Ngày 7 tháng 7, 11 giờ 17 phút sáng
Angkor Thom, Cămpuchia
Gray ôm chặt Susan, giữ cô trong tấm ni lông.
Cô rên rỉ rồi cụng cựa. Cô bị một vết toác ở đầu khi rơi xuống đất nhưng Gray đã nói dối gã Nasser rằng cổ cô bị gãy. Gã khốn kiếp trong cơn giận dữ đã không thắc mắc gì, có khi chính gã cũng mong như vậy.
Gray hy vọng sẽ dùng người đàn bà làm một thứ để mặc cả.
Nhưng điều này xem ra không ổn.
Ở phía trên, Nasser gào thét, điên dại vì vết thương. Chỉ cần nhìn những vệt tím bầm ở da cũng biết hắn đang bị bỏng cấp ba khắp cơ thể. Và giờ đây gã muốn họ cũng phải chịu đựng như thế. Ăn miếng trả miếng. Song rõ ràng là nhóm phá hoại chưa kịp chuẩn bị cho một mệnh lệnh bất ngờ như vậy. Chúng đang chạy ngược chạy xuôi, giúp nhóm của Gray có thêm một vài phút để suy nghĩ.
Lợi dụng lúc đó, Gray xê dịch thân hình Susan, hy vọng có thể bảo vệ cô tốt hơn phía sau cột. Nếu như cô ta là một thứ thuốc chữa tiềm tàng thì phải bảo vệ. Anh quấn mảnh vải nhựa trùm kín đầu cô ta. Nó hở ra một chút, để lộ vệt sáng mờ từ làn da trần trụi phía dưới. Cách xa ánh mặt trời, nước da của cô ta bắt đầu mờ dần. Anh dừng lại, ngạc nhiên trước hiện tượng lạ lùng này. Khi anh kéo dịch tấm vải vào, anh để ý bức tường phía trước mặt.
Dòng chữ văn bản angelic bỗng sáng rực một cách lạ thường, phát sáng dưới ánh sáng yếu ớt. Ánh sáng phát ra từ loại vi khuẩn cyano trong da của cô ta chắc phải tỏa ra làn sóng tia cực tím, bột phát tổ hợp ánh sáng xuyên vào chỗ khắc họa.
Điều đó làm anh liên tưởng đến mẫu đá Ai Cập, sáng lên với văn bản angelic, một phiên bản nhỏ và thô thiển của cái này chăng? Liệu Johannes Trithemius có sự tiết lộ sâu sắc hơn nữa trong sự suy ngẫm của ông? Một cái nhìn của tất cả cái này?
Gray mở tấm vải nhựa rộng hơn, tỏa ra nhiều ánh sáng hơn từ cô ta. Nhiều phần của văn bản được thắp sáng, nhảy múa trong bóng tối từ các hướng, như thể anh vừa châm lửa vào dầu.
Gray ngồi nhỏm lên. Anh để ý một chấm đen ở phía xa bên trái, không nhìn thấy phía mép ngoài tầm với của tia sáng, một tảng đá đen trong dòng chữ lấp lánh. Cái góc cạnh này đã làm anh chú ý.
Liệu đó có...
Anh quay lại phía Susan vẫn trong tay mình, để cho tấm vải nhựa rơi ra, cách một quãng vừa đủ giữa anh và thân thể cô ta. Ánh sáng chưa đủ mạnh để với tới đó. Anh phải kéo cô ta tới gần hơn. Anh vật vã với thân hình cô, kéo tấm vải trong khi cảm thấy thời gian nhích từng giây.
Anh cần có sự giúp đỡ.
"Kowalski, cậu ở đâu vậy?"
Một giọng cất lên từ phía cây cột bên phải anh. "Tôi đang nấp! Như anh yêu cầu!"
Gray đứng lên. "Tôi cần cậu tới đây!"
"Thế còn quả bom thì thế nào?"
"Hãy quên quả bom đi, hãy lê đôi mông của cậu tới đây!"
Kowalski chửi tục rồi thò đầu ra vẫn lầu bầu. "Tại sao lúc nào cũng có một quả bom..."
Người đàn ông to béo chạy tới, thực ra là luồn qua phía sau cái cột.
Gray ra hiệu anh ta. "Hãy giúp tôi dịch Susan lui xuống dưới này."
Kowalski thở dài. Dùng tấm vải nhựa như một cái cáng, họ khiêng thân hình cô, rồi lao vội dọc theo tường. Khi họ lê qua, những hàng chữ sáng lên theo họ, nhất là khi họ tới gần thì sáng lên rồi lại mờ đi khi ra xa.
Seichan cũng nấp ở cây cột tiếp theo. Cô ta chạy tới họ, bị lôi cuốn bởi hành động điên cuồng của họ. "Các anh làm g ... Ồ lạy Chúa."
Gray hạ thấp Susan xuống nền đá, để lộ cả thân hình cô, tỏa sáng chiếu vào bức tường, làm cho dòng chữ nhảy múa. Tất cả trừ một vệt đen.
"Vigor!" Gray gọi to.
"Tôi tới đây!" Ông đáp. Rõ ràng ngài linh mục đã nhìn thấy cảnh đó diễn ra khắp căn phòng. Gray nghe tiếng chân vội vã của cả Lisa chạy theo Vigor.
Họ đều đứng trước bức tường, há hốc mồm trước cảnh tượng này.
Không phải là cái gì đang sáng mà là cái không.
"Friar Agreer," Vigor nói." Ông ta chắc phải để lại dấu vết này bằng cách rửa sạch bức tường. Lau sạch con đường ở đây như là một dấu hiệu."
"Một dấu hiệu gì vậy?" Seichan hỏi.
"Một dấu vết về một cái cửa bí mật." Gray nói. "Chắc phải có lối xuống hầm."
"Vậy cái dấu vết này có nghĩa gì?" Vigor hỏi.
Gray lắc đầu, biết rằng họ đang hết dần thời gian. Nếu họ không tìm thấy cánh cửa, đưa Susan tới nơi nào đó an toàn và cách xa tụi Hiệp hội, thì không phải chỉ có mất tính mạng của họ. Theo Lisa, một sự hỗn loạn đã bắt đầu lan ra.
Nasser gọi xuống cho họ. "Hãy đọc lời cầu nguyện cuối cùng đi!"
"Jesus H.Christ!" Kowalski thốt ra mặc dù đó đâu phải là lời cầu nguyện. Anh ta gạt Gray và Vigor sang một bên, bước tới bức tường rồi đẩy mạnh vào chính giữa cây thập tự.
Cánh cửa đá lung lay rồi xoay trên một cái chốt giữa, để lộ ra một lối đi bên ngoài.
Kowalski quay lại. "Không phải lúc nào cũng là khoa học cao siêu, thưa các vị. Thỉnh thoảng thì cái cửa cũng chỉ là cái cửa mà thôi."
Họ đi hàng một qua lối ra. Gray và Kowalski lại khiêng Susan giữa họ. Sau khi đã đi qua, Seichan và Lisa dùng vai hất cánh cửa đóng lại phía sau họ.
Phía trước, một cầu thang dẫn xuống, làm bằng đá vôi.
Không nghi ngờ gì nơi nó dẫn xuống.
Khi họ bắt đầu đi xuống, một tiếng nổ vang đến chỗ họ, một tiếng duy nhất. Gray gửi lời cầu nguyện thầm lặng đến Friar Agreer.
Ông đã cứu Marco trong quá khứ.
Và giờ đây lại cứu tính mạng của họ.
Mặc dù thở phào, nhưng Gray cũng không thoát được cảm giác khủng khiếp. Trong khi anh có thể tự do, bố mẹ lại không thể. Khi Nasser phát hiện những tù nhân của y trốn thoát, Gray biết ai sẽ phải chịu đựng thay.
*
* *
12 giờ 18 phút sáng
Ngồi trên nóc nhà kho, bà Harriet ngủ gật trongcánh tay chồng. Đó là một buổi tối ấm áp. Phía trên đầu, mặt trăng di chuyển qua bầu trời đêm. Mặc dù nỗi sợ hãi, sự mệt mỏi vẫn ngấm vào họ. Lúc đầu, bà còn lắng nghe tiếng động, tiếng hò hét rồi tiếng chó sủa. Sau bà cũng chả thiết gì nữa. Thời gian kéo dài, quá dài, đến nỗi bà thấy giật mình tỉnh dậy khi tiếng hét đầu tiên cất lên từ phía bên kia của mái nhà.
"Chúng ở đây rồi." Ông Jack nói, giọng nhẹ nhàng.
Ông dịch chuyển và ra hiệu cho bà lui vào bên trong. Chỉ có đủ chỗ cho hai người. Một khi bà Harriet vào trong rồi, bà thò tay ra về phía chồng.
Thay vì vậy, ông cầm lấy cái chốt cửa.
"Jack?" Bà thì thào với ông.
Ông nhấc cái chốt rồi gạt nó vào vị trí.
"Không..." Bà rên rỉ.
"Thôi nào, bà, để tôi làm việc này. Tôi có thể kéo chúng ra xa. Cho bà có thêm thời gian. Ít nhất cho tôi làm việc này."
Mắt họ gặp nhau qua khe cửa.
Bà hiểu. Đã lâu rồi, ông Jack nghĩ mình chỉ là đàn ông một nửa. Ông không tính sẽ chết theo kiểu đó. Nhưng đối với bà, ông chưa bao giờ là một nửa đàn ông cả.
Tuy nhiên, bà vẫn không thể chấp nhận điều này với ông.
Đó là món quà cuối cùng của bà đối với ông.
Bà với tay qua khe cửa, nước mắt tuôn trào. Ngón tay của ông chạm vào bà, cảm ơn và âu yếm.
Những tiếng hét đến gần hơn.
Họ không còn thời gian nữa.
Ông Jack quay lại rồi như nửa bò trên bức tường nhô lên của mái nhà, khẩu súng lục ông nắm chặt trong tay. Khi ông tới bức tường, ông dùng nó để nhảy xuống bên trái.
Bà Harriet cố gắng xem ông đi đâu nhưng chẳng mấy chốc ông đã mất hút.
Bà lấy tay ôm mặt.
Một tiếng kêu đanh gọn cất lên ở hướng đó. Bà nghe tiếng súng lục nổ từ phía gần bên trái.
Jack.
Bà đếm những phát súng của ông, biết rằng ông chỉ còn ba viên đạn trong nòng.
Đạn lại tuôn như mưa về phía ông Jack, nhiều viên bắn vào kim loại kêu loẻng xoẻng. Chắc là ông đã kiếm được nơi ẩn nấp. Một viên đạn nữa được bắn ra từ chỗ ông.
Chỉ còn một viên nữa thôi.
Trong khoảng khắc ngắn ngủi sau trận đấu súng, ông Jack hét lên: "Chúng mày sẽ không bao giờ tìm thấy vợ tao. Tao đã giấu bà ấy thoát khỏi tầm với của lũ chúng mày rồi."
Một giọng đáp lại, chỉ vài bước phía sau chỗ bà nấp, làm bà giật mình.
Annishen.
"Nếu lũ chó không tìm thấy bà ta," ả đàn bà gọi lại,
Chân của ả đã thấy hiện ra ngay trước chỗ bà nấp. Ả thì thào vào máy bộ đàm, ra lệnh cho người của mình tản ra và ghìm chân ông Jack.
Rồi ả thẳng người, khẽ quay lại.
Một tiếng động khác xen vào.
Nghe như tiếng giật của một cơn gió mạnh.
Phía trên mái nhà, một chiếc trực thăng đen trũi đã xuất hiện vọt lên từ dưới kia. Rõ ràng là máy bay quân sự. Một loạt súng trường tự động lia ngang qua mái nhà. Tiếng la hét. Những bước chân chạy thình thịch. Một người đàn ông chạy ngang qua, chân của hắn bị gãy, bò úp mặt trước.
Còi báo động rú lên từ khu phố tối mịt dẫn tới nhà kho.
Tiếng loa từ trên máy bay yêu cầu hạ vũ khí.
Annishen khom người cúi xuống bên cạnh, sẵn sàng cho cú nhảy vọt sang lối ra của mái. Bà Harriet xích ra xa khỏi ả, khuỷu tay của bà đập vào cạnh thùng nghe rất rõ.
Annishen khựng lại rồi cúi liếc vào bên trong. "Ồ, bà Pierce." Ả xoay người lại, thò khẩu súng qua khe hở với tầm bắn rất gần. "Giờ đến lúc nói..."
Phát súng rung đến tận chỗ bà.
Thân hình của ả đập mạnh vào vách, rồi tụt xuống chỗ giấy dầu.
Bà Harriet nhìn thấy một hố trong hốc mắt của ả.
Khi ả đổ vật xuống, ông Jack hiện ra. Ông vứt sang bên khẩu súng còn bốc khói.
Viên đạn cuối cùng của ông.
Bà Harriet đẩy cánh của mở tung. Bà vấp phải chân của Annishen vắt trên mái rồi lao vào vòng tay ông Jack, òa khóc. Hai người họ ngồi sụp xuống mảnh giấy dầu.
"Đừng bao giờ rời xa em nữa, Jack."
Ông ôm bà thật chặt. "Không bao giờ." Giọng ông chắc nịch.
Những người lính, mặc quân phục nhảy từ trực thăng xuống mái nhà theo đường ngoằn ngoèo. Họ đứng bảo vệ cho ông bà trong khi mái nhà tiếp tục được lục soát. Nhiều tiếng súng và tiếng kêu vọng lên từ ngôi nhà kho.
Một bóng người bước ra về phía họ, ông quỳ xuống.
Bà Harriet ngước nhìn lên, ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt quen thuôc . "Giám đốc Crowe phải không?"
"Thế khi nào thì bà bắt đầu gọi tôi là Painter thế, thưa bà Pierce?" Ông hỏi.
"Làm thế nào mà ông tìm được?"
"Hình như có một ai đó đã gây ra một vụ lộn xộn ở trên đường phố bên ngoài cửa hàng bán thịt." Ông giải thích với một nụ cười mệt mỏi. "Quá lạ lùng để phải nhớ."
Bà Harriet nắm chặt tay chồng, cảm ơn ông đã đóng
rất đạt.
Painter tiếp tục. "Chúng tôi đã rà soát khu phố này từ sáng sớm, rồi bốn mươi lăm phút trước đây, một cảnh sát đi tuần phát hiện ra một người đàn ông với thẻ mua hàng. Anh ta nhận ra khuôn mặt của ông ta và nghi ngờ đến nỗi đã ghi biển số xe lại, cùng với kiểu cách và dáng xe. Thật cũng không mất nhiều thời gian để định vị chiếc xe bằng hệ thống GPS. Tôi xin lỗi là chúng tôi không đến sớm hơn được."
Ông Jack chùi một bên mắt, quay mặt đi để không ai nhìn thấy ông đang khóc. "Việc tính giờ của các vị khó có thể tốt hơn được. Tôi nợ ông một chai whisky đấy."
Bà ôm chặt ông chồng. Jack có thể gặp khó khăn với việc nhớ tên người nhưng không bao giờ quên những gì họ thích uống.
Painter đứng dậy. "Tôi sẽ mời các vị món đó lúc nào thuận tiện nhưng bây giờ tôi còn phải có một cuộc gọi quan trọng." Ông quay đi và lẩm bẩm trong hơi thở, nhưng bà vẫn nghe được.
"Đó là, nếu như tôi không quá muộn."
*
* *
11 giờ 22 phút sáng
Lisa lập bập đi xuống cầu thang tối om, theo sau ngài linh mục. Nàng cũng phải khom người xuống thấp, tay lần sờ theo bức tường ẩm ướt. Không khí thật ẩm ướt giống như lá cây mục trong một khu rừng ướt sũng. Thực ra thì cũng dễ chịu chỉ trừ sống mũi hơi cay một chút.
Phía trước, một tia sáng yếu ớt thu hút họ bước lên, sáng lên từ phía dưới.
Mục tiêu của họ.
Cầu thang cuối cùng cũng hết, dẫn họ xuống một cái hang rộng. Tiếng bước chân của họ vang vọng. Phía trên đầu, mái vòm của hang vồng lên năm tầng, thò xuống vài dòng nham thạch.
Khoảng không này rỗng tuếch, mỗi bề khoảng bảy mươi feet ở chỗ rộng nhất. Khi họ bước vào, mái trải rộng ra thành một cái cổng vòm đá tự nhiên. Một cái vòm tương tự cũng được nhìn thấy bên kia cái hang.
"Trông nó giống như cái mu rùa." Vigor lẩm bẩm, giọng của ông vang sâu thẳm. "Ngay cả cách nó bừng sáng lên ở đây, ngang qua đường. Giống như phía đầu và cuối của một cái mu rùa."
Kowalski càu nhàu, kéo Susan sang một bên với sự trợ giúp của Gray. "Vậy nó là cái gì? Có phải là chúng ta đang trèo xuống cái cổ rùa hay lên mông của nó?" Nhưng khi đứng thẳng lên, anh chàng to béo này khẽ huýt sáo qua hai hàm răng.
Lisa hiểu phản ứng của anh ta.
Phía trước, một cái hồ tròn, nước đen ngòm và yên tĩnh như một mặt gương, viền xung quanh là một cái vòng tròn đá. Từ cái mái ở phía trên, hai cột sáng mặt trời soi xuống đâm thẳng vào giữa hồ nước, đi xuống từ những con mắt của tượng đá bên trên.
Nhưng tại nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuống nước đen, một vũng nước như sữa lộ ra, sáng như thể mặt trời đã biến thành chất lỏng và tuôn chảy xuống từ trên.
Ánh sáng sữa lấp lóe, đung đưa và chảy.
Trông thật sống động.
Cái gì vậy.
"Ánh sáng mặt trời đã năng lượng hóa cyanobacteria trong nước." Lisa nói.
Một vài vệt sáng từ hố mắt của thần đá đâm xuyên vào vũng, phát ra tiếng kêu xèo xèo. Khi chúng bắn tung lên, dòng ánh sáng sữa tối lại.
"A xít." Gray nói, nhắc mọi người về mối hiểm nguy phía trên. "Từ quả bom. Chúng rơi xuống qua con mắt. Tôi không biết sẽ mất bao nhiêu lâu để trung lập cả cái vòm này nhưng ít nhất khối đá đang giữ lại. Tuy nhiên, chúng sẽ trôi xuống khi xẻng cuốc kết thúc việc phá thông qua ở đây."
"Vậy chúng ta phải làm gì?" Seichan hỏi.
Kowalski quay về phía Lisa. "Liệu cô có thể chạy lên trước kiểm tra đường vòm ở bên ngoài? Xem thử có đường nào ra không. Giống như Vigor đã nói, mui rùa có lối mở về phía đầu và một cái ở phía đuôi. Đó là hy vọng duy nhất của chúng ta."
Lisa đáp lại. "Gray, tôi nghĩ tôi cần phải ở cùng với Susan. Nghề nghiệp y tế của tôi..."
Một tiếng rên từ đám vải nhựa. Một cánh tay giơ lên
yếu ớt.
Lisa bước tới bên Susan, cẩn thận không chạm vào cô."Cô ta vẫn là hy vọng duy nhất cho một phương thuốc chữa."
"Tôi có thể đi." Seichan tình nguyện.
Lisa ngước nhìn lên, để ý một thoáng nghi ngờ trên khuôn mặt của Gray như thể anh không tin tưởng cô ta.
Tuy nhiên, anh gật đầu. "Hãy tìm một lối ra."
Cô ta bước đi không nói lời nào.
Gray nghiên cứu khu vực này. "Cái này trông giống như một lỗ cống. Giống như ở Florida, hoặc một nơi ở Mexico. Tảng đá nham thạch chắc phải bịt cái lỗ khởi thủy mà đã có thời mở ra."
Lisa cúi xuống gần bức tường rồi véo một ít bột khô. Nó vụn ra trong ngón tay nàng. "Toàn là phân dơi." Nàng nói, khẳng định điều nhận xét của Gray. "Cái hang này chắc đã có thời thông ra với bên ngoài."
Lisa lau ngón tay rồi liếc về phía Susan, bắt đầu khớp lại những gì nàng đã nghi ngờ.
Vigor đưa tay khoát một vòng cái hồ. "Những người Khơ Me cổ xưa chắc đã bắt gặp cái lỗ cống, chú ý việc nó sáng lên thế nào, tưởng tượng đấy là một ngôi nhà nào đó của thánh thần và có ý định nối nó với ngôi đền ở đây."
"Nhưng họ không biết mình đang làm gì." Lisa bổ sung. "Họ đã leo vào chỗ không nên đến. Bị can thiệp bởi một hệ thống vi sinh mong manh và phát ra vi rút. Nếu như loài người thúc đẩy, thỉnh thoảng thiên nhiên cũng phản ứng
trở lại."
Họ tiếp tục đi vòng quanh hồ.
Phía trước, một phiến đá thò lên từ mặt hồ, chỉ nhìn thoáng thấy trong bóng tối. Chỉ có cơn va đập của loại nước sữa mới để lộ ra một bán đảo nhỏ.
Và cùng với một cái gì đó nữa.
"Đấy có phải là xương không?" Kowalski hỏi, nhìn xuống mặt nước.
Cả tốp dừng lại.
Lisa vượt tới mép hồ. Ánh sáng mờ nhạt xâm nhập vào nước trong vắt. Bờ đá dốc thoai thoải xuống nước rồi biến mất ở một khoảng cách mười yard phía trước.
Tất cả ngang qua đáy nông của hồ, xương nằm chất đống theo từng hàng, những chiếc sọ chim, bộ xương lừa, một cái gì đó với sừng cong vểnh lên và không xa bờ là cái sọ voi to tướng, một cái vòi. Nhưng còn hơn nữa các loại xương của con người.
Cái hồ quả là một nghĩa trang lớn.
Ngạc nhiên đến mức không thốt được lời nào, họ tiếp tục bước đi.
Khi họ đi bộ dọc theo bờ đá, ánh sáng dần cao lên trên hồ. Độ cay xâm nhập vào mũi làm Lisa nhận thấy rõ. Nàng nhớ tới hòn đảo Giáng sinh, vũng chết bên bờ gió.
Độc tố sinh học.
Kowalski nhăn mặt lại.
Và giống như mùi của muối, chất này cũng tác động đến Susan. Mắt cô chớp chớp rồi mở ra, sáng trong bóng tối, tương phản với vệt sáng trên hồ. Cô vẫn ngây ngất nhưng đã nhận ra Lisa.
Susan cố ngồi dậy.
Gray và Kowalski hạ thấp cô xuống nền, để nghỉ một lát, vươn vai và xoa tay.
Susan lui lại khi Kowalski bước tới gần.
"Không sao." Lisa trấn an. "Họ là bạn."
Lisa giới thiệu những người khác để cô an tâm. Dần dần ánh mắt sợ hãi biến mất. Cô hình như bắt đầu hồi phục lại cho đến lúc cô nhìn qua vai Lisa, phát hiện ra cái hồ đang
lấp lóe.
Susan quay đi, lưng đập vào tường rồi bò.
"Các bạn không thể ở đây được." Cô nói, giọng cất lên.
"Đừng có đùa nữa." Kowalski làu bàu.
Susan phớt lờ anh ta, mắt nhìn chăm chú vào hồ. Giọng cô trầm xuống. "Nó sẽ giống như đảo Giáng sinh. Chỉ có điều còn tồi tệ hơn cả trăm lần khi bị hãm ở bên trong hang. Và tất cả các bạn sẽ bị phơi nhiễm."
Lisa không nghi ngờ điều đó. Da nàng đã thấy ngứa.
"Các bạn phải đi đi." Susan đã gượng đứng lên được, tựa một tay vào tường. "Chỉ có tôi ở đây, tôi phải ở đây."
Lisa nhìn thấy nỗi sợ hãi ánh lên trong mắt cô nhưng cũng thấy được sự quyết tâm.
"Để chữa ư?" Lisa nói.
Susan gật đầu. "Tôi phải bị phơi nhiễm thêm một lần nữa bởi nguồn lực ở đây. Tôi không thể nói vì sao tôi biết, nhưng tôi biết." Cô nhấc một bàn tay lên một bên đầu. "Điều đó giống như tôi đang đặt một chân lên quá khứ, một chân ở đây. Thật khó ở đây. Mọi thứ đang tràn ngập trong tôi, mỗi suy nghĩ và cảm giác. Tôi không thể cưỡng lại được. Và tôi cảm thấy nó đang lan tỏa."
Và nỗi sợ hãi lại sáng bừng lên trong đôi mắt cô.
Sự mô tả của Susan làm Lisa nhớ lại tính tự kỷ, khả năng bất lực của não đóng lại đầu vào của cảm giác. Nhưng không ít bệnh nhân tự kỷ lại là những nhà thiên tài trong các lĩnh vực hẹp, sự thông minh của họ sinh ra từ tái tạo. Lisa cố hình dung cơ chế bệnh đang xảy ra trong bộ óc của Susan, tắm trong chất biotoxin lạ lùng, phát ra năng lượng bởi thứ vi khuẩn đã tạo ra chất độc. Con người chỉ có một phần nhỏ khả năng nơ-ron. Lisa cũng hầu như có thể hình dung ra bộ óc của Susan.
Susan loạng choạng tới mép nước. "Chúng ta chỉ còn mỗi cơ hội này."
"Vì sao?" Gray hỏi, bước bên cạnh cô.
"Sau khi cái hồ tới mức nguy kịch và bùng nổ cùng với khối chất độc, nó sẽ cạn kiệt. Mất ba năm trước khi nó sẽ lại sẵn sàng nữa."
"Làm sao cô biết điều đấy?" Gray hỏi.
Susan liếc nhìn Lisa cầu cứu.
"Cô ấy chỉ biết vậy." Lisa trả lời. "Cô ấy về mặt nào đó liên quan đến chỗ này. Susan, có phải vì vậy mà cô rất nóng lòng muốn tới đây không?"
Susan gật đầu. "Một khi đã lộ ra ánh sáng mặt trời, cái hồ sẽ lớn lên đến mức nổ bung. Nếu như tôi nhớ là nó..."
"Vậy thì thế giới sẽ không được bảo vệ trong ba năm. Không gì cứu chữa. Bệnh dịch sẽ lan khắp thế giới." Lisa hình dung căn bệnh trên tàu chở khách sẽ lan ra toàn địa cầu.
Nỗi sợ hãi bị ngắt quãng khi Seichan trở lại, đang chạy tới họ, thở không ra hơi, mặt đẫm mồ hôi. "Tôi đã tìm thấy cửa."
"Vậy thì đi thôi." Susan giục. "Bây giờ."
Seichan lắc đầu. "Không thể mở được."
Kowalski ra hiệu: "Liệu có cần tôi phải đẩy không?"
Seichan trợn mắt nhưng cô cũng gật đầu. "Tôi đã cố đẩy rồi."
Kowalski giơ hai tay lên trời, đầu hàng. "Ồ, đó là tất cả những gì tôi có."
"Nhưng có một dấu thập ác khắc phía trên cái cổng vòm bằng đá" Seichan tiếp tục. "Và có hàng chữ, nhưng quá tối không đọc được. Những chữ ấy có thể là dấu vết."
Gray quay lại ngài linh mục.
"Tôi vẫn còn cầm đèn." Vigor nói. "Tôi sẽ đi với cô."
"Nhanh lên." Gray thúc giục.
Không khí đã thấy rất ngộp thở. Ánh sáng trên hồ lan tỏa ra xa hơn, chạy dọc theo chiều dài bờ hồ.
Susan chỉ vào đó. "Tôi phải ra ngoài, trên mặt hồ".
Họ đi tới cái bán đảo đá.
Gray đi ngang với Lisa. "Cô nhắc đến một hệ thống vi sinh bị xâm phạm trước đó. Cô có thể nói cho tôi biết cô nghĩ chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây không?" Anh vẫy về phía cái hồ đang lấp lánh, về phía Susan.
"Tôi chẳng biết hết mọi thứ được nhưng tôi tin chắc chắn ai là người có tất cả các chìa khóa quan trọng ở đây."
Gray gật đầu để cô tiếp tục.
Lisa chỉ tay về phía ánh sáng. "Tất cả bắt đầu từ đây, chất hữu cơ cổ nhất trong câu chuyện, cyanobacteria. Chất tiền tố cho các loài thực vật hiện đại. Chúng xâm nhập vào mỗi tầng môi trường: đất đá, cát, nước và ngay cả các chất hữu cơ." Nàng gật đầu với Susan. "Nhưng cái đó đi trước câu chuyện. Chúng ta hãy bắt đầu từ đây."
"Cái hang này."
Nàng gật đầu. "Cyanobacteria đã xâm nhập cái lỗ cống này, nhưng hãy nhớ rằng chúng cần ánh sáng mặt trời, và cái hang này hầu như tối tăm. Cái lỗ ở phía trên kia thậm chí nhỏ hơn cả thuở nguyên sơ. Để phát triển ở đây, chúng cần nguồn năng lượng khác nữa cũng như nguồn thức ăn. Và cyanobacteria là những kẻ thích ứng đầy sáng kiến. Chúng đã có nguồn thức ăn khác ở trong rừng...chúng chỉ cần cách để có được. Và thiên nhiên là tất cả mọi thứ mà không cần thần thánh gì cũng tạo lập được mối quan hệ kỳ lạ qua lại lẫn nhau đó."
Lisa kể lại câu chuyện nàng đã có lần kể cho tiến sĩ Devesh Patanjali về tuyến tụy Lancet, về làm sao mà chu trình sống sử dụng ba chủ nhà: gia súc, ốc sên và kiến.
"Vào một điểm, tuyến tụy gan thậm chí còn bắt cóc cả chủ nhà kiến. Nó buộc con kiến phải trèo lên lưỡi cỏ, khóa hàm dưới lại và chờ để bị một con bò đang gặm cỏ ăn. Chính là vì sao thiên nhiên lại kỳ lạ như vậy. Và những gì xảy ra ở đây cũng không kém phần kỳ lạ."
Khi Lisa tiếp tục, nàng rất thú vị việc có thể nói chuyện thoải mái về lập luận của mình. Nàng dành một phút để giải thích đánh giá của Henri Barnhardt về chủng vi rút Juda, và việc ông đã phân loại vi rút này là thành viên của gia đình Bunyavirus. Nàng nhớ lại sơ đồ của Henri, mô tả quan hệ tuyến từ con người đến động vật chân đốt rồi lại đến người.
Con người - côn trùng (động vật chân đốt) - con người.
"Nhưng nếu chúng ta sai," Lisa nói, "loại vi rút này sẽ lấy đi một trang trong cuốn cẩm nang may mắn đó. Ba chủ nhà có mặt ở đây."
"Nếu cyanobacteria là những chủ nhà đầu tiên," Gray hỏi, "vậy ai sẽ là chủ nhà thứ hai trong chu trình sống này?"
Lisa nhìn về lỗ hở trên mái rồi đá những mẩu phân dơi khô. "Cyanobacteria cần có đường để bay lên. Và do chúng đã chia sẻ cái hang này với loài dơi, chúng lấy lợi thế của những cái cánh dơi."
"Đợi chút. Làm sao chúng có thể sử dụng loài dơi?"
"Loài Bunyavirus. Chúng yêu động vật chân đốt, bao gồm loại côn trùng và động vật loài giáp xác. Nhưng loại Bunyavirus cũng có thể tìm thấy trong chuột và dơi."
"Vậy cô nghĩ là chủng vi rút Juda là một loại vi rút cải biến của con dơi?"
"Đúng vậy. Được cải biến bởi những chất độc thần kinh của cyanobacteria."
"Nhưng tại sao?"
"Để làm cho loài dơi điên, làm chúng tỏa ra trong không gian, mang theo loại vi rút có thể xâm nhập môi trường sinh quyển địa phương thông qua vi khuẩn của nó. Cơ bản mà nói biến mỗi con dơi thành một quả bom sinh học nhỏ. Nằm chờ bất cứ nơi nào nó đỗ xuống. Nếu Susan nói đúng, cái ao này sẽ sinh ra những quả bom vi sinh ba năm một lần, cho phép môi trường tự bổ sung trong thời gian đó."
"Nhưng làm sao mà cái đó có thể phục vụ cho loại vi khuẩn cyano nếu như căn bệnh ấy giết chết loài chim và thú vật bên ngoài cái hang này."
"Ồ, bởi vì nó sử dụng chủ nhà thứ ba, một đồng phạm khác. Động vật chân đốt. Hãy nhớ động vật chân đốt đã là một chủ nhà được ưa chuộng cho loại Bunyavirut. Côn trùng và loài cánh cứng. Chúng cũng tình cờ trở thành loài ăn xác chết tốt nhất của thiên nhiên. Dọn sạch sẽ xác chết. Chính là cái mà vi rút buộc chúng phải làm. Và đầu tiên làm chúng đói cuồng lên."
Những lời nói của Lisa trầm hẳn xuống khi nàng nhớ lại những kẻ ăn thịt người trên con tàu. Nàng cố gắng đặt mình vào môi trường y tế để hiểu. "Sau khi kích thích cái đói, bảo đảm ăn sạch sẽ, loại vi rút trở lại với chủ nhà ở đây, trong cái hang này để lôi miếng mồi của chúng và mang đến hang, để ăn trong các hồ vi khuẩn. Chúng không còn sự lựa chọn. Tương tự như dịch và loài kiến. Một nhu cầu dịch chuyển."
"Giống như Susan." Gray nói.
Lisa trở nên nghiêm nghị trước sự so sánh đó. Nàng hình dung trong đầu chu trình sống nàng vừa mới mô tả. Theo ba góc hơn là theo đường thẳng: cyanobacteria, con dơi và loài động vật chân đốt. Tất cả nối cùng với nhau bởi chủng vi rút Juda.
Côn trùng Dơi
Cyanobacteria
"Susan lại khác." Lisa nói. "Con người không bao giờ là một phần của chu trình sống này. Nhưng là loài động vật có vú giống như loài dơi, chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi chất độc và vi rút. Do vậy khi những người Khơ Me phát hiện ra cái hang này, con người đã vô tình trở thành một phần trong cái chu trình sống đó, chiếm vị trí của con dơi. Rải bệnh qua hai chân của chúng ta thay vì cánh. Làm ốm đau dân cư mỗi chu kỳ ba năm, gây ra bệnh dịch ở các cấp độ nghiêm trọng khác nhau."
Gray nhìn về phía Susan."Thế còn đối với cô ta thế nào? Làm sao cô ta có thể sống sót được?"
"Giống như tôi đã nói, tôi không có hết các câu trả lời." Nàng nhớ lại cuộc tranh luận trước đó về những người sống sót sau cơn Dịch đen, về mã vi rút trong DNA của con người." Hệ thống thần kinh của chúng ta phức tạp hơn hàng vạn lần so với loài dơi hay cua. Và giống như cyanobacteria, loài người cũng có khả năng thích nghi rất lớn. Ném những chất độc đó vào hệ thống thần kinh hiện đại hơn của chúng ta và ai sẽ biết phép màu nào có thể được tạo ra?"
Lisa thở dài khi họ bước tới doi đất.
Khi quay lại, nàng để ý thấy một cảnh tượng lạ lùng trên đó. Những cột khói phì ra hai lỗ mắt của tượng đá, chiếu sáng rực rỡ bởi ánh sáng mặt trời.
"Chất trung hòa." Gray nói, cũng phát hiện ra điều này nên vội giục họ. "Gã Nasser chắc phải đang hoàn tất việc phá vòm trên. Chúng ta không còn thời gian nữa."
*
* *
11 giờ 39 phút sáng
Tại phía đầu cầu thang, Vigor quỳ xuống cánh cửa đá thấp. Seichan cầm đèn pin phía sau ông. Một cái cổng vòm bằng đá vôi được tạo bởi nham thạch, một sự pha trộn giữa thiên nhiên và bàn tay con người.
Trên cửa là một cái mề đay bằng đồng, được gắn vào đó là một cây thánh giá hoàn chỉnh. Vigor đã nghiên cứu nó, cảm giác có bàn tay của Friar Agreer ở đây.
Và điều này được khẳng định ở dưới.
Vigor lần ngón tay trên cánh cửa bằng đá. Tảng đá được khắc bởi dòng chữ không phải bằng ngôn ngữ angelic mà bằng tiếng Italy. Đó là di chúc cuối cùng của Friar Agreer.
Trong năm phục sinh của người Con của Chúa 1296, tôi đã viết lên đá lời cầu nguyện cuối cùng này. Sự nguyền rủa đã giáng xuống đầu tôi khi lần đầu tiên tôi tới đây và gây cho tôi nỗi đau đớn to lớn, nhưng tôi đã vùng dậy giống như Lazarus từ một cơn mê ngủ chết người. Tôi không hiểu điều điên dại gì đã xâm nhiễm vào người tôi, nhưng tôi được bảo tồn và đánh dấu bằng một phương cách lạ lùng, làn da sáng bừng ngây ngất sốt. Đối với sự cứu trợ như vậy, tôi ủy nhiệm lại cho những người sống sót sau trận dịch hạch khủng khiếp. Nước ở dưới kia đã bắt đầu sôi bởi những ngọn lửa từ địa ngục. Tôi biết rằng tôi đang bị đẩy đến cái chết. Với cố gắng lớn, tôi cố chứng minh và kiểm soát việc xây dựng cái dấu này. Và tôi ra đi chỉ với một lời cầu nguyện trên môi. Hơn tất cả sự cứu rỗi của linh hồn chính tôi, tôi cầu nguyện cho cái cửa này vĩnh viễn bị đóng lại với cây thập tự của Chúa. Hãy để chỉ kẻ nào mạnh mẽ trong tinh thần của đức Chúa mở nó.
Vigor chạm vào chữ ký được khắc ở phía dưới.
Friar Antonio Agreer.
Seichan nói phía sau ông." Vậy là sau khi Marco rời đi, họ đã để linh mục bị phơi nhiễm với bệnh tật nhưng thay vì chết, ông sống sót. Giống như người phụ nữ ở dưới kia."
"Có lẽ những đức Phật chiếu sáng khác, người đã ban phép chữa cho nhóm của Marco, nói Friar Agreer sẽ sống sót. Vì vậy họ đã chọn ông ta. Vào năm 1296. Ông ta đã sống ở đây được ba năm. Cũng là quãng thời gian Susan mô tả giữa các đợt bùng phát." Vigor liếc nhìn về phía họ. "Cô ta nói đúng".
Seichan chỉ về phía cửa. "Còn có những câu viết nữa
ở kia."
Vigor gật đầu. "Một lời trích dẫn từ Kinh thánh, cuốn Matthew, chương 28, về sự phục sinh của đức Chúa Jesu từ ngôi mộ của ngài." Ông đọc to lên: "Hãy trông đây, đã có một trận động đất lớn, thiên thần của Chúa xuống đây từ trên trời, tới rồi đẩy lui tảng đá từ cánh cửa và ngồi trên đó."
"Thật rất có tác dụng."
Đúng vậy.
Ông ngước nhìn lên cây thánh giá được chạm vào cái mề đay bằng đồng trên cánh cửa. Ông đọc một lời cầu nguyện khẽ khàng rồi làm dấu thánh.
Trước khi kịp kết thúc, ông đã cảm thấy mặt đất rung chuyển dưới chân. Một tiếng nổ do đá bị vỡ vọng lại từ phía sau ông, nghe như cái hang đã bị sụp đổ.
Seichan lui lại, cầm lấy đèn pin, chạy ra xem sao rồi nói."Đứng ở đây nhé!"
Màn đêm buông xuống, làm ông lạnh thấu xương. Mặc dù không còn đọc được những hàng chữ nữa nhưng chúng vẫn cứ nhảy múa trong đầu ông.
Hãy trông đây, đã có một trận động đất lớn...
*
* *
11 giờ 52 phút chiều
Gray nằm úp lên trên Lisa khi cú va đập lớn vang mạnh vào hang. Kowalski che chở cho nàng từ phía bên kia. Một trong những thanh nhũ rơi xuống từ trên trần lao xuống chiều sâu của cái hố. Từ nơi nó vừa rụng xuống, những vết nứt kêu răng rắc chạy ngang qua cái vòm bằng đá vôi.
Susan cúi khom người cố đi xuống chỗ tảng đá như thể nó thò ra trên cái hồ đang lấp lánh. Tất cả xung quanh nước hồ rung động, mặt nước trào lên rồi lại hạ xuống. Cả cái hồ chao đảo, tuôn ra thêm nhiều a xít, tắc nghẹn bầu không khí.
Đầy rẫy chủng vi rút loại Juda.
Những tiếng va đập nhỏ phía trên gõ xuống như những trái đạn cối công phá mái hang.
"Điều gì đang xảy ra vậy?" Lisa hét lên.
"Gã Nasser cho nổ bom." Gray nói, tai anh như rung lên.
Trước đó, Gray đã kiểm tra những cây cột đỡ trụ của tháp Bayon. Anh thấy những cây cột đầy những vết nứt do hậu quả của thời gian và các vụ đất di chuyển. Gray hình dung ra hệ quả của quả bom có sức công phá lớn đã làm mở toác những vết nứt. Và rồi cùng với tác động của chất a xít, đập rồi ngấm vào những vết nứt, làm cho phần giữa của các cây cột mục ruỗng.
"Một trong những cây cột đã bị gục," anh nói, "làm đổ sụp phần ngôi đền ở phía trên."
Gray nhìn lên.
Những tiếng ầm ào từ các tảng đá đã chấm dứt nhưng liệu kéo dài được bao lâu? Anh quay lại phía Susan. Cô đứng thẳng dậy, chậm rãi nhưng cương quyết. Cô quay lại, rõ ràng muốn quay về phía bờ. Nhưng thay vì đó, cô lại đi thẳng về phía trước.
Qua đôi vai của cô, luồng ánh sáng đôi từ mặt trời lại càng rực rỡ hơn khi giờ trưa đã điểm, khuôn hình tròn trĩnh của mặt trời chiếu thẳng xuống khu phế tích.
"Liệu nó có kéo dài được lâu không?" Lisa hỏi, nhìn Susan.
"Nó phải vậy."
Gray không còn nghi ngờ gì nữa về việc nếu một cái trụ nữa gục, trọng lượng của ngôi đền sẽ san phẳng cái hang đá vôi này như một cái bánh tráng. Họ không thể ở đây được, ngay cả nếu như những chiếc cột có thể đỡ được thì cái hồ cũng sắp đến độ nổ bung.
Cả cái hồ giờ đây sáng bừng lên từ bên bờ này sang bờ kia. Khi ánh sáng đôi từ mặt trời chiếu xuống, nước bắt đầu sôi sùng sục, nhả ra nhiều khí độc vào không khí, nhiều chủng vi rút Juda.
Họ phải rời.
Trên tảng đá, Susan đã tới mỏm tận cùng rồi ngồi trên đó, khuỵu một đầu gối xuống. Cô ta quay lưng lại phía họ, với dáng vẻ sợ hãi cô đã mất kiềm chế, chạy trở lại. Cô ta trông thật đơn độc và khiếp nhược.
Một tiếng đá nứt nữa rung chuyển. Phổi anh như muốn bùng cháy. Anh có thể cảm nhận mùi chất độc ở trên lưỡi. Họ không thể chờ được nữa.
Lisa cũng biết điều đó. Mắt nàng đỏ ngầu, nước mắt tuôn trào vì cả chất độc trong không khí và sự lo lắng cho người bạn.
Susan không còn sự lựa chọn nào khác và họ cũng vậy.
Họ hướng về cái cổng vòm phía xa. Một ánh sáng lập lòe phía giữa đường cho thấy Seichan đã quay lại, một mình. Còn Vigor ở đâu?
Một tiếng nứt nữa của đá ở phía trên.
Gray lo ngại một trận đất đá lở nữa.
Tình cảnh hiện nay thật tồi tệ.
Những tảng đá rung bần bật trên mái, làm đá vụn rơi xuống rào rào như mưa. Ánh sáng mặt trời chiếu xuống. Một tảng đá lớn rơi ùm xuống hồ, làm Susan ướt đẫm. Nhiều tảng khác tiếp tục rơi xuống.
Những giọng nói đắc thắng vang lên từ phía trên.
Gray nghe thấy tiếng Nasser cất lên. "Tụi chúng chắc phải dưới đó!"
Nhưng Nasser chưa phải là thứ nguy hiểm nhất vào
lúc này.
Khuôn mặt tròn trĩnh của mặt rời chiếu sáng rực vào mặt hồ, đốt cháy tất cả. Đã tới độ cao điểm, rộng ra cả khu vực, phun ra nước và khí.
Cái hồ đang sôi lên.
Họ không thể nào bước tới cầu thang được.
Gray lui lại, kéo Lisa và Kowalski theo. Anh hét lên với Seichan: "Nằm úp mặt xuống, ngay bây giờ!"
Anh cũng tự mình làm vậy, vẫy hai người làm theo. Gray nắm lấy mảnh vải nhựa họ dùng để vác Susan. Anh kéo lên phủ cho cả ba người rồi cố phủ cho mình được càng nhiều không khí càng tốt.
"Nhích càng gần mép càng tốt." Anh ra lệnh.
Bên ngoài tấm vải nhựa, anh nghe tiếng nổ lốp bốp của nước đang sôi, tiếng xì giận dữ rồi tiếng ục rất sâu như thể cả cái hồ đã nhảy lên một feet rồi lại rơi xuống. Nước tràn đến mắt cá chân anh rồi lại tụt xuống.
Không khí dưới tấm vải nhựa trở thành ngọn lửa.
Cả ba người ho sặc sụa, thở hổn hển.
"Susan." Lisa cuối cùng hét lên.
*
* *
12 giờ trưa
Susan hét lên.
Cô không chỉ hét lên từ phổi hoặc từ thanh quản mà từ chỗ tận cùng của con người mình.
Cô không thể trốn thoát nỗi đau đớn. Đầu óc cô, vẫn bị điều chỉnh bởi ánh sáng mặt trời, tiếp tục thu nhận mỗi cảm giác. Bị cấm ngặt vì sự quên lãng, con người cô ghi lại mỗi chi tiết: vết cháy bỏng ở phổi, lửa trong mắt, bốc cháy của da. Cô bị cháy bỏng từ bên trong, buộc cô phải kêu đến tận thượng đế.
Nhưng liệu có ai nghe không?
Khi hét lên như vậy, cuối cùng cô tìm thấy lối thoát cho mình.
Cô ngã vật xuống nền đá.
Trái tim đập một lần cuối cùng, trút ra những gì là cuối cùng của cô.
Rồi không còn gì nữa.
*
* *
12 giờ 1 phút trưa
"Thế còn Susan thì sao?" Lisa hổn hển.
Gray liếc nhìn ra ngoài tấm vải nhựa, nghển cổ về phía tảng đá. Mặt hồ vẫn sôi sùng sục, cháy dưới ánh sáng mặt trời nóng bỏng. Không khí phía trên vẫn như đặc quánh với khí độc nhày nhụa.
Nhưng những luồng khí độc nhất đã cuộn lên chui qua lỗ hổng, trôi lơ lửng ở tháp giữa của Bayon, biến cái tháp thành một ống khói.
Gray biết rằng đó là lý do duy nhất mà họ có thể sống sót được.
Nếu như cái hang bị bịt chặt lại.
Bên kia, một người trong tốp của họ lại không được may mắn như vậy. Susan nằm ngửa, im phăng phắc như một pho tượng. Gray không thể nói được cô có còn thở hay không. Thực ra rất khó có thể nhìn thấy thân hình của cô trong ánh sáng chói lòa của mặt tr ời.
Và cũng là lúc anh nhận ra điều đó.
Tảng đá không vươn ra hết dưới tia nắng mặt trời.
Susan vẫn nằm ở trong bóng râm, nhưng cô không còn phát sáng nữa. Ánh sáng trong người cô đã tắt đi như một ngọn nến.
Điều này có nghĩa gì?
Phía trên đầu, những tiếng hét vọng xuống từ ngôi đền, giờ đây tắm trong hơi độc từ cái hồ. Gray cũng nghe thấy tiếng thêm nhiều tảng đá nữa rơi từ mái hang xuống. Hơi khí độc đã làm yếu đi độ kết dính của đá trên đầu họ.
"Chúng ta phải rời cái hang này thôi." Gray nói.
"Thế còn Susan thì thế nào?" Lisa hỏi.
"Chúng ta phải tin là cô ta đã đủ độ phơi nhiễm. Bất cứ điều gì cô ta cần nó xảy ra, hy vọng là đã xảy ra rồi." Gray quay lại, ho rũ rượi. Tất cả họ đều cần phải được chữa. Anh nhìn về phía Kowalski. "Đưa Lisa đến cầu thang."
Kowalski đứng dậy. "Anh không phải nói với tôi đến lần thứ hai."
Lisa nắm lấy cổ tay Gray khi anh đứng dậy vẫn giữ mảnh vải nhựa trên đầu họ."Anh sẽ làm gì?"
"Tôi phải đưa Susan ra."
Lisa quay lại nhìn rồi bịt miệng. Cái hồ vẫn sôi sùng sục, phun ra khí. "Gray, anh không thể làm được điều đó đâu."
"Tôi sẽ phải làm."
"Nhưng tôi không thấy cô ấy di chuyển. Tôi nghĩ vụ nổ đột ngột là quá mạnh."
Gray nhớ tới câu chuyện của Marco, về việc ông ta buộc phải ăn thịt người, uống máu và ăn thịt của một người đàn ông khác để sống."Tôi không nghĩ chuyện cô ta sống hay chết là có vấn đề. Chúng ta phải mang thân thể cô ta đi."
Lisa rùng mình trước vẻ chai sạn của anh, nhưng cô không phản đối.
"Tôi cần có tấm vải nhựa." Gray nói.
Kowalski gật đầu, kéo tay Lisa."Tôi ổn thôi, tôi sẽ dẫn chị đi."
Gray tách khỏi họ, quấn tấm vải nhựa quanh người. Anh trùm đầu, chỉ để hở một khe nhỏ đủ nhìn ra. Anh nghe tiếng chân của Kowalski và Lisa chạy xuống thang.
Một tảng đá nữa rơi xuống từ trên mái trần.
Giống như một phát pháo lệnh khởi động.
Cúi đầu xuống, Gray chạy dọc theo con đường nhỏ.
Ba mươi dặm.
Thế là đủ.
Rồi quay lại.
Chỉ vài bước từ mép hồ, anh lao vào đám khói độc. Gray cố nhịn thở, cúi xuống rồi nắm lấy tay. May mắn là cô không còn phát sáng, không còn gây bỏng nữa. Tuy nhiên anh cũng không thể kéo cô lên. Anh lui lại, kéo cô xềnh xệch. Tấm vải cuốn vào chân anh làm anh chậm lại. Cuối cùng anh vứt nó sang bên, lấy một hơi trước khi làm việc đó.
Nó làm anh khuỵu chân xuống.
Ngực anh thắt lại, họng anh đóng vào phản đối.
Ngậm lửa.
Anh đứng thẳng dậy, kéo theo, ngã vập, rồi lại vội vã.
Da anh bùng cháy như thể bị roi quất mạnh vào.
Khó có thể làm được điều đó.
Lửa.
Cháy.
Bỏng.
Anh khựng lại, khuỵu một chân xuống.
Không.
Rồi anh lại đứng dậy-nhưng không phải tự mình.
"Tôi đã túm được anh rồi." Cô ta nói bên tai anh.
Seichan.
Cô ta lấy một tay đỡ anh, kéo anh thật mạnh. Ngón chân anh đâm vào đá khi anh cố đứng dậy.
Anh nhìn cô, ho rũ rượi.
Cô hiểu.
"Kowalski đã kéo cô ấy rồi."
"Ngay đây rồi, sếp." Người đàn ông phía sau anh nói. "Chạy một chút. Ba bậc cầu thang một lúc. Không chạm chân, đó là vì sao anh có một ê kíp tuyệt vời."
Khi họ rời khỏi cái hồ, vẫn còn đang là trung tâm cơn bão, mắt anh đã nhìn thấy rõ hơn. Cuối cùng thì anh cũng đứng dậy được.
Seichan vẫn đỡ anh.
"Cảm ơn." Anh thì thào nói bên tai cô.
Má cô bị xây xước nhiều, một mắt sưng vù.
"Chúng ta phải ra khỏi đây." Seichan nói, nghe có vẻ bực bội hơn là nhẹ nhõm.
"Vâng thưa bà chị." Kowalski nói.
Gray liếc nhìn lại cái hồ. Anh thấy có vật gì đó rơi từ trên cái lỗ phía trên nóc xuống, kéo theo một sợi dây như là một cái mồi câu. Nó đung đưa một chút.
Một khối thuốc nổ nặng.
"Bom..." Gray phều phào.
"Cái gì cơ?" Kowalski nói vẻ không tin.
"Bom." Anh nói to hơn.
"Ồ, không..." Kowalski lao lên cùng với Susan một bên vai như thể cố chạy vượt họ. "Tại sao mọi người cứ cố gắng nổ tung tôi lên nhỉ?"
*
* *
12 giờ 10 phút trưa
Tiếng hét bật lên từ phía dưới, theo cầu thang từ cái hang.
Lisa muốn đi xuống. Nàng ghét việc phải bỏ lại những người khác nhưng Vigor cần có cô giúp đỡ.
"Hãy quay lại." Vigor nói, mồ hôi túa ra từ hai bên má. Ông liếc nhìn về phía cầu thang rồi quay lại phía Lisa. "Từ tiếng hét của họ, tôi nghĩ chúng ta phải nhanh chân lên."
Dùng hai bàn tay, họ đã tháo cái chốt bằng đồng lớn. Nó to cỡ một cái đĩa có đựng cây thánh giá, lúc này nó cong queo do bị họ vặn xoắn lại. Giờ đây, chỗ vừa bị tháo nhô ra ngoài từ phía vòm tròn của cái cửa khoảng hai feet.
Họ còn phải đi bao xa nữa.
Họ rẽ nhanh.
Vigor trích dẫn lời được ghi trong dòng cuối trên
cánh cửa.
"Một thiên thần của Chúa xuống đây từ trên trời, tới rồi đẩy lui tảng đá từ cánh cửa và ngồi lên đó. Lúc đầu, tôi cố đẩy cánh cửa nhưng phải bỏ cuộc ngay. Sau tôi nhớ đến hàng chữ cuối cùng. Hãy để chỉ kẻ nào mạnh mẽ trong tinh thần của Chúa mở nó. Rõ ràng là một cái gật đầu về phía cây thánh giá. Lẽ ra tôi phải cầm lấy nó ngay từ đầu."
Những bước chân đập trên cầu thang, đang lên.
Kowalski hét lên với họ." Bom... cánh cửa... nhanh lên."
"Một người đàn ông thật kiệm lời, anh bạn Kowalski của chúng ta."
Với cái vặn cuối cùng thì cái ốc bằng đồng cũng tuột ra. Trọng lượng của nó làm cho cả hai ngạc nhiên và cái chốt rơi xuồng cầu thang, nghe loảng xoảng.
Kowalski đến từ phía dưới, bế Susan. Cô ta ôm lấy anh. Mặt Kowalski xị xuống khi thấy cánh cửa vẫn đóng. "Các vị đang làm gì vậy?"
"Chờ anh đấy." Vigor nói rồi đẩy tảng đá.
Không còn chốt chặt nữa, cánh cửa bật tung, rơi xuống đá. Ánh sáng mặt trời chiếu vào, sáng rực những tảng đá xung quanh. Lisa chỉ thấy nàng loạng choạng cùng với Vigor, nhường chỗ cho Kowalski và Susan.
Kowalski thở hổn hển khi bước qua."Tôi nghĩ Seichan nói cô ta cố đẩy. Nhưng cánh tay của cô ấy thật khẳng khiu."
Đứng thẳng người, Lisa chớp mắt trước ánh sáng chói chang, nhận ra họ đang ở đáy của một cái giếng bằng đá sâu, khoảng mười feet. Chỉ bức tường trên miệng giếng không thôi cũng phải cao hai tầng, không có lối lên.
Kowalski đặt Susan xuống một bên cửa. "Bác sĩ này, tôi không nghĩ là cô ta đang thở."
Nhớ ra nhiệm vụ của mình, Lisa chạy tới bên anh ta. Cô ta vẫn còn gượng sống được thêm một ngày. Nàng ngồi xuống kiểm tra mạch. Nàng không thấy gì cả. Tuy nhiên, nàng vẫn không chịu đầu hàng.
"Một ai đó giúp tôi nào." Nàng gọi.
Gray và Seichan lao qua cửa, đi loạng choạng bên nhau. Gray thấy Lisa đang kiểm tra người bệnh. "Lisa, cô ta
chết rồi."
"Không. Không thể không cố thử xem đã."
"Tôi sẽ giúp chị." Seichan khẽ nói.
Khi cô ta cúi xuống, Lisa để ý thấy máu thấm qua áo, váy, đầm đìa và ẩm ướt.
Seichan để ý cái nhìn của nàng. "Tôi ổn thôi."
Gray cảnh báo cả hai phải giữ im lặng sợ người của Nasser đang ở đâu đây. Anh vẫy mọi người lui ra khỏi cửa. Khuôn mặt và cánh tay của anh cũng xây xước. Mắt anh nhìn thấy có những vằn đỏ.
Phía bên kia cánh cửa, Lisa bắt đầu hô hấp nhân tạo trong khi Seichan hà hơi thổi ngạt. Vigor đứng bên cạnh, làm dấu cầu nguyện cho cô ta.
"Đừng có vội cầu nguyện lần cuối." Lisa thì thầm, vẫn dùng khủy tay đè chặt.
Vigor lắc đầu. "Chỉ là lời cầu nguyện..."
Quả bom nổ thật mạnh, rung chuyển mặt đất dưới chân. Một luồng không khí ập vào từ phía dưới, vẫn còn sặc sụa khí độc cùng với khói và khí nóng.
Lisa tựa vào Susan.
Nó đã làm tung cái bậu cửa.
"Cũng không đến nỗi tồi." Kowalski nói.
Gray tiếp tục nhìn lên trên. "Mọi người nắm chặt."
Lisa ngước nhìn trong khi đặt tay lên ngực Susan.
Về phía bên trái, nửa phần trên của ngọn tháp chính giữa Bayon có thể nhìn thấy. Những khuôn mặt bằng đá cúi xuống nhìn vào họ. Tất cả đều rung chuyển.
"Nó đang tới." Gray nói.
*
* *
12 giờ 16 phút trưa
Nasser chuồn cùng với sáu tên thuộc hạ, chạy cắm đầu qua bậc thứ hai của sân đình. Mỗi bước đi lại đau nhói. Cả thân thể hắn tiếp tục bỏng rát như thể con đàn bà quái quỷ nọ vẫn còn ôm chặt lấy gã. Nhưng gã vẫn có mối quan tâm trực tiếp hơn.
Gã quay lại khi chúi xuống một bức tường.
Tháp Bayon rung chuyển rồi theo một tốc độ chậm rãi quái gở, nó đổ sụp ngay dưới chân nó. Sự rung chuyển chết người của hàng trăm bức tượng mặt người. Bụi bốc lên mù mịt từ chỗ dãy tượng bị đổ, bắn tung lên cao. Những tảng đá tiếp tục bung ra rồi lăn, va đập mạnh vào bên sườn núi.
Gã chuyên gia chất nổ đã cảnh báo về lượng thuốc nổ, cho rằng điều này sẽ xảy ra. Nhưng Nasser không thể mạo hiểm để chỉ huy Pierce tẩu thoát cùng với con mồi đáng giá.
Khi quay đi gã để ý thấy một cột khói nữa bốc lên từ phía bên kia. Nó vặn vẹo như một tín hiệu bằng bụi màu xám.
Mắt gã nheo lại.
Liệu có phải có một lối ra nữa từ cái hang không?
*
* *
12 giờ 17 phút
Gray bị sặc vì bụi, không thể nhìn thấy gì trong khoảng không chật hẹp của cái giếng. Cái tháp đã đổ sụp xuống chính nền của nó và đập vào cái hang phía dưới. Một luồng khói và bụi phun tung tóe ra ngoài, nghẹt cứng miệng giếng.
Gray dụi mắt và xoay người lại. Anh tìm kiếm ở phía cửa ra. Những tảng đá lớn phủ đầy lối đi ngoằn ngoèo của cầu thang, trần đã bị sụp xuống.
Gray tựa vai vào tường nhìn lên. Tường phía bắc của cái giếng đang nghiêng một cách nguy hiểm ra bên ngoài. Họ sẽ may mắn nếu như nó không đổ sập xuống đè lên tất cả. Một vài tảng đá thò ra như những chiếc răng.
Có thêm những tiếng ho xung quanh giếng.
Bụi đã ngớt đi, có thể nhìn thấy nhau.
Lisa giúp Susan ngồi dậy. Người đàn bà lấy tay bịt miệng và tiếp tục cơn mê mệt.
Chào mừng trở lại với trái đất.
Có thể sự may mắn lại mỉm cười với họ.
"Xem chúng ta ai ở đây nào?" Nasser hét xuống. "Nếu dùng một câu ngạn ngữ bằng tiếng Mỹ có nghĩa là một lũ cá trong rọ."
Những mũi súng trường từ mọi hướng chĩa xuống
phía họ.
Gray trượt dọc theo bờ tường, chạm phải Kowalski.
"Làm gì bây giờ đây, sếp?" Anh ta hỏi.
Trước khi Gray kịp trả lời, một chiếc điện thoại cầm tay đổ chuông inh ỏi. Nó đến từ phía trên, nhưng âm điệu của chuông nghe quen thuộc. Nasser thò tay vào một túi rồi lấy ra chiếc điện thoại của Vigor. Gã đã tước chiếc máy từ ngài linh mục sau khi họ bị bắt giữ tại khách sạn. Họ đã bị lục soát rất kỹ trước khi ngồi vào quán Ba con voi.
Nasser kiểm tra tên người gọi. "Rachel Verona." Gã giơ cái điện thoại trên miệng giếng, thò người ra."Cháu gái ngài, linh mục. Ngài có muốn nói lời tạm biệt không?"
Chiếc điện thoại đổ chuông đến lần thứ ba rồi im lặng.
"Tôi đoán là không." Nasser nói. "Thật tồi tệ".
Gray nhắm mắt lại, nín thở.
Nasser tiếp tục." Hoặc có thể, chỉ huy Pierce, ngài có muốn gọi cho cộng sự của tôi, Annishen không. Tôi đã hứa với ngài sẽ được nghe tiếng hét của bố mẹ trước khi ngài chết."
Gray phớt lờ gã. Bàn tay anh luồn qua bụng Kowalski rồi tuồn vào cái áo ngoài của anh ta. Cú gọi từ cháu của Vigor là tín hiệu đã được thu xếp trước từ Painter để cho Gray biết bố mẹ anh an toàn.
Hoặc đã chết.
Cách nào cũng vậy...ngoài sự kiểm soát của Nasser.
Những ngón tay của Gray vòng qua báng súng giấu ở sau lưng Kowalski. Người đàn ông to béo đã suýt nữa rút khẩu súng ra khi bị giật mình bởi con khỉ. May là Gray đã kịp chặn anh ta lại.
Gray rút khẩu súng ra rồi hạ thấp nòng xuống.
Nasser tiếp tục. "Hoặc có thể, tôi sẽ để cho số phận của bố mẹ ngài trở thành một bí mật..để cho ngài suốt đời phân vân, một điều gì đó mang xuống tận dưới mồ."
"Tại sao mày không đi trước..." Gray bước ra phía trước chĩa khẩu súng lên rồi bắn hai phát.
Anh nã đạn trúng vào vai và ngực hắn. Những phát đạn làm hắn xoay đi một vòng. Gã ngã xuống giếng, cánh tay xoải ra phun máu vào thành giếng.
Gray kiễng chân lên, dọc theo thành giếng. Anh hạ tiếp ba tên nữa trong khi những tên khác trốn chạy. Đằng sau anh, gã Nasser đập vào sàn đá, xương gãy khục và kêu lên một tiếng.
Gray nhìn lên trên, vũ khí của anh đã sẵn sàng. Khẩu súng lục 9 ly, súng của Úc, là loại thượng thặng, có thể bắn nhiều phát liên tục trong một giây.
"Lisa, kiểm tra lấy điện thoại của Vigor trong người hắn! Gọi cho Painter."
Nàng đụng đậy phía sau anh.
Rồi anh chậm rãi quay lại thấy Nasser đang nằm vật ngửa người, một cánh tay vặn ra phía sau, bị gãy ở vai. Máu trào ra từ mồm, xương sườn gãy. Nhưng gã vẫn còn sống. Cặp mắt vẫn nhìn theo Gray, đầy vẻ ngạc nhiên và bối rối.
Chết đến nơi vẫn còn phân vân, đồ khốn kiếp.
Cuối cùng thì gã cũng đành chịu, hắt hơi thở cuối cùng, mắt trắng dã.
Seichan hỏi câu hỏi của Nasser. "Vậy anh lấy khẩu súng ở đâu?"
"Tôi thu xếp chuyện này với Painter. Từ ở Hormuz. Tôi không muốn ông ta huy động lực lượng địa phương ở đây. Nhưng tôi có yêu cầu một sự nhân nhượng nhỏ. Một khẩu súng duy nhất, giấu vào phòng tắm ở quán Ba con voi trước khi chúng ta vào đó, gắn vào một toa lét. Tôi biết Nasser có thể vẫn còn nghi ngờ tôi, thậm chí lục soát tôi vài ba lần. Nhưng Kowalski..."
Gray nhún vai.
"Tại quán ba, tôi nhớ ra rồi." Seichan nói. "Trước khi chúng ta rời, Kowalski nói anh ta muốn đi tiểu."
"Tôi biết chúng ta sẽ bị lục soát trước cuộc gặp ở quán ba. Đó là cách dễ nhất để có được một khẩu súng sau đấy. Tạm giữ chưa dùng tới nó cho đến khi bố mẹ tôi an toàn."
Kowalski làu bàu. "Gã khốn kiếp, lẽ ra phải lục soát Bố già vài ba lần nữa."
Lisa gọi từ phía sau. "Tôi đã gọi được Painter từ đầu dây."
Những ngón tay của Gray xiết chặt vào khẩu súng lục. "Bố mẹ tôi, họ có...?"
"Tôi đã hỏi rồi. Họ khỏe và không làm sao cả."
Gray thở một hơi dài, nhẹ nhõm.
Lạy Chúa.
Anh đằng hắng. "Tốt nhất là cô nên nói với Painter thiết lập một hàng rào phòng chống dịch bệnh khu vực này, ít nhất là mười dặm quanh khu phế tích."
Gray hình dung ra hơi độc, chắc chắn đầy rẫy chủng vi rút Juda. Cửa đã mở được khoảng hai mươi phút, rồi bị đánh sập bởi trái bom của Nasser. Cũng thật may. Nhưng còn biết bao nhiêu vi rút Juda đang trôi nổi?
Gray liếc nhìn Susan. Cô ngồi co ro ở cửa. Kowalski canh gác cô. Liệu cô có thành công không? Gray cũng biết mọi người đang ở quanh anh trong cái giếng này đều góp phần không nhỏ vào việc đưa họ tới đây. Nhưng liệu điều ấy có phải đã vô ích không?
Lisa nói: "Các biện pháp phòng ngừa đã được thực hiện."
Gray nhìn lên miệng giếng, giơ khẩu súng lên cao. Vẫn còn một đội quân của bọn Hiệp hội ở ngoài đó. "Hãy nói với Painter có thể chúng ta cần một chút sự giúp đỡ ở đây nữa."
Cô truyền đạt thông điệp rồi hạ máy xuống. "Anh ấy nói đã ở trên đường. Anh ấy nói hãy nhìn lên xem nào."
Gray ngước nhìn lên bầu trời. Bầu trời buổi chiều trong xanh với những con chim ưng gớm ghiếc, dang cánh rộng. Hàng chục con đang bay từ mọi hướng. Nhưng những con chim ưng đó đều mang theo súng trường.
Với tay ra sau, Gray bảo đưa chiếc điện thoại.
Lisa luồn vào tay anh.
Gray áp vào tai. "Tôi nghĩ chúng ta đã đồng ý không huy động một lực lượng địa phương."
"Chỉ huy. Tôi không thể phân loại chính xác bốn mươi nghìn feet trong không gian như là địa phương. Bên cạnh đó, tôi là sếp của anh. Không còn cách nào khác."
Gray tiếp tục nhìn lên bầu trời.
Nhóm tác chiến lao xuống khu vực phế tích, tản ra theo đội hình tấn công. Mỗi chiến sĩ đem theo một đôi cánh gắn vào lưng giống như những đôi cánh nhỏ của loại máy bay phản lực, cho phép họ triển khai từ độ cao.
Họ hạ thấp xuống.
Lượn vòng và lượn vòng.
Rồi theo tín hiệu, mỗi người bấm nút, xòe cánh ra đồng loạt. Những chiếc dù tròn hoạt động, tản rộng để hạ cánh. Giống như một điệu múa tập dượt từ trước, họ lao xuống từ mọi phía.
Những người khác ngắm nhìn trầm trồ. Gray nghe thấy tiếng ủng đập vào đá, hầu hết tản ra xa. Anh hình dung ra những chiếc mũ nồi màu đen bị tống vào thùng rác khi những tên lính đánh thuê của Hiệp hội chạy co vòi khỏi đây.
Nhưng không phải tất cả chúng đều chịu thua như vậy.
Có vài tiếng súng vọng tới. Lúc đầu chậm rãi nhưng về sau khá điên cuồng. Trận chiến tổng lực kéo dài chừng mươi phút. Một cái dù bay về phía trước. Rồi một cái nữa trong khi đôi chân của ông ta giơ cao như thể ông ta sẵn sàng nhảy xuống khu phế tích. Tiếng thình thịch hạ cánh xung quanh miệng giếng như thể lấy mục tiêu quanh cái điện thoại Gray đang cầm trong tay.
Một người đàn ông lao xuống miệng giếng thấp, hơi nhanh quá.
Gray suýt nữa bắn ông ta cho đến khi anh nhận ra bộ quần áo nhảy dù.
Quân đội Mỹ.
"Thế nào, các bạn ổn chứ?" Ông ta gọi xuống với giọng Úc, cởi bỏ dù.
Lisa đẩy Vigor qua, giọng nàng ngạc nhiên. "Ryder?"
Ông ta toét miệng cười với nàng. "Người đàn ông của cô... Painter... anh chàng tới đó! Chúng ta hãy bay cùng nhau nào. Không phải là trèo lên cái lưới dẫn điện cùng với những kẻ ăn thịt người...nhưng là cái gì vậy?"
Có ai đó gọi.
Ryder giơ tay lên, nhận ra rồi liếc nhìn xuống. "Hãy giữ chặt! Cầu thang đang tới!" Ông ta quay lại và biến mất.
Gray tiếp tục canh gác cho những người ở đây, vũ khí sẵn sàng.
Đó là tất cả những gì anh có thể làm.
Đó và một điều cuối cùng.
Anh nhấc điện thoại lên lần nữa. "Giám đốc ạ?"
"Sao?"
"Cảm ơn vì đã không nghe tôi, thưa ngài."
"Chính vì thế mà tôi đang ở đây."