Tử Xuyên Tam Kiệt
Tác giả: Lão Trư
Quyển 8: Phong hỏa liệu nguyên
-----oo0oo-----
Chương 4
Nhóm dịch: Tú Xuyên
Sưu Tầm by nguoibantot8 --- 4vn.eu
Tử Xuyên Tú nhìn về hướng cửa thành, toàn bộ đội ngũ của gã đã tiến vào trong thành. Gã lại quay nhìn trên đường, tiếng huyên náo cãi nhau càng lúc càng lớn. Tại đây, các bán thú nhân đang đánh nhau. Mấy trăm người nhàn tản trong thành vậy quanh xem, đứng chen chặt đường, một nước cũng không lọt. Một chiếc xe ngựa trong thành khẽ sượt qua y phục của một bán thú nhân chiến sĩ, thì ngay lập tức vị chiến sĩ đó không rú được tiếng nào "ngã lăn ra xỉu." Đồng bạn của tên này lập tức ào lên không chịu, kéo chủ xe xuống hò hét: "Bằng hữu của ta thân thể rất yếu đuối, bị ngươi đụng xe rồi thì phải bồi thường ít nhất bốn chục vạn lượng bạc!"
Trời chuyển sang xế chiều, những đề kháng có tổ chức của ma tộc trong nội thành căn bản đã bị dẹp gọn, nhưng trong đó cũng không thiếu những binh sĩ dũng cảm không buông bỏ đề kháng, chiến đấu từ cửa đông thành sang cửa tây, con đường dài đầy rẫy những đám người hỗn chiến thành từng đoàn.
Những binh sĩ ma tộc lạc lõng đơn đọc cho dù bị hơn mười địch nhân bao vây vẫn cực lực phấn chiến đến cùng, lưng dựa vào tường không ngừng múa vũ khí chống cự cho đến khi ngã gục. Thậm chí còn có mấy chục binh sĩ ma tộc điên cuồng chống cự, chiếm cứ các nhà cửa của cư dân, mượn cửa vào ra nhỏ hẹp thực hiện sự kháng kích cuối cùng, khiến bán thú nhân tấn công bỏ xác rất nhiều ở ngay cửa.
Sự nhẫn nại và ngoan cường của binh sĩ ma tộc khiến bán thú nhân thập phần kinh ngạc. Bọn họ đua nhau cảm thán rằng quân đội ma tộc sở dĩ có thể tung hoành đại lục tự nhiên có chỗ hơn người, chẳng thẹn với mỹ xưng quân đội mạnh nhất trên đại lục. Nhưng thủ lĩnh Tử Xuyên Tú của họ họ lại không có sự tôn nghiêm của vũ giả nào, không biết tôn trọng tinh thần thà là ngọc nát còn hơn đá thường, hạ lệnh cho họ phóng một mồi lửa thiêu chết đám ma tộc binh bất khuất đó.
Chiều hôm đó, chiến đấu trong thành thị đã dừng lại. Nhưng trên đường vẫn trống không, các cư dân không biết đám lưu khấu nào chiếm lĩnh thành thị, không dám ra cửa. Nhưng khi thấy quân khởi nghĩa trật tự đi vào trú trong doanh trại của ma tộc, dọn dẹp thi hài trên đường, không có cử động quấy nhiễu bình dân, các cư dân liền an tâm hẳn. Có người to gan nắm áo nghĩa quân hỏi thân phận, các binh sĩ hồi đáp: "Chúng ta là quân đội của thánh miếu do Quang Minh vương thống soái!"
Lời hồi đáp đó nhanh chóng truyền khắp thành, các cư dân từ chỗ nấp ùa ra, hai bên đường đầy đội ngũ hoan nghênh quân khởi nghĩa, nhất thời tiếng hô "Thánh miếu vạn tuế!", 'Quang minh vương vạn tuế" vang vọng không ngớt.
Cư dân ở đất này phần lớn là bán thú nhân, xà tộc, và một ít ải nhân, tinh linh quái cùng các chủng tộc nhược tiểu. Bọn họ bị ma tộc áp bức đã lâu, đã sớm chờ cơ hội tốt để giải thoát. Đặc biệt là bán thú nhân, từ khi ma tộc tiến phạm vào thánh miếu, bọn họ đã sớm phừng lửa giận đối với ma tộc. Hiện giờ xiềng xích áp bách trên người họ cuối cùng cũng được mở. Các tộc dân đều hoan hô "Vạn tuế!"
Trời về đêm, hàng vạn dân chúng tề tụ ở quảng trường chúc mừng cho thành thị của mình được giải phòng. Từng đống lửa cháy phừng phừng phảng phất như nghìn sao trên trời đã chuyển dời xuống mặt đất. Dân chúng các tộc ca hát nhảy múa, tự chúc mừng cho ngày giải phóng. Trên hội trường đêm, bán thú nhân, xà tộc, long nhân, ải nhân, tinh linh quái cùng các tộc cư dân quên sự khó khăn và xa cách ngày thường, thân mật với nhau giống như người đến từ cùng một nhà. Để khoản đãi cho tử đệ binh của mình, họ lấy từ trong bộ phận lương thực không nhiều gì của mình ra, nấu chín trứng gà, thịt heo, bánh bao dọn lên nườm nượm để úy lạo cho quan binh quân khởi nghĩa. Càng có nhiều dân chúng để úy lạo cho các thủ linh của nghĩa quân đã lao khổ công cao, cấp cho bọn họ những mỹ nữ đẹp nhất.
Đám bán thú nhân quân quan khoái lạc đến nổi quên cả tên mình gọi là gì. Nếu so với sự lê lương của những ngày lưu lãng giữa trời và tuyết mấy hôm trước, thế giới hiện tại đối với họ quả thật là thiên đường. Tuy nhiên, bọn họ tuy vui nhưng không quên nhiệm vụ, vẫn còn nhớ để dành cô nương xinh đẹp nhất cho Tử Xuyên Tú, cử người đến nói với gã: "Điện hạ, hôm nay cực khổ quá rồi, tiến vào trướng bồng nghỉ ngơi đi!"
Tử Xuyên Tú rất nghĩa chánh từ nghiêm chối từ: "Ta thân là thủ lĩnh của nghĩa quân, Viễn Đông còn chưa quang phục, ma tộc còn bạo ngược trên quốc thổ của chúng ta, hàng vạn đồng bào còn trong cảnh lửa bỏng dầu sôi, ta làm sao có thể chìm đắm trong mỹ sắc, chơi bời mà táng thất ý chí được? Ngàn vạn lần không thể!
Chư vị không cần phải nói nữa... Đức Luân, ngươi không được kéo ta chứ, ngươi kéo ta thế nào ta cũng không tiến vào trướng bồng đó đâu! Ta kiên quyết không vào!"
Đức Luân: "Tôi đâu có kéo ngài, ngài cứ túm tạy tôi không thả đó chứ."
Đức Luân vẫy tay ra, không ngờ sáng nay Tử Xuyên Tú còn thượng trận giết định nhanh nhẹn như khỉ lại yếu ớt ngồi đứng không ổn, "loạng choạng loạng choạng" rồi "té" xuống, vừa khéo làm sao là lại "té" vào trong trướng bồng, miệng lại còn càu nhàu inh ỏi: "Các ngươi không được như vậy mà...
Thật là chịu không nỗi các ngươi rôi, các ngươi mà kiên quyết như vậy, thì có cự tuyệt nữa là làm hại đến tình thân thiết của dân chúng với quân khởi nghĩa chúng ta, ta chỉ còn biết gắng gượng mà làm thôi..."
Biểu tình của Bạch Xuyên vô cùng cổ quái, cười cười nhìn Tử Xuyên Tú biểu diễn.
"Miễn cưỡng mà làm thôi..." Nụ cười của Tử Xuyên Tú lập tức cương cứng lại.
Trong trướng bồng, nến hồng cháy rực đầy khí phần lãng mạn ấm áp,, một cô nương ăn mặc quần áo đổ hồng đang ngồi trên giường đối diện. Khi nghe Tử Xuyên Tú tiến vào, nàng chuyển thân lại, thân hình vượt quá một trăm năm chục ký đè cái giường kêu răng rắc loạn cả lên, mặt thì đầy lông, không phân biệt được đâu là lông đâu là bờm. "Cô nàng" ỏn ẻn cười với Tử Xuyên Tú, trên mấy cái kẻ răng to bằng bộ ván ấy còn dính vài miếng thịt và rau xanh.
"Đại nhân, đêm đã khuya rồi, chúng ta còn không nhân cơ hội ngủ sớm đi!" Bán thú nhân cô nương mỹ lệ rất dịu dàng với Tử Xuyên Tú. Nàng ta đúng là "đệ nhất mỹ nữ" nổi tiếng trong vùng.
Lúc nàng mở miệng nói, Tử Xuyên Tú vội nín cả hơi không dám hít thở, từng giọt mồ hôi lớn ứa ra.
Bạch Xuyên khe khẽ gõ tấm vải bố bịt kín cửa trướng bồng: "Đại nhân, xuân tiêu nhất dạ đáng nghìn vàng, đêm nay ngài hãy ráng 'miễn cưỡng mà làm' đi thôi!" Nàng cười lạnh bỏ đi.
"Không được a!" Tử Xuyên Tú phát xuất một tiếng gào thảm tê gan xé ruột: "Bạch Xuyên, cứu ta a!"
Bán thú nhân quân quan nhìn vào cửa trướng bồng đóng chặt, người nào người này hâm mộ tặc lưỡi: "Nếu ta mà là Quang Minh Vương điện hạ đó hả, lúc này không biết sướng đến mức nào đó nha! Nghe kìa, người lại rú lên nữa kìa! Nhất định là khoái lạc quá độ rồi! Ta nguyện giảm thọ mười năm để đổi một đêm như vậy!"
Đêm hôm đó, trong thành có không ít bình dân đua nhau tìm đến các quân quan của nghĩa quân báo danh yêu cầu được đầu quân. Quân quan nói, muốn tham gia nghĩa quân thì cần phải vượt qua khảo hạch, chúng ta chỉ cần những nam tử tráng kiện, tuổi tác cũng phải hạn chế.
Những tiểu hỏa tử liền gấp rút chứng minh ngay đương trường, để chứng tỏ mình mạnh, họ vác một tảng đá to bằng cái đấu luân lưu chuyền tay nhau. Sau khi kinh qua thẩm hạch, Bạch Xuyên đương trường vỗ ghế: "Chọn luôn!"
Sau này, tảng đá này được đặt mãi ở nơi đó, ai muốn tham gia quân khởi nghĩa thì chỉ cần nhấc bổng nó lên là hợp cách. Người đến ứng thí đông nghìn nghịt, thậm chí những kẻ đã râu tóc bạc phơ cũng đến. Khi quân quan vội vã mời họ ra khỏi hàng, các lão đầu này phẫn hận bất bình, ai ai cũng cự cãi: "Ta kỳ thật là có thể nhấc được tảng đá đó... không tin để ta thử cái biết liền... thiệt đó, lúc còn trẻ, cái cục đá cỏn con đó hả, ta một tay có thể nhấc được ba cục!"
Bọn họ cứ rề rà vậy mãi, Bạch Xuyên không còn biện pháp nào, cuối cùng đành nói: "Vậy chờ ông trẻ tuổi lại rồi hãy đến đây a!"
Đến chiều ngày hôm sau, đã có năm nghìn bình dân gia nhập vào quân đội, trong đó đại bộ phận là tá y tộc, một số ít xà tộc và long nhân. Trong trận chiến công thành, quân khởi nghĩa thương vong thảm trọng, sự khuyết thiếu bộ đội phi thường nghiêm trọng, những binh sĩ mới gia nhập bị Tử Xuyên Tú sắp bày, bổ sung vào các bộ đội chiến đấu. Nhân vì hiện giờ là thời kỳ phi thường, không có thời gian và khoảng trống để từ từ huấn luyện số tân binh này, chỉ có thể thông qua chiến trường thực tiễn để bọn họ từ từ thành thục lên.
Chiếm cứ tòa Khoa Nhĩ Ni thành này có thể nói là bước ngoặc thắng lợi cực lớn của quân khởi nghĩa. Điều này có nghĩa là quân khởi nghĩa đã thoát khỏi giai đoạn chiến tranh du kích tránh đông chạy tây. Họ không những có được một thành trì vững chắc làm căn cứ địa, mà còn giải quyết được nguy cơ thiếu lương thực đang đè nặng trên đầu. Ngay ngày hôm sau khi chiếm được thành này, Tử Xuyên Tú đã nhanh chóng thành lập "Chính phủ tự trị của Viễn Đông".
Hậu thế đều cười mà cho rằng: "Năm 781, chính phủ tự trị của Viễn Đông giản lậu đến trình độ nào? Ấn chương của chính phủ được khắc từ củ khoai lang, Quang Minh vương đói rồi gặm hết nửa củ, nửa củ còn lại để dành đóng dấu!"
Đứng đầu về mặt hành chánh của chính phủ do Bố Sâm đảm nhiệm, y cũ chủ quản thêm công tác vệ sinh toàn dân, ngoài ra còn quản lý công tác bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ và thiếu nhi, phía dưới thiết lập cơ cấu các bộ và ti. Bộ trưởng quốc phòng do Bố Lan đảm nhiệm, kiêm luôn tư lệnh quân đoàn I. Tổng tham mưu trưởng của quân đội do Duy Lạp đảm nhiệm, kiêm tư lệnh quân đoàn số II.
Lão bán thú nhân Đức Luân nhàn nhã đến phát hoảng. Tử Xuyên Tú nhận định rằng, chiếu theo tuổi tác của ông ta, xung phong đánh trận không còn thích hợp nữa, và thế là gã thỉnh ông ta cùng đám bán thú nhân lão đầu tử nhàn nhã ngồi lê đôi mách trên đường cùng hợp lại uống trà tán dóc. Để rồi kết quả Tử Xuyên Tú thẳng thừng thành lập một nghị hôi, phong Đức Luân làm nghị trưởng (kiêm nhiệm thị trưởng của Khoa Nhĩ Ni).
Những lão đầu tử khác được hắn thông thông phong làm nghị viên hết, mỗi tháng được lĩnh tiền công, nhiệm vụ chủ yếu là khi Tử Xuyên Tú phát biểu thì vỗ tay và giơ tay biểu lộ tán thành, cũng có thể hoan hô, nói rằng: "Nói hay lắm a!", "Đúng vậy đó!" Nhưng không thể bỏ phiếu phản đối, nếu không thì không được nhận lương. Nhờ thế, mỗi đề án của Quang Minh Vương trình ra nghị hội đều nhanh chóng "Một trăm phần trăm phiếu thông qua", cho đến sau này Tử Xuyên Tú phi thường đắc ý tự sướng về thành công của mình: "Có nghị hội này, chúng ta đã là chính phủ dân chủ rồi! Thuận tiện bớt đi kinh phí xây dựng viện dưỡng lão, sài đáng lắm chứ!"
Chính quyền Viễn Đông mới thành lập phát động chiến tranh với bên ngoài ngay trong ngày: trước khi ma tộc thượng vị kịp phản ứng với tin thất hãm của Khoa Nhĩ Ni thành, Tử Xuyên Tú đã nhanh chóng phái khiển các lộ quân đến các hương trấn xung quanh thành thị đánh diệt các đội thủ bị của ma tộc ở đây, đồng thời công bố rộng rãi tin tức nghĩa quân đã đến.
Cho đến lúc này, Tử Xuyên Tú mới chân chính cảm giác được sự nhìn xa trông rộng của Bố Đan trưởng lão. Sự tàn bạo của ma tộc đã làm thất dân tâm, và sự kiện thánh miếu là giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Tử Xuyên Tú phát hiện, sự tính toán của bản thân trước đó còn có chỗ sai, sự kiện thánh miếu không thể đánh giá dựa trên góc độ quân sự, mà hoàn toàn là một sự kiện chính trị.
Đây không phải là sự được mất của một tòa miếu, và cũng không phải sự thắng bại quy mô nhỏ ở giữa rừng, mà sự tiến phạm của ma tộc đối với thánh miếu đã kích nộ vấn đề tín ngưỡng tông giáo mẫn cảm nhất của dân chúng Viễn Đông.
Tử Xuyên Tú đến bây giờ mới chân chánh lý giải dụng ý khổ sở của Bố Đan trưởng lão. Y biết được sứ mệnh của mình: liều mạng kháng chiến, đứng lên giữa nguy nan, cấp cho hàng nghìn vạn dân chúng Viễn Đông ánh sáng mở đường, điểm lên ánh lửa trong bóng tối trầm luân, đánh thức dân chúng đứng dậy phục quốc.
Làm như thế, mục đích của y đã đạt. Còn việc thánh miếu hay bổn thân y sống chết ra sao, trường kịch chiến đó thắng lợi thế nào, sinh cũng được, chết cũng xong, thậm chí toàn bộ kẻ thủ vệ của thánh miếu đều trận vong toàn bộ, thánh miếu cuối cùng rơi vào tay địch thủ... đều không trọng yếu gì nữa. Điều trọng yếu chính là, sự kháng chiến của thánh miếu cuối cùng đã đánh thức tinh thần của dân chúng, gây bạo phát sự phẫn nộ ngấm chìm bấy lâu nay trong lòng họ.
Tiếng gọi kháng chiến của Thánh miếu vang vọng khắp thôn xóm, thành thị, hương trấn, đồng ruộng, rừng núi Viễn Đông, vang vọng ở mỗi tâm con người. Và thế là, từ chân núi Cổ Kỳ ở phía tây cho đến Lam hà đầy sóng nước xanh, đâu đâu cũng có tiếng hô giết khủng bố... Người khổng lồ cuối cùng đã tỉnh giấc!
Những bán thú nhân trầm mặc ít nói, chịu đựng rất giỏi ấy phảng phất biến hẳn sau một đêm. Một người biến thành hai người, hai người biến thành một đám. Quần thể lại hợp hội với quần thể biến thành đội ngũ, cùng vung liêm đao và gậy gộc đứng dậy quân mình tấn công vào đội thủ bị ma tộc gần nhất. Nếu như bọn họ thắng lợi, bọn họ sẽ chém toàn đội thủ bị đó thành tương thịt. Nếu như họ thất bại, họ sẽ lập tức trốn lên núi, cho đến khi tụ tập nhiều binh mã hơn mới kéo xuống núi lại.
"Bọn chúng đã hoàn toàn biến thành loại người khác!" Các tướng lĩnh trú thủ của ma tộc sợ run. Bọn chúng đã tập quán đối diện với đám dân chúng chịu nghe lời, ôn hòa, dày vò gì cũng chịu. Còn hiện tại, chúng đột nhiên cảm giác mặt đất dưới chân như đang sụp đổ.
Nhân dân đột nhiên biết thành kiêu dũng, không sợ chết, trong khi đó chúng thì sợ! Các đội thủ bị của ma tộc bị đánh khắp nơi, kinh tâm đảm phách, không dám lộ diện. Và thế là chúng vội vã thu binh, hội hợp lại ở những thành thị lớn, và thế là càng có nhiều địa khu hơn bắt đầu tụ tập dân quân và binh mã của phía tự do.
Nếu như đội ngũ khởi nghĩa đã tán phát khắp nơi, thì Tử Xuyên Tú có muốn tập kết những quân đoàn nghĩa dũng cũng chẳng khó khăn gì.
Tiếng đồn truyền đi là có một chi Viễn Đông quân đội phản ma tộc đang trú đóng ở Khoa Nhĩ Ni, thậm chí còn thành lập một "chính phủ", mọi người lập tức tăng thêm sự tự tin. Có chí sĩ nghe tin mà động, từ bốn phương tám hướng đi suốt ngày đêm đến đầu quân cho Viễn Đông chính phủ.
Ở vài thôn trang tại một hành tỉnh ở tây nam bộ, chỉ trong vòng ba giờ mà có đến 800 người yêu cầu tham gia quân khởi nghĩa.
Ở một thành trấn gần Khoa Nhĩ Ni thành, khi đội tiên phong được Tử Xuyên Tú và Bạch Xuyên phái đến, bán thú nhân thôn trưởng liên gõ chuông lớn ở đầu thôn, vỗ tay hô: "Các tiểu hỏa tử của chúng ta hãy mau đến đây!" Rồi đột nhiên như từ dưới đất chui lên, vô số câu liêm, thương được bán thú nhân cầm xốc tới từ bốn phương tám hướng, đương trường lập được đội ngũ dân binh hai nghìn người.
Dân chúng nhiệt tình đến nỗi khi nghe đội tiền trạm của nghĩa quân đến, toàn bộ dân chúng của hương thôn từ quận ngoài trăm dặm vội kéo đến. Nhưng khi họ đến nơi thì đội tiền trạm này đã nhổ trại bỏ đi, và thế là họ theo phương hướng của đội tiền trạm này đuổi theo, dọc đường cứ tiếc rẻ là phải chi biết được sớm hơn.
Đầu người nhung nhúc từ dòng nhỏ hợp thành sông, sông lớn, rồi kéo ra biển. Do kẻ đến thì không từ, đội ngũ của Tử Xuyên Tú không ngừng hấp thu họ và lớn mạnh dần. Biên chế của hai đoàn đội vốn có không đủ dung nạp nhiều tân binh như vậy, Tử Xuyên Tú không thể không tăng biên chế của bộ đội, từ hai biến thành bốn đoàn đội, rồi tám, rồi mười.... Không đầy một tháng, bộ hạ của Tử Xuyên Tú đã vượt con số bảy vạn, hơn hai chục đoàn đội.
Tử Xuyên Tú đương nhiên biết tuy một đoàn đội có nhân số chỉ là 3500 binh sĩ, nhưng 3500 binh sĩ hợp lại không phải là một đoàn đội. Là một đơn vị chiến đấu, yêu cầu không chỉ là số lượng, mà còn cần nhiều thứ khác. Nhưng do hầu hết các bộ đội là được tạo thành gấp rút, nên không thể yêu cầu quá cao.
Hơn nữa, Viễn Đông dân tộc vốn kiêu dũng thiện chiến, các tân binh phần lớn đều đã tham gia trường chiến tranh với Tử Xuyên gia, có kinh nghiệm tòng quân và tác chiến, trong đó có không ít lão binh có kinh nghiệm phong phú. Nhưng lão binh có kinh nghiệm này đều được đề bạt thành sĩ quan, trở thành hạt nhân chiến đấu của bộ đội.
Còn vấn đề được cho là khó giải quyết nhất đó là quan chỉ huy ở cấp đoàn đội thì được thực hiện một cách nhanh chóng từ các học viên trong lớp "quân giáo" của Quang Minh vương. Tử Xuyên Tú quả đoán phi thường, đề bạt những học viên trẻ tuổi từ lớp học hàng đêm của gã thành quan chỉ huy , thậm chí trong vòng một ngày gã nhậm mệnh cho năm đoàn đội trưởng.
Quân khởi nghĩa vừa đánh vừa tiến, dọc đường công thành đoạt đất. Tử Xuyên Tú có ý để cho các chi bộ đội mới tổ kiến nhanh chóng đưa vào chiến trường, nhờ các đội thủ bị nhỏ lẻ của ma tộc dọc đường mà tác chiến và huấn luyện cho họ quen thuộc các chủng trận hình và liệt đội, cho họ luân lưu ra trận luyện binh, mài giũa đội ngũ tạo lực ngưng tụ và năng lực điều hợp, sử dụng thật chiến để tăng cao lực chiến đấu của họ.
Vốn là những binh sĩ do bình dân mới gia nhập vào, chưa quen các loại hình chiến đấu, các đội ngũ mới hiện giờ đối với ma tộc chánh quy quân vô cùng vô tận, quân thủ bị, quân phòng thành, đội phụ trợ... rồi kinh qua nhiều trận mai phục, đột chiên, dã chiến, công thành chiến, quần chiến... mà họ không nhớ hết, đã đoán luyện cho họ bản lĩnh chém giết, nhanh chóng gột sạch tập tính dân quân vốn có, trở thành những kẻ bưu hãn và chuyên nghiệp hơn nhiều.
Quân khởi nghĩa xuất hiện ở bình nguyên Minh Tư Khắc yếu hại rồi! Tin tức này lập tức khiến các tướng quân của ma tộc rúng động và chân kinh. Bọn chúng không thể nào quên ở bình nguyên Minh tư khắc này năm xưa, từ một chi phân đội cực nhỏ của Tử Xuyên gia làm phản nhanh chóng trưởng thành thành một lớp cường sư kình lữ. Vùng này sản vật phong phú, có những ruộng vườn bát ngát, được tôn xưng là kho lương của Viễn Đông, và đồng thời là địa khu có nhân khẩu động đúc nhất của Viễn Đông. Khi nghĩ đến hình thế khẩn trương và đối lập giữa ma tộc và các chủng tộc Viễn Đông trước đó , các tướng quân không khỏi lạnh lòng. Quân khởi nghĩa nếu chiếm lĩnh luôn Minh Tư Khắc hành tỉnh thì bọn họ sẽ dễ dàng chiêu mộ được ba chục vạn sinh lực quân cường hãn!
Sự lo lắng của các tướng quân nhanh chóng bị sự thật chứng minh. Một địch nhân đáng sợ tự xưng là tên điên "Quang Minh vương" (hoặc có thể là anh hùng, hai kẻ này chẳng có gì khác biệt) soái lĩnh quân đội phản loạn từ ngày 1 tháng hai xuất phát từ KHoa Nhĩ Ni thành huy sư lên phía bắc, tất tật như hổ, nhắm thẳng thủ phủ của hành tỉnh là Minh Tư Khắc An.
Quân khởi nghĩa thẳng bước về hướng tây, tinh kỳ đi đến đâu vạn dân cùng hướng tới đó, sự hưởng ứng đen đặc như mây ngàn.
Tại Đạt Lỗ thành, bán thú nhân quân đội đột nhiên xuất hiện rồi xông vào như cơn lũ bất ngờ, triển khai chiến đấu trên đường phố với quân thủ bị ma tộc thủ tại Đạt Lỗ. Nửa canh giờ qua đi, mọi ma tộc binh mã đều bị chém thành những mảnh vụn.
Ngoại thành Á Gia Nặc, hai đoàn đội kỵ binh của ma tộc bị đánh không còn manh giáp, tàn quân hoảng loạn bỏ thành mà chạy, bị một chi bán thú nhân kỵ binh truy sát hơn ba trăm dặm, dọc được lại bị đội du kích các vùng tập kích, bỏ xác khắp nơi.
Bán thú nhân quân đội cường đại đến mức không những đủ công thành mà còn đánh quân tiếp viện, các đoàn đội ma tộc bộ binh đến tăng viện cho Á Gia Nặc bị chặn đánh tại một khu rừng cách thành trì bốn chục dặm, manh giáp không còn, cả đoàn đội mà chỉ chạy thoát được ba chục người.
Trong khi đó, tại Đô Lan thành cách Minh Tư Khắc An không quá 50 dặm, dưới con mắt của hai vạn ma tộc quân đội trong thủ phủ này, Quang Minh vương dẫn đầu bán thú nhân kỵ binh dùng ngọn lửa đỏ làm tiêu chí đã cướp sạch kho hậu doanh của ma tộc, diệt gọn một đoàn đội quân thủ bị, xong bỏ đi. Âm thanh giao chiến công thành ồn ào thậm chí ở trong nội thành của Minh Tư Khắc An cũng có thể nghe thấy. Nắm trong tay hai vạn bộ, kỵ binh, tư lệnh của ma tộc trú thủ ở đó là Tạp Lạp lại không dám xuất thành cứu viện, vì sợ sẽ rơi vào vòng mai phục của nghĩa quân.
Sự lo lắng của y là chính xác. Đêm hôm đó, thật ra bao vây chung quanh Minh Tư Khắc An còn có hơn năm vạn bán thú nhân, chưa kể dân quân, du kích. Bọn họ ẩn tàng trong rừng sau, an tĩnh và nhẫn nại chờ, nhất mực chờ đến khi thái dương lên cao. Thấy ma tộc thủy chung đóng kín cổng thành không chịu xuất chiến, Tử Xuyên Tú thở dài, hạ lệnh triệt quân.
Từ Khoa Nhĩ Ni đến Đạt Lỗ, từ Đạt Lỗ đến Á Gia Nặc, lại từ Á Gia Nặc tiến binh Đô Lan... nghĩa quân với quân lực cường thế đã khiến ma tộc thủ bị tan rã sạch, hết thành này đến thành khác rơi vào tay nghĩa quân. Nghĩa quân kéo đi thế như phá trúc, mũi nhọn của đại quân chỉ đến đâu, các đội thủ bị ma tộc binh lực nhỏ bị giết như gió cuốn mây tàn. Những quận huyện nghĩa quân kinh qua, không chỗ nào không vang lên tiếng chuông cấp cứu, thư cầu viện như hoa tuyết bay về phía thủ phủ của hành tỉnh.
Quân thủ bị ma tộc co cụm vào sau thành tường, không dám xuất chiến, nhưng cũng chẳng có ích gì, bỡi vì chỉ cần nghĩa quân ở cửa thành hô: "Nổi dậy đi hỡi đồng bào!" Thanh âm vừa dứt, bá tánh các tộc trong thành vốn nóng lòng chờ đợi lập tức nổi lên như bầy ông vỡ tổ, ào tới ma tộc dùng thế quần công, sử dụng gạch ngói, đất đá đánh cho vệ binh ma tộc đầu phá huyết lưu, chạy có cờ. Sau đó, họ mở cổng thành, hoan thiên hỉ địa nghênh đón quân khởi nghĩa nhập thành.
Những chỗ nghĩa quân thậm chí còn chưa tới thành trấn, dân chúng ngóng cổ chờ, mong đợi họ tới. Chỉ chờ có một hiệu lệnh, họ lập tức phất cờ nổi dậy. Ở Mạn Nặc thành, một đầu bếp tinh linh quái đang làm cơm chợt nghe ai đó hô: "Bọn họ đến rồi!" Y lập tức gõ dao chặt thịt vào nồi, hô lớn: "Bọn họ đến rồi!"
"Bọn họ đến rồi?" Thợ may xà tộc nghe thế xách kéo chạy ra, vừa chạy vừa hỏi.
"Bọn họ đến rồi!" Gã đồ tể bán thú nhân múa dao đâm heo, người đầy mồ hôi bóng nhảy phóng ra.
"Bọn họ thật đến rồi!" Thợ rèn ải nhân cầm cái búa sắt và cái kiềm, thở khì khì khua cái chân ngắn xông tới.
Long nhân nhìn nhìn bên này, nhìn nhìn bên kia, chớp chớp đôi mắt trên cái trán trợt, cầm cái búa chặt củi chạy theo, chẳng nói chẳng rằng.
"Bọn họ đến rồi!" Thanh âm hội tụ lại thành tiếng ồn ào, người trong thành trấn xông ra đường, nông dân trong xóm nghe tin lập tức quẳng cái cày, ác cái cuốc co giò chạy vào thánh, trên đường người qua lại không ngớt, đại lộ ken đặt biển người. Cư dân kích động đầu toát mồ hôi, đều khum tay lên trán nhìn đông nhìn tây, tương hổ dò hỏi lẫn nhau: "Đâu? Đâu? Ở đâu? Người của chúng ta ở đâu?"
Đội thủ bị của ma tộc thấy đám người đông đúc tập hợp như vậy, liệt đội đến xua đuổi. Kỵ binh vung roi ngựa, giơ mã đao, cả đội kỳ uy giục ngựa xông vào đám người, vó ngựa đạp họ ngã rạp. Nếu ngày trước thì chiêu này trăm lần thử trăm lần linh, chỉ cần nhìn thấy bóng dáng của quân đội, những người diễu hành ra uy đó lập tức chạy còn nhanh hơn thỏ.
Nhưng hôm nay, chiêu này của bọn chúng không còn linh nữa, quân khởi nghĩa sắp đến rồi, dân chúng đã không còn sợ ma tộc nữa.
Đám đông phẫn nộ cùng hét vang, một trận gió bão đáng sợ đột nhiên bạo phát, gần như nửa cư dân trong thành cùng rống lên, "oành" một cái xông tới, đè nghiến đám ma tộc binh này xuống đất. Đội ma tộc thủ bị chỉ có mấy trăm người ở trong biển người này chẳng khác nào chiếc lá giữa cơn dông tố, đội ngũ chốc lát bị đánh rả hoàn toàn. Quân quan ngạo mạn bị lôi từ trên ngựa xuống, binh sĩ chạy vắt giò né quá tránh lại hàng trăm người bủa vây. Mấy chục thậm chí mấy trăm người cùng vây đánh một người, ma tộc binh kiêu hùng ngày ấy giờ kêu ngao ngao như mèo bị bỏ vào bao đập loạn. Chúng bị đánh mà không dám đánh trả, gào khóc xin tha mạng, nhưng không có ai được tha, bỡi vì dân chúng phẫn nộ đã xé chúng ra từng mảnh khi chưa dứt tiếng xin, rồi lập tức bị đạp thành đống thịt vụn.
Sau khi qua cơn kích động, đao phủ thủ hai tay đầy máu thở phì phì đưa mắt nhìn nhau dò hỏi: "Bọn họ đến rồi! Đến đâu? Đang ở chỗ nào?"
Đại quân của Quang minh vương với khí thế quét sạch lá khô nhanh chóng giải phóng toàn bộ tỉnh Minh Tư Khắc - ngoại trừ thủ phủ. Đối diễn với làn sóng khởi nghĩa ngày càng mạnh, thế lực ma tộc ngày càng yếu, khu vực không chế của ma tộc chỉ còn lại thủ phủ Minh Tư Khắc An và thiểu số trọng trấn xung quanh. Bên ngoài thành là thế giới của từng đội du kích và thổ phỉ. Ngoài trừ chúng ra thành với đại quân đoàn, nếu không thì chẳng khác gì đi chịu chết.
Nếu như Tử Xuyên Tú soái lĩnh quân khởi nghĩa còn có điểm nhân đạo, cho phép đầu hàng, không giết chiến phu, thì những du kích này có thủ đoạn cực kỳ tàn khốc và dã man. Nhân vì đội viên của các đội du kích đều có người nhà chết trong tay ma tộc, sự cừu hận của họ đối với ma tộc rất sâu. Một khi lọt vào tay họ, điều hi vọng duy nhất của ma tộc binh là làm sao đứt hơi cho sớm.
Tại khu vực các tỉnh ở Tây Nam, với Khoa Nhĩ Ni là trung tâm, vùng bình nguyên này trở thành vùng đất khai triển binh uy của nghĩa quân. Cho dù quân lệnh từ đại tổng đốc phủ ở Đỗ Toa hành tỉnh lệnh cho Tạp Lạp gấp rút "thu phục đất đã mất, tiêu diệt phản loạn", nhưng ma tộc không dám vượt lên trước một bước.
Ở đó, quân khởi nghĩa ngày đêm sắp xếp, tổ chức, đã xây dựng được một quân đội khá mạnh, đủ quyết phân cao thấp với quân chính quy của ma tộc, thậm chí còn mạnh hơn. Quân mã trú đóng tại Minh Tư Khắc hành tỉnh lo sợ suốt ngày đêm, tư lệnh trú quân của chúng là Tạp Lạp đã tuyệt vọng rồi. Vấn đề hiện tại đã không còn "Tiêu diệt phản loạn, thu lại đất mất" nữa, mà là làm sao để không bị quân phản loạn "tiêu diệt".
Một khi khởi nghĩa đại quân đánh tới, cho dù là có dựa vào tường chắc của Minh Tư Khắc An, chỉ sợ quân của Tạp Lạp khó mà giữ vững. Bỏ thành mà chạy ư? Tạp Lạp tướng quân nghĩ tới quân pháp tàn khốc vô tình của ma tộc, không khỏi rùng mình. Trong cơn tuyệt vọng, y thậm chí còn muốn sái lĩnh bộ hạ của mình đầu hàng quân khởi nghĩa cho xong.
Nhưng mà, ngày 23 tháng 12, bán thú nhân đoàn đội chủ yếu là kỵ binh xuất kỳ bát ý công chiếm trọng trấn Khách Tư Đặc của Gia Lai hành tỉnh. Điều này hoàn toàn nằm ngoài ý liệu của ma tộc. Khách Tư Đặc là yếu địa liên kết Minh Tư Khắc và Gia Lai. Quân khởi nghĩa đánh hạ đất này, cho thấy bọn họ có lòng phát triển về phía Tây Nam, đầu tiên là Gia Lai hành tỉnh, áp lực đối với thủ phủ của Minh Tư Khắc hành tỉnh rõ ràng là sẽ giảm đi.
Quả nhiên, tiếp theo đó mấy ngày, từng đội nghĩa quân cực lớn không ngừng đánh về phía Gia Lai hành tỉnh. Không như Minh Tư Khắc là một tỉnh lớn, quân trú đóng ở Gia Lai hành tỉnh khác bạc nhược, thủ phủ của nó chỉ trú đóng có hai ba đoàn đội, nếu không có tăng viện từ phía ngoài thì nghĩa quân chiếm tỉnh này chẳng mất sức tí nào.
Quân khởi nghĩa dọc đường tiến tới, các quận huyện họ gặp rất ít khi đề kháng, quân thủ bị ma tộc đua nhau bỏ thành chạy trốn, cư dân đua nhau gia nhập quân đội khởi nghĩa, binh lực đại quân ngày càng thịnh, binh phong nhắm thẳng tới thủ phủ của hành tỉnh, khiến ma tộc trú đóng ở đây khóc gào không ngớt.
Viễn Đông tổng đốc phủ ở Đỗ Toa nghiêm lệ khiển trách thái độ không chịu trách nhiệm và bỏ mặc kẻ gây mầm họa của Minh Tư Khắc hành tỉnh, mệnh lệnh cho Minh Tư Khắc trú quân lập tức xuất kích đánh mạnh vào hậu lộ của phản quân, kềm chế phản quân công kích về phía Gia Lai hành tỉnh.
Cùng đến với mệnh lên đó là quân tăng viện phái từ tổng đốc phủ: bốn sư đoàn nhân loại không đầy đủ người. Điều này chứng minh bản thân Lỗ Đế tước gia ở Đỗ Toa hành tỉnh đã không đủ binh lực, để ứng phó sự phản loạn đại quy mô như thế mà y lại không thể phái đi được một cánh quân ma tộc thuần túy nào.
Tạp Lạp kiên quyết kháng lệnh, trả lời Lỗ Đế bá tước rằng, nếu như bằng chút binh lực này mà chủ động xuất kích, chẳng khác nào mời bọn bán thú nhân phản loạn vào thăm nhà, hơn nữa còn là miễn phí!
Lỗ đế không còn cách nào khác, chỉ còn cách rút từ những hành tỉnh "tương đối an định một chút" xung quanh Minh Tư Khắc hành tỉnh một số quân tăng viện. Y điều từ Đắc Á hành tỉnh hai đoàn đội bộ binh (trong đó có một là bán thú nhân), một đoàn đội kỵ binh; điều từ Tháp Kiệt hành tỉnh hai đoàn đội bộ binh (một là xà tộc); từ Y Lí Á hành tỉnh rút ba đoàn đội ma tộc - mệnh lệnh này khiến cho tổng đốc của các hành tỉnh này kêu thảm giống như bị nhổ răng. Trong hành tỉnh của họ ngày hai thì bạo loạn, ngày năm xảy ra bạo động, binh lực tự thân còn không đủ, còn tăng viện cho ai? Bọn họ hướng Lỗ Đế bá tước khóc vừa ra nước mắt vừa ra nước mũi, nói nếu rút nhiều quân như vậy, quân khu của hành tỉnh không còn năng lực phòng ngự nữa, sáng ngày mai khi thức dậy, những bạo dân đó đã đánh giết tới trướng của họ rồi, như vậy làm sao cho được đây a!
Lỗ Đế bá tước trả lời rằng: "Đêm nay trước khi đi ngủ kề dao phay dưới gối đề phòng."
Mang theo đám bộ đội tăng viện "ngùn ngụt khí thế này", Lỗ Đế tự thân đến thủ phủ của Minh Tư Khắc hành tỉnh. Sau khi nghe quân khu trưởng của hành tỉnh là Tạp Lạp tướng quân báo cáo, Lỗ Đế đột nhiên tức giận, lớn tiếng mắng rùm: "Tạp Lạp ngươi là một tên vô dụng bị địch nhân làm cho sợ vỡ gan rồi! Đường đường là tướng quân của ma thần vương quốc, không ngờ lại bị đáp nhà quê không rành đao thương khoác da thú này dọa sợ đến nỗi đóng cửa không dám xuất chiến!"
"Nhưng mà nhân số của chúng xác thật quá nhiều, hơn nữa bá tính xung quanh còn mù quáng ủng hộ chúng..." Tạp Lạp lấy hết can đảm lí nhí giải thích.
"Ta nhổ này!" Lỗ Đế phun một bãi đàm cực đặc, lớn tiếng la lối: "Nhớ lại khi xưa, ở Nguyệt Lượng loan quân Tử Xuyên xuất bao nhiều quân? Cả năm chục vạn, còn chúng ta chỉ có mười vạn, kết quả thế nào hả? Chẳng phải là bị chúng ta đánh một trận diệt hết toàn quân! Ngày đó..."
-o0o-