Mở đầu Longbury, Tháng 10 Năm 1815
Edwina Gunn nhào qua cửa sau của căn nhà nông thôn và nhanh chóng xoay chiếc chìa trong ổ khóa. Cái then cài cửa cũng đã được bà đóng sầm cài chặt lại. Tim bà đập loạn xạ. Bà thở dốc. Bà đã hỏi quá nhiều, chõ mũi vào những chuyện mà người khác không muốn. Và điều duy nhất bà đạt được là đánh thức một con hổ đang chìm trong giấc ngủ.
“Hãy bình tĩnh lại đi Edwina,” bà tự nói với mình một cách cứng rắn. “Bà đã sáu mươi tuổi. Cứ cái đà này, bà sẽ tự khiến cho mình bị tai biến mạch máu! Bà không phải là mối đe dọa! Bà không thể chứng minh bất cứ điều gì. Và sau cả đoạn thời gian dài như thế trôi qua, hắn ta hẳn đã cảm thấy được an toàn.”
Khi bà đã lấy lại hơi, bà bước đến gần cửa sổ, nhưng vẫn giữ một khoảng cách khá xa để không bị nhìn thấy, rồi mới dòm ra ngoái. Ngôi nhá nhỏ của bà nằm ngay ben ngoài khu trang viện, và thứ duy nhất bà có thể nhìn thấy ngoài những mảnh vườn và các căn nhà chỉ là những gốc cây thủy tùng, cây sơn trà, và cây sồi mà giờ cũng chỉ là những chiếc lá khô còn sót lại sau mùa đông đang mục rữa bởi những trận mưa bất ngờ. Ngoài ra thì chẳng còn gì.
Cả bà cũng bị ướt như chuột lột. Bà cởi chiếc áo khoác ngoài và treo nó trên một cái móc bên cạnh cửa. Ngọn lửa trong lò sưởi đã được bà Ludlow ủ thêm tro để nó được cháy lâu hơn, bà Ludlow là người giúp việc của bà, nhưng bà Ludlow cũng có gia đình của mình để chăm lo và luôn ra về đúng giờ để chuẩn bị bữa tối cho gia đình.
Ngày mai bà ấy sẽ không thể vào nhà bởi cánh cửa đã bị cài then. Không còn cách nào khác. Bà phải tự dậy sớm để mở then cài, hoặc là bà Ludlow có thể sử dụng cái khoen gõ cửa. Vậy thì bà sẽ bị đánh thức.
Bà đang ở nhà một mình và người láng giềng gần nhất thì ở tận [nhà dòng] Priory.
Ý nghĩ này đã thúc đẩy bà đi kiểm tra lại một lần để bảo đảm rằng cửa cái và mọi cánh cửa sổ ở tầng dưới đã được khóa chặt. Đây là một thứ đã trở thành thói quen bà phải làm hằng đêm trước khi đi ngủ, mặc dù như đa số người thôn quê khác, bà luôn để cửa không khóa vào ban ngày. Từ giờ trở đi, bà sẽ khóa hết cửa [ngay cả] vào ban ngày.
“Thật là một bà lão khờ dại”, bà tự trách mình. Chắc bà đang trốn chạy một con chó hoang hoặc một người trông coi khu săn bắn.
Khi đã trấn tĩnh trở lại, bà bắt đầu leo lên các bậc thang. Leo lên giống như một cuộc vật lộn và bà đã phải sử dụng cái lan can để kéo mình lên. Vào lúc này bà đã quyết định sẽ chuyển phòng ngủ của mình đến căn phòng dành cho người hầu đã được bỏ trống cạnh gian nhà bếp. Căn phòng tuy nhỏ nhưng lại thuận tiện cho những ai không thể leo nổi cầu thang. Chính cái suy nghĩ đó đã làm bà cảm giác được tuổi tác của mình càng thêm sâu sắc.
Vào tới phòng mình, bà cuộn thân trong một chiếc áo choàng ấm áp, xỏ chân vào đôi dép lông trừu, sau đó khêu ngọn lửa trong lò khiến nó bừng sáng. Trong khi bà ngắm những ngọn lửa liếm láp quanh các cục than nhỏ, bà lại chìm đắm trong suy nghĩ một lần nữa.
Bà đã nghĩ đến Hannah, người mà vẫn mãi trẻ trung trong ký ức của bà, Hannah, người luôn yêu đời và đã sống một cách dũng cảm và mãnh liệt, đồng thời cũng là nguồn gốc của rất nhiều niềm đau thương.
Hai mươi năm trước cô đã rời khỏi chính căn nhà này và thề không bao giờ trở lại, và đó là lần cuối cùng có người nhìn thấy cô ấy.
Hannah ơi, em đang ở đâu? Điều gì xảy ra trong những năm qua?
Nếu Edwina được trẻ hơn và có sức khỏe khá hơn, bà sẽ lên tận Luân Đôn để thảo luận với Brand. Chàng thật gần gũi với bà như bất cứ một đứa con ruột nào, và những điều bà cần phải nói tốt hơn hết là nên nói khi mặt đối mặt. Nhưng bà không có đủ sức khỏe để đi đó đây, vì vậy bà đã làm điều tốt nhất có thể. Bà gửi một lá thư đến văn phòng Brand tại phố Frith để kể cho chàng sơ lược về những gì bà đã phát hiện được.
Lá thư đã được gửi đi hơn hai tuần, nhưng giờ vẫn chưa thấy hồi âm. Không phải bà đang bới lông tìm vết. Điều này chỉ có nghĩa là Brand chưa nhận được thư của bà. Chàng là một người đàn ông bận rộn và phải đi công cán khá nhiều. Lá thư rốt cuộc sẽ được chuyển đến tay chàng thôi.
Còn có một lá thư khác bà đã viết đi viết lại nhiều lần, nhưng chưa bao giờ được gửi đến người duy nhất mà có thể giải quyết cái bí ẩn này đơn giản bằng một cái phẩy tay: cháu gái của bà, Marion. Với suy nghĩ ấy, bà ngồi xuống bàn viết và chuẩn bị giấy bút để viết thư.
Sau khi chấm bút vào bình mực, bà dừng lại. Đây không phải là một bức thư dễ viết. Bà đã không gặp Marion gần hai mươi năm qua. Đôi bên rất ít khi trao đổi thư từ, chủ yếu là bởi vì bà và cô em gái Diana và cũng là mẹ của Marion đã từng có mâu thuẫn. Cái chết bi thảm của Diana vì một khối u vào ba năm trước và không lâu sau đó là cái chết của cha Marion đã mang Edwina và cháu gái bà lại gần nhau hơn.
Bà cảm thấy cổ họng như nghẹn lại. Cho dù là bà hối hận và tiếc nuối bao nhiêu cũng không có thể bù đắp những năm tháng đã phí hoài. Sao bà và cô em của bà lại có thể quá ngốc nghếch đến thế?
Bà sẽ không mắc phải sai lầm tương tự với Marion. Nhưng bà hầu như không biết phải bắt đầu từ đâu. Dù sao đi nữa, hai người cũng không biết về nhau cho lắm. Nếu bà tự dưng nêu ra những cáo buộc vô căn cứ, Marion sẽ nghĩ là bà bị loạn trí.
Bà quanh quẩn với cái ý tưởng mời Marion đến viếng thăm Longbury, nhưng rồi nó nhanh chóng bị loại bỏ. Thứ nhất nơi Marion sống cách xa Longbury những ba ngày lộ trình. Và còn điều nữa là nàng ấy bận đầu tắt mặt tối để chăm sóc hai cô em của mình. Edwina cũng không thích ý tưởng đưa Marion vào một hoàn cảnh đầy hiểm nguy.
Giá như có Brand ở đây, chàng đã có thể hội ý với bà.
Tuy nhiên trao đổi thư từ với cháu gái của bà cũng không có hại gì. Đôi bên có thể hồi tưởng về chuyến viếng thăm đầu tiên và cũng là lần duy nhất Marion đã đến thăm. Marion chắc chắn phải biết đêm ấy đã xảy ra chuyện gì. Nàng đã có mặt. Đã có người đã nhìn thấy nàng. Có lẽ những ký ức ấy đã bị khóa lại trong tâm trí của nàng và chỉ cần chút tác động thì sẽ được khôi phục lại hoàn toàn.
Bà bắt đầu hạ bút. Không lâu sau, bà nghe tiếng thanh gỗ lót sàn kêu kẽo kẹt. Miệng bà khô khốc và bà chậm rãi đứng lên. Khi thanh gỗ kêu lên một lần nữa, bà bước đến lò sưởi và lấy cây cời lò ra khỏi chỗ của nó. Bà dừng lại trong hành lang. Âm thanh duy nhất mà bà có thể nghe được là nhịp tim hổn loạn đập dồn dập trong lồng ngực mình. Không có gì có vẻ không ổn, không có gì bị khuấy động.
Bà trù trừ bước tới gần đầu cầu thang và nhìn xuống. Không có gì cả. Hạ cây cời lò xuống, bà đã quay nửa người chuẩn bị trở lại phòng và ngay lúc đó bà nhìn thấy bộ mặt của kẻ xâm nhập trước khi bà cảm giác được cú đánh đầu tiên.
Nhầm người rồi là ý tưởng kinh hoàng cuối cùng của bà trước khi bóng tối bao trùm lấy bà.
Sáng hôm sau, bà Ludlow đến đúng giờ như bình thường và đã tự mở cửa vào nhà. Dưới nách bà còn có một gói đồ, một cái đùi cừu ngon lành mà bà đã chọn từ hàng thịt vào buổi sáng, đủ để làm một nồi súp thịt lớn, và có lẽ còn một chút dư lại cho gia đình bà. Bà Gunn là người rộng rãi.
Sau khi cởi chiếc áo khoác ngoài và mặc tạp dề vào, bà bắt đầu nhúm lửa. Ấm nước để lọc tách trà sáng cho bà Gunn đã sớm réo inh ỏi trên ngăn nấu cạnh lò sưởi. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, bà sắp xếp chiếc khay và mang nó ra tiền sảnh. Vừa bước vào được vài bước, bà khựng người lại. Bà chủ đang nằm một đống bất động tại chân cầu thang, đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà.
Một giờ trôi qua trước khi viên cảnh sát đến hiện trường. Trong đầu ông ta không có chút nghi ngờ nào và cho rằng bà lão bị ngã xuống lầu. Chỉ có một việc khiến ông cảm thấy khó hiểu là trên những ngón tay của nạn nhân có những vết mực loang lổ, nhưng lại không tìm thấy bức thư nào, không có gì để biểu hiện cho việc những ngón tay dính mực.
Theo ông, đó là một chi tiết nhỏ nhặt và không đáng bận tâm.