Nghe phong thanh tàu sắt Mỹ kéo tới để tóm cổ bằng được tên “Vi Xi” Ba Phi, tao đổ quạu :
- Muốn diệt tao à, không dễ đâu.
Sau mấy ngày suy nghĩ đến nát óc, tao cũng nghĩ ra cách để chống lại ý định của bọn chúng. Tao liền rủ thằng Đậu đi thẳng tới lò rèn quen trong xóm, nhờ ông chủ rèn nối lại mười lưỡi cưa sắt thật dài. Vốn rất nể nang tao, ông thợ rèn hì hục làm gấp mà không hỏi han gì hết.
Cuối cùng, số lưỡi cưa sắt được nối xong. Tao bèn biểu thằng Đậu phụ tao một tay mang số lưỡi cưa ra sông Ông Đốc. Hai ông cháu tao lại è ạch chèo xuồng chở mớ cưa sắt đi. Tới nơi, tao chỉ cách cho thằng Đậu làm, mang lưỡi cưa sắt ra căng xéo ngang sông Đốc, khúc quẹo vàm Rạch Lùm.
- Nhớ day hướng răng lưỡi cưa ra mé biển đấy. – Tao dặn thêm thằng Đậu.
Cứ thế, ông cháu tao tiếp tục căng cho hết mấy lưỡi cưa còn lại, mỗi lưỡi cách nhau mười thước ngập dưới mặt nước độ một gang tay. Như vậy, trận địa đã được bố trí xong, dài đâu khoảng một trăm thước. Dưới sông đã xong, giờ lo chuyện trên bờ.
Tao với thằng Đậu đi thu lượm hết những mảnh lưới rách trong làng, và cắt một đống dây chuối khô đem về. Sau đó, ông cháu tao mang lưới rách và dây chuối khô ra cột khắp trên các ngọn cây cao ở hai bên bờ sông. Còn lại mấy khoảng đất trống, tao dùng mớ tầm vông vạt nhọn, cắm nhô lên dày đặc khắp nơi.Sáng hôm sau, tao dẫn thằng Đậu ra bờ sông tìm một địa điểm an toàn để núp và chờ đợi. Mặt trời vừa nhô lên cỡ một sào, thì bọn Mỹ từ ngoài hạm đội, cho mười chiếc tàu sắt chở một tiểu đoàn, súng cầm tay lăm lăm sẵn sàng nhả đạn vào hai bên bờ. Chúng rú hết ga tiến thẳng về phía sông Đốc. Tới ngã ba Vàm, chúng cho tàu quẹo ngay vào. Tao nhổm dậy, căng mắt ra nhìn. Một tiếng kêu rởn tóc gáy, chiếc tàu sắt của Mỹ bị lưỡi cưa của tao tiện ngọt xớt phần dưới nước chừng một gang tay, chiếc tàu rung lên dữ dội, tuy nhiên nó vẫn còn trớn lao vút tới trước như tên bắn. Đến lúc hết trớn, tàu từ từ chạy chậm lại, còn lại khung thành tàu phía trên lỡ trớn chạy tới được vài chục thước thì chìm dần, bọn lính lọt hết xuống sông, lội bì bõm như chuột mắc nước. Rồi chiếc thứ hai, thứ ba... đến chiếc thứ mười cùng chung số phận.Nhìn cảnh bọn chúng nháo nhào mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, hai ông cháu tao núp trong lùm cười đến suýt nữa là bể bụng.
Ếch đờn vọng cổ
Tui có bầy vịt, hễ bum búp lông cánh là lần lượt mất sạch trơn. Tức quá, rình mò mấy bữa, tui mới biết là bị ếch ăn. Chỗ đuôi đìa, dưới gốc bụi tre có một hang ếch lớn quá cỡ.
“Ăn thịt vịt tao thì mầy phải đền mạng”. Nghĩ vậy, tui mới lấy sợi dây thép quai thùng dầu hôi uốn thành một lưỡi câu, lấy sáu sợi dây chì bện lại làm nhợ, một đầu buộc con vịt xiêm vừa ra ràng, một đầu buộc vào bụi tre.
Mặt trời lên độ một con sào. Tui ngồi rình, thấy một con ếch bà từ trong gốc tre lù lù lội ra. Con ếch thấy con vịt, men lại ngửi ngửi rồi lắc đầu, bỏ đi. Biết nó chê con vịt này còn hôi lông nên chưa chịu ăn. Bữa sau, tui đổi một con vịt mái đang đẻ, mập sà đích (mông). Hừng sáng là tui cũng đến chỗ hôm qua ngồi rình.
Cũng đến lúc mặt trời lên độ một con sào, con ếch bà đó lại cũng vạch bèo lội ra. Trông thấy con vịt ta mập ú, nó ngó dáo dác, mặt mày hớn hở, gật gật đầu mấy cái. Con ếcn khỏa bèo, hớp nước súc miệng sào sạo, phun ra cái phèo, rồi chồm tới bên con vịt. Nó nhướng mắt, táp bụp rồi nhai rau ráu, nuốt một cái ực. Như vướng phải lưỡi câu, nó nhợn trở ra. Thấy tình thế không xong, tui vụt đứng dậy, la “ếch” một tiếng. Con ếch giật mình nhào ngang, bị lưỡi câu xóc hàm hạ, nó giãy đùng đùng, sáu sợi nhợ câu thẳng băng. Nó lúc lắc cái đầu, sáu sợi dây chì rẽ quạt ra. Hai tay nó quào lia lịa. Sáu sợi dây bật ra những tiếng kêu bổng trầm “tằng tăng, tủng tẳng” khác nhau. Tui ngồi nghe. Sao có chỗ vô sang, ra hò muồi quá ! Một hồi phát ngứa miệng, tui ứng thanh nghe, ca bậy sáu câu vọng cổ chơi...
Ong đánh giặc
Nhớ năm đó, có thằng trung úy mới về đóng đồn ngoài đầu kinh Chín Bộ, nó thường hay dẫn lính vô càn xóm mình lắm, bởi nó mê con út nhà tao, nên hay đi càn vô đặng thăm con Út. Hở ra là xáp vô, nựng má, nựng cằm, thấy mà nổi dịch, làm con Út sợ thất kinh hồn vía. Giận trong bụng, tao mới tìm cách trị cho thằng trưởng đồn dại gái một trận cho bỏ cái tật dê không có văn hóa. Một bận, thằng Đậu lùa trâu về, cái mặt sưng húp vì tội ong đánh. Theo lời của thằng Đậu thì quả có tổ ong cỡ sấp hai cái thúng táo.
- Được, kỳ này cho mấy thầy trò đám lính ngoài đồn biết mùi ong vò vẽ đánh một trận để nhớ đời.
- Nè ông Ba ! Cô Út đâu ?
- Nó xuống biền róc cà bắp rồi !
Thằng đồn trưởng lội xuống biền. Tụi nó đi, tao chưa hút tàn điếu thuốc thì nghe cha con nó la vang trời, tao còn nghe thấy tụi nó phóng xuống kinh đùng đùng, lặn tránh bị ong đánh.
Bị ong đánh một trận tơi bời khói lửa, bỏ luôn trận càn, thằng đồn trưởng biết bị tao cho một vố giận lắm, nhưng không có chứng cớ, nên hận ghê gớm. Sau trận đó không lâu, thì bọn giặc mở nhiều trận càn hơn, lần này thì có thêm xe lội nước và máy bay đầy trời khiến đám du kích xã kham không xuể. Nghe vụ tên đồn trưởng bị ong đánh tơi tả, bỏ càn, thằng Tám FM tìm đến tao nhờ giúp một tay.
- Tưởng chuyện gì chớ ba cái vụ đó là đồ bỏ của Ba Phi, nhưng phải cho tao thời gian khoảng ba tháng để tao gầy ong thêm.
Đúng y như vậy, liên tiếp mấy trận càn, nhờ có mấy chục tổ ong vò vẽ giúp sức rượt đám lính cùng tụi cố vấn chạy vắt giò lên cổ, nên tụi nó hết dám đi càn vùng U Minh. Từ đó, bà con mình mới yên ổn làm ăn.