Cả ba chúng tôi đều sững người. Greson bật dậy khỏi ghế đánh đổ chỗ rượu uýt-ki còn sót trong ly. Tôi lặng lẽ nhìn holmes, thấy anh mím môi, cau mày lẩm bẩm:
- Câu chuyện thêm rắc rối.
- Mà nó đã khá rắc rối rồi – lestrade làu bàu, ngồi xuống ghế - Tôi đến đúng lúc mọi người đang bàn luận thì phải.
- Này, ông lestrade, tin ấy có …chính xác không? – greson ấp úng hỏi.
- Tôi vừa mới có mặt ở phòng của Stanggerson. Tôi là người đầu tiên thấy xác ông ấy.
- Chúng tôi vừa mới được nghe cách hình dung vấn đề của ông greson – holmes nói – Ông lestrade, ông có thể cho chúng tôi biết ông đã thấy và đã làm những gì không?
- Tôi thú nhận là tôi nghi Stanggerson có dính líu vào cái chết của Drebber. Vì vậy nên tôi cố tìm ra tông tích viên thư ký. Ngày mồng 3, người ta thấy hai thầy trò họ đứng cùng với nhau tại nhà ga Euston vào lúc tám giờ rưỡi. Đến hai giờ sáng thì thấy xác Drebber tại đường Brixton. Vấn đề đặt ra với tôi là đi xác định xem Stanggerson đã làm gì và sau đó anh ta làm gì. Tôi đã đánh điện đi Liverpool, miêu tả hình dáng Stanggerson và yêu cầu cảnh sát sở tại kiểm tra các tàu biển nhổ neo đi Mỹ. Sau đó, tôi sục sạo tất cả các khách sạn, các quán trọ xung quanh nhà ga Euston. Tôi tự bảo rằng nếu hai người chia tay nhau thì Stanggerson sẽ đi kiếm một khách sạn khu vực lân cận để qua đêm và sáng hôm sau trở lại nhà ga.
- Rất có thể hai người đã hẹn trước với nhau ở một nơi nào đó – holmes đưa ra ý kiến của mình.
- Đúng thế. Tôi đã mất cả tối hôm qua đi điều tra mà không kết quả. Sáng nay, tôi lại bắt tay vào việc từ sớm và khoảng tám giờ, tôi đến khách sạn Holiday. Khi tôi hỏi trong khác h sạn có người khách nào tên là Stanggerson không thì người ta trả lời là có.
- Ông là người mà ông ta đang chờ phải không? – Người ta hỏi tôi – Ông ấy chờ một người từ hai hôm nay.
- Hiện thời ông ấy ở đâu?
- Đang ở trong phòng ông ấy, trên gác. Ông ấy yêu cầu chúng tôi lên gọi ông ấy vào chín giờ sáng.
Chú bé đánh giày trong khách sạn dẫn tôi đến phòng Stanggerson, chỉ cho tôi cửa phòng và toan đi xuống thì tôi bỗng nhìn thấy một dòng máu đỏ rỉ qua khe cửa, chảy ngang qua hành lang và đọng lại thành một vũng nhỏ dọc tấm gỗ lát chân tường, mé bên kia hành lang. Tôi kêu lên một tiếng và chú bé đánh giày quay lại. Cửa buồng khoá phía trong. Chúng tôi lấy vai xô tung ra. Cửa sổ gian buồng để mở và bên cạnh cửa sổ là xác một người đàn ông mặc đồ ngủ ở tư thế nằm phủ phục. Nạn nhân chết khá lâu vì tay chân cứng và lạnh. Lật xác lên, nhân viên khách sạn nhận ra ngay đó là người đến thuê phòng dưới cái tên Stanggerson. Nạn nhân bị một nhát dao găm đâm vào mé sườn. mũi dao sâu đến tận tim. Bây giờ, đây là điều quái gở nhất trong vụ này. Các ông tưởng tượng xem có gì bên dưới cái xác?
Holmes cắt lời:
- Chữ “Rache” viết bằng máu.
- Đúng thế - Nỗi khiếp sợ lộ rõ trong giọng nói của lestrade và tất cả chúng tôi đều lặng đi một lúc.
Trong các hành động của tên hung thủ lạ mặt kia có một cái gì tuần tự và bí hiểm làm cho các tội ác của hắn càng thêm khủng khiếp.
Lestrade nói tiếp:
- Có người đã trông thấy hung thủ. Một người bán sữa đến cửa hàng của mình bằng lối đi men theo các chuồng ngựa ở mé sau khách sạn. Anh ta thấy một cái thang, thường vẫn để nằm dưới đất, nay được dựng lên, áp vào một cửa sổ mở rộng ở tầng hai. Anh ta đã đi qua chỗ cái thang rồi bỗng ngoái lại thì thấy một người đang tụt xuống. Người đó bình thản, ngang nhiên, khiến anh bán sữa tưởng là một bác thợ mộc đến làm việc cho khách sạn. Anh ta có cảm tưởng người kia có vóc dáng cao lớn, mặt đỏ sậm và mặc bộ đồ nâu. Hung thủ có lẽ đã ở lại trong phòng một ít lâu sau khi hạ sát nạn nhân vì chúng tôi tìm thấy chậu nước mà hắn đã rửa tay nhuộm màu máu, và thấy có những vết máu trên khăn trải giường hắn đã bình tĩnh chùi dao.
Tôi nhìn sang holmes khi nghe lời miêu tả hình dáng hung thủ rất khớp với sự miêu tả của bạn tôi. Anh hỏi:
- Ông có tìm thấy gì trong phòng khả dĩ cho biết thêm về hung thủ không?
- Không có gì. Stanggerson còn có trong túi cái ví tiền của Drebber nhưng hình như đó là điều thông thường giữa hai người vì Stanggerson là người chi tiêu mọi thứ. Ở hai vụ án này, động cơ chắc chắn không phải là tiền bạc. Không có giấy tờ, sổ sách gì trong túi nạn nhân, ngoài một bức điện gửi từ Cleverland cách đây một tháng ghi vẻn vẹn: “H đang ở Châu Âu”. Bức điện không ký tên.
- Còn gì khác nữa không? – holmes hỏi tiếp.
- Một cuốn tiểu thuyết đặt trên giường, cái tẩu thuốc để trên một chiếc ghế cạnh giường. Trên bàn có một cốc nước, và trên bậc cửa có một cái hộp nhỏ đựng hai viên thuốc.
Holmes ngồi bật dậy, reo lên vui vẻ:
- Khâu cuối cùng! Cuộc điều tra của tôi thế là trọn vẹn!
Hai nhà thám tử kia nhìn anh khó hiểu.
Bạn tôi nói với vẻ tin tưởng:
- Tôi đã có trong tay tất cả những sợi dây đã đan bện với nhau một cách rắc rối. Tất nhiên, còn có những chi tiết cần phải bổ sung. Tôi sẽ dẫn ra đây một bằng chứng về những điều tôi biết. Ông có đem theo mấy viên thuốc ấy không?
- Tôi có đây – lestrade liền giơ ra một cái hộp trắng nhỏ - Tôi giữ lấy nó cùng với cái ví và bức điện, định đem về nộp cho Sở cảnh sát. Tôi đem theo những viên thuốc này cũng là tình cờ thôi vì tôi coi chúng không có gì quan trọng.
- Xin ông đưa cho tôi – Holmes bảo – Này, bác sĩ, đây có phải là những viên thuốc thông thường không?
Hai viên thuốc trông rất giống những viên thuốc thông thường. Đó là những viên thuốc tròn, nhỏ, màu ngọc xám và gần như trong suốt. Tôi nhận xét:
- Viên thuốc trong và nhẹ, tôi nghĩ nó dễ hoà tan trong nước.
- Đúng thế - holmes nói – Bây giờ, xin các anh làm ơn xuống nhà đem hộ tôi lên đây con chó già ốm yếu mà hôm qua bà chủ nhà nhờ anh giúp nó sớm về chầu tổ tiên.
Tôi xuống nhà, ôm con chó lên. Mắt nó lờ đờ, hơi thở hổn hển. Thực vậy, mõm nó trắng như tuyết cho thấy nó đã sống quá cái thời hạn sống thông thường của một con chó. Tôi đặt nó xuống tấm nệm rơm.
- Bây giờ tôi sẽ bẻ một trong hai viên thuốc này ra làm đôi – holmes vừa nói vừa làm – Tôi cất đi một nửa vào trong hộp để dùng về sau. Một nửa kia, tôi bỏ vào chiếc cốc này cùng với một thìa nước. Ta sẽ thấy ông bạn bác sĩ của chúng ta đã đoán đúng là nó dễ tan trong nước.
- Nó có dính dáng gì đến cái chết của Stanggerson đâu? – lestrade nói, giọng bực tức.
- Kiên nhẫn một chút! Có dính dáng nhiều lắm. Bây giờ tôi pha thêm vào một chút sữa cho dễ uống. Đem cho chó, ta thấy nó vội vã tớp ngay.
Con vật uống hết chỗ nước pha sữa ấy, rồi liếm đĩa. Vẻ nghiêm trang của holmes đã khiến chúng tôi im lặng quan sát con vật. Nó nằm xuống trên chiếc ghế đệm, hơi thở nặng nề, sức khỏe của nó không tăng lên hoặc giảm đi sau khi uống.
Holmes rút đồng hồ ra xem và mỗi phút trôi qua, sự bực bội và thất vọng càng hiện rõ trên nét mặt anh. Anh bặm môi, gõ tay lên bàn, thể hiện sự nôn nóng cao độ. Tôi thấy thương anh trong khi các nhà thám tử kia nở một nụ cười giễu cợt.
- Không thể có chuyện ngẫu nhiên – Cuối cùng holmes kêu lên, từ chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như một con dã thú trong phòng – Đây không thể là một việc ngẫu nhiên được. Chính những viên thuốc mà tôi đã ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta đã gặp lại chúng ở cái chết của Stanggerson. Vậy mà hiện giờ chúng lại không có tác dụng gì cả, thế là làm sao? Tôi đoán ra rồi!
Reo lên một tiếng mừng rỡ, holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả một nửa vào cốc nước, cho thêm sữa rồi cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa mới chạm vào chỗ nước ấy là toàn thân nó đã co giật dữ dội rồi nó nằm vật ra ngay đơ.
Holmes hít một hơi thở dài, quệt mồ hôi đọng trên trán:
- Trong hai viên thuốc vừa rồi, một viên chứa thuốc độc cực mạnh còn viên kia thì vô hại. Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó ngay trước khi mở hộp.
Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn tôi còn đầy đủ lý trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng tỏ giả thiết của holmes là đúng. Tôi thấy hình như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan đi.
- Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng – holmes nói tiếp - Ấy là vì ngay từ đầu cuộc điều tra, các ông đã không nắm được các dấu vết quan trọng ở trước mắt các ông. Tôi có cái may mắn là đã không để lọt cái dấu vết ấy, và tất cả những sự việc diễn ra sau đấy đều xác nhận giả thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này sẽ vô cùng khó khăn nếu như ta tìm thấy xác nạn nhân trên hè đường không kèm theo chi tiết nào trong số những chi tiết phụ lạ lùng và khác thường. Những chi tiết kỳ quái ấy, không làm cho vụ án khó khăn thêm mà…
Greson nghe bài diễn văn nhỏ của holmes với vẻ hết sức nôn nóng, cuối cùng không kìm được thêm nữa:
- Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phải bắt được hung thủ. Bây giờ chúng tôi xin hỏi thẳng là ông đã biết hung thủ là ai chưa?
Lestrade phụ hoạ thêm:
- greson nói có lý, ông holmes ạ. Chúng tôi đã cố công gắng sức nhưng đều đã thất bại.
Tôi cũng thêm ý kiến:
- Mọi sự chậm trễ torng việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó có thời gian gây thêm án mạng mới.
Bị mọi người dồn ép như vậy, holmes có vẻ lưỡng lự. Anh tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lông mày nheo lại như thói thường ở anh trong những lúc mải mê suy nghĩ. Cuối cùng, holmes đột ngột dừng lại, nhìn thẳng vào mặt chúng tôi:
- Sẽ không xảy ra án mạng nào nữa. Các ông hỏi tôi có biết tên hung thủ không. Có, tôi biết. Tôi đã dự định bắt hắn từ lâu rồi, nhưng đây là mộ t việc cần phải thận trọng, vì hắn là một kẻ lực lưỡng, khôn ngoan, liều lĩnh và được một kẻ không khéo giúp sức. Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta đã nắm trong tay mọi bằng chứng tố cáo hắn thì ta còn có cơ hội bắt hắn, nhưng nếu hắn có một chút nghi ngờ nào thì hắn sẽ thay tên đổi họ và tan biến vào bốn triệu dân của thành phố này. Tuy không muốn làm tổn thương đến tự ái của hai ông, nhưng thật sự tôi coi những người ấy mạnh hơn cảnh sát của Scotland Yard, bởi vậy tôi không yêu cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, một mình tôi chịu. Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà không phương hại đến các sự bố trí của tôi thì tôi sẽ làm ngay.
Greson và lestrade, một người đỏ mặt đến tận chân tóc, một người mắt long lên vì tò mò ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người chưa kịp nói lời nào thì đã có tiếng gõ cửa. thằng bé Uy-ghin ló đầu vào, giơ tay chào:
- Thưa ông, cháu đã gọi được một chiếc xe ạ.
- Giỏi lắm! – holmes nhẹ nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra một vòng khoá tay bằng thép, nói tiếp: - Các ông ở Scotland Yard sao không dùng loại khoá tay này nhỉ. Các ông xem lò xo bật có lẹ không: vòng khoá bập vào trong nháy mắt.
Lestrade mỉa mai:
- Cái khoá kiểu cũ cũng khá tốt nếu như ta tìm được người để khoá.
- Được rồi, được rồi – holmes cười mỉm – Bác đánh xe sẽ giúp tôi một tay để buộc những chiếc va-li này. Uy-ghin bảo bác đánh xe lên đây.
Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi nói năng như thể sắp đi đâu xa mà chẳng nói trước gì với tôi cả. Trong phòng có một chiếc va-li nhỏ. Holmes cầm lấy chiếc va-li tìm cách xiết chặt cái dây đai. Anh đang mải làm thì người đánh xe vào:
- Bác đánh xe, giúp tôi một tay thắt mấy cái đai này lại – holmes nói, không quay đầu lại.
Anh đang quỳ gối xuống sàn, cúi người trên chiếc va-li. Người đánh xe bước lại, vẻ lầm lì và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va-li. Ngay lúc ấy, có tiếng lò xo bật đánh tách một cái và holmes đứng thẳng người lên, con mắt sáng ngời:
- Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Hope, kẻ đã giết Drebber và Stanggerson.
Toàn bộ sự việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến nỗi tôi không kịp nhận ra. Tôi còn nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng và giọng nói vang vang của holmes, gương mặt bàng hoàng và dữ dội của người đánh xe khi anh ta nhìn cái khoá tay sáng loáng như có phép thần thông đang xiết chặt lấy hai cổ tay anh ta. Tất cả chúng tôi đứng ngây ra như phỗng dễ đến một hai phút. Gầm lên một tiếng, người đánh xe vùng ra khỏi tay holmes, lao mình qua cửa sổ. Các ô cửa mảnh khảnh gẫy tan cùng với các ô kính nhưng hắn chưa nhô hẳn được người ra ngoài thì cả greson, lestrade lẫn holmes đã chồm lên người hắn, lôi ngược hắn vào trong phòng. Gã đánh xe khỏe và hung dữ đến nỗi hắn đã nhiều lần vùng ra được khỏi tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay hắn bị rách toạc nhiều chỗ khi hắn lao qua cửa kính, nhưng sự chống cự của hắn không hề giảm đi chút nào. Mãi đến khi lestrade thọc tay được vào sau cổ áo hắn, làm hắn suýt nghẹt thở, hắn mới im. Dù sao chúng tôi phải trói cả chân tay hắn lại mới cảm thấy yên tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy, mệt nhoài.
- Ta có chiếc xe của hắn bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải hắn. Bây giờ, nào các ông – holmes tươi cười – Tấm màn bí ẩn đến đây đã được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu gì thì hỏi.