Nếp Gấp Thời Gian Truyện 11


Truyện 11
Dì quái vật.

“Không!” Ông Murry đanh giọng. “Xin đặt con bé xuống.”

Cảm giác buồn cười dường như lan ra từ những con quái vật. Quái vật cao nhất, có vẻ thay mặt cho cả bọn, nói, “Chúng tôi làm ông sợ à?”

“Các người sẽ làm gì chúng tôi?” Ông Murry hỏi.

Quái vật đáp, “Xin lỗi, chúng tôi giao tiếp với người kia tốt hơn.” Nó quay sang Calvin. “Bạn là ai?”

“Tôi là Calvin O’Keefe.”

“Là cái gì?”

“Tôi là con trai. Một... một người còn trẻ.”

“Bạn cũng đang thấy sợ à?”

“Tôi... không chắc nữa.”

“Nói cho tôi biết,” quái vật nói. “Các bạn nghĩ các bạn sẽ làm gì, nếu ba chúng tôi đột nhiên hạ cánh xuống hành tinh của các bạn?”

“Bắn các ông, tôi đoán vậy,” Calvin thừa nhận.

“Vậy chẳng phải đó là điều chúng tôi nên làm với các bạn sao?”

Dường như những nốt tàn nhang trên mặt Calvin nổi rõ hơn, nhưng nó bình tĩnh trả lời. “Tôi thực sự mong các ông không làm vậy. Ý tôi là, Trái đất là quê hương tôi, và tôi muốn được ở đó hơn bất cứ nơi nào trên thế giới... ý tôi là trong vũ trụ... và tôi nóng lòng nóng ruột muốn quay về, có điều chúng tôi đang phạm phải những sai lầm ngớ ngẩn ở đó.”

Quái vật nhỏ nhất đang bế Meg nói, “Mà có lẽ, họ không quen với việc có khách lạ từ những hành tinh khác tới.”

“Quen với việc đó ấy à!” Calvin thốt lên. “Chúng tôi chưa bao giờ có khách lạ nào, theo như tôi được biết.”

“Tại sao?”

“Tôi không biết.”

Quái vật đứng giữa, giọng run rẩy vì lo sợ, nói “Các bạn không đến từ một hành tinh đen đấy chứ?”

“Không.” Calvin lắc đầu nguầy nguậy, dù quái vật chẳng thể nhìn thấy gì. “Chúng tôi... chúng tôi bị theo dõi. Nhưng chúng tôi đang chiến đấu chống lại bóng tối.”

Quái vật đang bế Meg nghi ngờ, “Ba người các bạn đang chiến đấu á?”

“Phải,” Calvin trả lời. “Giờ chúng tôi biết rõ nó rồi.”

Quái vật cao nhất quay lại phía ông Murry, nghiêm nghị nói. “Ông. Người lớn tuổi nhất. Con người. Ông ở đâu tới đây? Mau.”

Ông Murry điềm tĩnh trả lời. “Từ một hành tinh gọi là Camazotz.” Có tiếng thì thầm rộ lên từ ba con quái vật. “Chúng tôi không phải cư dân ở đó,” ông Murry nói, chậm rãi và rành mạch. “Chúng tôi cũng là những kẻ lạ mặt giống như ở đây thôi. Ở đó, tôi là một tù nhân, và những đứa trẻ này đã giải cứu cho tôi. Con trai út của tôi, đứa con bé bỏng, vẫn bị kẹt ở đó, mắc bẫy trong bộ óc đen tối của NÓ.”

Trong cánh tay của quái vật, Meg cố quay người để lườm bố nó và Calvin. Tại sao họ lại thành thật như vậy? Họ không nhận thức được mối nguy hiểm sao? Nhưng cơn tức giận của nó lại tan biến vào hơi ấm êm ái từ những cái tua đang rủ xuống che lấy nó. Nó nhận ra mình có thể cử động ngón tay và ngón chân một cách tương đối thoải mái, và cơn đau không còn quá tê buốt nữa.

“Chúng tôi phải mang đứa trẻ này về cùng chúng tôi,” quái vật đang bế Meg nói.

Meg hét lên với bố nó: “Bố đừng bỏ rơi con như đã bỏ rơi Charles!” Trong nó bùng lên nỗi sợ hãi, một cơn co thắt đau đớn làm tổn thương cơ thể nó khiến nó há hốc mồm, thở hổn hển.

“Đừng chống cự nữa,” quái vật bảo nó. “Bạn chỉ làm tình hình xấu hơn thôi. Thư giãn đi.”

“Đó chính là câu NÓ nói,” Meg gào lên. “Bố ơi! Anh Calvin ơi! Cứu con với!”

Quái vật quay về phía Calvin và ông Murry. “Đứa trẻ này đang gặp nguy hiểm. Các bạn phải tin chúng tôi.”

“Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác,” ông Murry nói. “Các ông có thể cứu nó chứ?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Tôi có thể ở bên cạnh nó không?”

“Không. Nhưng các bạn sẽ không phải ở xa đâu. Chúng tôi thấy các bạn đang đói, mệt mỏi, các bạn đang muốn tắm rửa và nghỉ ngơi. Và đứa nhỏ này... từ gì ấy nhỉ?” Quái vật vểnh cái vòi của mình lên với Calvin.

“Con gái,” Calvin nói.

“Đứa con gái nhỏ này cần chế độ chăm sóc đặc biệt ngay lập tức. Sự lạnh giá của... các bạn gọi là cái gì nhỉ?”

“Cái Bóng Đen?”

“Cái Bóng Đen. Phải. Cái Bóng Đen sẽ cháy, trừ phi nó bị vô hiệu hóa một cách đúng đắn.” Ba quái vật đứng xung quanh Meg, và dường như chúng đang chạm vào nó bằng những tua gợn sóng mềm mại của mình. Chuyển động của những cái tua nhịp nhàng và trôi chảy như vũ điệu của một loài thực vật biển, và nằm đó, được bao bọc trong bốn cánh tay kỳ lạ, Meg, bất chấp tự thân, cảm thấy sự an toàn sâu xa hơn bất cứ điều gì nó từng biết đến kể từ những ngày nó nằm trong vòng tay mẹ trong chiếc ghế xích đu cũ kỹ và được hát ru cho ngủ. Nhờ sự giúp đỡ của bố, nó đã có thể chống lại NÓ. Giờ nó không thể chịu đựng thêm được nữa. Nó ngả đầu vào ngực của quái vật, và nhận ra rằng cơ thể màu xám được bao bọc bởi bộ lông mềm mại nhất, mịn màng nhất có thể tưởng tượng ra, và bộ lông cũng có mùi thơm dễ chịu như không khí vậy.

Mình hy vọng mình không bốc mùi kinh khủng quá, nó nghĩ. Nhưng rồi nó nhận ra với niềm an ủi sâu xa rằng kể cả nếu nó có mùi kinh khủng những con quái vật cũng tha thứ cho nó thôi. Khi hình dáng cao lớn của quái vật ôm lấy nó, nó cảm thấy cơ thể cứng đờ lạnh giá của mình vô cùng thoải mái. Cảm giác hạnh phúc này nó không bao giờ có được như với NÓ. NÓ chỉ mang lại đau đớn, chứ không bao giờ làm dịu bớt cơn đau cả. Những con quái vật này hẳn là tốt bụng. Chúng hẳn phải tử tế. Nó thở dài thườn thượt như một đứa bé con, và đột nhiên chìm vào giấc ngủ.

Khi tỉnh lại, trong thâm tâm nó vẫn là ký ức về cơn đau đớn, đau đớn vật vã đến khổ sở. Nhưng cơn đau giờ đã qua và cơ thể nó chìm trong khoan khoái. Nó đang nằm trên cái gì đó mềm mại tuyệt vời trong một phòng ngủ đóng kín. Trời tối om. Tất cả những gì nó trông thấy là những cái bóng cao lớn thỉnh thoảng di chuyển, mà nó nhận ra là những quái vật đang đi lại. Nó đã được cởi bỏ quần áo cũ, và cái gì đó ấm áp, có mùi hăng hăng đang nhè nhẹ cọ vào da thịt nó. Nó thở dài và duỗi người ra, phát hiện mình có thể duỗi người được. Nó lại có thể cử động, nó không còn bị tê liệt nữa, và cơ thể nó đang ngập trong những làn sóng ấm áp. Bố nó đã không cứu nó; những quái vật đã cứu nó.

“Vậy là cháu đã tỉnh lại rồi, bé con?” Những lời nói dịu dàng vang đến tai nó. “Cháu đúng là một con nòng nọc nhỏ bé tức cười! Giờ cơn đau đã hết chưa?”

“Hết cả rồi ạ.”

“Cháu ấm áp và khỏe mạnh lại rồi chứ?”

“Vâng, cháu khỏe.” Nó gắng sức ngồi dậy.

“Không, cứ nằm đó đi, bé con. Lúc này, cháu không được gắng sức đâu. Lát nữa, chúng tôi sẽ mang quần áo lông đến cho cháu và chúng tôi sẽ cho cháu ăn. Cháu thậm chí chưa tự ăn được đâu. Cháu lại phải như một đứa trẻ thôi. Cái Bóng Đen không sẵn lòng từ bỏ những nạn nhân của nó đâu.”

“Bố và Calvin đâu rồi ạ? Họ đã quay lại với Charles Wallace chưa?”

“Họ đang ăn uống và nghỉ ngơi,” quái vật nói, “và chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu nhau và tìm xem có cách nào tốt nhất để giúp các bạn. Giờ chúng tôi cảm thấy các bạn không còn nguy hiểm với chúng tôi nữa, chúng tôi được phép giúp đỡ các bạn.”

“Tại sao trong này tối thế ạ?” Meg hỏi. Nó cố nhìn quanh, nhưng tất cả những gì nó trông thấy là những cái bóng. Tuy nhiên, vẫn có cảm giác thông thoáng, cảm giác về một cơn gió nhẹ thoảng qua, khiến cho cái tối tăm khỏi ngột ngạt.

Quái vật tỏ ra bối rối. “Bóng tối là cái gì? Ánh sáng là cái gì? Chúng tôi không hiểu. Bố cháu và chàng trai, Calvin, cũng đã hỏi tôi điều này. Họ nói bây giờ là ban đêm trên hành tinh của chúng tôi, và vì vậy họ không thể nhìn thấy gì. Họ nói với chúng tôi, họ gọi bầu khí quyển ở đây là vật chắn sáng, vì vậy các ngôi sao trở nên vô hình, và rồi họ ngạc nhiên khi chúng tôi biết về các ngôi sao, biết về những điệu nhạc và bước nhảy của chúng rõ hơn những con người mất hàng giờ để nghiên cứu bằng những cái mà các bạn gọi là kính viễn vọng. Chúng tôi không hiểu từ này mang ý nghĩa gì, nhìn.”

“Ồ, là mọi vật trông thế nào,” Meg bất lực nói.

“Chúng tôi không biết mọi vật trông thế nào, như cháu nói,” quái vật đáp. “Chúng tôi biết mọi vật thế nào. Đó hẳn phải là một việc rất hạn chế, nhìn ấy.”

“Ồ, không!” Meg kêu lên. “Đó... đó là điều tuyệt vời nhất trên thế gian này!”

“Thế giới của cháu hẳn là kỳ lạ lắm!” quái vật nói, “nên một điều có vẻ rất khác thường mà lại quan trọng như vậy. Thử nói cho tôi biết, cái thứ gọi là ánh sáng ấy là cái gì, đến nỗi cháu chỉ có thể làm việc được rất ít, nếu như không có nó?”

“À, chúng cháu không thể nhìn nếu không có ánh sáng,” Meg nói, nhận ra rằng nó hoàn toàn không thể giải thích nổi sự nhìn, ánh sáng và bóng tối. Làm thế nào bạn giải thích được sự nhìn trong một thế giới nơi mà chưa ai từng nhìn thấy gì, nơi mà đôi mắt là không cần thiết? “Ồ, trên hành tinh này,” nó dò dẫm, “các ông bà có mặt trời chứ?”

“Một mặt trời tuyệt vời nhất, mang đến cho chúng tôi hơi ấm, và những tia nắng mang đến cho chúng tôi những bông hoa, thức ăn, âm nhạc và tất cả những gì làm nên sự sống và sinh sôi nảy nở.”

“Ồ,” Meg nói, “khi chúng cháu quay về hướng mặt trời... trái đất của chúng cháu, hành tinh của chúng cháu... ý cháu là về phía mặt trời của chúng cháu... thì chúng cháu nhận được ánh sáng của nó. Và khi chúng cháu quay khỏi hướng đó, thì là ban đêm. Và nếu như con người muốn nhìn thấy được, họ phải sử dụng ánh sáng nhân tạo.”

“Ánh sáng nhân tạo,” quái vật thở dài. “Cuộc sống trên hành tinh các cháu chắc phải rất phức tạp. Sau này, cháu phải cố gắng giải thích nhiều hơn cho tôi đấy.”

“Được ạ,” Meg hứa, và lúc ấy nó biết cố gắng giải thích bất cứ gì có thể nhìn được bằng mắt sẽ là vô vọng, bởi theo cách nào đó, những quái vật này nhìn, biết và hiểu tổng thể hơn nó, hay bố mẹ nó, hay Calvin, hay kể cả Charles Wallace rất nhiều.

“Charles Wallace!” nó gào lên. “Chúng đang làm gì với Charles Wallace rồi? Chúng cháu không biết NÓ đang làm gì nó hoặc đang bắt nó làm gì. Làm ơn, ôi, làm ơn, hãy giúp chúng cháu với!”

“Được rồi, được rồi, bé con, tất nhiên chúng tôi sẽ giúp. Đang có một phiên họp ngay lúc này để tìm ra đâu là cách giải quyết tốt nhất. Trước đó, chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện được với người nào trốn thoát khỏi một hành tinh đen; vì vậy, mặc dù bố cháu luôn tự trách mình về những điều đã xảy ra, chúng tôi cảm thấy ông ấy hẳn phải là một người khá phi thường mới có thể thoát khỏi Camazotz cùng các cháu. Nhưng còn bé trai, và tôi hiểu rằng cậu ấy rất đặc biệt, một cậu bé rất quan trọng... à, bạn nhỏ của tôi, cháu phải chấp nhận rằng chuyện này không đơn giản đâu. Trở về xuyên qua cái Bóng Đen, trở về Camazotz... tôi không biết. Tôi không biết nữa.”

“Nhưng Bố đã bỏ rơi em ấy!” Meg nói. “Ông ấy phải mang em ấy về! Ông ấy không thể cứ thế bỏ rơi Charles Wallace được!”

Cách nói chuyện của quái vật bỗng trở nên dứt khoát. “Không ai nói gì đến chuyện bỏ rơi ai cả. Đó không phải là cách của chúng tôi. Mà chúng tôi cũng biết rằng chỉ bởi chúng tôi muốn điều gì đó thì không có nghĩa chúng tôi sẽ đạt được những gì chúng tôi muốn, và chúng tôi vẫn chưa biết phải làm gì. Và chúng tôi không thể cho phép cháu, trong tình trạng hiện giờ, làm bất kỳ điều gì có thể gây nguy hại đến tất cả chúng ta. Tôi có thể thấy cháu đang mong mỏi bố cháu lao ngay về Camazotz, và cháu gần như chắc chắn có thể khiến ông ấy làm vậy, và rồi chúng ta sẽ đi đến đâu? Không, không. Cháu phải chờ đợi đến khi bình tĩnh hơn. Này, cháu thân mến, đây là chiếc áo choàng giữ cho cơ thể ấm áp và nó sẽ khiến cháu thấy thoải mái.” Một lần nữa, Meg cảm thấy phấn chấn, một lớp quần áo mỏng, mềm mại, nhẹ nhàng rơi xuống quanh người nó. “Đừng lo lắng về đứa em trai bé bỏng của cháu.” Lời nói du dương từ những cái tua nhẹ vang bên tai nó. “Chúng tôi sẽ không bao giờ bỏ cậu ấy ở đằng sau bóng tối. Nhưng bây giờ cháu phải nghỉ ngơi, cháu phải vui vẻ, cháu phải hồi phục.”

Những lời lẽ dịu dàng, có cảm giác rằng quái vật này sẽ yêu thương nó, dù nó có nói gì hay làm gì chăng nữa, cứ quấn lấy Meg ấm áp và yên bình. Nó cảm thấy một cái tua khẽ chạm vào má nó, dịu dàng như nụ hôn của mẹ vậy.

“Kể từ khi những đứa nhỏ của tôi lớn lên và ra đi đến nay đã lâu lắm rồi,” quái vật nói. “Cháu thật nhỏ bé và yếu đuối. Giờ tôi sẽ cho cháu ăn. Cháu phải ăn thật chậm rãi và khẽ khàng. Tôi biết cháu đang rất đói, cháu đã không được ăn quá lâu rồi, nhưng cháu không được vội vàng, nếu không cháu sẽ không khỏe lại được đâu.”

Cái gì đó thực sự rất ngon, không sao tả xiết được đưa vào môi của Meg, và nó nuốt vào mồm với vẻ biết ơn. Mỗi lần nuốt, nó cảm thấy cơ thể khỏe khoắn trở lại, và nó nhận ra mình đã không có gì để ăn kể từ cái bữa tối gà tây kinh tởm giả tạo trên Camazotz mà nó hầu như không nếm qua. Đã qua bao lâu rồi từ lúc nó ăn món hầm của mẹ? Thời gian chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

“Ban đêm ở đây kéo dài bao lâu ạ?” nó thì thầm ngái ngủ. “Trời sẽ lại sáng thôi, phải không ạ?”

“Suỵt,” quái vật nói. “Ăn đi nào, bé con. Trong lúc mát mẻ như thế này, chúng tôi ngủ. Và đến khi cháu tỉnh dậy, sẽ lại là ấm áp và bao nhiêu việc phải làm. Bây giờ cháu phải ăn, rồi ngủ đi, và tôi sẽ ở đây với cháu.”

“Cháu nên gọi bà thế nào ạ?” Meg hỏi.

“Ồ, gọi thế nào à. Trước hết, cố đừng nói gì trong chốc lát. Hãy tự mình suy nghĩ. Nghĩ về tất cả những thứ cháu dùng để gọi mọi người, những người khác nhau.”

Trong lúc Meg nghĩ, quái vật khẽ rầm rì với nó. “Không, mẹ là một từ đặc biệt, chỉ dùng cho một người duy nhất; còn bố thì đã là người ở đây với cháu rồi. Không phải là bạn, cũng không phải thầy giáo, không phải anh, không phải chị. Người quen là cái gì nhỉ? Quả là một từ khó, lại buồn cười nữa. Dì à. Cũng có lẽ. Đúng, có lẽ là vậy. Và cháu nghĩ đến những từ kỳ cục đến thế về tôi? Thú vật ác quỷ! Ác quỷ, thật đúng là loại từ kinh khủng. Tôi thực sự không nghĩ mình là một ác quỷ đâu. Quái vật. Từ đó được đấy. Dì Quái vật.

“Dì Quái vật.” Meg lầm bầm, giọng ngái ngủ, và cười.

“Tôi nói gì buồn cười à?” Dì Quái vật ngạc nhiên hỏi. “Dì Quái vật không ổn à?”

“Dì Quái vật nghe rất đáng yêu,” Meg nói. “Hãy hát cho cháu nghe đi, Dì Quái vật.”

Nếu diễn tả về sự nhìn cho Dì Quái vật là điều không thể, thì diễn tả tiếng hát của Dì Quái vật cho con người là việc thậm chí còn không thể làm được hơn nữa. Đó là loại âm nhạc còn tuyệt vời hơn cả âm nhạc của những sinh vật ca hát trên Uriel. Đó là loại âm nhạc còn hữu hình hơn cả hình dáng hay cảnh tượng. Nó có cốt lõi và cấu trúc. Nó nâng đỡ Meg còn mạnh mẽ hơn cả những cánh tay của Dì Quái vật. Dường như tiếng hát đi chu du cùng nó, cuốn nó lên cao bằng sức mạnh của bài ca, nên nó đang đi trong ánh sáng rực rỡ giữa những ngôi sao, và trong khoảnh khắc đó, nó cũng cảm thấy rằng những từ như bóng tối ánh sáng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, chỉ có giai điệu này là có thực.

Meg không biết nó thiếp đi lúc nào trên nền điệu nhạc. Khi nó tỉnh dậy, Dì Quái vật còn đang ngủ, vẻ mềm mại của bộ lông dì, mái đầu không mặt gục xuống. Đêm tối đã đi qua và một thứ ánh sáng xám đục tràn ngập căn phòng. Nhưng giờ nó nhận ra ở đây trên hành tinh này không cần đến màu sắc, vậy nên những màu xám và màu nâu hòa trộn cùng nhau không phải là điều mà những quái vật biết, và cái mà nó, chính nó, nhìn thấy chỉ là một phần nhỏ nhất cho thấy hành tinh này ra sao mà thôi. Chính nó mới bị hạn chế bởi những giác quan của mình, không phải những quái vật không có mắt kia, vì họ chắc chắn có những giác quan nó thậm chí không tài nào mơ đến.

Nó khẽ cựa quậy, và Dì Quái vật cúi xuống nó ngay lập tức. “Thật là một giấc ngủ đáng yêu, cháu yêu ạ. Cháu cảm thấy ổn chưa?”

“Cháu thấy tuyệt vời,” Meg nói. “Dì Quái vật, hành tinh này gọi là gì?”

“Ôi, cháu yêu,” Dì Quái vật thở dài. “Ta thấy không dễ chút nào để diễn đạt mọi thứ theo cách trí óc cháu định hình nên chúng. Cháu gọi cái nơi từ đó cháu đến là Camazotz?”

“Ồ, chúng cháu đã đến từ nơi đó, nhưng đấy không phải là hành tinh của chúng cháu.”

“Cháu có thể gọi hành tinh chúng ta là Ixchel, ta đoán vậy,” Dì Quái vật bảo nó. “Chúng ta có chung mặt trời với Camazotz bại trận, nhưng điều đó, ơn Chúa, là tất cả những gì chúng ta phải chung nhau.”

“Và mọi người đang chiến đấu với Bóng Đen?” Meg hỏi.

“Ừ, đúng vậy,” Dì Quái vật trả lời. “Khi làm việc đó, chúng ta không được phép ngơi nghỉ chút nào. Chúng ta là những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính(10). Tất nhiên, chúng ta có trợ giúp...”

“Ai trợ giúp các dì?” Meg hỏi.

“Ồ, cháu yêu, rất khó giải thích mọi điều cho cháu, cưng ạ. Và ta biết giờ không phải chỉ bởi vì cháu là một đứa trẻ. Cũng khó truyền đạt cho hai người còn lại kia y như cháu. Ta có thể nói điều gì có ý nghĩa một chút với cháu đây? Điều thiện trợ giúp chúng ta, những ngôi sao trợ giúp chúng ta, có lẽ chính là cái mà cháu gọi là ánh sáng trợ giúp chúng ta, tình yêu thương trợ giúp chúng ta. Ồ, cháu của ta, ta không thể giải thích được! Đây là những gì cháu chỉ phải biết hoặc không biết.”

“Nhưng...”

“Chúng ta không nhìn vào những thứ mà cháu gọi là nhìn thấy được, mà vào những thứ không nhìn thấy được. Vì những gì nhìn thấy được là nhất thời. Những gì không nhìn thấy được mới là bất diệt.”

“Dì Quái vật, Dì có biết Bà Gì Đó không?” Meg bất ngờ hỏi với hy vọng tràn trề.

“Bà Gì Đó?” Dì Quái vật lúng túng. “Ôi, cháu bé, ngôn ngữ của cháu quá đỗi đơn giản và hạn chế, nên dẫn đến hệ quả là nó phức tạp kinh khủng.” Bốn cánh tay của dì, những cái tua mềm mại vẫy vẫy biểu lộ sự bất lực. “Cháu có muốn ta đưa cháu đến chỗ bố cháu và Calvin của cháu không?”

“Ồ, vâng, làm ơn đi ạ!”

“Vậy thì đi thôi. Họ đang chờ cháu để cùng lên kế hoạch. Và chúng ta nghĩ cháu sẽ thích thưởng thức... cháu gọi là gì ấy nhỉ? ừ, đúng rồi, bữa sáng... cùng nhau. Cháu sẽ thấy khá nóng bức trong bộ áo lông nặng nề đó. Ta sẽ mặc cho cháu cái gì đó nhẹ hơn, rồi chúng ta sẽ đi.”

Như thể Meg chỉ là một đứa bé, Dì Quái vật tắm rửa và mặc đồ cho nó, và với bộ cánh mới này, dù được làm từ một lớp lông màu xám, lại nhẹ hơn cả những bộ quần áo mùa hè mỏng nhất trên Trái đất. Dì Quái vật quàng một cánh tay có tua qua thắt lưng Meg và dắt nó đi qua những hành lang dài và tối, bên trong chỉ thấy những cái bóng, và những cái bóng của những cái bóng, cho đến khi họ tới một căn phòng rộng lớn hình trụ. Những tia sáng lọt vào từ một ô cửa sổ trần để mở, tụ lại quanh một chiếc bàn tròn khổng lồ bằng đá. Vài quái vật khổng lồ đang ngồi đó, cả Calvin cùng ông Murry, trên băng ghế dài đá uốn lượn quanh bàn. Bởi những quái vật quá cao, nên ngay cả đôi chân của ông Murry cũng không chạm được xuống mặt đất, cả cặp giò dài khẳng khiu của Calvin cũng đang đu đưa như thể nó là Charles Wallace. Một phần căn phòng bao quanh là nhiều cửa tò vò có mái vòm dẫn đến những lối đi dài lát gạch. Không có những bức tường trống, không có những mái che, vậy nên dù ánh sáng ở đây mờ đục hơn so với ánh sáng mặt trời trên Trái đất, Meg không hề cảm thấy tối tăm hay lạnh lẽo. Khi Dì Quái vật dẫn Meg vào, ông Murry tuột xuống khỏi băng ghế và vội vàng chạy đến bên nó, dịu dàng giang tay ôm nó vào lòng.

“Họ đảm bảo với chúng ta là con đã khỏe,” ông nói.

Khi ở trong vòng tay của Dì Quái vật, Meg cảm thấy an toàn và yên tâm. Giờ những lo lắng về Charles Wallace cùng nỗi thất vọng về sai lầm của người bố cứ đầy ứ lên giận dữ trong cổ họng nó.

“Con khỏe rồi,” nó lẩm bẩm, không nhìn Calvin hay bố, mà nhìn những quái vật, vì giờ đây họ chính là những sinh vật nó đang cầu cứu. Nó cảm thấy như thể cả bố nó lẫn Calvin chẳng ai thực sự quan tâm đến Charles Wallace cho thích đáng.

“Meg!” Calvin hoan hỉ nói. “Em chưa từng được nếm thức ăn thế này trong đời đâu! Đến đây ăn thử đi!”

Dì Quái vật nhấc Meg lên băng ghế và ngồi xuống bên cạnh nó, lấy cho nó một đĩa thức ăn, những trái cây kỳ lạ cùng những cái bánh mì có mùi vị không giống bất cứ thứ gì Meg từng ăn. Mọi thứ đều xỉn xỉn và không màu, trông có vẻ không ngon mắt, và lúc đầu, mặc dù vẫn còn nhớ tới bữa ăn mà Dì Quái vật cho nó ăn tối hôm trước, Meg ngần ngừ không muốn nếm thử, nhưng ngay khi miễn cưỡng cắn miếng đầu tiên nó ăn rất hăm hở, như thể nó sẽ không bao giờ được ăn cho thỏa thích nữa.

Những người khác chờ đến khi nó ăn chậm lại. Rồi ông Murry nghiêm nghị nói, “Chúng ta đang cố gắng thảo ra một kế hoạch để giải cứu Charles Wallace. Vì bố đã mắc sai lầm khi xuyên chiều thoát khỏi NÓ, chúng ta cảm thấy sẽ không phải là hành động khôn ngoan nếu bố cố trở về Camazotz, dù là một mình thôi. Nếu bố lỡ mất mục tiêu thêm lần nữa, rất có khả năng bố sẽ bị lạc và cứ lang thang trong các cõi thiên hà mãi mãi, đến lúc đó sẽ chẳng giúp được ai, càng không thể giúp được Charles Wallace.”

Nỗi thất vọng như cơn sóng trùm lấy Meg khiến nó không thể ăn nổi nữa.

“Những người bạn của chúng ta đây,” ông nói tiếp, “cảm thấy rằng chính sự thật duy nhất là bố vẫn đeo cặp kính Bà Ai Đấy đưa cho con đã giữ bố bên trong hệ mặt trời này. Cặp kính đó đây, Meg. Nhưng bố e là chúng đã mất tác dụng rồi, và giờ chúng chỉ đơn thuần là kính. Có lẽ chúng chỉ dùng để trợ giúp duy nhất một lần và duy nhất trên Camazotz. Có lẽ chính vì đi qua Bóng Đen mà thành ra như vậy.” Ông đẩy chiếc kính trên bàn về phía nó.

“Những người này có biết về xuyên chiều,” Calvin chỉ vào nhóm những quái vật to lớn, “nhưng họ không thể thực hiện điều đó trên một hành tinh đen.”

“Bố đã thử gọi Bà Gì Đó chưa?” Meg hỏi.

“Vẫn chưa,” bố nó trả lời.

“Nhưng nếu Bố không nghĩ ra được cái gì khác, thì đó là điều duy nhất phải làm! Bố ạ, Bố chẳng quan tâm đến Charles chút nào hết!”

Đến đây, Dì Quái vật đứng lên, nói, “Nhóc con,” với thái độ quở trách. Ông Murry không nói gì, và Meg có thể thấy là mình đã làm ông bị tổn thương sâu sắc. 134b Nó đã phản ứng y như nó thường phản ứng thầy Jenkins. Nó cáu kỉnh nhìn xuống cái bàn và nói, “Lúc này đây, chúng ta phải nhờ đến sự giúp đỡ của họ. Bố thật ngốc nghếch, nếu bố nghĩ chúng ta không cần họ.”

Dì Quái vật nói với những người khác. “Đứa trẻ này bị quẫn trí. Đừng phán xét cô bé quá khắc nghiệt. Suýt nữa cô bé đã bị Bóng Đen bắt mất. Đôi khi, chúng ta không thể biết những tổn hại tinh thần còn di chứng lại ngay cả khi thể chất đã hoàn toàn bình phục.”

Meg giận dữ nhìn quanh cái bàn. Những quái vật ngồi đó, lặng im, bất động. Nó cảm thấy mình đang bị đánh giá và bị cho là kém cỏi.

Calvin quay ngoắt đi và khom người dậy. “Em có tình cờ nghĩ ra là bác và anh vẫn đang cố kể cho họ nghe về những quý bà của chúng ta? Em nghĩ bác và anh đang làm gì suốt nãy giờ? Chỉ ngồi đó ôm mặt thôi à? Được thôi, vậy em thử làm xem.”

“Phải đấy. Hãy thử xem, cháu bé.” Dì Quái vật lại ngồi xuống và kéo Meg lại bên cạnh mình. “Nhưng ta không hiểu cảm giác tức giận mà ta thấy trong cháu. Nó là về cái gì vậy? Vẫn có những lời trách móc, và tội lỗi. Tại sao?”

“Dì Quái vật, dì không hiểu sao?”

“Không,” Dì Quái vật nói. “Nhưng đây không phải là để nói với ta về... dù cho họ là ai mà cháu muốn chúng ta biết. Hãy thử xem nào.”

Meg cố gắng. Khờ khạo. Vụng về. Đầu tiên, nó miêu tả Bà Gì Đó với chiếc mũ đàn ông của bà, những chiếc khăn choàng và khăn quàng lắm màu, Bà Ai Đấy với chiếc áo choàng màu trắng và cặp kính lung linh, Bà Cái Nào trong chiếc nón và chiếc áo choàng màu nâu run rẩy cả trong lòng lẫn bên ngoài thể xác. Rồi nó nhận ra điều này thật ngớ ngẩn. Nó chỉ đang miêu tả họ cho chính bản thân mình. Đó không phải là Bà Gì Đó hay Bà Ai Đấy hay Bà Cái Nào. Nó cũng có thể miêu tả Bà Gì Đó như khi bà mang hình dáng của một sinh vật bay trên Uriel.

“Đừng cố gắng sử dụng lời nói,” Dì Quái vật dịu dàng nói. “Cháu chỉ đang làm khó bản thân cháu và ta thôi. Hãy nghĩ xem họ là gì. Trông mặt bắt hình dong thế này chẳng giúp được gì cho chúng ta hết.”

Meg thử thêm lần nữa, nhưng nó không thể gỡ bỏ khái niệm về thị giác ra khỏi đầu. Nó cố nghĩ đến lời giải thích của Bà Gì Đó về việc xuyên chiều. Nó cố nghĩ đến họ bằng ngôn ngữ toán học. Thảng lúc trong khi nghĩ nó cảm thấy Dì Quái vật hay một trong những người còn lại thoáng hiểu được, nhưng phần lớn thời gian tất cả chỉ là sự bối rối trên gương mặt họ.

“Những thiên thần!” Calvin bất chợt hét lên từ phía bên kia chiếc bàn. “Những thiên thần hộ mệnh!” Một khoảnh khắc im lặng. Và rồi nó lại hét lên, mặt nó căng ra vì tập trung, “Những sứ giả! Những sứ giả của Thượng đế!”

“Ta đã nghĩ trong giây lát...” Dì Quái vật giật mình, rồi ngồi phịch xuống, thở dài. “Không. Thế chưa đủ rõ.”

“Thật lạ là họ không thể nói cho chúng ta những gì bản thân họ dường như đã biết,” một quái vật lênh khênh lẩm bẩm.

Cánh tay có tua của Dì Quái vật lại vòng qua eo Meg. “Họ còn rất non nớt. Và trên trái đất của họ, như họ vẫn gọi vậy, họ không bao giờ giao thiệp với các hành tinh khác. Họ tự quay tròn, một mình trong vũ trụ.”

“Ồ,” quái vật lênh khênh nói. “Họ không thấy cô đơn à?”

Đột nhiên, một giọng nói vang như sấm dội xuống căn phòng lớn:

“CHUÚNGG TÔÔII Ở ĐĐÂYYY!”

Hết truyện 11. Truyện tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26883


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận