Boston
Khu Beacon Hill
20 giờ
- Mẹ sẽ không quay về nữa hả ba? Emily hỏi trong lúc cài cúc pyjama.
- Không, mẹ sẽ không bao giờ quay về nữa, Matthew xác nhận rồi ôm con gái vào lòng.
- Không phải thế, cô nhóc kêu lên giọng run rẩy.
- Đúng chứ con, là vậy đó. Đôi khi cuộc sống là như vậy, anh đáp cụt lủn rồi nhấc bổng con bé đặt lên giường.
Căn phòng nhỏ ở tầng áp mái luôn ấm áp và thân thiện, và nó tránh những tông màu sặc sỡ hoặc nhợt nhạt mà người ta thường thấy trong phòng dành cho trẻ. Khi Matthew và Kate sửa lại ngôi nhà, họ đã tìm cách khôi phục dấu ấn nguyên thủy cho mỗi căn phòng. Đố với căn phòng này, họ đã phá bỏ một vách ngăn, cạo sạch và đánh xi sàn gỗ cũ để trả lại cho nó vẻ hào nhoáng xưa kia, rồi vác về những món đồ gỗ cùng thời: giường gỗ mộc, tủ com mốt sơn trắng, ghế bành bọc vải gai dầu, ngựa bập bênh, hòm bằng đồng thau kết hợp da để đựng đồ chơi.
Matthew vuốt má Emily và nhìn con bé bằng ánh mắt mà anh hy vọng là khiến con yên lòng.
- Con có muốn bố đọc cho con nghe một câu chuyện không, con yêu?
Con bé buồn bã lắc đầu, mắt nhìn xuống.
- Không ạ, con ổn mà.
Anh nhăn mặt. Từ vài tuần nay, anh cảm thấy con gái hết sức buồn nản, như thể anh đã truyền cho con bé nỗi trầm cảm của riêng anh, và điều này khiến anh thấy mình có lỗi. Trước mặt con bé, anh vẫn tìm cách che giấu nỗi đau đớn và lo lắng của mình đấy chứ, nhưng nỗ lực đó không thành công: trẻ con có giác quan thứ sáu để phát hiện ra loại chuyện kiểu này. Matthew có cố lý giải cũng vô ích, anh vẫn bị giằng xé bởi một nỗi lo: nỗi sợ phi lý sẽ mất đi đứa con gái sau khi mất đi người vợ. Từ khi mất vợ, anh vẫn một mực tin rằng nguy hiểm hiện hữu khắp nơi và nỗi lo sợ này đã dẫn anh đến chỗ bảo bọc Emily quá mức khiến con bé nghẹt thở và mất lòng tin vào chính mình.
Sự thực là anh đã trở thành một ông bố lỗi thời. Trong những tuần đầu tiên, anh từng cảm thấy bất ổn khi đối diện với thái độ hầu như thờ ơ của Emily. Quãng thời gian đó, con bé dường như chưa thấm thía nỗi đau, như thể nó không thực sự hiểu rằng mẹ nó đã qua đời. Tuy nhiên, khi ở bệnh viện, bác sĩ tâm lý theo dõi con bé đã giải thích cho Matthew biết cách cư xử đó không có gì bất thường. Để tự vệ, một vài đứa trẻ cố ý giữ khoảng cách với một sự kiện gây sang chấn tinh thần, trong lúc chờ đợi một cách vô thức thời điểm cảm thấy vững vàng hơn để có thể đối diện với sự kiện đó.
Những câu hỏi về cái chết đã tới muộn hơn. Trong vòng vài tháng, Matthew đã đối diện bằng cách vận dụng những lời khuyên của bác sĩ tâm lý, những tập truyện tranh và lối nói ẩn dụ. Nhưng từ đó trở đi, những câu hỏi của Emily trở nên cụ thể hơn, nhấn chìm bố con bé trong nỗi bối rối và đẩy anh vào những phòng tuyến của riêng anh. Một bé gái bốn tuổi rưỡi hình dung thế nào về cái chết? Anh không biết phải sử dụng từ ngữ kiểu nào vì không chắc ở độ tuổi đó con bé có thể hiểu hết. Nữ bác sĩ tâm lý khuyên anh đừng lo lắng, giải thích cho anh hiểu rằng khi lớn lên Emily sẽ ý thức rõ hơn về việc mẹ mất đi là vĩnh viễn. Theo cô, những câu hỏi con bé đặt ra là hoàn toàn bình thường. Chúng cho phép con bé bước ra khỏi sự thinh lặng, tránh được những điều cấm kỵ, và đến giới hạn sẽ giải thoát con bé khỏi nỗi sợ.
Nhưng rõ ràng là Emily còn lâu mới đạt đến giai đoạn giải thoát này. Trái lại, buổi tối nào cũng vậy, cứ đến giờ đi ngủ là con bé lại cảm thấy vẫn những nỗi lo sợ ấy, lại đặt ra vẫn những câu hỏi với những câu trả lời đau đớn ấy.
- Thôi nào con, ngủ đi!
Con bé chui vào chăn, vẻ mặt đăm chiêu.
- Bà nội bảo rằng mẹ đang ở trên trời... con bé mở lời.
- Mẹ không ở trên trời đâu, bà toàn nói linh tinh, Matthew vừa ngắt lời con bé vừa nguyền rủa mẹ mình.
Kate không có gia đình. Bản thân anh cũng rời xa cha mẹ từ rất sớm, hai con ngưòi ích kỷ đang trải qua kỳ hưu trí thanh bình tại Miami và không lường hết nỗi đau của anh. Họ chưa bao giờ thực sự quý mến Kate, trách cô đã coi trọng sự nghiệp hơn gia đình. Một sự quá đáng đối với những bậc phụ huynh lúc nào cũng chỉ nghĩ đến bản thân họ! Tháng đầu tiên sau khi Kate mất, đúng là họ đã tới Boston để an ủi anh và chăm sóc Emily, nhưng sự quan tâm ân cần ấy đã chẳng kéo dài. Kể từ dạo đó, họ bằng lòng với việc gọi điện mỗi tuần một lần để hỏi thăm và kể cho cháu gái những điều ngu ngốc kiểu đó.
Chuyện này đã khiến anh điên tiết! Không bao giờ có chuyện anh chấp nhận tính đạo đức giả của tôn giáo. Anh không tin ở Chúa trời, chưa bao giờ tin và cái chết của vợ anh cũng sẽ không khiến quan điểm đó thay đổi! Đối với anh, là “triết gia” kéo theo một dạng chủ nghĩa vô thần, và Kate cũng đồng tình với anh ở điểm này. Cái chết đánh dấu chấm hết cho mọi sự. Không có gì khác, không có đoạn tiếp sau, chỉ có sự trống rỗng, hư vô trọn vẹn và tuyệt đối. Anh không thể hình dung nổi mình sẽ phỉnh phờ con gái bằng một ảo tưởng mà bản thân anh không tán thành, ngay cả là để trấn an con bé.
- Nếu mẹ không ở trên trời, vậy thì mẹ ở đâu ạ? Con bé vẫn nằn nì.
- Mẹ được an táng ở nghĩa trang, con thừa biết như thế mà. Nhưng tình yêu của mẹ thì không chết, anh nhượng bộ. Tình yêu đó vẫn ở trong tim và trong ký ức của hai bố con mình. Ta có thể tiếp tục gìn giữ ký ức về mẹ con bằng cách nói về mẹ, nhớ về những giây phút cả gia đình ta hạnh phúc bên nhau, ngắm những bức ảnh và đi viếng mộ mẹ.
Emily lắc đầu, còn lâu mới bị thuyết ph c.
- Rồi bố cũng sẽ chết, phải không bố?
- Như tất cả mọi người thôi, anh thừa nhận, nhưng…
- Nhưng nếu bố chết thì ai sẽ chăm sóc con đây? Con bé hoảng sợ.
Anh ôm con bé vào lòng thật chặt.
- Bố sẽ không chết ngay ngày mai đâu, con yêu! Bố sẽ đợi đến khi trăm tuổi mới chết. Bố hứa với con đấy!
“Bố hứa với con đấy”, anh lặp lại trong khi biết rất rõ rằng lời hứa này chẳng có chút cơ sở vững chắc nào.
Anh ôm con bé thêm vài phút nữa. Rồi Matthew viền lại chăn cho Emily và tắt hết đèn, chỉ để lại ngọn đèn ngủ treo nơi đầu giường. Trước khi khép hờ cánh cửa, anh hôn con gái lần cuối, hứa với con rằng April sẽ ghé qua chúc con bé ngủ ngon.
Matthew xuống cầu thang dẫn tới phòng khách. Tầng trệt của căn nhà chìm trong thứ ánh sáng dìu dịu. Anh sống trong căn nhà xây bằng gạch đỏ nằm ở góc phố Mount Vernon giao với phố Willow này đã được ba năm. Một căn townhouse xinh xắn với cánh cửa trắng bằng gỗ nguyên khối và những cửa sổ bằng gỗ sẫm màu, tầm nhìn hướng ra quảng trường Louisburg.
Anh nghiêng người qua cửa sổ và ngắm nhìn những tràng hoa điện treo trên hàng rào công viên đang nhấp nháy. Cả đời mình, Kate đã mơ ước sống ở trung tâm lịch sử của Boston. Một mảnh đất nội phận nhỏ nhắn được bảo tồn cẩn thận, với những ngôi nhà theo kiến trúc Victoria, những vỉa hè lát gạch và những con hẻm tràn ngập hoa, hai bên đường cây cối xanh um và những cây đèn kiểu cổ chạy khí đốt. Một chốn thần tiên tạo cảm giác thời gian đã dừng lại, nhà cửa ngưng đọng lại trong một vẻ duyên dáng thanh lịch và cổ kính. Một khung cảnh sống không vừa tầm tài chính của một bác sĩ làm việc trong bệnh viện trường đại học và một giảng viên đại học vừa trả xong khoản vay thời sinh viên! Nhưng ngần đó không đủ khiến Kate nản lòng. Suốt hàng tháng trời, cô chạy đôn chạy đáo khắp các quán hàng của khu phố, phát khắp nơi những tờ bướm tìm nhà. Một bà lão đã đọc được tờ rơi của cô khi đang chuẩn bị chuyển vào sống trong viện dưỡng lão. Bà lão giàu có dân Boston này ghét các hãng bất động sản và muốn bán căn nhà mình đã sống trọn cuộc đời theo cách “trực tiếp không qua trung gian” hơn. Kate hẳn đã khiến bà có cảm tình, bởi kỳ diệu thay, bà đã đồng ý giảm giá, tuy thế lại đính kèm đề nghị ấy một tối hậu thư. Họ chỉ có vỏn vẹn hai mươi tư giờ để quyết định. Ngay cả khi giá đã được giảm đáng kể, khoản tiền phải trả vẫn khá lớn. Đó là bản họp đồng đánh cuộc cả cuộc đời, nhưng được tình yêu và niềm tin vào tương lai chắp cánh, Matthew và Kate đã quyết liều một phen, gánh lấy món nợ trả trong ba mươi năm và trải qua toàn bộ những kỳ nghỉ cuối tuần trong cảnh mặt mũi lấm lem sơn cùng thạch cao. Họ, những người chưa bao giờ làm việc vặt trong đời mình, đã trở thành những “chuyên gia” về đặt đường ống, về phục chế sàn và lắp đặt cầu chì mạch điện.
Anh và Kate đã hình thành một mối quan hệ gần như gắn bó máu thịt với ngôi nhà cũ kỹ này. Ngôi nhà đã trở thành chỗ trú ẩn mật thiết nhất, nơi họ dự định sẽ nuôi dạy đàn con, nơi họ dự kiến sẽ cùng nhau già đi. A shelter from the storm[1] như Bob Dylan vẫn hát.
[1] Nơi tránh bão. (Chú thích của tác giả)
Nhưng giờ thì Kate đã từ giã cõi đời, toàn bộ chuyện này đâu còn ý nghĩa gì nữa? Nơi này đã chất nặng những kỷ niệm vẫn còn sống động. Đồ đạc nội thất, đồ trang trí và thậm chí là một vài mùi hương vẫn còn phảng phất trong không trung (những cây nến thơm, những loại hoa cỏ khô, những que nhang) đều từng gắn liền với cá tính của Kate. Toàn bộ những thứ đó không ngừng gây cho Matthew cảm giác rằng vợ anh đang ám căn nhà. Dù vậy, anh không muốn và cũng không đủ can đảm chuyển nhà. Trong quãng thời gian chông chênh này, căn townhouse chính là một trong những điểm mốc cuối cùng của anh.
Nhưng chỉ một phần căn nhà bị đóng băng trong kỷ niệm. Hiện tại, tầng trên cùng đã trở nên vui mắt nhờ sự hiện diện của April, cô thuê một phòng ngủ xinh xắn, một phòng tắm, một phòng để quần áo lớn và một bàn làm việc nhỏ. Tầng dưới có phòng của Matthew, phòng của Emily và phòng của đứa con mà anh và Kate dự định chẳng bao lâu nữa sẽ có... Còn tầng trệt, anh đã bố trí như một căn xưởng cải dụng với phòng khách lớn và không gian bếp mở.
Matthew thoát ra khỏi cơn đờ đẫn và chớp mắt lia lịa để gạt bỏ những ý nghĩ bi thương. Anh bước vào bếp, nơi ngày xưa họ vẫn thích thú dùng bữa sáng và quây quần mỗi tối để kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra trong ngày, ngồi cạnh nhau ngay sau quầy bếp. Anh lấy từ tủ lạnh ra một lốc bia vàng. Anh khui một chai rồi lấy thêm một viên thuốc chống trầm cảm, anh chiêu thuốc bằng ngụm bia. Món cocktail bia Corona/thuốc. Anh không biết phương thuốc nào hiệu nghiệm hơn để tự làm mình mụ mẫm đi và nhanh chóng tìm được giấc ngủ.
- Này, anh chàng bảnh trai, cẩn thận với dạng hỗn hợp đó nhé, nó có thể gây nguy hiểm đấy! April gọi anh trong lúc xuống cầu thang.
Cô đã thay đồ để ra ngoài, và như thường lệ, cô mặc diện lộng lẫy.
Vắt vẻo trên đôi giày cao đến chóng mặt, cô chưng ra với một vẻ tự nhiên khiến người ta phải bối rối một tổng thể kỳ quặc nhưng thanh lịch, theo xu hướng bái vật giáo: áo trong suốt với đường viền màu đỏ tím, quần soóc da bóng, tất da chân mờ và áo khoác len tối màu với phần tay áo nạm đinh. Cô búi tóc, dùng phấn nền màu ngọc trai tôn bật màu son đỏ như máu.
- Anh không muốn cùng đi với em sao? Em tới Gun Shot, quán rượu mới khai trương gần kè đấy. Món thủ lợn rán của họ quả là ngon hết chỗ chê. Còn cocktail mojito thì không lời nào tả hết. Thời điểm này quán đang là nơi quy tụ những cô nàng xinh đẹp nhất thành phố đấy.
- Còn Emily, anh sẽ để con bé một mình trong phòng sao?
April bác bỏ lý lẽ đó.
- Ta có thể nhờ cô bé hàng xóm. Cô bé sẽ nhận lời trông trẻ ngay ấy mà.
Matthew lắc đầu.
- Anh không muốnn một tiếng nữa đứa con gái mới được bốn tuổi rưỡi của anh thức dậy sau một cơn ác mộng mà lại phát hiện ra rằng bố nó đã bỏ rơi nó để đi uống mojito trong một quán bar dành cho những nàng les quỷ quyệt.
April bực bội chỉnh lại chiếc vòng ống khắc những đường lượn màu tía đeo nơi cổ tay.
- Gun Shot không phải quán bar dành cho dân les, cô nổi cáu. Vả lại, em nói nghiêm túc đấy Matt, anh cần phải ra ngoài, gặp gỡ mọi người, cố gắng chinh phục phụ nữ, làm tình trở lại..., thế tốt cho anh hơn.
- Nhưng em nghĩ thế nào mà lại muốn anh yêu trở lại nhỉ? Vợ anh...
- Em không nói với anh về tình cảm, cô ngắt lời anh. Em nói với anh về chuyện làm tình! Từ thể xác tới thể xác, về khoái lạc, về lạc thú của các giác quan. Em có thể giới thiệu bạn gái cho anh. Những cô nàng cởi mở chỉ tìm cách giải trí đôi chút.
Anh nhìn cô như thể cô là người lạ.
- Được rồi, em sẽ không cố nài, cô vừa nói vừa cài cúc áo khoác len. Nhưng anh chưa từng tự vấn bản thân về suy nghĩ của Kate đâu nhỉ?
- Anh không hiểu.
- Nếu có thể nhìn thấy anh từ trên cao kia, chị ấy sẽ nghĩ thế nào về cách xử sự của anh?
- Làm gì có chốn trên cao kia! Em sẽ không giở cái giọng điệu đó ra đấy chứ!
Cô bẻ lại ngay.
- Không quan trọng. Em sẽ nói cho anh biết chị ấy nghĩ gì nhé: chị ấy mong nhìn thấy anh bước tiếp, chị ấy mong anh xốc lại tinh thần, mong rằng ít ra anh cũng cho mình một cơ hội tìm lại niềm ham sống.
Anh cảm thấy cơn giận dâng lên trong lòng.
- Làm sao em có thể nói thay cô ấy? Em có biết gì về cô ấy đâu! Thậm chí em còn chưa bao giờ gặp cồ ấy!
- Đúng thế, April thừa nhận, nhưng em nghĩ theo cách nào đó, anh thích chìm đắm trong nỗi đau và anh giữ gìn nó, bởi nỗi đau là mối liên hệ cuối cùng vẫn gắn kết anh với Kate và...
- Thôi ngay trò tư vấn tâm lý như tạp chí phụ nữ đi! Anh lớn tiếng.
Tự ái, cô không thèm trả lời anh mà bước ra ngoài và sập cửa lại sau lưng.
Còn lại một mình, Matthew tìm được nơi ẩn náu trên tràng kỷ. Anh tu một ngụm bia rồi nằm dài ra và day day mí mắt.
Khốn nạn...
Anh không hề muốn làm tình trở lại, không hề muốn vuốt ve một cơ thể khác hoặc ôm hôn một gương mặt khác. Anh cần ở một mình. Anh không cần ai hiểu anh, không cần ai an ủi anh. Anh chỉ muốn ấp ủ nỗi đau của mình, cùng với những bạn đồng hành duy nhất là viên thuốc trung thành và chai bia Corona thân thiết.
Ngay khi anh nh m mắt lại, những hình ảnh lại diễu qua trong đầu anh như một cuốn phim đã xem đi xem lại cả trăm lần. Đêm ngày 24 rạng ngày 25 tháng Mười hai năm 2010. Tối hôm đó, Kate có ca trực đến chín giờ tại bệnh viện Nhi Jamaica Plain, chi nhánh của MGH[2] chuyên khoa Nhi. Kate đã gọi anh khi hết ca trực.
[2] Massachusetts General Hospital: bệnh viện công lớn thuộc Đại học Boston. (Chú thích của tác giả)
- Em phải bỏ xe lại bãi đỗ của bệnh viện, anh yêu ạ. Anh vẫn có lý như thường lệ: đúng là em phải bỏ chiếc xe cà khổ này thôi.
- Anh đã nói với em cả nghìn lần rồi...
- Nhưng em gắn bó với chiếc Mazda hai cửa cũ kỹ này lắm! Anh cũng biết đây là chiếc xe đầu tiên em có thể tậu cho mình từ thời sinh viên còn gì!
- Cưng ơi, hồi đó là thập niên 1990, mà lúc em mua nó đã là xe qua sử dụng rồi...
- Em sẽ thử bắt tàu điện ngầm.
- Em đùa hay sao? Giờ này ở khu đó nguy hiểm lắm. Để anh đi mô tô tới đón em.
- Không, trời đang lạnh lắm, vừa mưa vừa tuyết nữa chứ, đi mô tô không an toàn đâu Matt!
Vì anh cứ cố nài, rốt cuộc cô đã nhượng bộ.
- Đồng ý, nhưng anh phải cẩn thận nhé!
Những lời sau cùng của cô trước khi dập máy.
Matthew đã lên cưỡi lên chiếc Triumph của mình.
Trong lúc anh vừa rời khỏi Beacon Hill thì Kate hẳn đã khởi động được chiếc Mazda bé nhỏ của cô. Bởi vào lúc 21 giờ 07, một chiếc xe tải chở bột giao cho các tiệm bánh mì thuộc trung tâm thành phố đã đâm sầm vào xe cô khi cô đang điều khiển xe rời khỏi bãi đỗ của bệnh viện.
Bị húc vào bức tường bao, chiếc xe đã lộn nhào trước khi hạ cánh lên mui xe tải. Rủi thay, đến lượt chiếc xe tải cũng lật nhào trên vỉa hè, đè nghiến lên chiếc Mazda. Khi Matthew tới bệnh viện, lực lượng cứu thương đang khẩn trương cố gắng lôi Kate nằm kẹt bên dưới đống tôn nát vụn ra. Phải mất hơn một giờ đồng hồ sau họ mới đưa được cô vào viện MGH, nơi cô qua đời ngay trong đêm vì những vết thương quá nặng.
Tài xế xe tải được thả mà không phải chịu bất cứ truy cứu trách nhiệm nào. Các phân tích độc tố thực hiện với ông ta sau vụ tai nạn cho kết quả dương tính với cần sa, nhưng trong lời khai với cảnh sát ông ta khẳng định vào thời điểm xảy ra va chạm, Kate đang sử dụng điện thoại và cô đã không nhường đường cho xe ông ta.
Camera giám sát lắp ở lối vào bãi đỗ xe cũng xác nhận lời khai này.
Matt mở mắt rồi ngồi dậy. Anh không nên buông xuôi mọi sự như thế này. Anh phải đối diện với thực tế vì Emily. Anh đứng lên tìm việc gì đó làm cho khỏi nhàn cư vi bất thiện. Chữa bài tập của sinh viên chăng? Hay xem một trận bóng rổ trên truyền hình? Rồi mắt anh dừng lại trên cái túi lớn đựng chiếc laptop thanh lý mà anh vừa mua vài giờ trước.
Anh ngồi trước quầy gỗ trong căn bếp, dỡ chiếc laptop ra khỏi thùng các tông rồi vừa cắm điện vừa quan sát một lần nữa lớp vỏ nhôm kỳ lạ dán hình trang trí “Eva và trài táo”.
Anh mớ máy và nhìn thấy mẩu giấy nhắn dán trên màn hình. Người đàn ông ở buổi bán thanh lý đã cẩn thận ghi cho anh mã truy cập tài khoản “chủ”.
Matthew bật laptop lên rồi gõ mật khẩu để vào màn hình chính. Thoạt nhìn, mọi thứ đều bình thường: desktop, màn hình nền, các biểu tượng quen thuộc của hệ điều hành Mac. Anh nhập thông tin cá nhân để kết nối Internet và mất vài phút lục tìm trong các chưong trình để chắc chắn mình có thể mở tất cả các ứng dụng: xử lý văn bản, trình duyệt mạng, hộp thư, quản lý hình ảnh. Khi khởi động phần mềm sau cùng này, anh ngạc nhiên khi bắt gặp một loạt ảnh chụp.
Lạ thật, vậy mà người bán cam đoan đã định dạng lại ổ cứng...
Anh ấn một phím trên bàn phím để mở khoảng chục bức ảnh trong phần mềm trình chiếu. Đó là một album ảnh nghỉ hè được trình bày dưới dạng bưu thiếp. Một vùng biển màu lam ngọc, những tấm ván lướt sóng dựng thẳng đứng trên bãi cát trắng xóa, một người đàn ông và một ngưòi phụ nữ đang ôm riết nhau và lưu lại hình ảnh của mình trong ánh sáng huyền hoặc buổi hoàng hôn.
Hawaii chăng? Hay Bahamas? Hay Maldives? Anh vừa băn khoăn tự hỏi vừa hình dung ra tiếng sóng ầm ì và cảm giác gió lùa trong tóc.
Tiếp nối biển là màu xanh bạt ngàn khi hiện ra những phong cảnh có nhiều thung lũng, những tòa lâu đài, những vườn nho, quảng trường của một ngôi làng nhỏ.
Pháp hoặc Toscana thuộc Ý, anh đoán chắc.
Tò mò vì phát hiện này của mình, anh dừng trình chiếu rồi nhấp chuột vào từng tấm ảnh một để hiển thị thêm thông tin. Ngoài thông số kỹ thuật, mỗi tấm trong số đó còn kèm theo một lời chú “chụp bởi emma.lovenstein@imperatornyc.com".
Emma Lovenstein...
Anh lập tức liên hệ với chữ ký xuất hiện bên dưới hình minh họa trang trí vỏ laptop.
“Emma L.”
Rõ ràng là tên người chủ cũ của chiếc máy.
Anh dùng chuột cảm ứng chọn toàn bộ ảnh chụp, di chuyển chúng vào thùng rác định xóa hết. Đúng lúc sắp thao tác lệnh xóa, anh bỗng thấy ngờ ngợ, và do cẩn trọng đã thảo một bức mail ngắn nội dung như sau:
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Chủ đề: Ảnh chụp
Chào cô Lovenstein,
Tôi là chủ nhân mới của chiếc MacBook trước kia thuộc về cô.
Trong ổ cứng máy tính cũ của cô còn vài tấm ảnh.
Cô có muốn tôi gửi lại không hay là tôi có thể xóa đi?
Cho tôi biết nhé.
Chúc cô mọi điều tốt lành,
Matthew Shapiro