông phải đi đái, và ông thấy gì nào? Lũ hàng xóm mặt cá đang chằm chằm nhìn ông.”

Tất cả cười phá lên, hút thuốc, và uống rượu. Viên thị trưởng trở mình khó chịu trên chỗ nằm.

“Xin nói cho các người hay, Venice là một thành phố xây trên một cái vịnh bé. Và nó nằm ở Ý,” hắn gầm gừ từ cái xó không yên ổn của mình.

“Thật vậy sao! Thế thì nhà cửa cứ lềnh bềnh như là bè ấy,” ai đó nhận định.

“Nếu thế, họ cần thuyền để làm gì chứ? Họ có thể dùng chính nhà mình để đi lại mà,” một người khác đánh bạo lên tiếng.

“Toàn một lũ đần độn! Đấy là những cái nhà cố định. Ở đó còn có cả các cung điện, nhà thờ lớn, lâu đài, cầu, phố xá cho người ta nữa. Tất cả các ngôi nhà đều có nền đá,” tên béo hùng hồn tuyên bố.

“Sao ông biết? Ông đã tới đó chưa?” lão già hỏi.

“Chưa. Nhưng ta được giáo dục. Và đấy là lý do ta làm thị trưởng.”

Lời giải thích của tên béo càng làm mọi chuyện rối mù.

“Nếu như tôi hiểu đúng lời ông, thưa quý ông, thì những người này có những tảng đá trôi được, giống như đá bọt vậy. Nhưng nếu người ta xây nhà bằng đá bọt, thì nó vẫn không thể nổi được. Họ phải để những tấm ván dài ở dưới cơ.”

Viên thị trưởng ôm lấy đầu.

“Trời ạ! Sao người ta có thể ngu dốt đến thế! Thích nghĩ thế nào thì nghĩ. Rừng già đã ảnh hưởng lên não của các người rồi. Đến Chúa cũng không thể cứu vớt các người khỏi sự ngu dốt được đâu. Và một điều nữa này: Đừng có gọi ta là quý ông nữa. Kể từ khi các người nghe thấy bác sĩ dùng cái từ ấy, là các người chẳng chịu bỏ qua bao giờ.”

“Vậy thì ông muốn chúng tôi gọi ông thế nào? Quan tòa phải được gọi là quý ngài, linh mục thì là đức ngài, và phải có một từ gì để bọn tôi gọi ông chứ, thưa quý ông?”

Tên béo đang định nói thêm gì đó, thì lão già khoát tay ngăn hắn lại. Những người đàn ông hiểu ý, nhặt súng lên, vặn tắt đèn, và chờ đợi.

Từ bên ngoài, họ thấy vọng vào tiếng chuyển động rón rén rất êm của một cơ thể. Những bước chân của con vật không gây chút tiếng động nào, nhưng thân mình nó thì vẫn đang trườn qua cây cối bờ bụi. Và như vậy, thân mình  nó ngăn khoảng mưa xối xả đổ xuống, và khi nó đi qua rồi, nước mưa lại giành lấy chỗ ấy với nhịp điệu rơi đều như cũ.

Cái cơ thể chuyện động lần bám được nửa vòng quanh căn lều của người chủ hiệu. Viên thị trưởng bò tới chỗ lão già.

“Chính là con ấy đấy à?”

“Phải, nó đang đánh hơi chúng ta đấy.”

Tên béo bất chợt đứng bật dậy. Mặc kệ đêm tối, hắn đi tới phía cửa và xả đạn điên cuồng vào bụi cây.

Ai đó thắp đèn lên. Tất cả lắc đầu không buồn nói năng, nhìn viên thị trưởng đang nạp thêm đạn.

“Tại các người mà ta để tuột mất con thú. Các người bỏ cả đêm nói chuyện linh tinh vớ vẩn như thể lũ đàn bà dài mỏ thay vì chú ý mà canh gác.”

“Ông thật là giáo dục đấy chứ, thưa quý ông! Con thú đang ở trong tình huống bất lợi cho chính nó. Ông chỉ cần chờ cho nó dò dẫm xung quanh đến khi bọn tôi phát hiện được nó còn cách bao xa. Chỉ một hai vòng nữa thôi là nó sẽ ở ngay trong tầm ngắm.”

“Ồ, cả lũ các người biết hết mọi thứ đấy. Ta dám chắc là nó đã dính đạn rồi,” tên béo biện bạch.

“Cứ đi xem xem, nếu ông thích. Và nếu có con muỗi nào tấn công ông, thì đừng có vội bắn nó, nếu không bọn tôi chẳng ngủ được đâu.”

Tảng sáng, lợi dụng ánh sáng lờ mờ lọc qua đám lá ken dày trên cao, họ ra ngoài và lùng sục khu vực xung quanh. Cơn mưa chưa rửa sạch dấu vết đám cây bị con thú dẫm bằng. Không hề có dấu máu trên lá và vết chân thì biến mất trong bụi cây rậm dày.

Họ trở lại lều và uống cà phê đen.

“Điều khiến ta suy nghĩ nhất,” viên thị trưởng nói, “là con thú đó lảng vảng cách El Idilio chỉ năm kilômét. Một con mèo rừng mất bao lâu để vượt qua quãng đường đó?”

“Ít hơn chúng ta. Nó có bốn chân, có thể nhảy qua các đầm nước, và nó không đi ủng,” lão già trả lời.

Viên thị trưởng nhận ra giờ đây hắn đã hoàn toàn đánh mất thể diện trong mắt những người này. Nếu hắn ở lại lâu thêm nữa, cùng với lão già ngày càng trở nên giễu cợt này, thì cái tiếng tăm là một tên hèn nhát vô dụng của hắn sẽ chỉ càng lớn thêm mà thôi.

Hắn đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ như hợp lý và còn bảo vệ được bản thân mình nữa.

“Hãy thỏa thuận thế này nhé, Antonio José Bolívar. Lão là cựu chiến binh rừng già. Lão hiểu rừng còn hơn là hiểu mình nữa. Bọn ta chỉ làm vướng đường lão thôi, lão già ạ. Hãy lần theo dấu vết của nó và giết nó đi. Chính phủ sẽ trả cho lão năm ngàn sucre khi lão xong việc. Hãy ở lại đây và làm những gì lão cho là cần thiết. Trong lúc ấy, bọn ta sẽ quay về và bảo vệ ngôi làng. Năm ngàn sucre. Đồng ý nhé?”

Lão già lắng nghe đề nghị của viên thị trưởng mà không hề chớp mắt lấy một lần.

Thực ra, điều duy nhất hợp lẽ lúc này là trở về El Idilio. Con thú, trong cuộc săn đuổi con người, sẽ nhanh chóng nhắm hướng ngôi làng, và họ sẽ dễ dàng đặt một cái bẫy ở đó. Con thú cái chắc chắn sẽ tìm kiếm những nạn nhân mới, và sẽ thật ngu ngốc nếu muốn hạ nó ngay trên đất của nó.

Viên thị trưởng muốn loại lão già. Miệng lưỡi sắc sảo của lão đã làm tổn thương cái nguyên tắc cai trị của hắn, vì vậy hắn bày ra một giải pháp tinh vi để gạt bỏ lão thật gọn ghẽ.

Lão già đặc biệt chẳng lo lắng về những gì tên béo suy nghĩ. Lão cũng chẳng quan tâm đến phần thưởng nọ. Những suy nghĩ khác đang trôi trong tâm trí lão.

Có điều gì đó cho lão biết rằng con thú không ở xa đây. Nó thậm chí còn có thể đang theo dõi họ ngay giây phút này. Hơn nữa, lão cứ băn khoăn tại sao chẳng có một nạn nhân nào làm động lòng lão. Có lẽ quãng đời sống bên người Shuar đã khiến lão coi những cái chết ấy như là một sự thực thi công bằng. Một quy luật nhân quả phũ phàng nhưng không thể trốn thoát được. Tên ngoại bang đã giết lũ con nhỏ của nó và có lẽ là cả bạn tình của nó nữa.

Mặt khác, hành xử của con thú cho thấy có lẽ nó đang tìm kiếm cái chết khi mạo hiểm lởn vởn rất gần con người, như đêm vừa rồi, và đêm trước nữa, khi nó giết Plascencio và Miranda.

Một giọng nói từ bên trong thầm thì với lão rằng giết con thú là một hành động cứu rỗi cần thiết, nhưng không phải là thứ cứu giúp chìa ra từ những kẻ đứng ở vị trí tha thứ và phân phát của từ thiện. Con thú cái đang tìm kiếm cơ hội được chết trong một trận chiến tung hoành, một cuộc đọ sức ngang tài mà không phải viên thị trưởng hay bất kỳ ai trong số ba người kia hiểu được.

“Lão già, thế nào?” viên thị trưởng nhắc lại.

“Tôi đồng ý. Nhưng để lại cho tôi xì gà, diêm, và một băng đạn nữa.”

Viên thị trưởng thở phào nhẹ nhõm và đưa cho lão tất cả những thứ lão muốn.

Nhóm người nhanh chóng vạch ra chi tiết chuyến trở về. Họ chào tạm biệt, và Antonio José Bolívar bắt đầu kiểm tra cửa chính và cửa sổ của căn lều.

Tới nửa chiều thì trời đã tối, và bên ánh đèn lặng lẽ, được bao bọc trong tiếng nước rớt xuống từ những tán cây, lão trở lại đọc sách trong khi chờ đợi.

Lão già đọc lại từ đoạn mở đầu.

Điều khiến lão thấy khó chịu là lão vẫn không thể nắm được cốt truyện. Lão đọc lại những câu mà lão đã thuộc lòng và chúng dường như vô nghĩa. Ý nghĩ của lão bay bổng khắp nơi, kiếm tìm một điểm thật cụ thể để đỗ lại.

Có lẽ mình đang lo lắng.

Lão nghĩ về câu tục ngữ của người Shuar khuyên người ta trốn tránh nỗi sợ hãi, và lão tắt đèn đi. Trong bóng tối lão duỗi người trên đám vỏ bao bì cùng khẩu súng đầy đạn nằm trên ngực, và để những ý nghĩ của mình dịu lại yên bình như những viên đá cuội khi chúng chạm được tới lòng sông.

Nào, Antonio José Bolívar. Có vấn đề gì chứ?

Đây không phải lần đầu tiên ngươi đối mặt với một con thú điên dại. Tại sao ngươi lại thiếu kiên nhẫn thế? Vì phải chờ đợi ư? Ngươi có muốn nó xuất hiện ngay bây giờ, xô đổ cánh cửa, và kết thúc chuyện này đi không? Điều đó sẽ không xảy ra. Ngươi biết là chẳng con thú nào ngu ngốc đến mức xông vào một nơi chính là hang ổ của kẻ khác. Và tại sao ngươi lại đoan chắc rằng ngươi là kẻ con thú sẽ bám theo? Ngươi không nghĩ là một con thú đã tỏ rõ được trí thông minh của mình sẽ quyết định đuổi theo đám người kia sao? Nó có thể đi theo và hạ từng người một trong số họ trước khi họ về tới được El Idilio. Ngươi biết rằng nó có thể làm thế và lẽ ra ngươi phải nhắc nhở họ, nói với họ rằng: “Đừng đi tách xa nhau quá 1 mét. Phải cảnh giác. Không được ngủ đêm, và luôn nghỉ chân ở bên bờ sông.” Ngươi biết rằng, thậm chí có làm như thế, thì con thú vẫn dễ dàng nằm rình họ được, rồi bất thần chồm lên, xô ngã một người và xé toang cổ họng anh ta, và trước khi những người còn lại hoàn hồn được thì nó đã lại lẩn mình trốn mất, chuẩn bị cho lần tấn công tiếp theo. Ngươi có tưởng tượng là con mèo rừng nghĩ về ngươi như một kẻ ngang hàng? Đừng có ngạo mạn thế, Antonio José Bolívar. Nên nhớ rằng ngươi không phải là thợ săn; ngươi đã luôn chối bỏ cái danh xưng ấy. Mà loài mèo thì bám theo những tay săn thú thực thụ, bám theo thứ mùi của nỗi sợ hãi và của dương vật cương cứng tỏa ra từ người họ. Không, ngươi chẳng phải là thợ săn gì hết. Cư dân của El Idilio hay nói về ngươi như một Tay thợ săn, và ngươi nói với họ rằng điều ấy không đúng, vì dân săn bắn ra tay giết chóc để chế ngự nỗi sợ hãi luôn khiến họ phát điên và gặm nhấm mòn mỏi ruột gan họ. Ngươi thường thấy có biết bao nhiêu bọn người đột nhiên xuất hiện, tràn đầy hứng khởi như thể phát sốt cả lên, trang bị đến tận chân răng, hăng hái xông thẳng vào rừng già? Vài tuần sau ngươi thấy họ xuất hiện trở lại với hàng bó da thú – thú vòi, rái cá, trăn, thằn lằn, mèo núi nhỏ – nhưng chưa bao giờ với xác của một kẻ thù thật sự như con thú cái mà ngươi đang chờ đây. Ngươi đã thấy họ uống rượu quên trời quên đất bên những đống da thú ấy, để giấu đi nỗi sợ vì ý thức được rằng trong rừng sâu mênh mông bạt ngàn họ đã bị theo dõi, bị đánh hơi, và bị khinh miệt bởi một kẻ xứng danh kẻ thù. Sự thật là ngày càng ít có thợ săn đi, vì thú hoang đã đi về phía Đông, vượt qua cả những dãy núi không thể vượt qua được, rất xa, xa đến nỗi con trăn anaconda cuối cùng người ta còn thấy là trên đất Brazil. Vậy mà chính người đã từng có thời trông thấy và săn được bao nhiêu anaconda chẳng cách đây bao xa.

Với con đầu tiên thì là một hành động tìm lẽ công bằng, hay là để trả thù? Cho dù ngươi có nhìn nó theo cách nào đi nữa, thì cũng chẳng có gì khác cả. Con bò sát đã bất ngờ tấn công đứa con trai của một người khai hoang khi thằng bé đang tắm. Ngươi đã nghĩ nhiều về thằng bé. Nó còn chưa đầy mười hai tuổi, và con anaconda bỏ lại nó mềm oặt như một bọc nước. Ngươi còn nhớ không hả lão già? Ngươi đã lấy xuồng lần theo con thú cho tới khi tìm tới được bãi sông nó đang nằm sưởi nắng. Rồi ngươi để mấy con rái cá chết làm mồi và chờ đợi. Những ngày ấy ngươi còn trẻ, nhanh nhẹn, và biết rằng ngươi chỉ trông cậy vào độ tinh nhạy của chính mình để tự cứu mình khỏi trở thành một bữa ăn thịnh soạn nữa cho nữ hà bá. Ngươi bật nhảy thật mau lẹ, tay nắm chắc con dao rựa. Một nhát cắt rất ngọt. Cái đầu con trăn rơi xuống cát, và trước khi nó chạm đất, ngươi đã kịp nhảy lùi lại núp mình trong đám cỏ rậm rạp, trong khi con bò sát giãy giụa vùng vằng cái cơ thể đầy hung dữ trên cát. Hơn mười một mét căm giận. Hơn mười một mét da xanh ô liu khoang đen còn cố gắng giết chóc trong khi bản thân nó đã chết.

Con thứ hai là cử chỉ hàm ơn đối với thầy phù thủy Shuar đã cứu mạng ngươi. Ngươi còn nhớ không? Ngươi lặp lại cái trò bỏ mồi trên bến sông và ngồi chờ trên một cái cây thật cao cho tới khi thấy con thú từ mặt nước bò lên. Lần ấy thì chẳng có chút căm giận nào. Ngươi nhìn nó nuốt chửng mấy con thú gặm nhấm trong khi ngươi chuẩn bị tên: ngươi quấn mạng nhện quanh đầu nhọn, bôi đầy nhựa độc cura, đặt nó vào miệng ống thổi, ngắm, nhằm thẳng vào chỗ gốc sọ.

Con bò sát bị mũi tên cắm trúng, thoắt đứng thẳng dậy đến gần ba phần tư chiều dài của nó, và từ trên cây ngươi nhìn thấy đôi mắt màu vàng của nó, đôi đồng tử thẳng đứng đảo tìm bóng dáng ngươi nhưng chẳng bao giờ thấy được bởi nhựa độc đã tác dụng quá nhanh.

Sau đó là nghi lễ lột da: ngươi đã phải bước tới tận mười lăm hay hai mươi bước với con dao rựa rọc mở bộ da của nó khiến thứ thịt màu hồng lạnh lẽo dính quyện đầy cát.

Ngươi có nhớ không, lão già? Khi ngươi mang bộ da tới cho họ, những người Shuar đã nói ngươi không phải là một trong số họ, nhưng ngươi thuộc về họ.

Ngươi cũng chẳng phải xa lạ gì với mèo rừng nữa, chỉ trừ một điều là ngươi chưa hề giết một con thú con nào, dù có là con của mèo rừng hay của bất kỳ loài nào đi nữa. Phải là những con thú hoàn toàn trưởng thành, như một lề luật người Shuar đã tuyên bố. Ngươi biết rằng mèo rừng là những sinh vật kỳ lạ và không thể đoán trước được. Chúng thiếu sức mạnh của loài báo, nhưng lại chứng tỏ được rằng chúng vô cùng thông minh.

“Nếu vết dấu quá lộ liễu và ta nghĩ rằng con mèo rừng đã nằm trong tay mình rồi, thì thật ra nó đang đằng sau ta, và đôi mắt nó đang nhằm vào cổ ta,” người Shuar nói như vậy, và đó là sự thật.

Một lần, trước lời nhờ vả của những người khai hoang, ngươi đã có cơ hội đo được trí thông minh của loài mèo đốm lớn. Đó là một sinh vật rất to đã ngốn vào bụng mình biết bao nhiêu bò và lừa của họ, và họ đề nghị ngươi giúp. Lần ra được dấu vết của nó đúng là rất khó khăn. Đầu tiên nó để cho ngươi bám theo, dẫn dắt ngươi tới tận chân núi dãy Condor, một vùng đất phủ đầy cây bụi rậm thấp, rất lý tưởng cho một cuộc phục kích trên nền đất phẳng. Khi ngươi phát hiện ra là đã bị dẫn tới một cái bẫy, ngươi gắng quay trở lại vào rừng rậm, nhưng con mèo rừng chặn lối đi, lộ hẳn thân mình ra nhưng không bao giờ để ngươi có đủ thời gian ngắm đúng cự ly cây súng săn. Ngươi đã bắn hai hay ba lần và đều trượt, cho tới khi ngươi nhận ra rằng con mèo muốn làm cho ngươi mệt lử trước khi nó tung đòn cuối cùng. Nó cho ngươi biết rằng nó chờ đợi được, và có lẽ nó còn đoán được rằng ngươi chẳng còn bao nhiêu đạn.

Đó là một cuộc thi tài năng vô cùng căng thẳng. Ngươi còn nhớ chứ, lão già? Ngươi đã im lìm chờ đợi, không động đậy một cơ bắp nào, dù vẫn phải tự tát mình đôi lúc để tránh ngủ gật. Ba ngày chờ đợi, cho tới khi con mèo cảm thấy đủ tự tin để ra miếng đòn của nó. Đấy đúng là một kế hay, phải, nằm bẹp trên mặt đất chờ đợi cùng khẩu súng đã lên đạn sẵn sàng.

Tại sao ngươi lại nhớ hết những chuyện này? Vì ngươi không thể gạt con thú cái này ra khỏi tâm trí được ư? Hoặc có thể vì cả hai bên đều biết rõ khả năng thắng bại là tương đương? Sau bốn lần giết chóc nó đã hiểu về con người bằng độ hiểu biết của ngươi đối với loài mèo rừng rồi. Hoặc có khi ngươi còn biết ít hơn nó nữa. Người Shuar không săn mèo rừng. Thịt nó không ăn được, và chỉ cần một bộ da là đủ để làm hàng trăm thứ đồ trang sức bền tới nhiều thế hệ. Ngươi có muốn có một người Shuar bên cạnh mình không? Tất nhiên là có rồi – người bạn của ngươi, Nushiño.

“Này người anh em, có muốn đi lần dấu vết với tôi không?”

Người Shuar sẽ từ chối. Nhổ nước bọt nhiều lần để cho ngươi hiểu là anh ta đang nói thật, anh ta sẽ thể hiện rất rõ là mình chẳng hứng thú gì. Đấy không phải là mối quan tâm của anh ta. Ngươi là một tay thợ săn da trắng, mang theo một khẩu súng, thứ can thiệp vào cái chết bằng chất độc của nỗi đau đớn. Người bạn Nushiño sẽ nói với ngươi rằng con thú duy nhất người Shuar giết chỉ để giết mà thôi là loài tzantza, con lười.

“Tại sao lại là con tzantza hả người anh em? Chúng chỉ treo mình ngủ khò trên cây suốt ngày thôi mà.”

Trước khi trả lời ngươi, người bạn Nushiño sẽ đánh rắm um ủm thật to, để cho bọn tzantza lười nhác không thể nghe thấy anh ta nói gì, rồi mới nói với ngươi rằng, từ rất lâu rồi, một tù trưởng Shuar đột nhiên trở nên độc ác và khát máu. Ông ta đã giết những người Shuar tốt chẳng vì lý do gì cả, và những người già quyết định rằng tốt nhất là ông ta nên chết đi. Khi phát hiện ra mình bị bẫy, Tñaupi, người tù trưởng khát máu, đã trốn chạy dưới cái lốt con lười, và vì, giống như loài khỉ, tất cả những con lười trông đều giống nhau, người ta không thể biết được con nào trong số chúng đang ẩn giấu người Shuar có tội kia. Đấy là lý do họ phải giết tất cả bọn chúng.

“Đấy là những gì đã xảy ra, theo lời người ta kể,” người bạn Nushiño sẽ nói, nhổ một bãi nước bọt cuối cùng trước khi bước đi, vì người Shuar luôn đi khỏi sau mỗi câu chuyện kể, để tránh những câu hỏi dễ dẫn đến những lời dối trá.

Tất cả những ý nghĩ này từ đâu ra vậy? Nào, Antonio José Bolívar. Kìa, lão già kia. Chúng lẩn quất dưới những tán cây nào vậy? Có phải nỗi sợ hãi cuối cùng đã chiếm được ngươi rồi không? Chẳng lẽ ngươi không thể làm gì nữa để giấu mình trước nó ư? Nếu điều đó là sự thực, thì đôi mắt của nỗi sợ hãi có thể nhìn thấy ngươi, cũng như ngươi có thể nhìn thấy ánh sáng bình minh xuyên qua những kẽ hở mái tranh vậy.

Sau khi uống mấy cốc lớn cà phê đen, lão già bắt đầu việc chuẩn bị. Lão đốt chảy vài cây nến và nhúng toàn bộ đạn vào chỗ mỡ hóa lỏng ấy. Rồi lão để mỡ nhỏ giọt cho tới khi chúng được bọc bằng một lớp màng mỏng. Như thế chúng sẽ vẫn được khô ráo ngay cả khi rơi xuống nước.

Lão bôi chỗ mỡ chảy còn lại khắp trán mình, đặc biệt là đôi lông mày, để nó tạo thành một thứ giống như lưỡi trai. Bây giờ thì nước mưa sẽ không thể ảnh hưởng đến khả năng quan sát của lão ngay cả khi lão phải đối mặt với con vật trong khoảng rừng thưa nữa.

Cuối cùng, lão kiểm tra lưỡi dao, và lên đường vào rừng tìm lối đi.

Lão bắt đầu bằng cách đi theo bán kính chừng hai trăm bước về phía Đông căn lều, bám theo dấu vết của ngày hôm trước.

Khi vừa đạt được mốc của bán kính, lão đi theo đường nửa vòng tròn về phía Tây Nam.

Lão phát hiện một cụm cây đã bị giẫm bằng, thân cây bị quần nát trong bùn. Đấy là nơi con thú đã núp trước khi di chuyển về phía căn lều. Nh 5c2a ng chỗ cây cối bị đạp bằng xuất hiện cách nhau những khoảng đều đặn trước khi giảm dần rồi mất hẳn trên đường đồi.

Lão bỏ qua những lối đi cũ này và lại tiếp tục tìm kiếm.

Bên dưới những tàu lá rộng của một cây chuối dại, lão thấy dấu chân thú còn rất rõ. Chúng khá to, giống như những nắm tay đàn ông, và cạnh đó lão còn thấy những chi tiết khác cho lão biết thêm về hành xử của con thú.

Con thú cái đang không đi săn. Các đoạn thân cây dập nát quanh mép các dấu chân trái ngược với kiểu cách săn mồi của bất kỳ loài mèo nào. Con thú đã quật đuôi rất nhiều, tâm trí nó bị phân tán đến mức thiếu cẩn trọng, bắt nguồn từ việc ở quá gần những con mồi của mình. Không, nó không đi săn mồi. Nó tin chắc là nó đang xử lý một giống loài yếu ớt hơn mình.

Lão hình dung nó nằm đó, cái cơ thể mảnh mai, hơi thở lo lắng hồi hộp, ánh mắt sắt đá chăm chú, mọi cơ bắp căng thẳng, cái đuôi vẫy qua vẫy lại thật uyển chuyển.

“Được rồi, quý bà xinh đẹp của ta, giờ ta đã biết nàng đi di chuyển. Ta chỉ cần biết nàng đang ở đâu nữa mà thôi.”

Lão già nói với rừng già, và chỉ có tiếng mưa rơi trả lời lão.

Lão mở rộng bán kính tìm kiếm bằng cách đi xa thêm khỏi cái lều của người chủ hiệu cho tới khi lão ở trên vùng đất cao hơn, nơi mà dù có mưa xối xả, thì vẫn là một vị trí quan sát thật tốt khắp khu vực lão vừa đi qua. Quá vùng ấy, cây cỏ lại thấp và dày khít, trước ngược với những cây cao bảo vệ được lão trước một cú tấn công trên mặt đất. Lão quyết định rời đỉnh đồi và đi theo một đường thẳng về hướng Tây, về phía sông Yacuambi không cách đó bao xa.

Sắp tới giữa trưa thì trời ngừng mưa, và điều này khiến lão lo lắng. Cơn mưa phải tiếp tục mới được. Nếu không nước sẽ bắt đầu bốc hơi, và rừng già sẽ chìm trong màn sương mù dày đặc, làm hơi thở lão trở nên khó khăn và tầm nhìn của lão sẽ chẳng quá được đầu mũi.

Bất thình lình, hàng triệu chiếc kim bạc chọc thủng vòm lá dày của rừng già, tạo thành vùng ánh sáng rực rỡ trên mọi bề mặt chúng rơi xuống. Lão đang ở ngay dưới khoảng trống của trời và hoa mắt trước phản chiếu của ánh mặt trời trên đám lá ẩm ướt. Lão dụi mắt nguyền rủa, và, bị bao bọc bởi hàng trăm chiếc cầu vồng chóng hiện chóng tàn, lão vội vã bỏ đi trước khi cơn bốc hơi đáng sợ bắt đầu.

Rồi, lão thấy nó.

Được báo hiệu bằng tiếng nước đổ ào xuống bất chợt, lão quay đầu và thoáng thấy bóng dáng nó đang di chuyển về hướng Nam cách lão chừng năm mươi mét.

Nó di chuyển chậm, miệng há, đuôi đập đập vào hai bên hông. Lão ước đoán nó phải được hai mét tính từ đầu cho đến đuôi, và nếu đứng trên hai chân sau thì nó phải cao hơn một con chó chăn cừu.

Con vật biến mất sau một lùm cây và lại lộ ra gần như ngay lập tức. Giờ thì nó đang nhằm hướng Bắc.

“Ta biết trò chơi của nàng rồi. Nếu nàng muốn ta ở đây, ta sẽ ở đây. Nàng cũng sẽ chẳng thấy gì trong màn sương đang lên này hết,” lão hét lên với nó, và đứng tựa lưng vào một thân cây canh chừng.

Khoảng mưa ngưng ngay lập tức mang lũ muỗi đến. Chúng tấn công môi, mi mắt, và khắp mọi ngóc ngách lão. Lũ ruồi bé tí chui vào lỗ mũi, tai, rồi khắp cả đầu tóc lão. Thật nhanh, lão nhét một điếu xì gà vào mồm, nhai nát thành một thứ hỗn hợp đặc, rồi bôi thứ chất quánh nước bọt ấy lên khắp mặt và hai cánh tay.

May thay, khoảng ngưng không kéo dài và cơn mưa lại đổ xuống với cường độ sung sức hơn trước. Cùng với nó là sự yên bình cũng trở lại, và tiếng động duy nhất là tiếng nước táp vào mặt lá.

Con thú thoắt hiện ra vài lần nữa, luôn theo hướng từ Bắc sang Nam.

Lão già bắt đầu nghiên cứu nó. Lão theo dấu vết di chuyển của con vật và tìm thấy bụi cỏ nơi nó quay đầu chuyển hướng lần tìm lại lối đi tới điểm phía xa nhất phía Bắc và trở lại con đường dọa dẫm của nó.

“Ta đây. Ta là Antonio José Bolívar Proaño, và ta có vô kể lòng kiên nhẫn. Nàng là một con thú kỳ lạ; điều đó đã rõ ràng. Ta không thể hiểu nổi liệu nàng đang hành xử một cách thông minh hay là tuyệt vọng nữa. Sao nàng không chạy vòng quanh ta và thể hiện những đòn tấn công đi? Sao nàng không tiến về phía Đông để ta bám theo? Nàng cứ đi từ Bắc sang Nam, quay về phía Tây và rồi lại chạy trở lại đường cũ? Nàng nghĩ là ta ngu dốt thế sao? Nàng đang chặn đường ta tới sông. Đấy là kế hoạch của nàng. Nàng muốn thấy ta phải bỏ chạy vào rừng sâu, rồi sẽ bám theo ta. Ta không ngốc thế đâu, quý bà xinh đẹp ạ. Và nàng cũng chẳng thông minh như ta tưởng.”

Lão trông thấy con thú chạy tới chạy lui, và đã vài lần định bắn. Nhưng rồi lại thôi. Lão biết rằng phát đạn của mình phải thật chắc chắn mới được. Nếu lão chỉ làm con thú bị thương, thì nó sẽ chẳng cho lão đủ thời gian nạp thêm đạn, và một lỗi vận hành nhỏ thôi cũng sẽ khiến cả hai nòng súng cùng nhả đạn một lúc.

Thời gian trôi qua, và khi ánh sáng nhạt dần, lão hiểu rằng con thú không muốn đẩy lão về phía Đông. Nó muốn lão ở đúng chỗ ấy, chính chỗ ấy, và nó đang chờ đêm xuống để tấn công.

Lão già đoán chừng chỉ còn một giờ nữa thôi trước khi trời tối, và lão nên tận dụng thời gian ấy mà tới bờ sông và tím lấy chỗ trú ẩn an toàn.

Lão chờ cho con thú đi đến điểm xa nhất phía Nam và quay vòng lại. Rồi lão thẳng phía sông mà vận mọi sức lực lao chạy thật nhanh.

Lão tới một khoảng rừng đã được phát quang từ trước, tăng thêm vận tốc, và vượt qua đó với cây súng ôm chặt trên ngực. Chỉ cần tí xíu may mắn thôi là lão sẽ tới được bờ sông trước khi con thú phát hiện ra cuộc chạy trốn này. Lão biết rằng không xa nơi đó sẽ có một khu lều của bọn tìm vàng, nơi lão có thể kiếm chỗ qua đêm.

Lão mừng rỡ hẳn lên khi nghe thấy tiếng nước sông chảy ầm ầm như lũ. Lão chỉ còn phải tuột xuống một đoạn dốc mọc đầy dương xỉ chừng mười lăm mét là tới được bờ sông, thì con thú tấn công.

Khi phát hiện ra lão bỏ trốn, con thú chắc hẳn đã phóng theo với tốc độ cực lớn theo một đường song song với lối đi của lão, êm ái đến mức lão chẳng hề nhận ra, cho tận tới khi nó bắt kịp lão.

Hai chân trước của nó táp lão ngã lăn lông lốc xuống con dốc.

Bàng hoàng, lão vùng đứng dậy, vung con dao lên bằng cả hai tay, đợi cú tấn công cuối cùng.

Trên đỉnh dốc, con thú đang quật đuôi liên tục. Đôi tai nhỏ của nó vẫy vẫy, thu vào mọi tiếng động của rừng già, nhưng nó vẫn không tấn công.

Ngạc nhiên, lão già khẽ đưa tay nâng súng lên.

“Sao nàng không ra tay đi? Nàng đang chơi trò gì vậy?”

Lão tháo chốt an toàn và ngắm. Với khoảng cách ấy lão không thể nào trượt được.

Trên cao, con thú không hề rời mắt khỏi lão. Bất thình lình, nó gầm lên một tiếng buồn bã và mỏi mệt, cơ thể nó rướn cao.

Tiếng vọng đáp lại yếu ớt là của một con đực, rất gần bên, và lão già dễ dàng tìm ra nó.

Nhỏ hơn con cái, con đực này đang nằm duỗi dài trong một hốc cây rỗng. Lớp da dính chặt lấy xương, và một bên đùi nó đã gần rời hẳn ra bởi một phát đạn. Nó hầu như không còn thở được nữa và đang chết dần chết mòn trong đau đớn.

“Đây là thứ nàng muốn sao? Nàng muốn ta giúp anh chàng được giải thoát bằng cái chết ư?” lão già kêu to về phía con dốc, nhưng con thú cái đã giấu mình sau đám cây cỏ.

Lão đi về phía con thú bị thương và chạm vào đầu nó. Nó hơi nhướng một mắt lên mệt mỏi, và khi tỉ mẩn xem xét vết thương, lão phát hiện ra lũ kiến đã bắt đầu ăn thịt nó rồi.

Lão đặt gọn nòng súng vào ngực con thú.

“Ta thứ cho ta nhé, anh bạn. Tên ngoại bang khốn kiếp đã khiến chúng ta khốn khổ thế này đây.” Rồi lão bóp cò.

Lão không nhìn thấy con thú cái, nhưng lão hình dung ra nó nấp đâu đó trên kia, đang run lên vì nước mắt như một con người.

Lão nạp thêm đạn và chậm rãi đi về phía bờ sông. Đi được chừng vài trăm mét thì lão trông thấy con thú cái men đến bên người bạn tình đã chết của nó.

Khi lão tìm đến được túp lều xộc xệch mà bọn tìm vàng bỏ lại, trời đã gần tối hẳn, và lão phát hiện cơn mưa lớn đã tàn phá hết đám kèo cột trong lều. Lão xem qua và rồi cảm thấy nhẹ cả người khi trông thấy một chiếc xuồng rách nằm úp trên bờ sông.

Lão tìm thấy một bọc đầy chuối khô thái lát, bèn nhét vào túi rồi bò vào bên trong xuồng. Đám sỏi đá bên dưới còn khô ráo. Lão thở phào một cái, duỗi lưng nằm dài, cảm giác thật an toàn.

“Ngươi thật may mắn, Antonio José Bolívar. Cú ngã ấy lẽ ra phải gãy mấy cái xương. May mà còn có lớp đệm dương xỉ.”

Lão đặt khẩu súng và con dao vừa tầm tay với. Thân xuồng cao đủ cho lão có thể bò tới bò lui khi cần. Xuồng dài chừng chín mét và có vài vết rạch do những viên đá nhọn của thác ghềnh.

Lão khoan khoái nghỉ ngơi, ăn mấy vốc chuối khô và đốt một điều xì gà, khoan khái thưởng thức. Quá mệt mỏi, lão nhanh chóng thiếp đi.

Giấc mơ của lão thật kỳ lạ. Lão thấy chính mình, với cơ thể sơn vẽ đầy màu sắc lấp lánh giống như một con trăn lớn, ngồi bên sông nhấm nháp natema.

Đối diện với lão, thứ gì đó đang chuyển động trong không khí, trong đám lá cây, bên trên mặt nước phẳng lặng, tận dưới đáy sông. Một thứ gì đó dường như có thật nhiều dáng vẻ và đồng thời là mồi cho chính nó. Nó biến đổi liên tục, chẳng để cho đôi mắt ngà say của lão kịp tập trung vào một hình thù nhất định nào. Lúc này nó là một con vẹt đuôi dài, sau đó lại là một con cá trê to nhảy cẫng lên ngoác mồm nuốt chửng mặt trăn, và khi rơi trở lại mặt nước lại lộ vẻ hung tợn như một con nghiền xương đổ vồ xuống người ta. Cái thứ kỳ lạ ấy không có hình thù xác định, nhưng dù nó có ở dạng nào đi nữa, đôi mắt của nó vẫn một màu vàng sáng, lấp lánh.

“Đấy là cái chết của ngươi đã tự hóa trang để bất thình lình tóm lấy ngươi. Nếu nó làm như vậy, thì nghĩa là thời khắc ra đi của ngươi vẫn chưa tới. Hãy tìm bắt lấy nó,” văng vẳng vọng lại mệnh lệnh của thầy phù thủy Shuar đang mải miết xoa bóp cơ thể đầy sợ hãi của lão bằng những vốc tro lạnh.

Cái hình thù có đôi mắt vàng ở đây, ở đó, khắp mọi chỗ. Nó lùi dần cho tới khi bị nuốt chửng vào đường chân trời xanh vĩnh hằng và tỏa sáng rực rỡ, và ngay lúc ấy những con chim vỗ cánh bay về cùng lời nhắn gửi cho sức mạnh và sự đủ đầy. Nhưng chỉ trong chốc lát, nó trở lại trong một đám mây đen đột ngột ập xuống hung dữ, và một cơn mưa những con mắt màu vàng chăm chắm nhìn đổ rơi xuống rừng già, phủ đầy cành cây và các loại thân leo, tắm đẫm rừng già trong không gian chói sáng một màu vàng nóng rực, ném lão vào điên cuồng sợ hãi và cơn sốt bừng bừng. Lão muốn hét lên, nhưng loài gặm nhấm ghê sợ đã cắn nát lưỡi lão bằng những hàm răng sắc nhọn. Lão muốn ăn, nhưng những con rắn bay mảnh dẻ cuộn chặt lấy hai chân lão. Lão muốn quay về căn lều của mình và ngồi vào chỗ của lão, trong tấm chân dung, bên cạnh Dolores Encarnación del Santísimo Sacramento Estupiñán Otavalo và rời khỏi vùng đất hoang dã này. Nhưng những con mắt vàng đã ở khắp mọi nơi, chúng chặn lối đi của lão, cùng một lúc ở khắp mọi nơi, và ngay khoảnh khắc này, lão cảm thấy chúng đang ở phía trên chiếc xuồng run rẩy, lắc lư dưới sức nặng của một cơ thể đang bước đi trên lớp vỏ gỗ.

Lão nín thở, chuyện gì đang xảy ra thế này.

Không. Lão không còn trong vùng đất của những giấc mơ nữa. Con thú cái đang thong thả đi lại phía trên, và vì mặt gỗ rất trơn do dòng nước mưa liên tục chảy, nó phải dùng những móng vuốt mới bám chắc được mỗi bước đi suốt từ mũi xuồng đến tận đuôi xuồng, hơi thở lo lắng của nó đè nặng lão.

Tiếng động từ sông và cơn mưa cùng chuyển động của con thú là những sợi liên kết duy nhất của lão với cả vũ trụ. Hành xử mới của con thú bắt lão phải suy tính thật nhanh. Nó đã cho lão thấy rằng nó quá thông minh, nó không cho là lão sẽ chấp nhận thách thức ra mặt và đối đầu với nó giữa đêm đen đặc thế này.

Trò mới gì kỳ lạ vậy? Người Shuar có chắc là đúng khi nói về khứu giác của loài mèo?

“Mèo rừng đánh hơi được mùi của cái chết mà rất nhiều người tự tỏa ra một cách vô thức.”

Mội vài giọt, rồi cả một dòng nước hôi thối trộn lẫn với nước mưa chảy xuống qua những vết rạn trên khung xuồng.

Lão già hiểu rằng con thú không còn sáng suốt nữa. Nó đã đái lên lão. Đánh dấu lão là con mồi của mình, cư xử với lão như thể lão đã chết cho dù nó chưa hề đụng đến lão.

Rồi những giờ đồng hồ dài dằng dặc đầy lo lắng trôi qua, cho tới khi ánh sáng yếu ớt len lỏi bò vào chỗ trú chân của lão.

Phía dưới, lão nằm ngửa, kiểm tra khẩu súng sẵn đạn, và bên trên, con thú vẫn bước qua bước lại không chút mỏi mệt, những chuyển động của nó dần nhanh hơn và trở nên sốt ruột.

Nhờ ánh sáng, lão nghĩ hẳn đã phải gần trưa lúc lão cảm nhận được con thú đã nhảy xuống. Lão đang lắng nghe xem hành động tiếp theo là gì thì một tiếng động ngay bên cạnh báo cho lão biết rằng nó đang đào lớp đá sỏi mà chiếc xuồng tựa lên.

Con thú đã sẵn sàng xâm nhập nơi trú ẩn của lão, bởi lão không chịu đáp lại sự thách thức của nó.

Lê mình về phía sau, lão rút về đầu kia của xuồng, vừa đúng lúc tránh được một cú vuốt cào mù mắt.

Lão ngóc đầu dậy, giữ báng súng tựa vào ngực, và xả đạn.

Lão nhìn thấy được một dòng máu phun ra từ bàn chân con thú. Cùng lúc ấy, một cơn đau nhói ở bàn chân trái khiến lão nhận ra rằng lão đã tính sai khoảng cách giữa hai chân mình: một phát đạn có lẽ đã đi thẳng vào mu bàn chân lão.

Thật sòng phẳng. Cả hai cùng bị thương.

Lão nghe thấy con thú chạy đi và, với con dao rựa, lão nâng chiếc xuồng lên vừa đủ để thấy nó, cách đó một trăm mét, đang liếm máu trên bàn chân bị thương.

Lão nạp đạn, và trong nháy mắt, lật mở chiếc xuồng.

Khi lão đứng dậy, vết thương trở nên nhức nhối khủng khiếp, và con thú, quá bất ngờ, phục mình dài trên lớp đá sỏi, áng chừng cho một cú tấn công.

“Ta đây! Hãy chơi cái trò khốn khổ này một lần vĩnh viễn cho xong đi.”

Lão nghe mình hét vang bằng một thứ giọng lão chưa hề quen biết, và cũng không chắc là mình đã nói bằng tiếng Shuar hay tiếng Tây Ban Nha, và lão nhìn thấy con thú chạy dọc bờ sông như một mũi tên đốm, mặc kệ bàn chân bị thương.

Lão già khuỵu xuống hai đầu gối, và con thú, giờ chỉ còn cách lão năm mét, dữ dội tung mình lên phía trước, khoe lộ tất cả bộ móng và hàm răng của nó.

Một sức mạnh nào đó đã bắt lão phải đợi tới khi con thú đạt tới độ cao đỉnh điểm trong cú tung mình ấy. Và lão bóp cò. Con thú đông cứng lại giữa không trung, cơ thể nó xoắn về một bên, và rơi xuống thật nặng nề, ngực nó bị xé tung bởi phát đạn kép.

Antonio José Bolívar Proaño chậm chạp đứng dậy. Lão bước tới bên cái xác của con thú và rùng mình khi thấy loạt đạn đã xé toang nó. Ngực nó giờ là một vết thương ngoác miệng to khủng khiếp, những vụn phổi và ruột bắn tung qua lưng nó.

Con thú thậm chí còn to hơn cả trong ý nghĩ của lão lần đầu tiên trông thấy nó. Dù đã gầy mòn đi nhiều, nó vẫn là một con thú tuyệt vời, một vẻ đẹp, một kiệt tác duyên dáng không thể nào còn có lần thứ hai, dù chỉ trong tưởng tượng.

Lão già vuốt ve nó, quên đi cơn đau trên bàn chân và mặc những giọt nước mắt tủi hổ rơi xuống, dâng lên cái cảm giác đê tiện, nhục nhã, chẳng một chút nào vinh quang chiến thắng.

Đôi mắt lão mờ đi vì nước mắt và mưa, lão đẩy xác con thú ra bờ sông, và nước mang nó đi, về lòng rừng xanh sâu thẳm, về nơi không một người da trắng nào có thể làm vấy đục, về thượng nguồn Amazon, về xoáy nước khủng khiếp nhất, nơi nó sẽ bị tàn hủy bởi những miếng đá sắc nhọn, vĩnh viễn tránh xa khỏi những con người ghê tởm.

Và, trong cơn điên giận bùng cháy, lão quăng khẩu súng đi, lặng nhìn nó chìm xuống không sủi tăm chút hào quang. Một con quái vật bằng kim loại bị tất cả các loài sinh vật sống khinh miệt.

Antonio José Bolívar Proaño tháo bộ răng giả ra, gói vào chiếc khăn tay và vừa nguyền rủa tên ngoại bang đã gây ra tấn bi kịch này, viên thị trưởng, lũ săn vàng, tất cả những kẻ đã làm ô uế Amazonia trong trắng của lão, lão vừa chặt lấy một cành cây thật chắc chắn. Tựa vào nó, lão lên đường trở về El Idilio, về căn lều của lão, và về với những cuốn tiểu thuyết kể truyện tình bằng những lời đẹp nhất, để đôi khi giúp lão được quên đi sự tàn ác của con người.

Artatore, Yugoslavia 1987

Hamburg, Germany 1988

The end!


Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/87757


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận