Khởi đầu của lễ shabbat đang đến gần. Người Do Thái của thành phố nhỏ miền Nam xứ Provence lần lượt đến trước nhà thờ.
- Aaron đâu? Mẹ của Naomi nhìn mọi người hỏi.
- Chắc em nó đang mê mải đọc sách trong phòng học mới, Naomi bao biện cho em.
Cô nắm tay em gái nhỏ bốn tuổi của mình.
- Em có nói với con rằng em thích đọc khi phòng không có người. Em ấy không bắt buộc phải dự lễ cầu kinh vì mới mười hai tuổi, phải thế không mẹ?
- Ý mẹ là muốn thấy nó ngay trước mặt đây hơn, bà mẹ thở dài.
Bà bồng trên tay con gái út một tuổi, nói với hai con trai, một lên ba, một lên năm.
- Các con sẽ vào với cậu nhé. Anh Aaron thích học hơn là đến lễ cầu kinh. Điều đó được phép, ngay cả trong lễ shabbat.
Hai cậu bé nhập vào nhóm nam giới. Phụ nữ đi vào phòng bày tranh của nhà thờ. Naomi đẩy em gái nhỏ lên trước những người phụ nữ khác để có thể nhìn rõ hơn sân khấu trước nhà thờ.
Cô dõi mắt tìm bóng dáng dong dỏng cao của người lạ mặt trẻ tuổi. Khi nhìn thấy anh, cô cảm thấy lo sợ. Có thể kế hoạch của Aaron đã thất bại? Có thể người lạ mặt, nhận ra mình bị Aaron theo dõi, đã giết cậu bé thì sao?
Từ mấy tháng nay, lễ shabbat bắt đầu trong các gia đình Do Thái với niềm phấn khích. Nguyên nhân không phải bởi sự chào đón quen thuộc dành cho nữ hoàng Shabbat, mà là mối xúc động mang dáng vẻ ham muốn của các cô gái chưa chồng. Đối tượng của sự kích động là một người lạ mặt bí ẩn xuất hiện trong lễ shabbat. Sự có mặt của anh ta khiến gương mặt những người phụ nữ trẻ ngời lên. Trước mỗi lễ shabbat, anh ta trao cho vị phó thị trưởng những quà biếu có giá trị lớn dành cho cô nhi viện và dưỡng đường, làm hồi môn cho các cô gái trẻ nghèo, chi phí cho việc sửa nhà thờ, cho tang lễ dân nghèo hay những lễ hội làng xã. Ngày shabbat, anh ta ăn tối với phó thị trưởng, ngủ đêm tại nhà ông. Hôm sau, anh ta có mặt trong lễ chầu buổi sáng, buổi chiều, chập tối, rồi biến mất một cách bí ẩn.
- Chị có biết anh ta là ai không? Mọi người nhiều lần hỏi cô vợ trẻ của phó thị trưởng.
- Không, chị ta đỏ mặt, trả lời.
Mọi người lại quay sang mẹ của phó thị trưởng. Bà này liền làm ra vẻ uy nghi của một nữ hoàng cùng vẻ thông hiểu như một đại giáo trưởng.
- Đó là một người lạ mặt, bà trả lời tự tin.
- Nhưng anh ta từ đâu tới?
- Từ xa.
Bà muốn gây ấn tượng cái gì cũng biết, nhưng vẫn muốn giữ bí mật.
Bà rất tự hào về con trai mình, trẻ tuổi nhưng đã được bầu làm phó thị trưởng, khi người tiền nhiệm của ông bắt đầu ra khơi trên một chiếc thuyền caraven của Christophe Colomb. Đàn ông cũng tò mò không kém gì đàn bà. Trước những câu hỏi bóng gió, người lạ mặt đáp lại mơ hồ. Thỉnh thoảng, anh ta làm cho mọi người hiểu rằng không nên ép buộc anh ta, nếu không sẽ không ai thấy anh ta trong những lễ shabbat nữa. Không có ai lại muốn điều đó. Riêng Naomi có vẻ biết người lạ mặt đó là ai. Cô tâm sự với em trai Aaron.
- Em sẽ kiểm tra xem, em cô hứa.
Một tuần sau, Aaron biến mất. Trừ Naomi, trong nhà không ai nhận ra rằng cậu không về nhà vào ban đêm. Ông bố còn mải đọc sách trước khi ngủ, bà mẹ thì chăm sóc bốn đứa con nhỏ, trai có, gái có. Aaron về nhà lúc sáng sớm. Gặp Naomi, cậu kể:
- Em đã đi theo anh ta trên một con đường rừng trong nhiều giờ. Cuối cùng, anh ta đến một đồng cỏ nhỏ, nơi đó có một con tuấn mã đang chờ anh ta. Anh ta bỏ cái Talith(6) ra,cởi chiếc áo vét xoàng xĩnh và chiếc quần thường mặc, cho tất cả vào một cái túi da to,lấy ra một bộ quần áo nhung và xa-tanh, một cái mũ có cắm lông. Anh ta mặc vào, giấu chiếc túi có quần áo cũ. Rồi anh ta lên ngựa.
- Chị biết mà, đó là một marrane(7), Naomi nói.
- Chị có lý, Aaron trả lời. Hình như anh ta rất giàu.
- Càng nguy hiểm hơn cho anh ta. Nếu có kẻ tố giác, anh ta sẽ bị hỏa thiêu, Naomi nói, cứng người vì khiếp sợ. Anh ta có nhận ra em không?
- Không. Lúc ấy trời tối và em nấp sau một cái cây.
- Làm thế nào em thấy được anh ta?
- Anh ta ở giữa đồng cỏ, có ánh trăng soi, Aaron trả lời. Thêm nữa, em tin chắc rằng nếu anh ta trông thấy em thì anh ta đã giết vì sợ em sẽ tố cáo bí mật của anh ta.
- Có thể như thế, Naomi thừa nhận. Khi em thấy anh ta trong nhà thờ, tuyệt đối không để anh ta đoán được em biết anh ta là ai.
- Chị không cần phải nhắc, em đâu còn là một đứa trẻ!
Bỗng, Aaron nói với chị gái:
- Sáng thứ sáu em sẽ vào rừng đợi anh ta. Em sẽ về nhà trước lễ shabbat.
Những hồi ức đó cứ nhảy nhót trong đầu Naomi. Cô đang đứng ở hàng đầu hành lang bày tranh của nhà thờ. Lại một lần nữa cô nhìn người lạ mặt. Chắc anh ta cảm thấy cái nhìn của cô, nên hướng mắt nhìn về phía phòng tranh. Phần lớn các cô gái thở dồn. Cô nào cũng nghĩ rằng anh chàng đang nhìn mình.
Ngược lại, Naomi cúi đầu. Nỗi sợ của cô càng tăng. Cô tự nhủ sau buổi lễ, cô phải đi tìm Aaron. Vừa kịp nghĩ đến đây thì cánh cửa nhà thờ hé mở và Aaron lách vào trong. Cậu liếc nhìn về phía phòng tranh và chỉnh đốn lại "Kippa"(8). Đó là một dấu hiệu đã thỏa thuận: Mọi việc đều tốt. Sau buổi lễ, Aaron đến chỗ ông cậu đón em, dắt tay em ra trước nhà thờ, nhập đoàn với Naomi đang đi cùng em gái nhỏ. Đi đầu là ông bố họ, tiếp sau là bà mẹ bế đứa bé nhất trong tay và một em trai nhỏ khác.
- Khi em đến chỗ nấp sau cái cây thì người lạ mặt cũng vừa đến. Anh ta mặc quần áo truyền thống của ta và đi vào thành phố, Aaron thầm thì tâm sự với chị. Anh ta không trông thấy em. Nhưng con ngựa của anh ta suýt nữa làm em bị lộ. Nó đánh hơi thấy em và hý lên.
- Hãy ngừng theo dõi người lạ mặt đi, Naomi xin.
- Đồng ý, Aaron hứa.
- Này, hôm nay con đọc gì trong phòng học đấy? Ông bố hỏi.
- Con đọc những bài nói về những người marrane, Aaron trả lời.
Naomi lừ mắt không tán thành.
- Tại sao con lại quan tâm đến những người buộc phải cải đạo? Ông bố hỏi.
Và ông nói thêm, giọng đùa bỡn:
- Bố hy vọng con không muốn trở thành một marrane đấy chứ?
- Không ạ. Nhưng con biết ngày càng có nhiều người marrane đến nỗi ra khỏi khu Do Thái hay ra khỏi thành phố là ta có thể gặp họ.
- Đúng thế, ông bố nói.
Rồi ông thở dài, quay lại nhìn toàn thể gia đình.
- Thương thay cho họ. Các người có biết giáo trưởng nói thế nào về họ không? Một phần ba bị chết thiêu, một phần ba khác phải trốn chui chốn lủi, những người còn lại phải sống trong nỗi lo sợ thường trực... Một hôm, cha nghe thấy giáo trưởng cảnh cáo những người muốn cải đạo: "Các người sẽ không bao giờ tìm thấy sự an lành giữa những kẻ không Do Thái. Mạng sống của các người lúc nào cũng ngàn cân treo sợi tóc." Bất hạnh thay, họ không nghe lời ông và những người lái buôn đã kể lại với cha rằng lời tiên đoán của giáo trưởng đã thành sự thật.
Ông bố nhìn Naomi.
- Bà mối đã sẵn sàng nói chuyện với người lạ mặt, đề nghị với anh ta hãy chọn trong các con gái của chúng ta người vợ tương lai của anh.
Naomi đỏ chín cả mặt. Bà mẹ phản ứng:
- Nhưng chúng ta không biết anh ta là ai, từ đâu đến.
- Bà mối có trách nhiệm tìm hiểu, ông bố điềm tĩnh nói. Tất nhiên là trong trường hợp anh ta chọn con Naomi của chúng ta.
- Nếu anh ta là một marrane, chúng ta sẽ không gả con gái cho đâu, bà mẹ tuyên bố kiên quyết.
Khi có chuyện gì liên quan đến con cái, bà không nhất nhất tuân theo đúng từng câu những quy tắc tuân phục và hạ mình vẫn áp đặt cho các bà vợ.
Lễ shabbat kết thúc, Aaron bị kích động mạnh, liền chạy đi tìm chị gái Naomi.
- Em đã nói chuyện với anh ta!
Cậu không nhận ra mẹ mình đang ở đó.
- Với ai? Bà mẹ lo ngại hỏi.
- Với người lạ mặt.
- Con đã nói chuyện với người lạ mặt hả? Bà mẹ hỏi, càng băn khoăn hơn.
- Không mẹ ạ. Con không bắt chuyện với một người lớn tuổi đâu. Con biết những phép lịch sự chứ. Chính anh ấy nói chuyện với con trước. Anh ấy bảo: "Tuần sau nhé và cầu Chúa phù hộ cho chị gái cậu!"
Tràn ngập hạnh phúc, Naomi giấu mặt vào lòng bàn tay. Bà mẹ tái mặt, rồi bà nhìn con trai nghiêm khắc.
- Aaron, không được nói với bất cứ ai. Ngay cả với bố con. Thanh danh của Naomi có thể sẽ bị người ta nghi ngờ, vì đã bận lòng trước thái độ của một người lạ mặt.
- Dù thế nào, mẹ cũng nghĩ rằng đó là một kẻ cải đạo đã quên hết những quy tắc Do Thái về cách cư xử đúng đắn, bà mẹ dịu giọng nói thêm.
Naomi nôn nóng chờ ngày shabbat. Có thể người lạ mặt sẽ lại nói chuyện với em cô và bộc lộ thêm một chút về bản thân? Qua Aaron, cô có thể gửi cho anh ta một lời nhắn gián tiếp được không? Nhưng nhắn gì đây? Có thể cô sẽ nghĩ ra một cái gì đó thật thông minh và thỏa đáng... Nhưng, đến thứ sáu, cô phải chịu mối thất vọng lớn: Người lạ mặt không đến buổi lễ. Tất cả các cô gái ủ rũ đến nỗi các ông bố phải trách mắng họ: Thật là không phải nếu tỏ ra buồn trong ngày shabbat. Lễ shabbat sau, sau nữa, người lạ mặt đẹp trai cũng không đến. Suốt một tháng trời, anh ta không xuất hiện.
Các cô gái thầm thì với nhau: "Anh ấy ra sao nhỉ? Đi rồi chăng?"
Các cô quay sang vợ của phó thị trưởng. Cô ta có thể biết vị khách thường xuyên của mình đã ra sao. Nhưng cô vợ trẻ cũng chẳng biết gì hơn người khác, lại còn có vẻ lo lắng. Một hôm, trong khu phố Do Thái vang lên tiếng trống, tiếng sáo, cùng tiếng móng ngựa. Trong nhà, dân chúng cứng người vì sợ. Những tiếng ấy báo hiệu một điều bất hạnh lớn. Lính của tòa án xử bọn dị giáo xông vào các nhà, đuổi hết cư dân ra ngoài.
Chúng vơ vét tất cả mọi thứ, ăn cắp những đồ đạc có giá trị. Dân chúng tụ tập tại quảng trường. Họ chăm chú nhìn một chiếc xe bò, trên xe dựng một cây cột có một người bị trói chặt. Đó chính là người lạ mặt bí ẩn.
Kẻ đại diện cho quyền lực leo lên xe, gào to:
- Ai biết người này, hãy lại gần đây!
Không ai lại gần.
- Ai làm chứng rằng cái tên cặn bã Joseph Zatsouto này đã tham dự vào các cuộc hành lễ Do Thái của các người sẽ được trọng thưởng! Vẫn cái giọng đã quen diễn thuyết đó vang lên.
Im lặng hoàn toàn. Kẻ đại diện cho chính quyền ra hiệu cho bọn lính. Chúng đi quanh những người Do Thái đang tập trung ở quảng trường. Thỉnh thoảng chúng dừng lại, căn vặn.
- Ê này, ngươi có trông thấy Zatsouto ở đây không?
Một tên lính hỏi cha của Naomi, lấy mũi kiếm nâng mũ của ông già lên. Mũi kiếm chạm vào mặt ông.
- Không, tôi không thấy gã, ông trả lời nhẹ nhàng. Tên lính bước hai bước, dừng lại cạnh Aaron. Gã kéo ngược tai chú.
- Còn mày, thằng nhãi Do Thái, mày phải trông thấy chứ.
- Á, Aaron kêu lên. Tôi thề trên danh dự của ông, trên mạng sống của đức vua, và trên sự thanh thiên của giáo hoàng Alexandre VI rằng tôi chưa hề trông thấy anh ta!
Lời thề của cậu thiếu niên có học làm cho tên lính sửng sốt. Gã buông tai cậu ra, đi lại phía chiếc xe. Naomi liếc mắt, trông thấy những người dân khác đều lắc đầu khi trả lời chúng.
Tên chỉ huy bọn lính nhìn viên đại diện chính quyền trên xe. Chúng trao đổi nhanh vài câu với nhau. Lão chánh án tuyên bố nhạt nhẽo:
- Lũ Do Thái, ta để cho các ngươi đến sáng mai! Hãy nghĩ kỹ đi! Nếu từ giờ đến sáng mai, không có ai đến làm chứng rằng Zatsouto đã bí mật dự lễ Do Thái, các người sẽ bị tống ra khỏi xứ, của cải sẽ bị tịch thu. Ngược lại, nếu một trong bọn ngươi tỏ lòng biết ơn đối với Đức thánh Cha của chúng ta, giáo hoàng Alexandre VI, vì lòng tôn kính với Tòa án thiêng liêng xử bọn dị giáo, lòng tận tụy đối với đức vua, bằng cách làm chứng đã thấy Joseph Zatsouto trong đám người, tất cả các người sẽ được phép ở lại đây, hơn nữa còn được hưởng một phần của cải của Zatsouto.
Lập tức hội đồng các hiền giả nhóm họp tại nhà phó thị trưởng. Dân chúng của khu Do Thái, đàn ông, đàn bà, trẻ con, xúm đông trước cửa ra vào, cửa sổ, trước các hành lang.
Lần này, không ai đuổi họ. Vấn đề mà hội đồng phải giải quyết liên quan đến tất cả mọi người.
Giáo trưởng tuyên bố:
- Trên bàn cân, ta có một bên là mạng sống của một kẻ lạ mặt, không còn là người Do Thái nữa, một bên là hạnh phúc của toàn thể cộng đồng của chúng ta.
Các bậc hiền giả nín thinh. Từ các cửa ra vào, cửa sổ, quần chúng càu nhàu không tán thành. Giáo trưởng nói tiếp:
- Tôi đề nghị chọn trong chúng ta một người mang nhiệm vụ khó khăn là đi làm chứng.
- Đi phản bội! Từ cửa sổ, một giọng nói thiếu niên vang lên.
Naomi lấy tay bịt miệng Aaron và đẩy em ra xa cửa sổ.
- Chính Joseph Zatsouto mới là kẻ phản bội, một trong những vị hiền giả hướng về phía cửa sổ nói. Anh ta đã chối bỏ tôn giáo của chúng ta.
Chợt phó thị trưởng, từ nãy đến giờ vẫn im lặng, lên tiếng:
- Ta phải biết ưu ái những ai đã dao động, biết tìm đường quay về, so với những ai không bị bắt buộc phải khôi phục lại xác tín, lòng tin, niềm hy vọng vào sự công bằng của Đấng Toàn năng của họ.
Phó thị trưởng quay về phía giáo trưởng, cung kính nói:
- Thưa giáo trưởng, tôi hy vọng đã dẫn đúng sách Torah, đoạn nói về những người đã quay về sau khi chịu hình phạt?
Giáo trưởng gật đầu tán thành, hăm hở đến nỗi Naomi thoáng nghĩ ông ta chưa hề đọc đoạn đó trong sách Torah. Nhưng cô không có thì giờ nghĩ xa hơn nữa. Cô chú ý nghe phó thị trưởng nói.
- Chúng ta không có sự lựa chọn, phó thị trưởng tuyên bố.
- Thế là thế nào? Nếu một người trong chúng ta đi làm chứng... một vị hiền giả phản ứng.
- Nếu một trong chúng ta đến làm chứng, Joseph Zatsouto sẽ bị hỏa thiêu. Và người làm chứng cũng thế, vì người đó đã không làm chứng ngay. Cuối cùng tất cả chúng ta sẽ bị đuổi đi và sẽ là may mắn nếu còn được sống sót.
- Bất hạnh thay cho chúng ta! Một vài người đàn bà rên rỉ. Quỷ tha ma bắt bọn bội giáo!
- Kẻ nào kêu gọi đầy đọa người vô tội đáng thương, chính kẻ đó sẽ bị đầy đọa! Phó thị trưởng tức giận quay về phía cửa sổ, gào lên.
- Ý ông thế nào? Các hiền giả hỏi.
- Cái tôi đề nghị phải được đám phụ nữ nghe thấy. Hãy cho họ lại gần cửa sổ.
- Đám phụ nữ ư? Những người đàn ông phản đối. Vị phó thị trưởng trẻ này không biết ông ta đang làm gì... Đã ai nghe nói đàn bà quyết định vấn đề gì chưa?
- Điều tôi đề nghị với các vị có được nhanh chóng quyết định hay không phụ thuộc vào ý kiến của những người phụ nữ của chúng ta, phó thị trưởng nhấn mạnh.
Ông chờ một lát để những người đàn ông nhường chỗ cho đám phụ nữ len lên trước mặt họ, rồi nói tiếp:
- Tôi đề nghị với các vị là nhanh chóng thu xếp hành trang, chỉ mang những thứ cần thiết thôi và đi khỏi đây ngay.
Sự im lặng đè nặng lên cử tọa.
Aaron phá vỡ im lặng trước tiên.
- Và chúng ta sẽ đi đâu? Cậu hỏi với một sự tò mò thích thú. Tiếng của cậu làm thức tỉnh những người khác.
- Chúng ta sẽ đi đâu? Họ kêu lên, không sợ hãi.
- Chúng ta sẽ ra cảng, lên một con tàu và đi sang Tây Ấn Độ. Các thủy thủ nhiều kinh nghiệm và các đồng đạo của chúng ta sẽ dẫn đường cho chúng ta, Joseph Zatsouto là một người trong bọn họ. Chú của anh ta là Abraham Zatsouto đã gom góp nhiều dụng cụ lái tàu cho người đồng đạo của chúng ta, Chistophe Colomb, sử dụng trong các chuyến thám hiểm của ông.
- Nhưng giờ Joseph sẽ ra sao? Naomi thắc mắc, không kìm được câu hỏi.
- Tôi sẽ đảm nhiệm chuyện này, phó thị trưởng nói, kiên quyết. Chúng ta có đủ tiền để mua chuộc bọn quan tòa và lính gác, cũng đủ can đảm để bắt cóc Zatsouto.
Trưa hôm sau, viên chánh án và tên chỉ huy lính gác làm bộ ngạc nhiên: Làm thế nào mà tên tù có thể trốn thoát? Chúng đổ trách nhiệm cho bọn lính bảo vệ. Bọn này lập tức bị cầm tù. Nhưng hai kẻ biến chất bất ngờ phát hiện ra khu Do Thái vắng ngắt, gió thổi lộng qua các phố không người và các ngôi nhà không cửa ra vào, không cửa sổ.
Viên chánh án ra lệnh:
- Đuổi theo chúng! Bắt lại tất cả và giết hết!
- Đuổi theo chúng! Viên chỉ huy nhắc lại. Một chiến lợi phẩm béo bở đang chờ các anh.
Lời hứa đó tăng thêm lòng hăng hái cho bọn lính. Chúng đuổi kịp những người đang chạy trốn trong rừng, gần đồng cỏ.
- Ngài hãy dẫn mọi người đi về phía Nam, Zatsouto nói với phó thị trưởng.
Cả hai đi phía sau đoàn người chạy trốn.
Naomi và Aaron đi cạnh nhau. Zatsouto lao vào những tên lính đi đầu, trong tay độc một con dao găm.
- Em biết thanh gươm của anh giấu ở đâu, Aaron kêu lên với anh và chạy về phía bụi rậm rìa đồng cỏ.
Naomi theo sát em trai. Họ lôi thanh gươm nặng ra khỏi chỗ cất giấu, mang lại cho Zatsouto đang chiến đấu như một con sư tử. Anh bắt lấy thanh kiếm. Bọn lính lập tức lùi lại một khoảng cách đáng kể. Nhưng rồi những tên khác kéo đến. Aaron liền nhảy lên lưng một tên, cắn vào tai hắn. Tên lính rú lên đau đớn, đánh rơi cây giáo. Cậu thiếu niên khéo léo bắt lấy giáo và chiếm lĩnh vị trí bên cạnh Zatsouto. Cho đến lúc đó, không một tên lính nào lẻn được ra phía sau họ để đuổi theo những người trốn chạy. Nhưng rõ là Zatsouto và Aaron sẽ không thể cầm cự nổi vì bọn chúng kéo đến mỗi phút một đông.
- Chạy đi, cả hai người. Em sẽ kìm chân chúng! Naomi kêu lên.
Bọn lính quay sang cô: Cô bỏ khăn quàng. Mái tóc đen dài của cô bay trong gió. Mắt cô long lên như cục than hồng. Hai bàn tay không, cô tiến lên chống lại bọn lính.
- Một con phù thủy!
Chúng lùi lại. Naomi tiến lên, cánh tay vươn ra phía trước, miệng cầu kinh.
Thốt nhiên, có tiếng rìu rít lên trong không khí.
- Chú ý, Naomi! Aaron kêu lên.
Naomi nhảy sang bên cạnh. Lưỡi rìu cắm ngập vào một thân cây, ngay cạnh cô.
- Bắt lấy nó! Viên chỉ huy hô, chỉ là một con Do Thái bình thường.
Bọn lính vây tròn Naomi. Chúng nâng kiếm lên trước cô gái không vũ khí... và chém xuống. Có tiếng kim khí vang lên như thể một thanh thép vừa đụng một thanh thép hay hai thanh kiếm giao nhau. Chỗ Naomi vừa đứng lúc trước không có ai cả... Bọn lính chưng hửng nhìn nhau, rồi kinh hoảng, vắt giò lên cổ chạy.
Zatsouto và Aaron nhìn chúng chạy trốn, rồi gọi Naomi nhưng vô hiệu. Hai người đi quanh chỗ Naomi vừa đứng. Họ không thể đợi được vì còn phải đuổi kịp những người khác. Naomi không để lại dấu tích nào.
Năm 1654, không xa vùng Amsterdam Mới(9), thuộc địa của Hà Lan, một chiếc tàu tên gọi Sainte-Catherine cập bến, trên tàu có hai mươi ba người Do Thái. Họ trốn khỏi thành phố cảngRecife, ở Brésil, nơi tòa án chống dị giáo lan đến.
Họ kể họ là hậu duệ của những người Do Thái đầu tiên đến cư trú ở vùng này. Thêm nữa, họ còn nói họ được cứu thoát bởi một người phụ nữ Do Thái rất dũng cảm.
Giống như tổ tiên họ xưa đã rời bỏ Thế Giới Cũ nhân một chuyến thám hiểm của Christophe Colomb, gần 150 năm trước.
---- HẾT ----
Truyen8.monbi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!