Tình Nhân Truyện ngắn 3


Truyện ngắn 3
Chứng Biếng Ăn (Anorexia Nervosa)

 

Càng nhìn thấy anh lần đầu tiên vào tối Giáng sinh. Anh ngồi khóc trên miếng bìa các-tông cạnh nơi đổ rác của khu tập thể.

Một lúc nữa là cha nàng phải từ phòng trực về nhà; đã đến giờ mọi người ngồi vào bàn ăn tối Giáng sinh. Nàng không thể chờ thêm được nữa. Tiếng cá chép rán xèo xèo trong chảo – mùi thơm lừng tỏa khắp nhà – những bài thánh ca, cây Noel bên cạnh chiếc bàn phủ khăn trắng tinh. Ấm cúng, tràn ngập không khí gia đình và an lành biết bao. Liệu có một thế giới nào đẹp hơn thế giới của tối Giáng sinh này?

Tại sao chỉ vì không khí vui vẻ của tối Giáng sinh, vì phải giữ ‘hòa khí gia đình” mà nàng không phản đối khi mẹ nàng sai nàng đi đổ rác? Trong chương trình tối Giáng sinh có câu Noel, cá chép rán và đến hiệu làm đầu vào buổi sáng, nhưng không có rác, cái thứ có thể chờ đến ngày mai!

Lại đúng vào lúc này, khi trời đã tối! Ngoài ra nàng không thể chịu nổi các khu đổ rác. Nó bốc mùi, một cái lồng trại giam ghê tởm. Nhưng đối với mẹ nàng, chưa từng có một lý do gì để được phép chệch khỏi cái thời gian biểu đã được ấn định đó. “Cần phải có kế hoạch cho từng ngày” – bà thường nhắc mỗi khi có dịp. Tối Giáng sinh chỉ khác ở kế hoạch, ngoài ra nó còn được đánh dấu đỏ trong bản fax triết học của bà. Jesu, hy vong và đại lễ đêm Giáng sinh, không là gì cả. Hoàn toàn không. Tối Giáng sinh, 11:30, hiệu làm đầu – có một lần nàng vô tình đọc được trong lịch của mẹ nàng ở ngày mười tám tháng Mười. Đăng ký với thợ làm đầu cho Giáng isnh từ giữa tháng Mười! Người Đức ở Bavaria cũng không làm điều đó! Cái bản fax triết học bệnh tật đó của mẹ nàng như một danh sách các hình phạt cho một ngày – đôi khi nàng nghĩ.

Đã có lần nàng nói chuyện với mẹ nàng về tối Giáng sinh. Lúc đó, khi mà họ nói về một cái gì đó quan trọng hơn là danh sách thực phẩm phải mưa trong cửa hàng ở góc phố. Đó là ngay trước dịp nàng thi tốt nghiệp phổ thông trung học. Nàng đã sống qua thời kỳ say mê trọn vẹn với tôn giáo. Nói cho cùng thì một nửa phần nữ của lớp nàng cũng thế cả. Họ đi nghe giảng ở Viện Thần học – một số thì chắc chắn chỉ vì cảm những chàng tu sĩ đẹp trai – họ học cầu nguyện, họ tham gia vào các buổi cầu nguyện ở trường. Nàng cảm thấy rằng nàng trội hơn, điềm tĩnh hơn và thần bí hơn thông qua mối liên hệ đó với tôn giáo.

Đúng khi đó, vào một ngày nào đó trước lễ Giáng sinh, khi lau cửa kính, họ đã đứng gần nhau đến nỗi như chạm phải nhau, nàng hỏi mẹ liệu bà có khi nào cũng cảm nhận sự chờ đợi “huyền bí” lễ Giáng sinh. Bây giờ thì nàng biết mình đã chọn phải thời điểm xấu cho câu hỏi này. Vì bao giờ mẹ nàng cũng rất khó chịu khi làm công việc dọn dẹp nhà cửa, bà cho rằng đó là sự phung phí vô ích thời gian quý báu và bà không bao giờ hiểu tại sao tất cả các bà nội trợ lại không cảm thấy chán ngán sau một tuần với cuộc sống như vậy. Nàng nhớ mẹ nàng đã để cái giẻ lau lên bậu cửa sổ, lùi lại một bước để có thể nhìn vào mắt nàng và nói bằng một giọng giống như bà vẫn nói với sinh viên:

- Sự chờ đợi huyền bí!? Không. Không bao giờ. Vì rằng trong lẽ Giáng sinh chẳng có bất cứ một sự huyền bí nào cả, con gái ạ.

Nàng còn nhớ rằng thậm chí trong cái “con gái ạ” đó không có một chút tình cảm nào. Với lại nàng đã biết điều đó. Thường thì sau “con gái ạ” ở cuối câu, nàng bỏ về phòng, đóng cửa và khóc.

- Bữa tối Giáng sinh và Noel, đó trước hết là một phần của tiếp thị và quảng cáo. Con trai của một ông thợ mộc từ làng Galilei hẻo lánh trở thành một thần tượng thì khác gì so với Madona hay Jackson của con. Toàn bộ cái phần quảng cáo của anh ta, của mười hai tông đồ cơ đốc giáo đó, cùng với Juda, người trung lập nhất, là một trong những cuộc vận động đầu tiên được tổ chức tốt đến thế, nó đã quảng cáo cho một ngôi sao thực sự. Những chuyện kỳ quặc, những lũ con gái sẵn sàng cởi bỏ tất cả chỉ vì một tiếng gọi, lẽo đẽo theo sau một thần tượng từ thành phố này đến thành phố khác, chứng loạn thần kinh tập thể, sự phục sinh và lên thiên đường. Jesu, nếu sống ở thời nay, hẳn phải có văn phòng đại diện, luật sư, địa chỉ e-mail và trang www.

Bị hưng phấn bởi điều kết luận của mình, mẹ nàng tiếp tục đầy phấn khích:

- Họ đã có chiến lược và Kinh thánh đã ghi lại điều này rất tỉ mỉ. Thiếu quảng cáo, người ta không thể làm chấn động một cường quốc và không thể dựng nên một tôn giáo mới.

- Mẹ ơi, mẹ nói gì thế, chiến lược nào – nàng cắt ngang bằng một giọng cầu khẩn – bộ môn quảng cáo nào, họ chỉ nhìn thấy trong anh ta đứa con của Chúa, một đấng cứu thế…

- Vậy sao?! Một số các cô gái vẫn chầu chực hàng đêm cạnh khách sạn của Jackson trong mưa và giá lạnh, cũng nghĩ rằng Jackson là Jesu. Jesu, con gái ơi, chẳng qua là thần tượng của văn hóa pop. Còn cái mà con nói, tất cả chỉ là chuyện cổ tích mà thôi. Giống hệt như truyện về cái máng hài đồng, về những chú mục đồng đang khóc, về trâu và lừa. Bởi sự thật lịch sử là hoàn toàn khác. Không có bất cứ một bản danh sách nào liệt kê những người đã bắt buộc Maria và Josef phải làm một cuộc hành trình đến Bethlehem. Về điều này thì ngay cả những người không theo một tôn giáo nào cũng biết.

Bà châm thuốc, hít một hơi thật sâu rồi lại nói tiếp:

- Mà thậm chí nếu có cái bản danh sách ấy, thì người ta cũng không ghi vào đó những kẻ nghèo khó như ông thợ mộc vùng Nazaret. Cần phải có hoặc là đất hoặc là nô lệ. Ngoài ra hình như bản danh sách đó nằm ở Jerusalem. Khi đó con đường duy nhất từ Nazaret đến Jarusalem phải đi qua thung lũng Jordan. Mà vào tháng Mười hai, ở thung lũng Jordan bùn ngập ngang cổ một người đàn ông cao lớn. Còn Maria thì không thuộc vào những người khổng lồ, lại đang có mang với Jesu, như con nhớ đấy – bà kết thúc với nụ cười diễu cợt.

Nàng không thể tin được. Vì thậm chí nếu đó là sự thật – mà hình như đúng là sự thật, thì mẹ nàng vốn nổi tiếng là người nói thẳng nói thật, nhất là trong khoa học, mà nhờ thế bà đã đạt được bằng tiến sĩ khoa học ở tuổi ba mươi – thì liệu bà có cần phải nói ra vào hai ngày trước lễ Giáng sinh, khi nàng đang có những ngày đẹp đẽ và rất tin vào điều đó? Và nàng chờ đợi ngày này biết bao nhiêu?

(tiếp theo)

Nàng còn nhớ. Chính là lúc ấy, cạnh cửa sổ, nàng đã quyết định sẽ không bao giờ nghe bất cứ điều gì mà mẹ nàng muốn nói sau “con gái ạ”. Sau nhiều năm, khi nàng kể chuyện này với đứa bạn gái thân nhất, Marta đã bình luận rất khúc chiết như chỉ có ấy mới có thể:

- Vì mẹ cậu như một cô gái phóng túng thời hiện đại. Ở Hy Lạp cổ người ta gọi đó là những phụ nữ có giáo dục và hiểu biết. Phần lớn họ cô độc, vì không một người đàn ông nào thích họ. Thêm vào đó, mẹ cậu là một phụ nữ phóng túng thích đấu tranh và muốn tự mình giải thích thế giới, trên chính đôi tay mình. Nhưng đó chẳng phải là bất cứ một sự tự lập nào hết. Nếu một gã đàn ông thường xuyên làm điều đó cho bản thân, thì hoàn toàn không có nghĩa ông ta là người tự lập. Mẹ cậu chính là gã đàn ông đó.

- Mặc dù chuyện đó xảy ra đã lâu lắm rồi, nhưng nàng luôn nghĩ đế nó vào lễ Giáng sinh. Và về cha nàng. Thỉng thoảng, nhất là thời gian gần đây, nàng ôm ông hoàn toàn không phải vì tình cảm hay nỗi khát khao sự gần gũi hoặc do mong nhớ. Nàng ôm ông, là để đền bù cho ông vì sự lạnh lùng băng giá của vợ ông. Nàng nghĩ rằng bằng cách đó nàng có thể giữ ông gần mình, gần với gia đình hơn. Nếu nàng là chồng của mẹ nàng, thì nàng đã rời bỏ từ nhiều năm trước. Nàng không thể chịu đựng nổi sự lạnh lùng ấy. Vì mẹ nàng có thể lạnh như ni-tơ vị vẩy nước. Còn ông chịu đựng và ở đây. Nàng biết rằng ông làm thế là vì nàng.

Hôm nay ông cũng sẽ làm như vậy. Hôm nay nàng vẫn sẽ ôm ông. Ông sẽ ngạc nhiên như mọi khi, đặt đầu lên vai nàng, xiết chặt nàng, hôn vào cổ nàng và thì thầm “con gái”, và khi hai người rời nhau, mắt ông đỏ hoe và ông sẽ giả vờ rất buồn cười là bị cái gì ấy rơi vào mắt. Và “con gái” này mới ấm áp làm sao. Tình cảm thế. Giáng sinh đến thế.

Nhưng hôm nay nàng làm vậy là do chính nàng. Vì hôm nay nàng cảm thấy xúc động trong không khí ngày lễ. Hơn nữa, nàng không có một người đàn ông nào khác, người có thể giống cha nàng dù chỉ là chút ít. Những người đàn ông như thế giờ đây không còn nữa.

Vì thế, sự hòa thuận, vì để cái bản fax triết học Giáng sinh chết tiệt của mẹ nàng được thực hiện, nàng sẽ đi đổ rác. Ngay bây giờ và ngay lập tức. Thậm chí nàng còn làm ra vẻ như nàng sẵn lòng làm việc đó.

Nàng xách hai xô đầy rác đi ra. Gió và mưa tuyết. Nhìn vào những ô cửa sổ nhấp nháy ánh điện từ những cây thông Noel, nàng mở khóa cửa khi đổ rác. Nàng lấy chân đẩy cánh cửa và nhìn thấy anh. Anh ngồi xổm trên tấm bìa các-tông đã sờn rách bên cạnh một thùng rác lớn ngay lối vào và lấy tay che gió cho ngọn nến trên một cành thông nhỏ. Ánh sáng từ ngọn nến hắt vào mắt anh, vào những giọt nước mắt đang lăn.

Nàng đứng sững lại. Thả hai cái xô, chúng rơi đánh xoảng xuống nền bê tông và lật nghiêng. Nàng muốn quay lại và chạy.

- Xin lỗi, nhưng tôi thực không muốn làm bạn giật mình – anh nói nhỏ, giọng khàn khàn. – Tôi sẽ thu lại rác cho bạn.

Và anh đứng dậy.

- Không! Không! Tôi không muốn! Anh hãy đứng yên đấy, không được đến gần tôi – nàng hét lên.

Nàng nhặt xô lên, đổ rác, đóng sập cánh cổng khu đổ rác và chạy. Nàng chạy thục mạng qua những vũng nước trên bãi cỏ trong khu, nơi mà ngay cả vào mùa xuân cũng không có lấy một ngọn cỏ. Nàng lao vào cầu thang. Cha nàng đang lấy thư từ thùng thư gia đình. Nàng lao phải ông và ôm chặt lấy ông.

- Con gái, sao thế?

- Không có gì. Con bị giật mình. Đơn giản là con bị giật mình thôi mà. Cái người ở đằng kia, trong khu đổ rác…

- Người nào? Hắn ta đã làm gì con?

- Anh ấy không làm gì cả. Anh ấy chỉ ở đấy. Anh ấy ngồi và khóc.

- Con nói gì? Con cứ chờ ở đây. Con không được đi khỏi đây. Để bố ra đó kiểm tra.

- Không! Bố đừng đi đâu. Chúng ta về nhà thôi.

Nàng rời khỏi vòng tay của cha, sửa lại tóc và đi đường cầu thang lên nhà. Cha nàng đỡ lấy hai cái xô và đi theo nàng. Họ có thể đi thang máy, nhưng nàng muốn có thời gian để bình tĩnh lại. Để mẹ nàng không thể nhận ra điều gì. Vì nếu không, bà có thể nghĩ rằng nàng bị tâm thần. Cha nàng thì hiểu ngay lập tức. Không cần một lời. Chính vì thế nên ông cùng nàng leo lên tầng tám, kể cho nàng nghe về ca trực ở bệnh viện và thưởng thức đủ các loại mùi vị bay ra từ các căn hộ mà họ đi qua. Nàng bước vào nhà tươi cười. Mẹ nàng không hề để ý gì.

Nàng đã biết được tên anh, khi anh va chạm với ô-tô của Marta đang trên đường đến lễ cưới.

Nếu Marta có thời gian và làm một trắc nghiệm về chỉ số tri thức của bản thân, hẳn nàng có thể tự hào mà tuyên bố rằng nàng được kết bạn với một phụ nữ trí thức nhất của phần lục địa này của châu Âu. Song Marta không có thời gian cho việc đó, với lại việc đó đối với cô cũng chẳng có nghĩa lý gì. Marta sử dụng vốn hiểu biết của mình chính là để sống với những cảm xúc. Cô gái chân quê ấy – cô lên Krakow học đại học từ vùng Sekowa hẻo lánh, nơi mà “chỉ có cha xứ quản hạt và người tình của ông ta mới có điện thoại”, như chính Marta đã nói – bỗng chốc phát hiện ra thế giới. Sau một năm học tiếng Anh, cô bắt đầu đồng thời học triết học. Cô “ngạt thở” với cuộc sống ở Krakow. Không có bất cứ một sự kiện quan trọng nào ở opera, ở nhà hát bảo tàng, phòng hòa nhạc giao hưởng và câu lạc bộ mà cô không tham dự.

Và chính ở câu lạc bộ cô đã quen với một siêu nghệ sĩ mặc quần da. Hắn ta đang học lại năm thứ ba Đại học Mỹ thuật, nhưng tác phong thì như thể Anddy Warhol đang được hưởng học bổng nhà nước. Như Andy Warhol vẫn chưa đủ, hắn ta còn là dân Vacsava gốc, điều mà mỗi khi có dịp hắn đều nhấn mạnh. Krakow thì không còn biết nói gì. Phát điên lên và phủ phục bởi một tài năng đã tới.

Nàng không thể chịu đựng nổi hắn ngay từ lúc Marta giới thiệu họ với nhau trong xe buýt.

Hắn ngồi cấc lấc và nói bô bô về mình đến nỗi cả xe đều nghe thấy. Marta đứng, nàng đứng và một bà cụ ho sù sụ chống gậy cũng đứng. Còn war(c)hol này thì ngồi trong cái quần da đã sờn và diễn giảng về vai trò của mình trong nghệ thuật hiện đại.

Nhưng Marta lại cho đó là rất tuyệt. Cô ta yêu. Hình như chỉ mang tính “hóa học”, nhưng hậu quả thì lại rơi nước mắt. Cô chăm bẵm cho hắn bằng tiền học bổng của mình, mua cho hắn hàng lít rượu từ những đồng tiền tiết kiệm của mình, thậm chí cô còn cho hắn tiền đi lại bằng xe buýt, để hắn có thể ra oai với các nữ sinh phổ thông bằng những bài giảng của mình trên đường tới trường. Với hắn cô dường như không tồn tại. Mà nếu có tồn tại, thì cô đứng sau “tay ba hoa Vacsava” như một con chuột xám và nhìn hắn đầy thán phục, khi hắn nói cho mọi người biết hắn sẽ làm gì trong đời, nếu chỉ toàn “những kẻ bất tài luôn hằn thù những nghệ sĩ đích thực” – đấy là hắn đang nghĩ đến vị giáo sư đã đánh trượt hắn lần thứ hai – “hắn sẽ loại bỏ niềm thù hận truyền kiếp”.

Nàng đã khuyên Marta nên tỉnh táo. Nàng đề nghị, nài nỉ, dọa dẫm. Nhưng Marta không nghe – thời gian đó Marta như đang ở trong một phản ứng hóa học. Cần phải có một cái gì đó xảy ra để cho phản ứng đó ngừng lại.

Và đã xẩy ra. Mười hai giờ kém năm. Gần như chính xác.

Lễ cưới của Marta được ấn định vào mười hai giờ trưa một ngày thứ sáu nào đấy của tháng Mười. Họ đi bằng xe của Marta đến Ủy ban hành chính. Marta, trong bộ váy cưới đi mượn, lái xe. Nghệ sĩ, tức chú rẻ, ngồi bên cạnh vì không có bằng lái xe. Họ đưa hắn lên xe trong trạng thái say rượu. Nàng coi như nhân chứng duy nhất, ngồi ở ghế sau. Marta rất hưng phần và đang say rượu – buổi sáng hai đứa đã uống hết nửa chai conag Bulgari trong lúc dạ dầy trống rỗng, vì Marta không sao nuốt nổi bữa sáng do quá hồi hộp.

Marta nghĩ rằng mình sẽ kịp trước khi đèn vàng chuyển sang đỏ. Nhưng cô đã không kịp. Họ nghe thấy tiếng va chạm mạnh, Marta kêu lên: “Ôi, đồ thổ tả” và tiếp theo là yên lặng. Xe bị húc vào bên phải, phía sau. Lỗi của Marta là hiển nhiên.

Nghệ sĩ lập tức lao ra khỏi xe, cứ để cửa mở. Hắn đi đến chiếc xe kia. Hẳn mở cửa, lôi người lái xe ra và không nói không rằng hắn tung những cú đấm. Marta, với những vết máu đỏ trên mạng và trên váy cưới, chạy đến chỗ nghệ sĩ và lao vào giữa hắn và người lái xe kia. Vào một khoảnh khắc nào đấy, bị một cú đấm ngẫu nhiên vào mặt, cô ngã lăn trên đường nhữa. Vào đúng lúc đó, người lái xe dồn sức đấm vào mặt nghệ sĩ.

Nàng ngồi trong xe và nhìn thấy tất cả, rất chính xác. Khi Marta ngã xuống đường nhựa sau cú đấm ngẫu nhiên của nghệ sĩ, nàng vội vàng mở cửa, ra khỏi xe và chạy đến cô bạn gái đang nằm, quỳ xuống bên cạnh. Người lái xe cũng quỳ xuống.

- Thật đáng tiếc. Tôi không muốn như vậy. Tôi đã nhìn thấy đèn xanh. Nên tôi đã đi. Thật đáng tiếc. Tôi đã nhìn thấy đèn xanh. Chị hãy tin tôi. Tôi đã nhìn thấy đèn xanh – anh ta nhắc đi nhắc lại liên tục, nghiên người bên Marta.

Nghệ sĩ đứng dậy, dùng hết sức đẩy anh ta ra và quay về phía Marta. Họ nghe thấy tiếng còi hú của xe cảnh sát và tiếng nói:

- Đề nghị bình tĩnh. Tất cả mang giấy tờ lên xe tôi. Tất cả!

Người cảnh sát trẻ chỉ chiếc Polonez của anh ta ở điểm đỗ xe gần bến xe buýt.

- Chúng tôi không có thời gian – nghệ sĩ nói to – mười hai giờ là lễ cưới của chúng tôi!

Marta đứng dậy, đi đến chỗ hắn và nói rất bình tĩnh:

- Không có đám cưới nào hết. Anh hãy xin lỗi anh ấy và đi khỏi đây ngay, đồ thối tha.

Chính xác như thế! Đó lại là Marta trước đấy, Marta bình thường. Rốt cuộc lại là Marta!

Nàng nhớ, rằng vào khoảnh khắc ấy nàng đã nhìn vào mắt của người đàn ông đó và nàng thấy rằng nàng đã biết anh mắt ấy.

Marta giựt tấm mạng trang đầu, dùng nó để chùi máu ở mũi, vò nhầu nó trong tay và vứt xuống đường. Cô chạm vào vai người đàn ông.

- Tôi biết. Thôi, anh khỏi phải xin lỗi. Bảo hiểm của tôi sẽ trả hết. Thậm chí anh không biết được là anh đã vừa làm được gì cho tôi đâu.

Rồi đến bên anh ta, kiễng chân và hôn lên má.

Anh ta ngẩn người không hiểu gì và đứng như trời trồng.

Vào cái khoảnh khắc ấy nàng đã nhớ lại, từ đâu mà nàng biết anh. Bởi chính là anh, người đã ngồi cạnh khu đổ rác vào cái tối Giáng sinh ấy.

Nghệ sĩ lủi mất trong đám đông những kẻ tò mò đã kịp xúm lại trên vỉa hề.

- Tôi sẽ giúp chị kéo xe ra chỗ khác – người đàn ông nói.

Cả ba người đẩy chiếc xe lên vỉa hè.

- Tôi là Andrzej. Còn chị?

- Marta. Còn đây là bạn tôi, Ada. Nghĩa là Adriana.

Anh chăm chú nhìn nàng. Chìa tay cho nàng và nói khẽ:

- Andrzjei. Xin lỗi vì tối Giáng sinh ấy đã làm chị giật mình.

Thế đấy! Cứ như thể Giáng sinh chỉ vừa mới tuần trước. Thực ra thì hai năm đã trôi qua.

Anh cao. Tóc đen và chải ra phía sau. Một vết sẹo lớn bên má phải và hai bàn tay rất mảnh. Nàng chưa từng gặp một người đàn ông nào có làn môi rộng và đầy đặn đến thế. Giọng anh hơi khàn và trầm Một cái gì đó tỏa ra từ anh, nhắc nàng nhớ tới mùi hoa nhài.

- Em là Ada. Anh vẫn còn nhớ chuyện ấy cơ à? Phải đến hai năm rồi còn gì.

- Anh nhớ chứ. Khi đó anh đã tìm em. Anh đã tìm em rất lâu. Nhưng không thấy. Anh muốn xin lỗi em. Mãi đến hôm nay, tai nạn này...

Nàng cười với anh.

- Có gì để xin lỗi đâu. Em ở ngay cái nhà cao tầng cạnh khu đổ rác. Tại sao lúc đó anh lại ngồi ở đấy?

Anh không trả lời. Anh quay lại nói chuyện với Marta. Một lúc sau anh đi về xe của mình, đi đến chỗ góc phố thụt vào rồi quay lại. Marta với những vết máu trên váy cưới đã gây ra ấn tượng mạnh. Đám đông những kẻ tò mò vẫn chưa giải tán.

Sau khi đã giải quyết mọi thủ tục với cảnh sát trong chiếc Polonez, anh hỏi:

- Bây giờ anh phải đưa bọn em về đâu đây?

- Cả hội về chỗ em đi – Marta trả lời – Nhất định bọn mình phải ăn mừng vụ này.

Dọc đường họ rẽ vào khách sạn, nơi Marta đã đặt tiệc cưới. Họ được biết rằng khách khứa gọi điện liên tục, nhưng Marta hầu như không để ý đến chuyện đó. Cô nhờ những người phục vụ gói cho toàn bộ số rượu đã đặt và một nửa chậu đồ ăn. Họ mang tất cả ra xe của Andrzej và đi về căn hộ của Marta. Đã lâu rồi nàng chưa thấy cô bạn mình hạnh phúc như vậy.

Sau vài ly rượu vang họ bắt đầu nhảy. Nàng áp người vào Andrzej và cảm thấy anh gần gũi lạ lùng.

Gần sáng anh mới đưa nàng về nhà bằng taxi. Anh cùng nàng ra khỏi xe và đưa nàng đến tận cầu thang. Khi đi qua khu đổ rác, nàng đưa tay cho anh. Anh nhẹ nhàng nắm lấy và khôi rời ra nữa. Đến chân cầu thang, anh đưa tay nàng lên môi và chạm khẽ.

Nàng đã yêu anh rất lâu trước đó, nhưng nàng đã thực sự bị anh bỏ bùa khi anh nhào lên chiếc ô tô đang lao thẳng vào mình.

Từ buổi chiều và buổi tối sau đám cưới bị hủy bỏ của Marta, hầu như mọi cái trong đời nàng đã thay đổi. Hôm sau, Andrzej đến tìm nàng ở trường; anh chờ trước giảng đương. Đứng sát tường. Có vẻ ngượng ngùng với những bông hoa dấu vụng về sau lưng. Khi nàng đi đến chỗ anh và cười, anh không giấu nổi niềm vui và cảm giác nhẹ nhõm.

Từ buổi ấy họ luôn cùng nhau. Trước Andrzej, mọi cái đều vô nghĩa.

Nàng biết điều đó chỉ sau một tuần .Sự tinh tế và tình cảm của anh ôm trùm lấy nàng. Sau đó là sự tôn trọng bao bọc nàng. Có lẽ vì sự tôn trọng đó mà anh đã chờ đợi rất lâu cái hôn đầu tiên. Mặc dù nàng khiêu khích anh, va chạm anh trong những lần nói chuyện, hôn tay anh trong bóng tối của rạp chiếu phim. Phải một thời gian dài trôi qua, anh mới dám đặt lên môi nàng nụ hôn đầu tiên.

Họ từ chỗ Marta về nhà trên chuyến tàu điện cuối cùng. Họ đã cùng ngồi ở đó sau một buổi hòa nhạc. Ở một khúc quành, bị nghiêng mạnh, anh đã ép nàng vào cửa kính.

- Em quan trọng với anh biết bao nhiêu – anh thầm thì và hôn nàng. Anh ngừng lại khi bác tài nói rằng đã đến bến cuối. Chính ở đó, trong tàu điện, nàng đã thực sự yêu anh.

Anh rất thích thú vì nàng học vật lý. Anh cho rằng đấy là bộ môn khoa học “cơ bản tuyệt đối và gần như sang trọng”, ngoài ra còn đặc biệt khó.

Ngay từ lần đầu tiên anh đã chăm chú nghe nàng. Anh lắng nghe tất cả những gì nàng nói. Anh có thể ngồi hàng giờ trên sàn nhà, đối diện với nàng, say mê nghe nàng nói. Sau đấy, khi họ đã là một đôi và đã ở cùng nhau, anh có thể yêu nàng, dậy khỏi giường và vào bếp, về nhà với một túi nặng đồ ăn và nói chuyện với nàng đến sáng. Thậm chí thỉnh thoảng nàng còn thấy hơi bực, vì họ đã không yêu nhau lần nữa mà chỉ toàn nói chuyện.

Những khi nàng giải thích cho anh về vũ trụ, anh rất khâm phục. Nàng kể cho anh về không gian cong hoặc giải thích tại sao các hố đen lại không hề đen. Những lúc ấy anh nhìn nàng thán phục và hôn tay nàng. Nàng không thể giải thíh cho anh rằng biết và hiểu những vấn đề đó chẳng có gì là đặc biệt. Và không có gì đặc biệt hơn việc chuẩn bị tư liệu cho một bài báo.

Andrzej học báo chí. Khi nàng hỏi anh tại sao, anh trả lời:

- Để có thể tác động thông qua sự thật.

Đã có lúc nàng phân vân, không biết nàng đã si mê anh từ bao giờ. Có thể cái dạo, mà trong một tháng anh gầy đi, không chịu tắm gội để giống với những kẻ lang thang cơ nhỡ và anh ở cả tuần trong nhà tình thương?

Bài viết của anh từ nhà tình thương đã được đăng tải và xuất hiện trong phần lớn các tuần báo của khu vực miền trung Ba Lan.

Cũng có thể từ cái lần, sau bài phóng sự về nhà tế bần cho trẻ em, anh đã dành tất cả số tiền tiết kiệm của mình để sửa sang lại ba phòng của những em “ở giai đoạn cuối”, như các chị hộ lý đã gọi? Trong các phòng “giai đoạn cuối” là các em mà cuộc sống chỉ còn tính từng ngày. Anh để ý thấy các em đó thậm chí không có sức để quay đầu, để nhìn những bức tranh và những anh hề trên tường. Chúng yếu đến nỗi hoặc chúng phải dùng các thiết bị y tế khiến chúng chỉ có thể nhìn lên trần nhà. Anh nói điều đó với bác sĩ trưởng. Vị này cười và nói rằng ông ta không có tiền để mua mooc phin, nên những anh hề trên trần nhà đối với ông ta cũng giống như những trò hề. Song đối với Andrzej thì không. Anh đã dùng tất cả số tiền của mình để mua mầu và bút lông và anh đặt vấn đề với trường Đại học Mỹ thuật cho tới khi các sinh viên vẽ những anh hề lên trần của nhà tế bần.

Hay cũng có thể từ cái lần, khi nàng bắt gặp anh cứ cách ngày lại đến trại nuôi những con chó vô chủ và mang theo đồ ăn đã thu thập được?

Andrzej bị ám ảnh về những con chó. Vào mùa hè, khi lũ bạn của anh mải ngoái cổ nhìn theo các cô gái đang khiêu khích bằng những cái mà họ có, hay nói khác đi, thì Andrzej nhìn theo mỗi một con chó mà anh gặp trên đường. Con nào với anh cũng “khác thường”, “đặc biệt”, “em nhìn kìa, đẹp quá” hoặc đơn giản là “đáng yêu”. Nàng thích chó, nhưng không chia sẻ với anh niềm đam mê.

Bây giờ thì nàng yêu mọi con chó. Có thể còn hơn cả anh.

Anh làm nàng ngạc nhiên và nàng ghen kinh khủng về anh. Nàng muốn có anh cho riêng mình. Nàng muốn không có một cô gái nào biết anh kỹ hơn, không một cô gái nào biết được anh là người thế nào. Nàng cảm thấy bất cứ cô gái nào nếu biết anh, cũng sẽ chỉ muốn anh là của riêng cô ta.

Anh sống trong ký túc xá và không bao giờ nhắc đến gia đình hay bố mẹ. Điều đó khiến nàng hơi phân vân và không yên tâm. Anh nói rằng anh đến Krakow từ vừng Ilawa và rằng nhất định có một lúc nào đó “anh sẽ đưa em đến đó, mặc dù đó là một vùng rất chán”. Anh lảng tránh những câu chuyện về quá khứ của mình. Điều này thì có thể nhận thấy ngay từ đầu.

Cũng chưa khi nào nàng có cơ hội để biết được anh đã làm gì ở cái khu đổ rác vào tối Giáng sinh ấy. Có một lần, cùng nằm trên giường, nàng đã thầm thì nài nỉ anh kể về điều đó. Nàng nhớ anh đã run run và một lát sau thì nàng cảm thấy nước mắt anh ướt trên má mình. Khi đó nàng đã quyết định không bao giờ hỏi anh thêm nữa. Nàng quan tâm đến quá khứ của anh chỉ vì tò mò. Bởi quá khứ của họ bắt đầu từ khi anh thúc ô tô của mình vào nàng.

Tức là bắt đầu từ một Big Bang lớn. Cũng như vũ trụ - nàng vui vẻ nghĩ.

Nàng thường nghĩ về buổi đầu bị anh mê hoặc vào lúc đi ngủ. Cho tới tận cái ngày thứ năm ấy, trước dịp nghỉ mồng một tháng Năm.

Đến lúc ấy, họ đã quen nhau được hơn tám tháng. Họ đi Hel. Anh định dạy nàng lướt ván trong vịnh. Họ khởi hành vào sáng thứ năm. Thời tiết tuyệt đẹp. Giữa trưa, họ dừng lại ở một bãi đỗ xe vắng vẻ ven rừng trên đường tới Gdansk. Họ ngồi trên chiếc ghế dài được lắp ghép sơ sài từ những tấm gỗ. Bỗng nhiên anh ngồi sát lại sau nàng và hôn lưng nàng. Một lát sau, anh gỡ nịt vú, đưa cho nàng và hai tay anh ôm lấy ngực nàng, vẫn không ngừng hôn lên lưng nàng. Nàng nhớ nàng đã run lên. Vì hưng phấn, vì chờ đợi và vì sợ nhỡ có ai bỗng nhiên phóng xe đến. Nhưgn có lẽ hơn cả là vì tò mò, cái gì sẽ đến tiếp theo. Vì từ khi nào cho phép anh làm tất cả với thân thể nàng những gì anh muốn, không bao giờ nàng biết trước được điều gì sẽ đến tiếp theo.

Anh đột ngột đứng dậy, đưa tay cho nàng và kéo nàng về phía rừng. Nàng chạy sau anh. Như lúc nàng đứng lên. Váy rơi xuống ngang thắt lưng, cái nịt vú trong tay, ngực trần, nàng chạy sau anh. Họ chạy không xa. Họ dừng lại ngay sau cái cây đầu tiên. Anh cởi áo, rải lên cỏ và nhẹ nhàng đặt nàng nằm trên đó. Anh hôn môi nàng, rồi lướt dần xuống dưới. Nàng đã quên là họ đang ở bãi đỗ xe, nàng đã quên rằng họ có thể bị nhìn thấy từ phía đường rừng. Nàng đã quên tất cả. Vì đơn giản là ở bên anh, nàng quên hết. Nhất là khi anh hôn nàng vào nơi đó.

Anh trở lại môi nàng. Đúng lúc ấy có một ô tô đi đến bãi đỗ xe. Họ im lặng và nằm không động đậy. Nàng quay đầu và nhìn thấy rất rõ. Một người đàn ông thấp bé mặc comple từ trong xe ra, đến cốp xe, nghiêng người, họ nghe thấy tiếng rống và trông thấy một sơi dây to dính đầy dầu. Người đàn ông nhìn quanh bãi đỗ xe, kiểm tra lại xem có ai không. Sau đó ông ta đến một cái cây gần nhất, kéo theo con chó kêu ăng ẳng. Ông ta quấn sợi dây mấy vòng vào thân cây rồi vội vã quay về ô tô.

Những gì đã xẩy ra, suốt đời nàng không thể quên. Andrzej bứt ra khỏi nàng và cứ thế đứng dậy. Anh kéo quần, chạy như điên qua các bụi cây về hướng lối ra của bãi đỗ xe. Nàng đứng dậy, lấy váy che ngực và chạy theo anh. Andrzej cúi người nhặt một viên đá. Anh chạy ra đường trước cái ô tô đang lao tới. Anh dừng lại và ném đá. Một tiếng kêu và tiếng phanh rít lên. Anh nhào vào đầu xe. Chiếc ô tô dừng lại. Andrzej rời đầu xe và kéo cửa, sau đó anh lôi gã lái xe đang kinh hoàng ra.

- Mày, một thằng đê tiện, làm sao mà mày có thể để nó lại đấy?! Làm sao hả?!

Anh lôi gã kia về phía cái cây và nhắc đi nhắc lại trong nước mắt “làm sao mà mày có thể”.

Cảnh tượng thật rùng rợn. Andrzej bị chảy máu, ô tô bị vỡ cửa kính với những vệt máu trên nền sơn trắng đứng giữa đường, những mảnh kính, tiếng chó sủa tuyệt vọng, tiếng còi ô tô inh ỏi của những lái xe đang sốt ruột.

Một xe cấp cứu cũng xuất hiện. Andrzej đã lôi được nạn nhân của mình đến bên cây. Con chó nhìn thấy chủ nhảy lên mừng rỡ.

Anh đẩy gã đàn ông về phía con chó và nói rất nhỏ, dường như là với chính mình hơn là với ai đó:

- Thằng đê tiện, làm sao mà mày có thể để nó lại đây như vậy được.

Mệt mỏi, anh ngồi xuống cỏ, bên gốc cây và khóc.

Mắt anh đẫm nước mắt, như buổi tối Giáng sinh ấy, bên khu đổ rác.

Nàng ôm anh và khoác cho anh chiếc sơ mi. Toàn thân anh rung lên.

o O o

Những gì xẩy ra sau đó ở bãi đỗ xe ven rừng, cho tới bây giờ vẫn khiến nàng run rẩy. Cảnh sát đến. Lái xe của chiếc ô tô bị thiệt hại buộc tội Andrzej âm mưu giết người. Cũng thời gian đó, những lái xe đang bị tắc đường mới biết vì sao có con chó bị buộc mấy vòng vào cây. Điều đó gây nên một cơn phẫn nỗ thực sự đối với chủ của con chó. Một cụ già bước tới, đưa một hộp các tông đầy tiền về phía Andrzej và nói:

- Chúng tôi quyên góp từ tất cả mọi người đang chờ xe để cháu trả tiền sửa xe cho .. cái người kia.

Những viên cảnh sát im lặng.

Một giờ sau thì đường thông. Họ ngồi sát bên nhau, trong im lặng, bên gốc cây, trên đám cỏ bị con chó làm nhầu nát, con chó đã được các cảnh sát đưa về trại giữ chó vô chủ. Lúc đó Andrzej bắt đầu nói. Giọng anh đều đều, bình tĩnh. Gần như vô cảm.

- Khi anh vừa lọt lòng, mẹ anh, vẫn còn đang chảy máu và hai bầu vú khổng lồ đang căng sữa, đã gói anh trần trụi vào một cái túi mà bà vẫn dùng để đi mua thịt ở góc phố rồi đem ra khu đổ rác. Giống như em với những cái xô rác ấy. Đó cũng là tối Giáng sinh. Bà đặt anh cạnh đống rác thải, những vỏ chai rượu, những băng vệ sinh đỏ máu và bỏ đi. Nhưng anh đã gặp may. Bà ta có tểh cho anh vào một cái bao như bao đựng khoai tây chẳng hạn. Những cái bao như thế thì ngay cả chuột cũng không thể đánh hơi thấy. Nhưng cái bao của anh lại là bao đã dùng để đựng thịt, cho nên một con chó đã ngửi thấy. Thân nhiệt anh lúc ấy chỉ còn ba mươi ba độ. Nhưgn anh đã sống sót. Giờ thì em đã biết, anh biết ơn lòai chó biết chừng nào. Không bao giờ anh quên ơn chúng.

- Nàng nhớ lúc đó nàng ngồi cạnh anh, người như tê liệt vì những gì vừa nghe tấhy, và nàng phân vân vì sao chính lúc ấy nàng không cảm thấy đồng cả, sự tức giận hya lòng hận thù. Thậm chí cả tình yêu. Nàng đã chỉ cảm thấy sợ hãi. Một nỗi sợ sinh học thông thường. Nàng sợ rằng con người này có thể có một lúc nào đó sẽ biến mất khỏi cuộc đời nàng.

Anh đã đến khách sạn Holiday Inn qua "Đại lộ Những người bắn tỉa". Anh đưa cho một anh bạn phóng viên Hãng CNN bức thư gửi nàng. Anh quay lại, quyết định đi qua chợ để mua dâu tây, lọai quả mà anh rất thích. Bom đã xé tan tan anh ở khu vực phía nam của chợ, khi anh trở về, vừa đi vừa ăn dâu tây trong cái túi màu xám.

Tháng tư năm 1992 những người Serbi bao vây Sarajevo. Khi rút bỏ sự vây hãm vào tháng Chín năm 1995, họ đã để lại hơn mười ngàn người bị giết, trong đó có một ngàn sáu trăm trẻ em. Trong số những người bị giết, có cả người Ba Lan.

Anh nói với nàng rằng anh muốn đến đó, vào một tối tháng Bảy năm 1993. Họ ngồi trên những tảng đá bên bờ biển Ustka, uống rượu vang và ngắm nhìn những vì sao. Anh nắm tay nàng, áp lên môi và nói:

- Hãy cho phép anh... Anh cầu xin em đấy.

Anh xin trưởng khoa cho nghỉ phép. Không cho bất cứ ai biết. Sau một cuộc điện thọai của một người bạn, anh đi Berlin và từ đó đến Sarajevo nhờ một chuyến vận tải hàng nhân đạo. Ba tuần sau, PAP (hãng thông tấn Ba Lan) phát đi những bài phóng sự của anh về hầu hết mọi sự kiện ở Sarajevo. Với Marta, anh là một vị anh hùng, nhưng cô không thể tự hào được. Cô sợ. Lúc nào cô cũng sợ hãi tột độ. Xem những bản tin và những tấm ảnh về Sarajevo, cô có cảm giác như xem những bản tuyên án Andrzej.

Anh viết cho nàng. Hàng ngày. Những lá thư được gửi đi khi thì từ Berlin, khi từ Viên, thỉnh thỏang lại từ Bruksel. Nhưng thông thường nhất là từ London. Ở Sarajevo anh kết bạn với những phóng viên hãng CNN sống trong Holiday Inn, và chính họ đã mang những bức thu anh đi gửi từ những nơi kia.

Khách sạn Holiday Inn thực sự là một chốn linh thiêng được người Serbi để dành. Các phóng viên của những đài phát thanh và truyền hình lớn nhất Tây Âu đều ở đó và chính thế mà pháo binh vẫn còn chừa lại tòa nhà này. Nhưng các vùng khác thì không. Hòan tòan ngược lại. Ở những nơi đó có thể bị giết. Đại lộ mà có Holiday Inn ngự tọa, mang cái tên rất dữ "Đại lộ Những người bắn tỉa". Những người Serbi ở đó thậm chí bắn cả những con chó trụi lông. Nhưng chỉ đến mùa đông 1993-1994. Sau đó không còn một con chó nào. Tất cả chúng đã bị ăn thịt.

Andrzej viết cho nàng về người đàn ông bị mất cả vợ và ba đứa con gái vì trúng lựu đạn sau đó đã phát điên. Anh làm cho mình một cái mũ bằng báo và đi dạo trên "Đại lộ Những người bắn tỉa" vì tin là đội mũ bằng báo sẽ được an tòan. Anh đứng ở gần và nhìn thấy họ chọc thủng ông ta chỉ sau mười lăm giây – anh viết.

Anh viết cả về những địa điểm khác và những cái chết khác. Ví dụ như về một nữ cảnh sát, chỉ huy giao thông trên đường phố ở Sarajevo. Lúc nào cũng trang điểm rất kỹ, lúc nào cũng trong bộ sắc phục được là cẩn thận và cái váy bó sát người một cách đặc biệt. Chị ấy đứng ở ngã tư và điều khiển giao thông. Cả những lúc không còn người đi lại. Để mà điều khiển. Đó là cuộc chiến đấu gọi là giả bình thường, để chống lại chứng điên. Chị ấy đã chết trên đường phố vào một ngày nào đó.

Hoặc về nhóm tứ tấu đàn dây, đã chơi để gây quỹ cho nhà thờ. Trong nhiệt độ mười bảy độ âm và bên ánh sáng của những ngọn nến. Beethven, Mozart, Grieg. Và lựu đạn nổ bên cạnh.

Nhưng họ vẫn tiếp tục chơi. Đến hết – anh viết.

Chính sau buổi hòa nhạc đó nàng đã nhận đựơc bức thư tình hay nấht mà nàng có thể tưởng tượng ra. Anh nghe trong nơi trú ẩn với những Natalie Cole và viết:

Ada thân yêu

Có những ngừơi viết những dòng như thế này khi họ mười tám tuổi, có những người sẽ không bao giờ viết nữa những dòng như thế này, có những ngườii coi những dòng như thế này khi muốn chuyển đi một tin tức nào đấy.

Vì họ yêu và họ ích kỷ. Anh là một kẻ ích kỷ như vậy. Cho nên anh viết những dòng này. Cho nên nah viết những dòng này.

Và anh sẽ luôn như vậy.

Anh nhớ, hoặc là anh nhớ lại, thường là những chi tiết không thường nhật trong cuộc sống của chúng ta.

Không thể quên được, "Unforgetable"…

Mái tóc óng ả của Em trên má anh, ánh mắt, những đụng chạm, hơi thở của Em, làn môi mọng của EM, khi chúng ta bắt gặp làn môi anh trên tàu điện vào buổi tối hôm ấy, và sự nôn nóng của chúng.

Anh nhớ mùi da thịt em, nhớ cái lưỡi không yên của Em trong miệng anh, hơi ấm nơi bụng Em dưới tay anh, hơi thở, sự thú nhận, sự dân hiến, không xấu hổ, niềm khát khao, sự mãn nguyện…

Không thể nào quên "Unforgetable, that's what you are…"

Và những khỏanh khắc ngắn ngủi, khi anh cảm thấy Em cũng đang cảm nhận như anh…

Khi Em thấy tự hào vì những gì anh đạt được, khi Em ghen với cả những cô gái mà thậm chí họ chưa hề gặp anh, khi em gọi điện chỉ để gọi, không vì một lý do gì, vào thứ hai hoặc thứ sáu và nói: em khâm phục anh rồi em xấu hổ đặt máy.

You fell the same way too…

Anh nghĩ rằng chúng ta là không thể chia cắt…

Rằng đơn giản là như thế và sẽ như thế mãi mãi.

Rằng nếu như anh được ghi lại trong trí nhớ Em, bằng một ngày nào đấy, một kỷ niệm nào đấy thì sẽ như vậy, như thể trở về một cái gì đó, cái thực sự không tách rời. Đơn giản là chỉ dịch chuyển về phía cuối hàng của những con người cụ thể.

Và sẽ đến một ngày, có thể sau nhiều năm nữa, khi Em kéo anh ra khỏi hàng người - chỉ trong vài phút – lên đầu hàng và nghĩ " Phải, chính là Andrzej ấy…"

Không phụ thuộc vào điều gì sẽ xảy ra, Em sẽ quyết định thế nào, và anh tưởng như chúng ta không bao giờ bị chia cắt.

"Inseparable"…

Điều đó sẽ đến nhẹ nhàng và bất ngờ.

Anh đọc sách, đánh răng hoặc viết một bài phóng sự tiếp theo. Đơn giản là nó sẽ đến.

Anh bỗng nghĩ đến sự can đảm của Em hoặc đến những điều mà em mới viết, hoặc về đôi mắt Em, chúng mới đẹp làm sao, hoặc về cái váy của Em mà anh dẫm phải khi dậy khỏi giường trong bóng tối, hoặc về những núm vú của Em, hoặc về bài thơ mà anh chưa kịp đọc thầm bên tai Em, hoặc về bản nhạc mà anh muốn được nghe cùng Em, hoặc là chỉ về cơn mưa mà chúng mình đã gặp, khi chúng mình ngồi ở đâu đó dưới gốc cây và anh có thể che cho Em…

Và những khi nghĩ như vậy, anh nhớ Em đến đau đớn, đến phát khóc lên được. Và anh không dám chắc, có phải anh buồn vì nhớ Em đến vậy, hay anh sung sướng vì được nhớ Em.

Andrzej

Sarajevo, 18 tháng Hai 1994

Vào tháng Năm năm 1994, Andrzej ra chợ mua dâu tây, lọai quả mà anh rất thích. Và bom đã cắt ngang cuộc đời anh. Họ chôn cất anh trong một nghĩa trăng ở Sarajevo.

(tiếp theo)

Nàng nhớ.

Nàng nhớ anh không nguôi. Ngòai khát, nàng chỉ còn cảm nhận một điều này: nhớ. Nàng không thấy lạnh, không thấy ấm, không thấy đói. Chỉ nhớ và khát. Nàng chỉ cần nước và sự cô đơn. Chỉ có trong cô đơn nàng mới được chìm đắt trong nỗi nhớ ấy như nàng muốn.

Ngay cả giấc ngủ cũng không cho nàng tạm nghỉ. Nàng không nhớ, vì khi ngủ ngừơi ta không nhớ. Nàng mơ thấy nàng nhớ anh. Nàng thiếp đi trong nước mắt và thức dậy cùng nước mắt.

Bạn bè của nàng biết điều đó. Họ không cho nàng bất cứ một lời khuyên nào. Họ là những người bạn quá tốt. Và họ hiểu nàng quá rõ. Chỉ duy nhất có một điều mà họ có thể làm được, đó là bứt nàng ra khỏi nỗi nhớ đó trong vài tiếng. Rạp chiếu phim, điện thọai, những cuộc đến chơi không báo trước, những lần bỗng nhiên vứt bọn trể nhờ nàng trông hộ. Chỉ cốt sao để nàng không nghĩ ngợi. Họ tổ chức những bữa tiệc quan trọng mà thực ra chẳng có lý do gì, chỉ để có cớ kéo nàng ra ngoài. Cho dù chỉ vài tiếng.

Nàng đến chỗ họ can đảm và tươi cười, mặc dù chính nàng không thể nhìn những kẻ tươi cười. Nàng mang hoa tặng họ, họ cắm chúng vào bình, và nàng đã nhìn thấy chúng tàn héo.

Nàng chú ý không mang đồ màu đỏ. Kể cả trên người, kể cả dưới mắt. Nàng liên tục tập trung tư tưởng. Đến giới hạn. Nàng hết sức tập trung để không biểu lộ nổi đau. Nàng chỉ cười bằng mặt. Nàng lặp lại nụ cười vì những người khác. Có thể nhận thấy điều đó, vì thỉnh thỏang nàng bị chậm.

Nàng không than vãn. Không bao giờ nàng nhắc đến anh. Nàng không muốn nói về anh với bất kỳ ai. Chỉ một lần, một lần duy nhất nàng vỡ ra như một vết sẹo còn non.

Đó là vào ngày lễ đặt tên của Marta. Vì nhờ có Marta mà nàng gặp được Andrzej. Nếu không có cái ngày mà Marta quyết định lấy chồng thì nàng đã không gặp được anh.

Ngày hôm đó, không thỏa thuận gì với nàng, Marta đặt một chiếc taxi. Thế thôi. Có ai đó bấm chuông. Nàng mở cửa. Người lái xe trẻ đưa cho nàng mảnh giấy. Nàng nhận ra chữ Marta. Bọn mình đợi cậu. Người lái xe taxi hiểu la anh ta không được phép đi mà không có cậu. Marta.

Nàng trang điểm, uống một mạch hết hai ly vang đỏ, "để lấy can đảm", lấy quà tặng dành cho Marta và đi. Họ ôm nhau thân thiết lúc gặp. Marta nói nhỏ vào tai nàng:

- Lễ đặt tên mà không có cậu thì còn gì ý nghĩa. Mình thực sự rất mừng vì cậu đã đến.

Marta giới thiệu nàng với mọi người. Trong số khách mới có một giáo sĩ trẻ. Marta nhắc lại có một lần, khi đang làm một phóng sự cô đã quen với anh ta – khi đang làm một phóng sự cô đã quen với anh ta – Marta là phóng viên của một tuần báo – và rằng anh ta rất "hay". Chàng giáo sĩ kh6ong rời nàng nửa bước. Không hề "hay", cho dù chỉ trong một phút. Anh ta cao ngạo, trí thức một cách hời hợt và sùi bọt quanh mép vì nói liên tục về bản thân và về cái "đã đưa anh ta đến với sự thật và với Người". Nàng không thể tự gỉải thóat khỏi anh ta. Kể cả cuộc chạy trốn vào toilet cũng không giúp gì được nàng – anh ta chờ ngay ngòai cửa. Nàng vừa ra, anh ta đã tiếp tục nói. Chính xác ở đúng chỗ mà nàng tách khỏi anh ta để vào toilet.

Khi anh ta bắt đầu nói đến "cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ vô nghĩa vùng Balka" thì nàng biết là đã đến giờ phải về nhà. Nàng nông nóng đưa mắt tìm Marta để tạm biệt. Bỗng nàng nghe thấy một câu không thể tin nổi, được nói bằng một giọng biến điệu rất kịch của tay phụ lễ nhà thờ:

- Chúng ta không mất Andrzej. Chúng ta chỉ có thêm một thiên thần mới. Em cũng cần phải nghĩ như vậy.

Nàng quay phắt đầu lại. Nhìn thấy tay hắn đặt như đang cầu nguyện, thấy ánh mắt của một kẻ lên mặt đạo đức cái gì cũng biết và cái miệng khả ố sùi bọp mép. Nàng không kìm nén được. Quẳng cái ly xuống sàn nhà, nàng tiến sát vào mặt hắn và nói:

- Quả bóng chày này, anh biết gì về sự mất mát?! Biết gì hả?! Anh đã nhìn thấy Andrzej lần nào chưa, dù chỉ là một lần duy nhất?!

Nàng gào lên. Gào như thể bị thần kinh. Mọi ngừơi trong phòng lặng im và quay đầu về phía họ.

- Anh có biết rằng tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả cái đám thiên thần khón nạn của anh để lấy một giờ được gần anh ấy không? Chỉ một giờ, một giờ duy nhất?! Để nói với anh ấy những gì mà tôi chưa kịp nói. Anh, cái quả bóng chày kia, anh có biết rằng đầu tiên tôi sẽ nói với anh ấy cái gì không?! Đầu tiên tôi sẽ nói với anh ấy rằng tôi vô cùng tiếc tất cả những tội lỗi mà tôi chưa kịp thực hiện với anh ấy?! Không?! Anh không biết được điều đó! Anh, nhà tiên tri đang đi học và vị cứu tinh nghiệp dư, anh không biết được điều đó?! Nhưng anh biết tôi cần phải nghĩ gì?!

Nàng im lặng. Lấy tay che mặt. Người rung lên như bị động kinh. Trong phòng tuyệt đối yên lặng. Nàng đột nhiên bình tĩnh lại, với túi, quàng qua via, lôi ra cái khăn lau bằng giấy và làm một động tác vòng quanh miệng vị giáo chủ đang đời người ra vì tất cả những chuyện vừa rồi. Nàng ghê tởm ném cái khăn giấy trắng xuống nền nhà rồi vội vã ra đi.

Nhưng chỉ có lần ấy. Một lần duy nhất. Không bao giờ nàng gây náo động trong bất cứ một bữa tiệc nào nữa. Nàng được mời, nàng đến. Bỗng nhiên mọi người nhận ra là không thấy nàng đâu nữa. Nàng đi ra, không nói với bất cứ ai và nàng hối hả về nhà, thường là bằng taxi, để vùi đầu vào gối của mình và khóc trong yên lặng. Vì nàng thực sự chỉ muốn uống và nhớ. Và đôi lúc nàng cũng muốn chết. Tốt nhất là bị phát bệnh do những kỷ niệm.

Nàng kéo bàn máy tính sát gường. Để gần hơn và để không làm lộn xộn các thứ trên sàn nhà, khi bỗng nhiên nàng thèm đọc thư anh. Vì nàng đã ghi tất cả thư anh trong máy tính. Hai trăm mười tám bức thư anh đã gởi cho nàng. Nếu nhưc cả căn hộ của nàng bị cháy, nếu như máy tính của nàng biết mất, nếu cái nhà đáng ghép bên cạnh khu đổ rác đẹp nhất thế giới này sụp đổ, thì cho dù vậy cái dĩa mềm với những bức thư của anh vẫn được an tòan trong ngăn tủ sắt ở nhà Marta.

Nàng thức dậy chính xác vào ba giờ sáng. Đêm nay cũng thế. Và cả đêm qua. Và mỗi đêm trong số năm trăm ba mươi tám đêm trước đêm hôm qua cũng thế. Chính xác vào ba giờ sáng. Bất kể mùa đông hay mùa hè. Vào lúc ba giờ sáng Marta gõ cửa và báo với nàng rằng Andrzej đã chết. Cô nhìn xuống sàn nhà, nói câu này:

"Andrzej đã chết vì bom trong chợ ở Sarajevo".

Chính xác vào ba giờ sáng. Gần hai năm trước đây. Vào tháng Năm năm 1994. Vì vậy mà trên tường nhà nàng treo cuốn lịch từ năm 1994, mặc dù bây giờ đang là 1996. Vì vậy mà bản sao Những cánh đồng anh túc của Monet trên cuốn lịch từ năm 1994 luôn chào đón nàng mỗi khi nàng mở cửa để về nhà mỗi ngày. Andrzej rất thích Monet. Chính anh đã treo cuốn lịch đó lên tường. Lệch và hơi thấp. Nàng nhớ họ đã mâu thuận nhau về chuyện này, vì anh cho rằng "quá chuẩn" và "chẳng qua là do em giữ". Nàng bắt đầu cáu anh.

Anh buồn bã ra ngòai. Và quay lại sau một tiếng. Với hoa, kem vani, thứ mà nàng cực thíhc, và một túi dâu tây cho anh. Nàng ăn kem và đã không kịp ngay cả kéo anh lên giờng. Họ yêu nhau ngay trên sàn nhà, cạnh bức tường có treo cuốn lịch. Sau đó khi họ đã mệt nhòai, anh cứ khỏa thân đứng dậy, vào bếp lấy búa và đến chỗ cuốn lịch.

- Anh đừng làm bây giờ. Ba giờ sáng rồi còn gì. Hàng xóm họ sẽ bóp cổ chúng ta mất. Với lại em muốn nó cứ treo như thế. – nàng thầm thì và hôn anh.

Chính vì vậy mà cuốn lịch đó sẽ luôn treo lệch và hơi thấp, chính vì thế mà không bao giờ nàng sơn lại bức tường đó. Không bao gìơ.

o O o

Với nàng anh như một vị linh mục.

Đúng như thế. Nàng nhớ rằng từ một thời điểm nhất định nàng đã không thể gọi khác hơn.

Chỉ có một lần thóang qua nàng thấy điều đó là ngạo mạn và vô lý. Nàng nghĩ về điều đó chính vào lúc họ nằm ôm nhau, khỏa thân và nhớp nháp mồ hồi, anh thầm thì vào tai nàng tất cả các sách phúc âm về tình yêu, còn nàng cảm nhận cùng với mỗi câu thì thầm hai đùi nàng lại bị tách dần ra bởi cái biểu tượng đàn ông của anh.

Vị linh mục đang cường dương.

Có thể đó là tội lỗi, là báng bổ thần thánh, là vô đạo, nhưng đúng là khi ấy nàng đã cảm thấy thế.

Khi đó anh là trung gian – chính là linh mục – giữa một cái gì đó huyền bí, cần thiết và nàng. Vì tình yêu chính là huyền bí và cần thiết và cũng có sách phúc âm của nó. Cũng có lễ ban thánh thể của nó – khi người ta tiếp nhận vào cơ thể mình cơ thể của ai đó.

Chính vì vậy mà với nàng anh như một vị linh mục.

Khi anh mất đi, nàng không thể hiểu được mục đích ham muốn nhục thể và nữ tính của mình. Để làm gì? Dành cho ai?

Để làm gì bầu vú của nàng, nếu anh không còn chạm tới và chúng không cho các con của anh bú nữa?

Nào, để làm gì?

Nàng căm ghét chính bản thân mình, khi những người đàn ông nhìn vào ngực nàng, khi vì sơ ý mà nàng không giấu chúng dưới lần áo lên đen mà lại mặc một cái sơ mi quá chật. Vì rằng bầu vú này là chỉ dành cho anh. Và cho các con anh.

Nàng đã quyết định như vậy.

Chính vì vậy mà ba tháng sau cái chết của anh nàng muốn cắt bỏ chúng.

Cả hai.

Ý nghĩ đó đến với nàng vào một đêm nào đấy sau khi nàng thức giấc vì một giấc mơ khủng khiếp về Sarajevo, trước kỳ kinh nguyệt, khi mà cảm giác nằng nặng và đau ở bụng dưới nhắc với nàng rất rõ về sự tồn tại của mình.

Tất nhiên là nàng đã không làm điều đó. Vì nó quá tàn nhẫn. Nhưng làm cho chúng nhỏ lại, xua đuổi như xua đuổi những ung nhọt. Nàng khô héo.

Bằng cách nhịn đói.

Nàng gầy 1154 nhất vào buổi sáng. Nên các buổi sáng không đến nỗi đáng sợ lắm. Sự gầy gò của nàng như một niềm vui nho nhỏ, như một thắng lợi nho nhỏ trước sự nhẫn tâm của một ngày bắt đầu bằng việc vầng mặt trời chết tiệt đánh thức vạn vật đến với sự sống, bằng sự tươi mới của mình, bằng những giọt sương trên cỏ và bằng hai mươi tư giờ vô tận phải trải qua.

Bằng cách nhịn đói. Nàng khô héo…

Nàng gầy đi.

Nàng mở cửa. Marta. Cô nói rằng cô sẽ không đi một bước nếu nàng không đến bác sĩ.

- Cậu nhìn kìa – cô chỉ cái ba lô vừa hạ xuống - ở đó có đồ ăn cho ít nhất là hai tuần. Nước thì vòi nhà cậu có sẵn. Ở với tớ sẽ rất khủng khiếp đấy. Đấy là chưa kể đến cái tật ngáy của tớ.

Nàng cười. Nàng đi cùng với Marta. Chỉ vì Marta. Tự nàng luôn làm tất cả vì Marta.

- Anorexia nervosa – bác sĩ tâm lý, một ông già gầy một cách đáng sợ với mái tóc dầy trắng như tuyết, nói. – Bác sẽ viết cho cháu giấy giới thiệu đến nhà ăn sinh viên – ông nói thêm, vừa viết rất vội cái gì đó vào sổ.

- Đến nhà ăn? – Marta đáp lời, cô ấy cũng ngồi trong phòng khám. Vì nàng chỉ đồng ý nói chuyện với bác sĩ với điều kiện đó.

- Xin lỗi – ông cười – đến khu điều trị rối loạn dinh dưỡng. Nhưng cho dù thế thì phải một năm sau người ta mới nhận cháu. Ở đó xếp hàng khiếp lắm. Bệnh này bây giờ đang là mốt mà. Cháu phải kiên nhẫn mới được.

- Cháu không cần bất cứ một giấy giới thiệu nào – nàng khẽ phản đối.

Bác sĩ nhấc đầu lên khỏi cuốn sổ, ngồi lại cho thoải mái hơn trong ghế.

- Cháu đã hành động dở. Rất dở. Liệu bác có phải nói cho cháu biết những gì sẽ đến với cháu trong vài tuần tới, vài tháng tới không? Bác có phải cho cháu biết rằng máu của cháu sẽ loãng như nước lã, rằng chỉ một vết thương nhỏ cũng dẫn đến xuất huyết ồ ạt? Rằng cháu sẽ bị gãy các ngón tay, có khi cả bàn tay và thậm chí cháu không nhận thấy? Rằng cháu sẽ bị rụng lông? Tất cả. Trên đầu, ở nách, ở mu. Có phải nói về chỗ nước đang tích dần trong phổi cháu? Về việc cháu sẽ bị mất chu kỳ kinh nguyệt và coi như tử cung bị cắt bỏ? – Ông nhìn vào tờ giấy ghi mọi thông tin của nàng. – Và tất cả vào tuổi hai mươi tám?

Ông đẩy tờ giấy ra.

- Nhưng cháu không muốn giấy giới thiệu. Cháu muốn mình giống một con chuột xám hôi hám. Cháu muốn mình trở thành nhỏ bé, không quan trọng, vô nghĩa. Nỗi thất vọng nào đã đẩy cháu đến chỗ, cháu không muốn làm một phụ nữ? Bác không biết nó ra sao, nhưng bác biết rằng không một người đàn ông nào, thậm chí cả người đã chết, lại muốn điều ấy. Vì cháu quá đẹp.

Marta khóc. Cô đứng dậy và ra khỏi phòng khám.

Nàng nhìn bác sĩ choáng váng. Ông đã thôi không nói. Ông quay đầu nhìn ra cửa sổ.

Nàng ngồi run rẩy thiểu não. Một lúc sau, không ngước mắt lên, nàng nói:

- Liệu bác sĩ… tức là… liệu bác có thể viết cho cháu cái giấy giới thiệu ấy?

 

 Mời các bạn theo dõi tiếp!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/39612


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận