Ông Hoàng Xứ Kahel Chương 1


Chương 1
Vào đúng lúc ra khỏi nhà để xuống tàu thì giọng nói đay nghiến yêu kiều của vợ ông cất lên khiến Olivier de Sarderval đứng sựng lại ngay giữa cầu thang.

- Aimé đáng thương của em ơi, nhìn xem mình quên cái  gì này!

Ông sờ ngay lên đôi tai nóng bừng của mình và lưng rung lên, sau đó đưa ánh mắt cầu khẩn về phía nàng tiểu quỷ xinh đẹp dịu hiền, kẻ vừa mới hành ông xong.

- Còn gì nữa đây, hả nàng Rose yêu quý của anh? Chính mình đã giúp anh sắp xếp va li kia mà!

- Thế cái này?

- Ôi! Anh đảm bảo với mình đây không phải là lúc đùa đâu, em yêu ạ! Mình có hiểu không, anh ra đi để đến tận châu Phi kia đấy! Đến Timbo!

- Chính thế! - Nàng cắt ngang gọn lỏn, trong lúc cứ phăm phăm vượt lên trước ông ở ngoài sân, nơi đám gia nhân đang chất nốt những rương hòm và thắng ngựa vào xe.

- Mình dẫu sao cũng không mở tung hành lý của anh chỉ vì thứ đó thôi chứ!

- Có đấy!

- Nhưng mình muốn anh làm gì với nó chỗ đám Da Đen hả?

- Mình sẽ diện nó để chơi trong nhà hát kịch của họ!

- Trong những tình huống khác, em yêu ạ, thì có lẽ anh sẽ không từ chối đâu! Và cũng chính vì điều này mà anh đã cưới em: những chiếc váy nhiều màu sặc sỡ của em, những chuỗi vòng em đeo đến từ những xứ sở xa lạ, những đóa hoa em cài trên tóc, và cả những vụ luyện giọng bất ngờ đôi khi em cất lên trong các nhà thờ và tại các phòng khách. Nhưng từ đó đến việc diễn kịch Méphistophélès chỗ dân Da Đen thì...!

Nhưng kẻ bạo hành yêu kiều đáng mến của ông đã kịp đóng rương lại. Ông hôn nàng và leo lên xe, bụng bảo dạ: "Ta sẽ vất nó đi ngay, cái thứ trang phục thớ lợ lố bịch ấy... khi đến cảng hay lúc ở trên tàu thủy... Đúng thế đấy, trên tàu, vứt qua thành boong. Ta đến Phi châu là để trở thành vua, chứ không phải đến đó để làm thằng hề!" Nhưng trong suốt cuộc hành trình, ông đã quên thực hiện điều đó.

Và chính tiểu tiết này đã cứu sống ông vài tháng sau đó, khi mà những người Peul đe dọa sẽ xử trảm ông.

 

Ông dõi ánh mắt cuối cùng lên thôn trang, chiêm ngưỡng phần đỉnh mái nhà hình yên ngựa thồ, những bức tường màu thổ hoàng và xanh ô liu của vô số những cửa chớp. Ông thấy khó mà công nhận rằng Napoléon đã từng lưu trú tại đây vào ngày hôm sau, khi thành Toulon bị vây hãm và đã mơ cưới nàng Désirée Clary, ái nữ đầu lòng của gia đình. Ông bật cười, một nụ cười ngắn ngủi và tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy ra với nước Pháp nếu nàng Désirée ấy đồng ý, thay vì lại thích Bernadotte hơn, ngay trước khi người này trở thành Charles XIV, vua Thụy Điển. Hơn nữa, nền Cộng hòa thứ nhất đã sụp đổ, và đến nền Đế chế thứ nhất, thế rồi do một sự ngẫu nhiên nhất trong mọi điều ngẫu nhiên, gia đình Pastré - các bạn biết rồi chứ, những nhà buôn tàu biển nổi tiếng nhất ấy mà! - đã mua lại điền trang này và rồi, lại vẫn do sự ngẫu nhiên nhất, ông đã cưới con gái của gia đình Pastré.

Và đến giờ vậy là đã tám mươi sáu năm trôi qua kể từ thời Bernadotte - nhưng liệu đây có phải là một sự ngẫu nhiên không? - ông lại băng qua cùng một khung cửa sắt để cũng đi mưu đồ một triều đình. Và chẳng phải là một nơi bất kỳ nào đâu nhé: ở chính tại Fouta-Djalon kia đấy!

Vào ngày 29 tháng Mười một năm 1879 ấy, Marseille có tuyết rơi. Chỉ nhìn toàn cảng Madrague và đại lộ Prado, không còn nhận ra nữa dưới tấm áo choàng trắng thô kệch khổng lồ của chúng, thì cũng đủ khiến ông run lập cập. Đất nước Na Uy ngày hôm đó chắc cũng giống hệt như thế.

"Rõ ràng là ta không thể tìm thấy thời khắc thích hợp hơn để đi đến Phi châu!", ông xoa hai tay vào nhau và thốt lên trong lúc đi đến cảng.

 

Một nhân viên của Công ty vận tải biển hướng dẫn người đánh xe ngựa chạy về phía cảng, nơi mà con tàu đi Niger cũng đang thả neo cạnh những chiến hạm của thành phố Constantinople và những con tàu đi Trung Cận Đông. Ông nấn ná giây lát với viên trưởng tàu trong lúc người ta chuẩn bị phòng cho ông. Ông lơ đãng nghe người đang tiếp chuyện mình nói thao thao bất tuyệt về chất lượng con tàu của ông ta và về phong cảnh của xứ Madère hay đảo Piscis. Ông cảm thấy bồn chồn. Ông thích đi du lịch, nhưng chỉ để dành niềm hoan hỉ cho lúc cập bến. Tàu hỏa và tàu thủy khiến ông ngán ngẩm; ngựa và xe đạp khiến ông chóng mặt. Than ôi, ông thầm nghĩ, mình sẽ chỉ còn là hạt bụi vào cái ngày xa lắc kia nhưng chắc chắn những tiến bộ sẽ tìm ra phương tiện để đến được Phi châu trong giây lát.

- Bữa điểm tâm vào bảy giờ sáng!... Và hãy thư giãn đi, thưa ngài, chúng ta mới chỉ là bước đầu của cuộc phiêu lưu mà thôi!

- Với ông thì vậy, thưa ngài thuyền trưởng! - Ông lầm bầm. Còn với tôi, thì chẳng mấy nữa sẽ là bốn mươi năm nay rồi.

Bốn mươi năm, điều đó muốn nói là cả một cuộc đời, chân bước trên đất Pháp còn trí óc lại ở nơi đó, thất lạc trong đám tinh vân của Miền Nhiệt Đới! Như ông, sinh vào giữa thế kỷ XIX, người ta chỉ có thể trở thành thi sĩ, bác học hay những nhà thám hiểm. Vấn đề liên quan đến ông đã mau chóng được giải quyết, ông sẽ là một nhà thám hiểm, có nghĩa là cả thi sĩ và bác học trong cùng một cơ hội. Trong những khoảng thời gian ấy, trong các sân trường, vào giờ ra chơi, các nước thuộc địa thường quay lại trong các cuộc trò chuyện cũng thường thuyên như như trò nhảy lò lò và chơi bi. Nhưng câu chuyện cổ tích không nói về yêu tinh hay những bà tiên, mà nói về các phù thủy và bộ tộc ăn thịt người chạy đuổi theo, cùng với những cây giáo của họ, sau một con vật săn hoàn toàn mới mẻ đã xuất hiện trong rừng rậm: những cha cố da trắng và những chủ trại.

 

Những con vi rút của các nước thuộc địa, ông đã vướng phải chúng khi nghe những câu chuyện kể của người chú họ lớn tuổi của ông, chú Simonet. Những cuộc phiêu lưu thú vị của các nhà tiên phong của nền văn minh bị thất lạc nơi có bộ tộc ăn thịt người, và rằng thiện tâm của chúa Jésus đã cứu sống họ trong gang tấc  khỏi những chảo nước sôi sùng sục của đám thổ dân Zoulous hay Papous, khiến cậu bé rùng mình mỗi tối, trong những bữa ăn tối của gia đình, thường rất lâu và rất khó chịu đựng. Và sau chuyện ấy, cậu thấy rất thú vị được co quắp dưới lớp chăn đắp, sung sướng vì các bức tường của phòng mình đủ độ dày, mái nhà chắc chắn và những cánh cửa đã cài chặt trong khi đó thì, dưới màn đêm lạnh tuyết rơi của xứ Lyon, những con quỷ bị rạch mặt đang lẩn quất tìm kiếm những cậu bé xinh xắn có mái tóc vàng tơ óng mượt.

Đó là một trường hợp, thế hệ trước, chú Simonet, kẻ du mục của họ tộc, một bouligant thực sự, nói theo cách như người Lyon vẫn nói thế! Ông đã lê cặp ghệt của mình mỏi mòn ở xứ Java và Anatolie. Ông đã đem về từ nơi đó cả hàng đống những giai thoại, những biệt ngữ và các thứ mới lạ. Câu chuyện nhỏ kể rằng chính ông đã đem về cho nước Pháp thứ đồ tuyệt vời được gọi là mút-sơ-lin, thứ đã làm lên vẻ thanh lịnh trang nhã của các quý bà và cả gia tài của Tarare. Người ta gọi ông là "Giáo hoàng của mút-sơ-lin" trong lúc ngả mũ thật thấp, kính cẩn chào ông. Điều chẳng phải là tầm thường, thậm chí ngay cả trong gia đình Olivier, nơi mà mỗi người phải sáng tạo một cái gì đó trước khi sinh ra.

Vào lúc lên bảy, cha tu viện trưởng Garnier, gia sư của cậu, đã thế chỗ của tổ tiên huy hoàng: thời khắc chuyển từ lời nói sang hành động. Một đảo san hô của biển Thái Bình Dương được mau chóng đặt trên bờ của vùng Azezgue, dòng sông tưới tắm cho ngôi làng nhỏ Chessy, nơi đã chứng kiến một phần thời hoa niên của cậu: với những đôi giày vải và hàng dừa tưởng tượng. Cậu bé Aimé diện vào chiếc mũ bảo hiểm và đôi ủng, cậu là nhà nghiên cứu dân tộc thiểu số dũng cảm mà Sở Địa lý phái đến khám phá vùng Zaratoutsanie, xứ sở rừng rậm vẫn còn xa lạ đối với đám người vẽ bản đồ và có thể cũng còn xa lạ với các thầy bói. Cha xứ Garnier tự vẽ trên hai cánh tay mình những hình thù và những vết rạch trên mặt: ông là Guénolé, kẻ hoang dã đáng gờm bất ngờ xuất hiện tranh hùng với Da Trắng sau khi con tàu của người này bị đắm. Họ chơi trò trốn tìm đuổi bắt cả ngày liền, giả vờ quật ngã những con thú hoang và nhảy qua những cỗ đạn pháo. Những mánh khóe và những cú tránh né cuối cùng đã chinh phục được Guénolé. Kẻ hoang dã thuần thục ngã gục dưới chân bậc thầy, chối bỏ những vật thần và những hiến sinh của loài người, ôm hôn cây thánh giá và hứa, trong tương lai sẽ hành xử như là một con chiên trung thành. Rồi học cắm trại không xa nơi đó và ăn tối bằng một hộp cá sác-đin sau bài học tiếng La-tinh.

 

Tám tuổi, giờ thì đã rõ ràng, cậu không chỉ đành lòng trở thành một nhà thám tử nữa, mà sẽ trở thành một ông hoàng của những kẻ hoang dã. Cậu sẽ vạch ra một thuộc địa sau khi đã hút cạn các đầm lầy và phác hình các bộ tộc. Cậu sẽ biến nơi đó thành một hoàng triều, sống dưới những ý tưởng và luật pháp của cậu và làm rạng rỡ dưới tài năng đặc biệt của nước Pháp. Ở những đâu: ở Tonkin(1), hay ở Fouta-Djalon đây? Cậu đã lưỡng lự rất lâu trước khi chọn giải pháp thứ hai. "Tonkin", trong đầu đứa trẻ là cậu thời đó, mang nhiều âm điệu tiếng chuông báo động liên hồi, trong khi Fouta-Djalon thì không! Hơn nữa, kể từ thời Marco Polo, châu Á thực sự không còn gì để khám phá nữa. Người ta có thể đã hình dung những khu của nó, những luật lệ của nó cho đến tận các vùng sâu của Takla-Makan. Còn Phi châu, trong thời gian đó, thì vẫn còn là tăm tối, kỳ cục, điên rồ và lạ lùng, hoàn toàn không thể dự đoán gì trước được.

Lên mười tuổi, cậu bắt đầu nghiến ngấu những câu chuyện của các nhà thám hiểm và bắt đầu viết cho Sở Địa lý. Cậu đặt dài hạn tạp chí L’Illustrateur cũng như tạp chí hướng dẫn Joanne và Muray. Cậu tự trang bị kiến thức cho mình trong bí mật và để mặc cho thời gian trôi đi. Cuộc sống của cậu diễn ra suôn sẻ trong thung lũng sông Rhône nhưng lại lớn lên cùng với những dòng sông, những cây cỏ và các bộ tộc của đất nước Soudan.

Thế rồi có kỳ thi tốt nghiệp trung học, đậu bằng kỹ sư, đám cưới và những đứa con: cậu thấy buộc phải trả món nợ của mình cho xã hội trước khi bay nhảy nơi xa. Trước khi có chuyện đó, cậu đã có thời gian để chinh phục đỉnh Mont-Blanc, phát minh ra bánh xe với trục moay-ơ treo và xây dựng nhà máy xe đạp đầu tiên, chỉ là tự trang bị kiến thức. Vào tuổi bốn mươi, ông rút cục đã có thể tiến đến điều chủ yếu: Phi châu!

Phi châu, ông đã luôn sống ở đó, chắc chắn là thế, nhưng đó vẫn chỉ là những câu chữ; những bức họa, những hình ảnh, những tấm bản đồ chìm ngập trong các con chữ. Mọi chuyện nghiêm túc chỉ vừa mới bắt đầu từ vài tháng nay, sự ám ảnh thời hoa niên của ông đã lấp ló lần đầu tiên những con quái vật và những ảo ảnh: khi ông đã lên tàu ở nhà ga Austarlitz để đến Lisbonne.

Để đến được bến bờ của châu lục Đen, thì khi ấy, tốt hơn cả phải băng qua Tage đầu tiên. Tiên phong trong các cuộc khám phá châu Phi, vĩ nhân Bồ Đào Nha là những người bén rễ vào nơi đó tốt nhất, những hồ sơ lưu trữ của họ, dồi dào và phong phú nhất, những tấm bản đồ của họ là chắc chắn nhất. Ngoài ra, các chi nhánh Boula và Bissiao của họ nằm ngay cạnh các dãy hoành sơn của Fouta-Djalon, nơi mà rất nhiều các con sông lớn nhỏ đều đổ về.

Các bạn thân đã cố vấn cho ông người có tên là Francisco da Costa e Silva, Tổng giám đốc của Sở Hải ngoại, cũng như các nhà buôn quan trọng nhất. Ông đã chẳng gặp bất kỳ khó khăn gì để có được visa và những lời khuyên, những tấm bản đồ mới nhất và những thông tin cụ thể về thói đỏng đảnh của khí hậu và những tục lệ của người bản địa. Và, hôm trước đó, ông đã tìm được cho mình một lọ nhỏ cyanure trước khi đến bưu điện bỏ lá thư di chúc cho người bạn Jules Charles-Roux, chủ tịch Hội Địa lý của Marseille. Có lẽ ông không nên làm thế, nhưng làm sao được, khi ta đến tận Phi châu mà không viết bản di chúc của mình? Có thể ông nên tự mình đem đến trao tận tay ông ấy và nói lời giã biệt nhưng phải là kẻ thiếu giáo dục thì mới trao tận tay cho ai đó bản di chúc của mình.

 

Người ta không đi đến châu Phi giống như khi người ta từ đó trở về. Trong hướng này thì đó là những bữa tiệc tối và các đêm vũ hội, các quý bà đội mũ rộng vành và trong váy vỉ xô, những ván bài của các nhà buôn, những tiếng cười vui thú của đám thủy thủ. Theo hướng khác, thì đó là không khí bệnh tật của các công chức bị sa thải, những nhà phiêu lưu phá sản và các góa phụ than vãn khóc lóc, về các ông chồng bị sát hại bởi căn bệnh sốt rét hay bởi những mũi tên tẩm độc của bọn Mọi đen.

Trên con tàu Niger, các tiệc tối thật tẻ nhạt mặc dù có những hợp âm ồn ào của những bản nhạc dân tộc được ban nhạc chơi nhiệt tình: không một ai đã từng nghe nói về Fouta-Djalon và chỉ duy nhất một khách mời biết chơi cờ một cách tạm chấp nhận được. Đó là một chàng kỹ sư trường Bách khoa còn trẻ, đến Sénégal để họa một con đường tiến sâu vào lãnh thổ. Anh ta tên là Souvignet và được trời ban cho một vẻ ngây thơ đến xúc động cùng với niềm hứng thú điên khùng của lứa tuổi hai mươi ba. Ngay tối hôm khởi hành, chàng ta tiến lại gần chiếc bàn trong phòng khách, nơi Olivier de Sanderval đang ngồi giết thời gian với những phong sô-cô-la bất ly thân của ông và những ván chơi cờ đơn, kéo một chiếc ghế và ngồi xuống:

- Tôi có thể ngồi chứ ạ?

- Cẩn thận nhé, tôi chỉ chơi với những bậc cao tay thôi đấy!

- Với những bậc cao tay ư! - Chàng nói. - Thế thì, mình bắt đầu thôi, thưa ông ngoại, ông sẽ không tìm đâu ra người nào cao tay hơn tôi trong những ván cờ và tất cả những gì còn lại đâu!... Nếu ông thắng tôi, tôi sẽ tặng ông cái này!... Ông đến Phi châu làm gì, hả ông ngoại?

- Ta đến đó để tạo cho mình một hoàng triều!

- Vua của châu Phi ư, vâng vâng, ông có dáng vẻ để làm điều đó lắm! Ông sẽ không ăn thịt tôi chứ, chí ít thì cũng vậy chứ, một khi ông đã trở thành Da Đen, hả ông ngoại?

- Ta thấy anh có vẻ còn nhạt nhẽo hơn cả hãnh tiến nữa, chàng trai trẻ ạ. Và để nói thật với anh, thì chính là để phanh lại chuyện người ăn thịt người mà ta thân chính đến châu Phi đó.

- Gì cơ, ông sẽ giết hết tất cả các bộ tộc ăn thịt người à?

- Không, ta sẽ cải hóa họ, ta sẽ biến họ thành những


bác học!

 

- Thế thì tuyệt quá, những người Pygmé đối thủ của Gay-Lussac, nhưng mà ông đúng là thần thánh đấy, ông ngoại ạ! Ông không chỉ thắng tôi trong những ván cờ mà ông còn ngông cuồng kỳ cục hơn cả tôi. Tôi không thích vậy đâu, ông ngoại ạ!

- Còn anh, anh tính làm thế nào để trở nên nổi tiếng đây?

- Những cây cầu, những bến cảng, những đền đài, thưa ông ngoại! Nhiều và rất tốt đến chừng nào mà họ lũ lượt đến phủ phục dưới chân tôi để cầu khẩn tôi chấp nhận tước vị thống đốc toàn quyền của Sénégal! Phi châu, đó là cơ hội may mắn cho thế hệ chúng tôi! Còn tôi hả, điều đó đập ngay vào mắt đấy thôi, tôi là một kẻ nhiều tham vọng!

- Tốt thôi, với tất cả mọi lời chúc tốt đẹp nhất, thưa tướng Faidherbe tương lai!

 Con tàu lướt qua các vùng Madère, đảo Canari, mũi Blanc, và đây rồi, vùng Gorée!

Trên chừng ba mươi ván đấu kéo dài suốt dọc chuyến đi, chàng trai trẻ Bách khoa dẫu sao cũng thắng được chừng mươi trận, nhưng chàng cố nài, mặc dù vấp phải sự từ chối ngần ngại của bạn chơi, để tặng lại cho ông chiếc đồng hồ vàng xinh xắn có khắc tên những chữ cái tên chàng:

- Những gì đã nói là phải thực hiện, cuộc sống là vậy, ông ngoại ạ!

Còn cách vịnh biển cả vài ki-lô-mét, người ta đã nhìn thấy đám dân Da Đen. Những con thuyền nhỏ mong manh của họ xuất hiện rồi lại biến mất trong những làn sóng của con tàu. Họ náo động giữa những ngọn sóng, gần như trần truồng, và hình bóng họ gợi lại nơi đám Da Trắng những hình khối huyền bí và sắc sảo của những bức tượng về họ. Đám này lắp bắp rồi thốt ra những tiếng kêu, đám kia lại lộn nhào, đầu lao xuống trước, kình địch với những con sóng trong trò xoay mình trên
mặt nước.

- Quý bà Xinh-Xinh, hãy ném xu cho tôi đi!

Điều đó khiến cho những ông bà chủ ấp mới đến ấy vui thú, lúc này họ đã kéo hết lên boong tàu, náo động như đám cừu cái bị xông khói. Đám Da Đen mừng quýnh. Kẻ đầu tiên lao vào những vật nhỏ xinh được tung xuống, những kẻ may mắn cám ơn bằng một tiểu khúc dài những ca khúc và những chuỗi nhăn mặt.

- Quý ông Đẹp-Đẹp-Đáng Kính, hãy ném xu cho tôi đi!

Người ta lôi ống nhòm ra, rồi thất lạc trong những phỏng đoán về những cẳng tay và sự uyển chuyển đáng ngạc nhiên
của họ.

 

Những người khác di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia trên boong tàu, ồn ào sửng sốt trong lúc chỉ đám Da Đen, chim muông, và cây cỏ. Còn ông, chẳng gì khiến ông ngạc nhiên cả. Ông đã chờ đợi chính những thứ đó. Mọi thứ đều ở đúng vị trí của nó: đất âm u và nóng ẩm, những cây cọ còm cõi và bờm xơm, tiếng trống tam tam inh ỏi không ngớt và đám hải âu quá sặc sỡ.

Gorée giờ đây đã nằm trong tầm tay, với ông chủ buôn nô lệ da đen hùng hậu và những ngôi biệt tự có ban công được bao quanh những hàng mi-mô-da, những khóm hồng và dãy phượng rực rỡ.

Một cơn rùng mình dữ dội chạy dọc sườn ông, ông bám vào thành tàu, thốt lên mà không hề sợ mang tiếng nực cười:

 

- Ta đến đây rồi, Phi châu già nua của ta ơi! Ta có mặt
đây rồi.

 

Chẳng có gì ngoài đất, cát, những đóa hoa và các con sóng. Nhưng ở tại tâm điểm Phi châu!

"Mỗi vật sơ đẳng nhất cũng đều có một ý nghĩa tại nơi đây và một sự mãnh liệt khó hình dung ở những nơi khác."

Mặc dù những xô đẩy chen lấn nhưng ông cũng lôi được cuốn sổ ghi chép của mình ra và mỉm cười ghi lại: "Ở đây, chỗ nào cũng là ánh mặt trời, chỗ nào cũng là niềm vui thú sảng khoái!" Chẳng có ý nghĩa gì, tầm thường, hoàn toàn nực cười, nhưng đúng là những gì ông cảm nhận được lúc đó. Ông chỉnh lại mũ, đặt bàn chân mình lên đất liền mà không hề cởi áo redingote(1), lẫn găng tay, thậm chí còn liếc nhìn với ánh mắt chễ giễu những người bạn đồng hành khốn khổ, những người này thì đang thở hổn hển như đám súc vật thồ hàng và đưa khăn thấm mồ hôi trán, càng trở nên ngớ ngẩn u mê gấp bội do không khí nóng và sự lạ nước lạ cái.

Ông sinh ra đã bị chứng mất ngủ và sợ lạnh, có thể nói luôn: dành cho châu Phi! Vả lại, trên miền duyên hải này thì ông đã gần như ở chính nhà mình: ngoài ngôi nhà, nơi ông được đối xử như là một đứa trẻ được chiều chuộng thì ông đã tự tạo cho mình ở Boulam, những thương điếm hải ngoại thuộc quyền sở hữu của ông và Jean-Baptiste, một du thuyền hiện đại mới toanh, thả trên một cảng tàu khác để phục vụ cho những nhu cầu và những cuộc dã ngoại ở Phi châu của ông.

Ông qua trạm hải quan, lạnh lùng băng qua đám đông ồn ã những kẻ hành khất. Bonnard và những Pistachier(1) đang đợi ông trước đám đông tu tập các cô bán hàng rong. Các cô này đứng ngồi nhung nhúc trên các vỉa hè đầy bụi bặm, phủ đầy trái cây thối, phân lừa và ruồi muỗi; phần lớn để ngực trần, tóc phủ đầy ngọc trai, khố đeo buông chưa quá gối. Các cô hút thứ tẩu ngắn bằng đất nung và chạy hỗn loạn đằng sau những đám khách sang trọng để mời họ mua những bức tượng nhỏ, quả đu đủ và dừa. Bên cạnh các cô, ngồi xổm trên nền đất, đám đàn ông cạo râu hay ngồi chơi cờ bằng những viên sỏi.

Bonnard đã sửa sang cho ông một ngôi biệt thự đối diện đại dương với một khu vườn mênh mông quay ra bãi biển. Nhưng ngay hôm sau, thay bằng việc đi tắm hay dạo một vòng qua các thương điếm, thì ông lại ngụy trang thành một chủ ấp (bốt da, áo vest chống mưa, mũ bảo hiểm) và, bỏ rơi ngài Bonnard đáng thương, ông một mình phiêu lưu trong các con hẻm của thành phố để thăm thú các chủ buôn nô lệ hùng hậu và hít thở đầy buồng phổi mùi vị đậm đặc của các gia vị và trái cây. Nhưng có điều, trên đường đi của ông, bỗng xuất hiện một con bò tót cuồng điên. Một đám trẻ con đổ xô vào ông và chỉ còn mỗi thời gian đẩy ông vào bên trong một ngôi nhà nhỏ.

- Ông, vào đây đi! Con này tồi lắm, xấu lắm đó!

Toàn thân thấm đẫm mồ hôi và tứ chi run rẩy, ông nhìn con vật tiếp tục chặng đường của nó, một thằng bé còm cõi chẳng mấy chốc vướng vào bộ sừng của nó. "Ở đây chẳng có gì là cho không cả, chắc chắn là thế!", ông lầm bầm trong lúc cố lấy lại tinh thần. Buổi tối, sau bữa ăn, theo một đà giờ đã trở thành huyền thoại, ông khép mình đơn côi trong một góc vườn và hòa chất giọng lạ lùng của ông với chất giọng, gây hoảng loạn, của màn đêm Phi châu:

"Ban nãy, ngươi đã cứu sống ta, Phi châu già nua của ta ạ, cám ơn ngươi! Còn bây giờ, ta cầu xin ngươi đấy, hãy cho ta Fouta- Djalon, để ta có thể biến nơi đó thành hoàng triều
của ta!"

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Dakar, vẫn còn nhọc nhằn để thoát khỏi những tòa nhà kính phòng vệ cay độc của rừng rậm đã được đón ba chuyến kiệu đến thăm viếng. Sườn núi bao đầy những cây tầm xuân và gió thổi dào dạt, bãi biển, hải cảng, nhà ga và khu nhà thương mới tinh vừa được dựng lên một cách vội vã để trợ giúp khu bệnh viện ở Gorée đã trở nên chật chội do sự tăng trưởng đột biến của bệnh sốt rét và sốt vàng, tạo lên, và thật sự mà nói, đó là những khu giải trí hiếm hoi mà thành phố tặng cho ông. Nhưng những nơi này lại bốc quá nhiều mùi của những thứ mà ông nghĩ là muốn trốn chạy khỏi chúng: những mái tóc vàng bù xù, những cặp vú đàn bà nhợt nhạt, quá ộ ệ, để không thể nằm yên trong làn áo xu-chiêng, những chiếc mũ cứng, những bộ ghệt, những chiếc mũ nồi xứ Basque, những giọng nói xứ Catalogne và tỉnh Provence, những loại nước hoa phô trương, làn hơi thở nồng nặc mùi rượu vang đỏ và mùi hồi.

May mắn thay, Phi châu truyền thống (thực sự, mê ly), trong khoảng thời gian đó, vẫn còn chưa từ bỏ những miền duyên hải. Ông có thể thưởng thức nó (những nụ cười và những bóng quỷ mặt ba vạch, những thổ ngữ và các bộ tộc, những sắc màu sặc sỡ và cả những mùi hôi thối của nó) chỉ cách những quán rượu, những phòng khách chơi bài bơ-lốt và các trạm nghỉ của những đoàn khách xuyên sa mạc, vài bước chân. Ông để mặc cho bị choán lấy, như là một thứ lễ nhập môn, bởi sự ngoại lai bất tận của khu chợ, của khu phố bản địa và của khu làng chài. Và chính thế: một hương vị của mồ hôi và của muối, của gừng và của cola, một sự hỗn độn giữa bạo lực dữ dội và niềm vui, và còn hơn thế nữa, Phi châu, một sự thái quá của sấm động, 10000 của độ nóng và gió, một sự bùng nổ thường xuyên. Đầu ông bốc lên một cảm giác khoái trá và cái chết, một cơn chóng mặt say sưa vĩnh cửu.

Niềm hối tiếc duy nhất trước cơn sôi sục của thế giới đang nảy sinh này: đã không phải là người đầu tiên ở đây! Mong sao điều này được thực hiện ở đó, ở Fouta-Djalon, chắc phải có một hang động, một tổ mối, một cồn đất, một tầng dưới rừng nơi người Da Trắng vẫn còn chưa bao giờ đặt chân đến. Từ lâu, từ rất lâu rồi kia, chính trong vòng tay của Émilie mà ông đã hình dung đang ở giữa sự quay cuồng của mồ hôi và nhựa cây, của cành lá và những hồn ma. Émilie, tình yêu đầu đời của ông, nàng Juliette của ông, chàng Roméo bên bờ sông Azergue; người chị họ của ông, hơn ông ba tuổi, người mà, vì nàng, ông đã nhảy từ trên cầu xuống sông trong ý định tặng nàng cả cuộc đời mình để tỏ dấu hiệu tình yêu và lòng chung thủy. Ông khi đó chừng mười tuổi, cùng lắm là mười hai, nhưng đã có ý chí cứng đầu cứng cổ, một tâm hồn hiệp sĩ. Émilie là người duy nhất chia sẻ điều bí mật huyền bí của ông. Người duy nhất đã biết rằng, một nơi nào đó ở tận cùng Phi châu tăm tối ủ dột, có một vùng đất nguyên sơ đang kiên nhẫn chờ đợi ông lớn lên để đến quỳ mọp trước mặt ông. Lũ anh em trai của ông quá vô vị, còn đám bạn của ông thì quá thô tục để có thể hiểu được điều đó! Buổi tối vào lúc đi ngủ, lũ đần này vào phòng chúng, còn ông chìm mình vào trong vũ trụ của riêng ông. Điều chắc hẳn là không giống nhau.

 

Thế rồi thời gian trôi đi và Émilie đã bị một trận dịch tả cuốn đi và rồi thời gian lại trôi đi nữa và Émilie đã tái sinh dưới các đường nét của nàng Rose...

Điều kỳ diệu này, ông đã chờ đợi nó, ông đành lòng ghi lại điều này: "Sự Vô cùng không phải là một sự cân bằng vững chắc, bất ổn hay vô tình kêu gọi ý tưởng kết thúc hài hòa; nó là MỘT ở khắp nơi giống chính nó, đối lập ở bất cứ đâu nơi mà danh tính vô cùng của nó xuất hiện... nó sở hữu thuyết Chúa hiện diện ở khắp nơi."

 

Một chuyến thăm chóng vánh ở Rufisque (những kẻ vướng bệnh hủi, khu chợ nô lệ cổ, những ông hoàng bị truất ngôi, những đống chuột chết, và những hầm lạc khổng lồ của khu ấy) cuối cùng đã thuyết phục được ông: vùng đất đen này, con quỷ cái gợi tình, hoang dã, kích động kinh khủng dưới những tiếng sột soạt của hàng cọ và những cây leo của nó, chỉ có thể dâng hiến cho những gì còn quỷ quái hơn nó, những con thú hoang dại, những tệ nạn, những băng đảng tội phạm và những tên bạo chúa! Nếu ông muốn sở hữu nó, ông phải tìm ra cái gì đó khác sự hối tiếc, những lời nguyện cầu và những câu thần chú.

Ông hối hả thành lập một đội quân nhỏ bé gồm những tên lính bản xứ người Sénégal và một đoàn mười lăm người đàn ông. Rồi ông tuyển một thông ngôn viên và một đầu bếp. Ông đã cẩn thận chọn một người Peul (Mâly) và một tên Sérère, tức là một người anh em họ của tộc người Peul (Mâly-Yacine): đó là điều tối thiểu nhất trong các vùng lân cận, nơi mà tất cả (đàn bà, bò, vàng ròng, đất đai, sự phiền toái hay mẫn cảm) có thể được coi là lý do cho những trận đánh nhau dài và đẫm máu giữa các bộ tộc.

 

Tên đầu bếp và kẻ thông ngôn, đó là hai người trọng yếu của đoàn quân! Cuộc sống của người Da Trắng phụ thuộc vào nghệ thuật của họ. Ông sống hay chết trong chảo nấu của kẻ đầu tiên hay trong miệng của kẻ thứ hai. Một nhúm muối nhỏ, đương nhiên là nhúm muối của thầy phù thủy, và thế là trái tim của bạn ngừng đập sau hai ngày bị cảm cúm! Một từ dịch tồi thì thầm bên tai những ông hoàng Da Đen, thì bạn là người tốt, theo những tập tục của xứ ấy, hay bị thả vào lồng rắn, hoặc bị thắt cổ! Hai kẻ đó, cần phải chọn lựa kỹ càng, phải khen ngợi chúng mỗi sáng và khi tối đến, phải thưởng cho chúng mà chẳng vì cái gì cả, nhất là tên thông ngôn, thuốc độc của những câu nói, trong vùng này, thường xuyên còn đáng gờm hơn cả những chất độc có trong các món ăn.

Ngày mùng 7 tháng Mười hai, người, ngựa, du thuyền, lương thực dự trữ, đều sẵn sàng: ông lên tàu đi Boulam.

 

Có phải ông đã thực sự băng qua biển Địa Trung Hải chưa, có thực ông đến từ châu Âu không? Ông có cảm giác là không, rằng ông đã đi thẳng từ khu rừng sú vẹt bên bờ biển vùng nhiệt đới của thời hoa niên ông đến khu rừng, thực sự và tuyệt vời, mà nó đang trải dài trước mắt ông. Phi châu, ông muốn trước tiên phải ung dung từ tốn đi dọc chiều dài của nó, theo cách mà người ta thường mơn trớn, sờ nắn mông của người đàn bà trước khi đưa hẳn vào trong. Nằm dài trên chiếc ghế gấp, tại chỗ nhiều nắng nhất của boong tàu, ông ghi lại địa điểm của những rios(1), các loài chim và loài cây cỏ đa dạng đến khó tin. Sự hư ảo của mây mù miền duyên hải trôi trượt qua như một cảnh trang trí tuyệt diệu giữa màu xanh lơ của đại dương và mớ lộn xộn không tưởng của rừng hoang. Ông đã hiểu tất cả: sự im lặng đậm đặc của cây cối và tiếng kêu chiêm chiếp nhộn nhạo bất tận của loài chim.

Sự bí ẩn của xứ sở này đã đập thẳng vào tâm hồn ông.

Ông khám phá ra hình dáng kỳ lạ của cây thốt nốt và nghĩ đến việc dùng nó làm biểu tượng của hoàng triều tương lai của ông. Vào giờ nóng nhất trong ngày, ông cho dựng một tấm chắn đóng chặt vào vỏ tàu để tránh cá mập và bắt đầu một buổi tắm biển trong lúc mơ tới các bức tường thành của xứ sở Timbo.

Thời tiết ôn hòa trong suốt chuyến đi, còn con người thì có phần kém nhã nhặn hơn nhiều. Đoàn thám hiểm không hề dễ dàng, đó là một sự xung đột dữ dột thường xuyên giữa các thủy thủ xứ Gascon và các tộc người Phi châu. Nhưng khi cập bến Boulam vào ngày 15 cùng tháng, thì ông đã thành công thuần hóa được lũ vật: mỉm cười và vỗ vai đối với đám đầu tiên; những cú roi ngựa và đôi khi là những hạt san hô và sô-cô-la đối với nhóm thứ hai.

Boulam, cửa ngõ của thành Fouta-Djalon! Giờ ông chỉ còn việc phải làm sao để ních ra được chiếc chìa khóa của từng nơi mà thôi!

 

Ông được ngài tham tán Anh quốc, một quý ông trẻ, mặc dù những cử chỉ kiểu cách của mình, đang chuẩn bị đến nhập hội với Stanley trước những sụp đổ của Yolala. Họ đàm luận đôi chút trên con tàu Jean-Baptiste, quanh một chai rượu vang Bordeaux có hạng:

- Đó quả là một ý tưởng Pháp khi muốn đi đến tận Fouta-Djalon đấy! Từ bốn thế kỷ nay, người Da Trắng có mặt trên vùng duyên hải và họ chỉ còn chưa đến mười người sống sót từ Timbo trở về! Nhưng thực sự là các ông, những người Pháp, các ông không cần lịch sử, các ông chỉ cần những người hùng!

- Chúng tôi chính là những người có tài năng, ngài lãnh sự thân mến ạ, chỉ thế thôi!

- Với các ngài, chơi trò người hùng ở Fouta-Djalon sẽ còn khó khăn hơn nhiều so với trận Waterloo đấy. Nếu có điều gì xảy đến với ngài thì thế giới thậm chí sẽ còn chẳng biết đấy
là đâu.

- Tôi dẫu sao sẽ chết với sự thỏa mãn khi thấy mình đi trước các ngài ở một nơi nào đó. Các ngài đã hiện diện ở khắp nơi, các ngài lan truyền như một căn bệnh. Ngài sẽ lại nói với tôi rằng điều đó thật dễ dàng đối với những cái đầu chật hẹp hoành hành trong các bộ ngành của chúng tôi. Nhân viên tham tán duy nhất mà chúng tôi đã có trong khu vực này cho thấy là rất ít ỏi. Tôi buộc phải cầu viện trợ tới các sở trực thuộc Bồ Đào Nha và... Anh quốc đấy!

- Nếu ngài tử tế hơn một chút, thì tôi hẳn đã có thể giúp ngài một tay. Không điểm tựa thì rất khó tiến sâu vào Fouta-Djalon, và còn khó hơn nhiều khi muốn ra khỏi đó.

 

- Gì cơ, ông quen biết ai à?

- Có thể lắm nếu ngài thuận tình bỏ đi cái thói sừng sộ của đám con cháu ông hoàng Louis XIV.

Gã người Anh uống cạn ly của mình và tế nhị lau miệng bằng một chiếc mùi soa trắng tinh, hơi bất thường trong nơi rừng rú hoang dã này:

- Thôi được, dẫu gì thì tôi cũng sẽ cố giúp ngài. Không phải vì tính cách tốt của ngài đâu, điều đó là quá đòi hỏi nơi một người Pháp, mà là vì chai rượu Bordeaux ngon tuyệt này. Khi ngài đã nghỉ ngơi thỏa đáng ở Boulam và thăm thú hết vùng duyên hải, thì hãy đến khu Cassini, tìm gặp bạn tôi là Lawrence.

- Sao, những người Anh đã có mặt ở tận Cassini rồi cơ à?

- Gần như thế!

Lawrence, ông hoàng xứ Nalous và liên minh của tộc Peul, mang trong mình dòng máu Da Den và Da Trắng. Tên ông ta bắt nguồn từ một tổ tiên xa xôi châu Mỹ, một người chủ chương chế độ nô lệ, đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII và, cũng giống như phần lớn đồng loại mình, là người đã kết hôn có cheo cưới đàng hoàng với ái nữ của một vua trị vì một vương quốc Da Đen nhỏ bé để bảo vệ những lợi ích của mình. Hiện tượng đó lan tràn rất nhanh đến nỗi mà, từ Boulam đến Sierra Leone, phần lớn các tộc trưởng kể từ đó mang những cái tên mang hơi hướng châu Âu. Phía sâu trong đất liền, chế độ thuộc địa hóa tiếp tục bằng những cuộc chinh phục, trên miền duyên hải, nó đã được áp đặt: trên giường! Những cái tên Curtis, MâcCuley, Harrold, Da Silva, Da Costa, Wilkinson và những MâcCuley khác nữa, hệt như loài cây mít, từ đó về sau luôn nở rực rỡ nơi rừng rậm.

 

- Chỉ còn thiếu mỗi những cái tên mang âm hưởng Pháp thôi, ngài lãnh sự mỉa mai một cách nham hiểm. Hãy rảo chân lên, ngài thân mến ạ!

Vầng trán Olivier de Sanderval nhíu lại, ánh mắt ông trở nên hoang vắng:

- Theo một nghĩa nào đó thì chuyện này như những chồi non của chế độ thực dân. Tinh thần Âu châu thấm vào trong cơ thể châu Phi. Những ước mơ thời trai trẻ của tôi đang bắt đầu được thực hiện. Tôi đã đến đúng lúc thuận tiện. Duy những kẻ Peul cuồng tín của Fouta-Djalon đã thoát khỏi vào lúc này. Chỉ lúc này thôi!

- Hiện giờ, - ngài lãnh sự tiếp tục nói, - nếu như ngài đã mơ mộng xong, thì tôi sẽ dẫn ngài đến định vị trong ngôi nhà của ngài. Ngài có thể phỉnh nịnh cái Tôi thuộc dòng giống Gaulois của ngài: đó là đẹp nhất của thuộc địa đấy. A, các ngài, những người Pháp ấy mà, các ngài phải cần những lâu đài như Versailles, thậm chí chỉ cho một chuyến trung chuyển ở xứ Papous thôi! Khi ông bạn Bonnard của ngài đã chỉ cho tôi dự án kế hoạch về chuyện này, tôi đã ngỡ rằng ông ta đang chế giễu tôi đấy.

 

Không, đó không phải là lâu đài Versailles, mà nằm giữa những rặng tre và các loài dây leo, nó hơi có vẻ thế thôi, ngôi nhà thuộc địa tuyệt vời dềnh dang với các kiểu cầu thang và thành vịn, khu vườn mênh mông chạy thoai thoải xuống tận mép biển tỏa tiếng rì rào. Ông những muốn một cái gì đó xứng tầm đế vương mà ông đang chuẩn bị để trở thành đây. Ông đã cho đem tới đá cẩm thạch vùng Carrare, đá granít, gỗ sến và ngói đen trong các vùng nổi tiếng nhất nước Pháp. Cảm hứng nhanh của Rose, không bao giờ thiếu tưởng tượng và sự độc đáo tài tình, đã ấn định rất nhanh màu sắc và dáng vóc tại đó, nghiên cứu tỉ mỉ cảnh trí, nhưng trên giấy:

- Thế cầu thanh hình xoáy trôn ốc và vòm cửa vào phòng khách thì sao? Và chớ có quên những cây dành dành trong vườn và phòng lớn để tổ chức các đêm khiêu vũ.

Ông phải mất già nửa giờ để khám phá các gian buồng và những căn phòng. Ngài lãnh sự soi mói nụ cười nửa miệng và ánh mắt sáng lóe sự thỏa mãn của ông bằng một con mắt giễu cợt. Lên tới tầng trên, Sanderval cúi xuống thành vịn lan can ban công và chỉ tay về phía cái gì đó:

- Cái gì vậy, đằng kia kìa, gần những cây cổ thụ ấy?

- Những ụ đất nhỏ với các cây thập tự đó ư? Là thuộc địa của Beaver đấy mà! Vào thế kỷ XVIII, người đồng bào Beaver của tôi đã đến đây thành lập một thuộc địa gồm mười lăm người. Mười người chết, còn năm người kia được đưa về Anh quốc, trên một con tàu bị lạc vào chốn này, tận hai mươi năm sau đó, mình đầy lở loét và nửa điên nửa khùng. Ngài có lý đấy, chúng tôi tiến trước các ngài ở khắp mọi nơi, chỉ có điều không bao giờ chúng tôi coi mình là những người hùng.

- Người ta chẳng đòi hỏi các ngài nhiều đến mức ấy đâu! Chỉ cần các ngài chơi thẳng thắn thôi!

- Ngài có biết Quý ông Chatman nói gì không? "Nếu Anh quốc có thiện chí với Pháp quốc, thì có lẽ nó sẽ chẳng kéo dài hai mươi lăm năm." Nhưng ngài, ngài chẳng đến đây vì nước Pháp mà vì chính ngài thôi, đúng thế không? Ngài là một gã kỳ cục đấy. Điều gì có thể thu hút ngài đến Phi châu vậy?

 

- Thị hiếu lịch sử, chính thế đấy, thưa ngài Nước Anh. Cảm giác của châu Âu đã bị tê dại. Thì chính tại đây, lịch sử có cơ may bắt đầu lại từ đầu. Với điều kiện người ta phải lôi đám Da Đen ra khỏi trạng thái súc vật của chúng!

- Và chính vì điều ấy mà ngài có mặt ở đây ư, để lôi người Da Đen ra khỏi trạng thái súc vật của họ?

- Đúng vậy, tôi cho rằng đã đến lúc truyền đạt cho họ nguồn ánh sáng mà chúng ta đã nhận được từ thành Athènes và thành Roma!

- Tôi đang tự hỏi liệu mình đã đúng hay sai khi quyết định gặp ngài, thưa ngài Olivier! Chí ít thì ngài cũng đang không chế giễu tôi đấy chứ hả?

Không, ông không hề tìm cách trở nên xuất chúng hay chế giễu. Ông đang nói một cách nghiêm túc nhất trên đời. Ông nuốt nước bọt, thở sâu để ấy lại phong thái, và nhìn chăm chăm vào ngài lãnh sự đáng thương bằng cặp mắt của vị gia sư bị quấy rầy trước khi lại lên tiếng. Trong già nửa giờ, ông nhắc lại cho Người Anh những điều mà ông đã, trong mươi lần liền, cố gắng làm cho những ông tai to mặt lớn ở Marseille hiểu. Nên biết rằng những gen của Âu châu đã bị hao mòn sau hai ngàn năm với những thể thức và các thánh đường, giờ đến lượt nó phải chuyển lại cây đuốc đã được thừa hưởng của thành Athènes và Roma. Ở Hội Địa lý, Jules Charles-Roux đã nghe ông trình bày vì tình nghĩa bạn bè và cố gắng, nhưng không tin điều đó lắm, để dẫn ông quay lại với những ý tưởng hợp tình hợp lý hơn. Ở Phòng Thương mại, người ta tiếp tục đón tiếp ông, bởi vì chính ông. Duy có nàng Rose xinh đẹp dịu hiền là hình như ủng hộ ông. Nàng uống từng lời ông trong lúc mở to cặp mắt xanh lơ và quấn lấy ông tựa như loài cây leo quấn quanh một cây sồi để cùng rung lên với ông dưới ảnh hưởng tuyệt diệu của người Peul, người Mandingue, Dakar và Tombouctou. Ông nói đúng, luật lệ của tiến triển luôn đi trước mọi thứ, luôn thông tuông khắp nẻo: những ý tưởng, những phong tục, khí hậu, ngay cả Phi châu. Lex mea lux, những cảnh u tối phải biến hết nơi người Lapons cũng như nơi người Da Đen! Châu Phi, đó là một thách đó mới của trí óc sau bánh xe và máy hơi nước! Và con người ông, đương nhiên, sẽ là chủ thi công kỷ nguyên mới này của nhân loại.

- Truyền cho ai? Truyền cho ai cơ?

Ông tiếp tục nói, giọng tăng dần, mặc cho những câu hỏi gây lúng túng của Người Anh, người mà lần đầu tiên, đã mất hẳn vẻ điềm đạm lạnh lùng của mình. Truyền cho ai ư? Thì đương nhiên là cho người Da Đen rồi! Còn có thể cho ai nữa đây? Á châu thì cũng cũ kỹ hao mòn trước cả châu Âu! Còn người Ấn Độ, tộc người khốn khổ đáng thương đó đã không sống sót khỏi lưỡi kiếm của những kẻ chinh phục thế giới mới lẫn trận sốt Tây Ban Nha. Trong khi đó thì người Da Đen...!

- Điều đó là không tưởng! Tôi tự hỏi liệu tôi có nên tiếp tục nghe những chuyện này hay không đây!

Người Da Đen là hiện thực của thế giới! Ông giáng mạnh mà không thèm để ý đến những lời than vãn của viên lãnh sự. Một tư tưởng nguyên sơ, một nguồn nghị lực chí ít cũng cho cả mười ngàn năm! Chính ông chứ không phải ai khác phải truyền lại và phải khiến cho những nghiên cứu chỉ dạy của Platon và của Michel-Ange đơm hoa kết trái hơn nữa. Ông sẵn sàng để đón tiếp họ. Người Da Trắng, trong vùng này, không nên chỉ đành lòng vơ vét những cây cọ dầu và sáp ong, mà họ phải giáo dục, phải đem điều văn minh đến đó nữa! Khai hoang, vùng đất hoang này là đương nhiên rồi nhưng trên hết, trên hết, và trên hết là khai phá tinh thần tư tưởng!

- Ngài có lẽ sẽ khiến tôi bớt lo lắng hơn nếu ngài là một gã điên thực sự đấy. Chủ nghĩa lý tưởng của ngài có che giấu cái gì không hả? Khắp nơi người ta đồn rằng ngài đến đây là để tặng cho mình một vương quốc.

- Tại sao lại giấu điều đó chứ? Tôi cần một vùng đất để thử nghiệm những ý tưởng của tôi!

- Nếu tôi hiểu rõ chuyện, thì ngài sẽ đến trình diện trước tộc Peul và nói với họ rằng: "Tôi tên là Aimé Olivier, hãy cho tôi vương quốc của các người để tôi thử nghiệm những ý tưởng
của tôi!"

- Không hoàn toàn như thế đâu, tôi thoạt đầu sẽ đến đề nghị họ cấp phép thông thương và xây dựng một con đường xe lửa, sau đó...

- Một đường xe lửa cơ à!

- Người La Mã đã khai hóa văn minh cho những bộ tộc châu Âu với những hệ thống cống dẫn nước, thì chúng ta sẽ khai hóa văn minh những bộ tộc Phi châu bằng đường xe lửa!

- Vâng, nhưng tại sao lại là Fouta-Djalon?

- Đầu tiên, đó là do cái tên của nó, sau đó là do vị trí địa lý!

Ông phác họa trong không gian một tấm bản đồ tưởng tượng và giải thích lợi ích chiến lược của vùng miền núi cao nhất Tây Phi, tương đương với khoảng cách của biển và của các vương triều bên trong đất liền, nơi tất cả các con sông lớn đều bắt nguồn từ đó.

 

- Nếu như tôi tin lời nhà thám hiểm Lambert, thì đó là vương quốc hùng hậu nhất và có tổ chức nhất khu vực. Ở đó, tôi sẽ lập đại bản doanh của tôi và sẽ dải các bộ tộc dọc theo đường xe lửa. Trước tiên là Fouta, rồi đến Dinguiraye, Sakatou, Tombouctou... cho đến tận Oubanguichari, rồi đến cả Limpopo! Ước mơ của tôi là thành lập một quốc gia mới mẻ, quốc gia đầu tiên của người Da Trắng và người Da Đen, đế chế Soudan, không giới hạn...

Đến đoạn này của cuộc trò chuyện, vị lãnh sự bắt đầu nghĩ một cách nghiêm túc là phải ra về. Thế rồi, bằng tài ngoại giao tế nhị, ông ta chuyển dần đề tài sang lĩnh vực thơ ca và ca nhạc kịch, điều này đã cho phép họ kéo dài buổi tối bằng một bữa tiệc thịnh soạn được kèm theo một chai vang Bordeau khác.

 

Sau buổi đó, ông đến thăm ngài toàn quyền Bồ Đào Nha, người này đã tặng ông một buổi dạ yến và những lời chỉ dẫn. Ông lang thang trong quần đảo Bissagos, nhưng hết sức tránh hòn đảo có tên Orango, nơi mà, theo như người ta nói, do con quái vật Oumpâné ngự trị, hắn đã trở nên nổi tiếng vì đã lột da và cho vào nồi những thủy thủ Áo đã bị đắm tàu trên lãnh thổ của hắn. Ngược lại, ông rất hứng thú lục lọi trên hòn đảo Boubak và làm quen với Phi châu truyền thống, nơi mà, đối lập với thành phố, người Da Trắng vẫn chỉ là một con ma huyền bí. Tập làm quen với nó qua những cảnh sẽ lặp đi diễn lại hàng trăm lần trong suốt cuộc đời rừng rậm dài dặc của ông: đám đàn bà và trẻ nhỏ lỉnh đi ngay khi nhìn thấy ông, những cuộc nói chuyện dông dài vô bổ kèm theo quà biếu, những vụ kiện cáo theo kiểu phù thủy, những vụ trao đổi quà biếu theo tập tục dài bất tận với các ông hoàng Da Đen. Ông mãn nguyện ghi lại rằng ngay cả với những cư dân của rừng rậm này cũng không hề tỏ thù địch - ngạc nhiên, hoan hỉ, coi thường, hoảng sợ, chứ không bao giờ thù địch hết! Ông chiêm ngưỡng sự điệu đàng hơi bạo dạn của đám phụ nữ, trang điểm bằng những vỏ sò và vận váy bằng rơm tết lại, ông vui đùa với đám con trẻ đeo một túm tóc trên giữa đỉnh đầu cạo trọc và một dải sam. Ông đổi cho chúng những mẩu đường để lấy những con côn trùng hiếm. "Đó là một bước khởi đầu tốt lành - ông tự nhủ. - Thiên nhiên cũng kỳ diệu hệt như ta nghĩ còn con người thì thông minh, ngăn nắp, tài trí và thường xuyên lịch lãm."

Ông hoàng Boubak và hàng trăm thê thiếp của ông ta đã tặng ông một tuần hoan hỉ vui thú. Đáng ngạc nhiên thật! Ông hoàng này ngự trong một cung điện hai tầng với một sân lát toàn vỏ sò.

Ngoài những món quà mà nhân viên xứ Gorée của ông đã cố vấn, ông thêm vào một chiếc ly pha lê, nó đã rất vừa lòng ngài lãnh chúa nơi đây đến nỗi mà người này, ngoại trừ bò, hai con lợn và bốn con gà trống theo tập tục, còn tặng thêm cho ông, như một món quà, đứa con trai mười hai tuổi của ông ta. Ông đã cám ơn ông hoàng này nhiều ngày liền, đó là cách tôn trọng tập tục thông thường, rồi cố gắng tìm giải pháp rũ bỏ món quà cồng kềnh ấy. Người thông ngôn Mâly cố gắng hết sức có thể để giảm tranh chấp:

- Da Trắng đề nghị ngài giữ lại đứa trẻ của ông ấy cho đến lúc ông ấy từ đất liền quay về.

- Thế ông ta đi đâu, Da Trắng ấy?

- Đi Fouta-Djalon!

 

Rầm! Cơn giận dữ khiến vị quân vương bật khỏi ghế. Ông ta đe dọa tịch biên hết tài sản của họ, bẻ gãy tứ chi họ, rồi ném họ vào lồng rắn. Mâly ngã ngửa ra rằng mình đã vướng phải một sai lầm nhưng rồi đã bỏ rất nhiều thời gian để tìm lý do biện bạch cho việc ấy. Chàng thông ngôn bất hạnh cứ uổng công giỏng tai nghe ngóng, anh chỉ hiểu hàng loạt tiếng gầm vang như tiếng súng làm rung chuyển cả cung điện:

- Fouta-Djalon hả, ầy ầy!!! Không đời nào, không không, Fouta-Djalon, không đâu! Fouta-Djalon, tồi lắm, xấu lắm! Bọn Peul hả, lũ lai căng!

Lưu lượng chảy đến hệt như một dòng nham thạch, việc dịch chắc chắn là cam go:

- ... Người Peul, những đứa con của sự phản bội mà lưỡi giáo đã bị cong xuống! Trong đêm, chúng ngủ khi mà bàn tay trái của chúng vẫn thức. Nếu chúng có sắc đẹp, thì tính cách tốt lại bị cấm tiệt nơi chúng... Lũ người Peul lai căng!... Lũ Peul lai căng, lai căng! Ngươi có biết người Peul không, chính ngươi ấy? Ầy, ngươi không biết họ ư?... Thế thì, hãy xem câu đố này nhé, hãy khâu nó vào trong bộ da của con mèo, ném nó cho con trăn rồi vứt con trăn đó cho cá sấu. Bây giờ thì hãy vùi con cá sấu đó trong đám tro trong một đêm đầy sương mù, khi ấy thì ngươi đã có người Peul rồi đó!...

Vị quân vương không sao ngậm miệng lại được nữa. Rút cục thì Mâly cũng đã vỡ ra: đó là do những cuộc đột nhập không ngừng của người Peul mà tổ tiên ông ta đã dời đất liền để đến trú ngụ trong các hòn đảo này. "Và con quỷ đó đã nhét vào đầu ý tưởng rằng chúng ta là gián điệp được kẻ thù ở Fouta đưa vào! Chúng ta đang ở trong tình thế rất khó xử đấy Da Trắng ạ, những tình huống rất khó xử, wallâhi!".

 

Cuộc đàm đạo dông dài kéo dài nhiều ngày nhiều đêm liền. Họ đã phải tặng phân nửa số rượu mạnh của mình để thoát khỏi cái chết và một tấm gương phóng đại để tránh khỏi bị giữ lại đảo. Nhưng, ngay cả khi đã lấy lại được cảm xúc trung hòa nhất thì vị quân vương cũng chẳng chịu lùi bước về món quà hoàng gia của ông: Da Trắng buộc phải mang theo đứa trẻ, nếu không thì sẽ là một sự xúc phạm. Cuối cùng ông ta đã phải nhân nhượng sau hai đêm thương thảo và trà tửu khi đổi lại một bộ pyjama và lời hứa rằng Da Trắng sẽ không đi Fouta-Djalon, rằng gã này sẽ chỉ đành lòng nấn ná ngao du các khu vực cạnh biển, trước khi quay trở lại đón nhận món quà của ông.

Và đây là những gì Olivier de Sanderval ghi lại trong cuốn sổ của mình, sau chuyến quay về tuyệt vọng ở Boula:

"Chẳng nên làm mất lòng những nhân viên xứ Gorée tốt bụng của tôi, tôi đã làm rất đúng khi phiêu lưu vào vùng Bissagos đấy! Thế nên bây giờ tôi đang bị rình rập rồi đây! Sau chuyện đó thì ta chẳng còn sợ gì nữa hết, ngay cả đám người Peul ở Fouta-Djalon!"

 

Tuần sau đó, ông đã tiến hành một buổi lễ kỳ cục ngay chính giữa khu vườn nhà ông. Ông ném vào đám lửa những lá thư của ông được đem đến từ nước Pháp và, hai tay giơ cao lên trời, ông lại mở lời nói với Phi châu: "Dành cho ngươi đó, đám tro này đến từ nước Pháp! Liệu ta có thể không phải để lại cho ngươi nắm tro tàn của chính ta không!"

Rồi đến ngày 13 tháng Giêng, ông đi ngược lên vùng Cassini ba ngày liền bằng thuyền độc mộc. Ông gặp Lawrence đang có mặt cùng với các Bộ trưởng, kiểm soát công việc của vương triều. Cung điện của ông ta thực sự có vẻ là một cung điện: một tòa nhà bằng gỗ, chắc chắn là đã rệu rạo nhưng nếu ta bỏ qua sự bừa bộn và ẩm mốc thì nó lại khiến ta nhớ đến những dinh thự cổ của Bahia và của Louisiane nhờ những thành vịn và lan can. Ở Marseille, điều đó có lẽ chỉ có thể là một túp lều tranh vách nát tầm thường, ông thầm nghĩ, nhưng trong vùng này, nơi mà ngoài những túp lều nhỏ và những ngôi nhà lá, thì chỉ còn sự độc đáo của thực vật thế chỗ cho nền kiến trúc, sự cổ xưa này bắt buộc phải được tôn trọng.

Lawrence giới thiệu ông với người của mình và nói chuyện trực tiếp với ông mà không cần qua phiên dịch. Ngoài tiếng Nalou, tiếng Sousou và tiếng Peul thì ông ta còn nói tiếng Anh một cách hết sức thành thạo và xoay xở rất tốt bằng tiếng Pháp và Bồ Đào Nha. Ông ta đã nhận được thông điệp của vị lãnh sự Anh và có những thông tin cực tốt: không những Almâmi(1) cho phép ông đi trên lãnh thổ của ông ta, mà hình như, theo như bước đầu, không thù nghịch với dự án đường xe lửa của ông.

Kỳ diệu quá! Trong vài giây đồng hồ, ông đã trở thành khách quý của Fouta-Djalon. Cái vùng đất Fouta quá đỗi khép mình ấy, vùng đất Fouta đáng gờm biết bao nhiêu! Khách quý của chính Almâmi, chừng nào mà ông không ăn trộm, không giết gười và báng bổ đạo Hồi, theo như thể thức đã được thừa nhận! Aguibou, hoàng tử của Labé, sẽ đến gặp ông ở Boubah, một thành phố biên giới, để trao cho ông cuốn hộ chiếu. Điều kỳ diệu, ô vâng, đúng là điều kỳ diệu thật! Ông đã chờ đợi một lời chối từ, hay chí ít cũng là một quá trình dài lê thê đầy những thủ tục. Ông đã nghĩ rằng điều ấy hẳn sẽ kéo dài nhiều tuần hay còn nhiều tháng liền và rồi cuối cùng người ta sẽ nói không với ông. Ông thậm chí đã dự kiến một kế hoạch: đi lén vào lãnh thổ bằng cách băng qua những ngọn núi phía Nam, mặc cho những rủi ro có thể bị xử trảm. Cám ơn Lawrence, cám ơn Nalous! Và thậm chí còn cám ơn cả những người Anh, lần tí tẹo cuối cùng và cũng là lần đầu tiên!

- Chính Almâmi mới là người anh sẽ phải cám ơn chứ! Aimé độc đáo ạ, chẳng phải ai cũng được là khách quý của người Peul đâu!

- A! Thật vậy sao!... Tôi háo hức muốn đi ngay!

- Trước hết tôi phải tìm cho anh một thông ngôn hẵng!

- Tôi đã có một người rồi!

- Với người Peul, thì anh không bao giờ có thể coi là đủ thông ngôn cả đâu!

Ông không muốn trả lời. Nói không, điều đó hẳn đồng nghĩa với sự xúc phạm (thêm một lần nữa, nhấn mạnh trong vùng này nơi những ông hoàng thường hành động theo bản năng mà chẳng nghĩ suy gì và sự trừng phạt thường xuyên là trọng yếu!) Nói có thì sẽ lại lâm vào rủi ro khi bước vào vùng Fouta-Djalon thật khó vào và đầy huyền bí, đã khá đủ, có thể nói thế, lũ trộm cắp và những kẻ thám báo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông chia tay với người hùng Lawrence sau khi đã chất lên ông ta hàng đống quà cáp và cũng đã đạt được nơi ông ta nhiều thỏa thuận để lại tiếp tục rong ruổi đây đó dọc miền duyên hải và lục lọi các vùng thượng nguồn và các cửa sông lớn của vô vàn những rio đổ xô vào đó; vẽ đầy sổ những hình ảnh và những ghi chú về bản chất của đất, sự đa dạng của các loài côn trùng và loài khỉ. Ông bắt đầu học tiếng Nalou và tiếng Peul rồi dành thời gian soạn thảo từ vựng của chúng. Ông bùng nhùng trong miền rừng sú vẹt nhưng bị bất ngờ trước hình dạng của đám thực vật, thử hương vị xa lạ của hàng trăm loài trái cây, và ký với các bộ tộc quyền mở các thương điếm và cho đoàn người và xe của ông đi qua.

Ông vẽ bản đồ khu vực, lần đầu tiên đưa ra một chỉ dẫn tin tưởng về những đường vòng của vùng ven biển và dòng chảy của các con sông. Sau Kouchala, Cabacera, Koubak, Comédia và vùng Compony, ông đi đến tận những khu quanh co uốn khúc của rio Nunez và viếng thăm cột trụ khủng khiếp Vikaria, được sử dụng cho những vụ xử tử. Người ta trói những tội phạm vào đó sau khi đã cắt rời tứ chi, rồi nước thủy triều dâng cao sẽ khiến chúng bị ngạt thở nếu như, trước đó, những kẻ ăn thịt người còn chưa đến nghiến ngấu chúng.

Và đương nhiên, ông đã đến Boké và ngay lập tức đến trình diện ở chiến tuyến Pháp.

 

- Và cứ như vậy mà ngài đến Fouta-Djalon à! Đại úy Dehous, người chỉ huy nơi đó nói với ông bằng một giọng khiển trách. Ngài cần phải biết rằng chúng tôi sẽ không thể làm gì để trợ giúp ngài nếu như có chuyện gì xảy đến với ngài ở nơi đó. Người ta không thể đến Fouta-Djalon giống như khi đi dạo chơi ở vùng Auvergne. Sắp tới là tròn một năm khi mà một trong những đồng bào của chúng ta đã đi đến đó rồi mất hút, và kể từ đó chúng tôi đã chẳng có bất kỳ một tin tức gì hết.

- Ông muốn nói rằng anh ta đã bị họ ăn thịt rồi ư?

- Liệu còn chuyện gì khác xảy đến với anh ta sao?

- Thế anh ta tên là gì, người đồng bào ấy ấy mà?

- Montet hay Moutet gì đó, tôi không nhớ nữa! Một kẻ khùng điên đã nhét vào đầu ý tưởng đến đó để dạy người Peul cách trồng và sản xuất rượu nho. Dạy cách trồng và sản xuất rượu nho cho lũ Da Đen! Tôi cứ ngỡ mình đã rơi vào một tình trạng tồi tệ nhất rồi cơ đấy. Và giờ đây lại đến ngài xuất hiện!

Viên đại úy dẫu sao cũng sửa soạn cho ông một phòng nghỉ và tặng một bữa tiệc tối thịnh soạn. Nhưng trong lúc ăn, họ bị báo động bởi những tiếng kêu dữ dội từ ngoài vẳng vào. Họ chạy ra và đã chứng kiến cảnh những người lính gác đang giáng một trận đòn nhừ tử lên một người đàn ông bị xích.

- Điều này xảy đến với chúng tôi cứ hai tuần một lần, - vị đại úy giải thích. - Những kẻ hoang dã này, chúng bôi đầy chất bẩn của chúng để cho bị yểm bùa rồi đến ăn cắp trong các cửa hàng chúng tôi trong lúc lấy cớ rằng đó là dưới ảnh hưởng của các thần linh... Albert này, hãy giữ con khỉ này trong hầm giam cho tôi nhé. Ngày mai, tôi sẽ trình diện nó cho trưởng thôn.

- Thế trưởng thôn sẽ làm gì? - Olivier de Sanderval hỏi.

 

- Có lẽ ông ta sẽ kết tội hắn đến cây trụ Vikaria. Luật pháp của những con người hoang dã này còn ác độc hơn cả luật pháp của hải tặc và các quan tòa dị giáo.

- Tôi đã chứng kiến cảnh hãi hùng này khi đi đến đây. Tôi có thể làm gì để cứu sống con người bất hạnh đáng thương này?

- Chẳng gì hết! Chúng tôi không có thói quen dây dưa đến những phong tục của họ.

- Ngày mai tôi sẽ đến gặp trưởng thôn. Có thể với một chút chất thơm...

- Hãy nghe này, thưa ngài Olivier, cuộc sống của dân Da Trắng chúng ta đã tương đối phức tạp rồi đấy! Tôi xin báo trước để ngài biết, nếu ngài mà gây cho chúng tôi những rắc rối, thì tôi sẽ bắn ngài ngay lập tức đấy!

Ngày hôm sau, ông chẳng cần phải đi đến cầu khẩn viên trưởng thôn. Khi người ta mở cửa tầng hầm, nơi kẻ phạm tội nằm phủ phục, thì chỉ còn thấy đống xương của anh ta: lũ kiến bag-bag đã nghiến ngấu anh ta hoàn toàn.

Phải đi đến tận Phi châu để chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng như vậy sao! Ông sững sờ suốt cả ngày liền, không sao nuốt thứ gì khác ngoài chính nước bọt của ông. Rồi ông nhớ lại một bài đã đọc từ thời còn trẻ: chính trong hải cảng nhỏ bé này - thời ấy được gọi là Kakandy-, rất khuất gió và tránh khỏi tầm mắt hải tặc mà René Caillé đã bắt đầu chuyến vi hành của ông về hướng Tombouctou. Ông viết một bản ký sự ngắn tưởng niệm ông ấy và cho đội quân biệt phái của chiến tuyến kéo một hồi kèn và kéo cờ Tồ quốc.

 

René Caillé hiện diện, và giữ một vị trí đáng kể, trong số những huyền thoại đã khiến tuổi hoa niên của ông kinh ngạc. Giờ đây, khi mà tuổi tác đã thực thi sự sàng lọc của nó, thì ông lại tự hỏi liệu ông ấy lại chẳng vượt cả Ulysse hay Attila. Tên của ông ấy vẫn còn rung lên trong tai ông với cùng một sức mạnh mang tính kinh thánh như tên của một số trưởng lão và của Tombouctou, chắc chắn, với cùng thứ huyền diệu như Java hay Samakand. Nếu ông bì bõm trong vùng sú vẹt, đầy trở ngại và gần như là đã mắc bệnh sốt rét trước những cánh cửa chủng tộc không thể vào được của người Peul này thì trên hết đó là vì điều này: rằng mai đây tên của họ được dính trên cây gia phả tuyệt vời, rằng từ thời Robinson Crusoé, chuyện thần tiên Thời Hiện đại đã bắt đầu trải rộng. Người này là cha, người kia là con! Điều đó dành cho những nhu cầu của sự không tưởng, đương nhiên rồi, còn thực tế thì luôn ác hiểm hơn, đã tạo lập ra chúng cũng khác nhau như đất sét và đá lục bảo.

René Caillé sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, tại một ngôi làng nhỏ trong tỉnh Deux-Sèvres. Vì đã ăn trộm một cái dây đeo của phu khuân vác, cha của ông, một công nhân làm việc trong một cửa hàng bánh mì, đã phải chết trong nhà tù khổ sai Rochefort năm 1780, tức năm mươi bốn năm trước JeanValjean. Còn cậu nhỏ Aimé Olivier là ông đã ra đời tại thành phố Lyon, có nghĩa là con nhà giàu, có nghĩa là những món ăn ngon tinh chất, có nghĩa là người sáng tạo, có nghĩa là lạnh lùng và kỳ quặc một cách kín đáo.

Ở gia đình Olivier, người ta chào đời mà không cần lo lắng cho ngày mai, ta lớn lên trong những dinh thự tĩnh lặng và rộng mênh mông, được bao quanh bằng những bức tường lớn, mất hút dưới một dải thực vật xum xuê tốt tươi. Sự phát triển công nghiệp của thành phố phải hàm ơn rất nhiều sự thần tài của gia đình(1). Bên họ Olivier cũng như họ Perret, cậu bé Aimé có nguồn gốc từ một dòng họ kỹ sư lâu đời. Cha của ông được coi như một nhà bác học. Ông chú Théodore là một trong những nhà sáng lập Trường Nghệ thuật trung tâm và Thủ công Paris, mà chính ông cũng là một sinh viên xuất sắc tại đó. Hợp chất a-xít sun-fua-ric công nghiệp, thế giới này phải chịu ơn người ông ngoại của ông. Còn ông, ông phải chịu ơn tất cả vì ngành hóa học, và trên hết là sự ra đời của ông! Một ngày nọ, Claude-Marius Perret, cha đẻ của ngành hóa học công nghiệp thành phố Lyon, tuyển mộ một kỹ sư trẻ và người này đã làm rất tốt công việc đến nỗi mà ông đã gả con gái mình cho anh ta. Cặp uyên ương này có sáu người con, Olivier de Sanderval là con thứ hai trong gia đình.

"Đứa trẻ này khiến em lo lắng, - người mẹ có bản chất âu lo luôn miệng nói với người bố lúc nào cũng tự tin và đầy lạc quan của ông, - có thể nói như nó không ở đây, có thể nói nó như đang nhìn cái gì đó khác chứ không phải những gì đang diễn ra xung quanh nó." Không, đó là đứa trẻ giống hệt như những đứa trẻ khác, chỉ hơi bâng khuâng tí chút thôi. Giống như tất cả mọi người, nó vâng lời cha và rất yêu mẹ - bằng một thứ tình yêu mãnh liệt, tuy nhiên lại rất kín đáo, đường đường chính chính nhưng rất dữ dội - cả gia tộc, quyến luyến với bà nhất. Nhưng nó lại không phải là một trong những đứa trẻ ủy mị và hay làm điệu bộ mà ta phải buộc dây giày và phải đút cho ăn những miếng thịt rán hay món khoai nghiền. Từ khi còn rất nhỏ, ông đã chứng tỏ sự thông minh, có nghị lực và xoay xở rất tốt. Chàng trai mơ mộng dịu hiền đó rất thích thể thao và những trò chơi nguy hiểm.

Mới lên bốn tuổi, ông đã xen vào những cuộc nói chuyện của người lớn và những câu hỏi của ông có vẻ như rất sáng tạo đến nỗi mà không ai nghĩ đến việc trách mắng cả. Lên bảy tuổi, ông đã vượt hẳn người anh cả và đã áp đặt quyền hành lạnh lùng của mình lên các em. Đó là một kiểu nghiêm khắc kỳ cục, rắn bên ngoài nhưng lại rất mềm yếu bên trong, tóm lại, giống như một con nhím biển vậy. Cậu bé dẻo dai có vóc dáng điền kinh, có nội tạng mong manh và trái tim nhân hậu, thì trong thâm tâm lại ngập tràn sự dịu dàng và nhạy cảm. Một thứ tẻo teo khiến cậu mủi lòng: giọng nói của mẹ cậu, sắc bừng sáng của một đóa hoa, nụ cười của một thiếu nữ, một đoạn thơ của Villon hay một vần điệu của Sully Prudhomme. Và nếu như cặp mắt cậu có vẻ như lúc nào cũng khô khốc, thì trái tim cậu lại nhỏ những giọt lệ. Đó là một người mơ mộng, một kẻ mơ mộng trong hành động, một kẻ không bao giờ mãn nguyện. Thực tế không bao giờ là đủ đối với cậu. Cậu luôn muốn phải hùng vĩ hơn, phải mạnh mẽ hơn và đẹp hơn.

Cậu có nghệ thuật cáu gắt, nhưng cũng có có nghệ thuật quyến rũ nữa. Trong mọi tình huống, từ cậu tỏa ra điều gì đó oai vệ, điều gì đó của bề trên, điều gì đó của người La Mã.

Vóc dáng nam nhi, mũi thẳng, cặp mắt xám chìm ngập trong một thứ ánh sáng trắng rất được phụ nữ ưa chuộng. Ánh mắt xuyên thấu của cậu, vầng trán cao - hơi hói phía bên trái và bị chặn ngang một lọn tóc dài phía bên phải -, chòm râu đen luôn được cắt tỉa kỹ lưỡng gây ấn tượng cho cả kẻ thù. Khi ông đi trong phố, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía ông: vâng, đúng vậy đấy, ông đúng là có bản mặt của thời đại mình. Người ta mường tượng ra hình ảnh Jules Verne, hay thậm chí là Victor Hugo.

 

"Tôi ra đời trong một gia đình mà sự tầm thường không có chỗ của nó." Đó là tất cả những gì ông sẽ nói về gia tộc mình nhưng có thể đó đã là hơi quá, trong gia đình quý tộc tư sản xứ Lyon này, chắc chắn thuộc gốc La-tinh và rất sùng đạo, nhưng kín đáo và nhún nhường theo cách của những đại gia đình quý tộc phương Bắc và theo thuyết Luther. Trong gia đình Olivier cũng như Perret, người ta không được sinh ra với một thói kiêu ngạo điên khùng kêu gào sự chào đời của mình, nhưng lại với một kiểu lo sợ ác hiểm là phải làm gì đó ít nhất là cũng tốt như bố. Chỉ có điều, ở những đệ tử cuồng nhiệt của sự cố gắng và kỷ cương này, những niềm vui thú của sự khùng điên thì luôn luôn ve vãn một cách hoạt bát với cách vận dụng khoa học và niềm say mê ngành công nghiệp. Xem này, ví như, Claude-Marius Perret chẳng hạn! Ông già đáng kính đi ra quảng trường Bellecourt, vào mùa đông, bằng xe trượt do đàn chó kéo và, vào mùa hè, bằng xe, do hai chú ngựa bị kích động thái quá kéo đi. Ngài tỉnh trưởng đã buộc phải ra một sắc lệnh để chấm dứt sự tàn sát. Nhưng, khi vợ ông qua đời, con cáo già đáng kính ấy lại tìm ra cách để đấu chọi với những thông tục và luật pháp: ông đã bí mật cho ướp xác vợ và giữ bà bên mình cho đến tận khi đến lượt ông cũng về chầu Chúa. Và nói gì đây về người chú này khi đã trải qua cả năm chục năm ròng để khám phá những hầm mộ thành Roma để rồi cuối cùng, rút từ đó ra một công trình đồ sộ in các bản vẽ khắc trên đá vôi rồi sau đó lại tặng hết cho tòa thánh Vatican!...

 

Trước tiên là công việc, tuy nhiên sau đó là đùa tếu, và chỉ khi nào ta thực sự xứng đáng với sự ngơi nghỉ của mình mà thôi! Những quy tắc, trong những cái đầu nóng bỏng của tổ tiên ông, thì cũng bất biến như những công thức trong phòng thí nghiệm của họ: "Người ta không ra đời để vui thú với đời mà là để thực thi những điều phải làm." Một hôm, khi ông chừng chín tuổi gì đó, ông đã bỏ trốn khỏi ký túc xá Oullins tăm tối của mình, để thoát khỏi uy quyền và món đậu nghiền chết người. Ông sau đó lén trốn xuống một trong những con thuyền chở a-xít và chất khoáng của gia đình chạy dọc sông Rhône để đến cùng cha mẹ ông, khi đó đang sống ở thành phố Avignon. Nhưng vừa đến ngưỡng cửa nhà, ông đã va ngay phải cha: "Con không có quyền có mặt ở đây vào giờ này, con biết rõ rồi đấy, Aimé ạ!" Người cha nói câu đó mà không hề biểu lộ một động tác hay to tiếng gì, và cậu bé, ngay lập tức lại ra lấy tàu mà không dám leo lên cầu thang, để ôm hôn mẹ mình, người mà cậu đã không gặp từ gần một năm nay...

 

Như tình cờ, vị vua Phi châu tương lai của chúng ta rất hợp với câu ngạn ngữ của người Bantou: "Người ta là đứa con của thời đại mình còn hơn là con của chính cha mình đẻ ra." Đó là cậu bé của thế kỷ XIX, điều đó đã nói lên tất cả!... Ordem et progresso!... Sự giáo dục, tính cách bất thường, tất cả đều chuẩn bị cho ông để làm rung động những niềm đam mê của thời đại ông: những ý tưởng, khoa học, những chuyến du lịch dài dặc, ông đã được nhào nặn với một ý thức của người tiên phong, trong một thế kỷ tiên phong! Cuộc đời ông, ông đã dự định nó từ rất sớm như một cầu thang thẳng đứng bắc về phía những kỳ tích. Các người hùng đều có huyền thoại của họ, cuộc tìm kiếm bền bỉ của ông nhắm đến sự vĩ đại và toàn vẹn có lẽ sẽ là sách của ông. Và cuốn sách đó sẽ có tựa đề là Vô Cùng, tổng thể những suy nghĩ của ông, điểm hợp nhất của tất cả những đối chiếu: ý tưởng và cuộc sống, thực tế và hư vô, con người và Chúa trời. Cuốn Sự Siêu hình của Thời hiện đại được ông bắt tay vào viết khi mười hai tuổi và hiện đã là bản sửa lần thứ
hai mươi.

René Caillé đã để lại những cuốn sổ du hành, còn ông, ông hẳn sẽ để lại một cuốn nhật ký đi đường cũng thú vị như một tư duy, một tác phẩm trữ tình hấp dẫn hay một cuốn bách khoa toàn thư.

Cũng có điều này phân biệt ông với hình mẫu nổi tiếng của ông: người này đã lao động cực nhọc cho đến Guadeloup để có thể trang trải chuyến du lịch của mình đến Toubouctou và đã chẳng có ai đón tiếp ngoài những đàn muỗi và số phận đen đủi. Trong khi đó thì ông, từ Rufisque đến Boulam, qua Ziguinchor, phần lớn những thương điếm là của ông, được thừa kế, có ít thôi, từ người buôn tàu biển Pastré, nhạc phụ của ông. Nhưng đương nhiên không có một ai trong số những nhân viên của ông đi tháp tùng ông đến Fouta-Djalon. Ông sẽ khởi hành một mình với đám Da Đen, không hầu gái, không kẻ phục vụ phòng, liệu đó chẳng phải là một kỳ tích.

 

Ông đi khắp các bản làng, bỏ rơi những bọn bịp bợm phỉnh nịnh trong các khu chợ, nhưng ông gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển mộ phu khuân vác. Dân chúng vùng duyên hải không thích phiêu lưu đến Fouta-Djalon cho lắm. "Timbo ư, sẽ chẳng sống sót mà trở về đâu, - họ đáp lời ông với sự kinh hoàng, - và nếu như người ta sống sót trở về thì cũng không được tự do mà trở về."

Ông đã phải mất ba ngày nói chuyện dông dài và chi rất nhiều quà cáp để tìm thấy đủ một nhóm người sẵn sàng đi tháp tùng ông.

Mười thung lũng, ba dải đồng bằng, năm sườn núi và sáu con sông phải băng qua!... Một buổi sáng đẹp trời, với sự sôi sục của đấng Moise lao ào ào trên Miền Đất hứa, Mâly chỉ tay về phía khu rừng cao xa xa mất hút trong đám sương mù:

- Ông thấy không, đằng kia kìa?... Ngay sau những tổ mối ấy?... Chính đó là Fouta-Djalon đấy! Ờ thì đó là xứ sở của nước và quả cây, của sữa nguyên chất và các nhà bác học! Đất nước của sự xả hơi dưỡng sức! Đừng để ý làm gì, toubab(1) ạ, chính các griot(2) nói như vậy đấy!

Khoảng cách quá lớn, tầm nhìn quá mờ ảo mặc dù đôi óng nhòm của ông. Ông thoáng nhận ra những phản chiếu của một thành núi đá và đành chấp nhận mường tượng một cách say mê những gì còn lại: Những bôwé, những touldé(3), những cô gái chăn gia súc trang điểm rạng rỡ giữa những đàn bò với bộ lông mao chim sẻ và biết bao hình ảnh khác mà những câu chuyện của Mollien, của Caillé, của Hecquart hay của Lambert đã nhắc đến cả một ngàn lẻ một lần.

Ông tiếp tục lên đường, miệng huýt sáo gió. Nhưng, ở Boubah, những sự kiện đã nhanh chóng bóp chết sự sảng khoái của ông. Ngay đêm ông đến nơi thì Alpha Gaoussou, một lãnh chúa địa phương trở về từ cuộc nổi dậy, đã tấn công khu ấy và bắt đi chừng sáu chục phu khuân vác của ông.

Aguibou, người lẽ ra phải trao cho ông hộ chiếu, do công việc đã phải dừng lại ở nơi cách chỗ đó mấy ngày đường. Phu nhân của anh ta, công nương Taïbou, thay chồng đón tiếp ông. Đây là những gì mà ông miêu tả nàng trong cuốn Hồi ký của mình: "Nàng đeo những hạt hổ phách to như quả trứng, lủng lẳng trên mái tóc tết thành những lớp mành mành nhỏ. Ngực nàng phủ đầy những đồng xu năm franc mà những tiếng kêu leng keng đánh thức trong nàng một niềm kiêu hãnh trẻ thơ. Hai cánh tay nàng đeo đầy vòng bạc, to như ngón tay cái, và ở cổ chân đeo những chuỗi vòng bằng sợi bạc tết rất dày."

Ông cúi chào nàng và ngay lập tức trao quà tặng, một miếng vải len mê-ri-nốt trắng pha kim tuyến bạc. Nàng rất hài lòng và mời ông trò chuyện:

- Vậy chính là ông hả, người Da Trắng mà chồng ta đã nói với ta! Ông muốn đi bộ đến tận Timbo, phải vậy không?

- Đúng thế, thưa công nương!

- Điều đó chồng ta đã nói với ta và anh ấy còn nói nhiều điều khác nữa mà ta thấy có vẻ kỳ quặc quá đỗi đến nỗi gần như đã quên hẳn. Hình như là ở nước ông có một cỗ máy kỳ lạ và rằng ông tính cho đem nó đến đây, ở Fouta này.

 

- Một chuyến tàu hỏa, thưa công nương, một thứ có thể đi từ đây đến Labé chỉ bằng đúng khoảng thời gian nấu một
bữa cơm.

- Điều đó hả, điều đó có thể làm được ở đó, chứ không phải ở Fouta này đâu.

- Điều đó có thể làm được ở khắp nơi, thưa công nương.

- Nhưng ta, ngay cả khi nhìn thấy nó rồi thì ta cũng sẽ không tin đâu.

Nàng ấy rất thoải mái và vui tính. Nàng thấy thích thú khi biết rằng ở nơi ấy, ở Pháp, mưa thì như muối, xốp và trắng tinh, rằng người ta cầu nguyện trước một cây thập tự và ăn thịt lợn, rằng tất cả đàn ông thì không hề cắt da quy đầu, và chỉ có quyền lấy một người vợ duy nhất. Nàng nhìn ngắm ông rất lâu, chế giễu làn da trắng nhợt của ông và mái tóc dài thẳng trơn, mái tóc của đứa trẻ sơ sinh. Thế rồi khuôn mặt nàng bỗng dưng bất động, điều đó khiến ông nhớ rằng nàng thậm chí vẫn còn chưa biết tên ông là gì:

- Ông có lẽ sẽ coi ta là đứa đần: chúng ta đã nói chuyện một thôi dài và ta thậm chí còn chưa hỏi tên của ông. Ta đồ rằng ở xứ sở người Da Trắng, người ta cũng đặt cho ông một cái tên chứ.

- Ô có chứ, thưa công nương! Ngay cả những con phố của chúng tôi cũng có tên nữa kia! Còn tôi, người ta gọi tôi là Aimé!

- Yémé hả? Đó không phải là một cái tên xấu đâu! Chỉ có điều, ông đáng ngạc nhiên thật đấy, Yémé ạ, khi muốn đem cỗ máy ấy đến đất nước chúng ta. Ông nghĩ rằng người Peul sẽ muốn nó ư?

 

- Tôi tính sẽ thuyết phục Almâmi. Bà sẽ giúp tôi chứ, đúng không, công nương? Bà là phu nhân của quân vương tương lai xứ Labé và chồng bà lại được Almâmi đánh giá rất cao, khắp miền duyên hải ai ai cũng nói vậy.

- Đúng thế, hiện thời là vậy, nhưng sẽ ra sao khi sẽ đến lượt các Alphayas trị vì đây.

Câu chuyện về Soryas và Alphayas này, Lawrence đã mất suốt cả đêm để giải thích cho ông nghe nhưng vô vọng. Giờ thì rốt cuộc nàng đã khiến ông hiểu được nhờ một bài học ngắn về lịch sử, được dần dần phát ra từ giọng nói dịu dàng bất biến của nàng. Ông hối hả ghi lại ngay rằng những người Soryas và Alphayas lập thành hai chi của gia đình Almâmi. Họ lần lượt trị vì, mỗi người thực thi quyền hành hai năm một. Dù gì thì trên giấy tờ là thế! Ai là người quyết định thường xuyên đây? Đó là những độc dược, những nhát dao găm và những trận nội chiến!

Điều quan trọng mà ông buộc phải thấu hiểu, nếu như ông muốn trị vì vùng đất này vào một ngày nào đó, Fouta-Djalon là một hoàng triều thuộc về chính trị thần quyền và phong kiến, và rằng nó bao gồm chín tỉnh: một ông hoàng đứng đầu mỗi tỉnh và Almâmi trị vì ở Timbo, đứng đầu tất cả các ông hoàng đó. Almâmi, hay đúng ra là hai Almâmi: người trị vì và người đang rậm rịch bồn chồn trong thủ đô "ngủ vùi" của ông ta! Trong lúc chờ đợi, đương nhiên rồi, đến lượt mình chiếm lấy ngai vàng!

Có một trò chơi cân bằng tinh tế phân bố quyền lực nơi những người Peul hung dữ, nhạy cảm và dè chừng này. Timbo trị vì nhưng Fougoumba, thủ đô tôn giáo, đăng quang Almâmi, lại bỏ phiếu luật pháp và tuyên bố chiến tranh...

 

- Các người có một hệ thống phức tạp quá.

- Ở đây, mọi thứ đều phức tạp cả, Yémé ạ 10000 , chính vì thế mà chúng ta mới là người Peul đấy!

Nàng giải thích cho ông rằng có vô số cách để tiếp cận chủng tộc Peul đa nghi này, nổi tiếng về mánh khóe, hay nghi ngờ, cuồng nhiệt và giảo hoạt, luôn luôn dè chừng và không bao giờ là bạn hữu cả. Ông ngồi nghe nàng nói gần ba giờ đồng hồ, ngây ngất trước những lời cố vấn của nàng cũng như bởi vành môi uốn và mùi hương của loài hoa dại từ nàng tỏa ra. Ông cúi chào giã biệt bằng một chất giọng thư giãn, gần như là thân mật:

- Tôi phó thác mình cho công nương, Taïbou ạ. Đường đi đã bị chặn lại và tôi đã mất sáu chục trong đám người của tôi rồi. Tôi bị chẹn lại ở đây, ngay trước cửa ngõ của Fouta. Mỗi ngày qua đi thì lại lấy mất của tôi nghị lực cũng như nhân sự. Nhưng tôi biết mình có thể trông cậy vào công nương, đúng không?

- Đường đã quang từ sáng nay rồi, Yémé ạ, chồng ta đã gửi thư cho ta ngay trước khi ông đến đây. Anh ấy đợi ông ở Guidali, nơi ta cũng sẽ có mặt trong vài ngày tới. Một tên biệt phái sắp tới để đưa ông đến gặp anh ấy. Ta đã ra lệnh để người ta tìm lại người của ông, hoặc sẽ cung cấp cho ông những kẻ đã bị bắt. Nếu ông gặp rắc rối, thì đừng ngại, hãy gọi Taïbou ngay! Còn bây giờ, hãy bình tâm mà ra đi, Yémé, ta ban phước cho ông, ta cầu nguyện cho ông!

Ông ào vào những cuốn sổ, ngay sau khi trở lại lều trại mình:

"Chỉ toàn mật ong, hoa, nước nguồn và một công chúa mà người ta đồn là độc ác nhưng nàng thực ra là rất thanh nhã và
dễ chịu khi nhìn ngắm, nếu Fouta là vậy thì... chúng ta hãy đến đó thôi!"

 

 

 

 

 

 

Những dãy hoành sơn đầu tiên của Fouta-Djalon hiện rõ mồn một từ Boubah - vàng ròng ở cổ người đẹp, những thác nước và thung lũng đầy hoa ở nơi đó! Những người đàn bà cũng thuộc cùng sự mỹ miều tuyệt vời hệt như thiên nhiên. Ông sướng như tiên. "Trong xứ sở mà cây nguyệt quế cao đến mười lăm mét, thì làm sao lại không mơ ngắt cho mình một nhánh được chứ? Trong số những điều phù hoa vô thường của cuộc đời, thì điều gì tặng cho ta một vẻ giống với thực tế hơn là sự chinh phục một hoàng triều, thành lập một Nhà nước đây?", hết sức kích động, ông ghi lại điều ấy ngay sau một chuyến đi dạo.

Tay biệt phái của Aguibou cuối cùng cũng xuất hiện. Đoàn người của ông khởi hành vào ngày mùng 3 tháng Ba, lúc sáu giờ chiều để tránh nắng, gay gắt đến chết người vào giờ cao điểm ngay cả trên những độ cao ấy. Ông đã dự trù chỉ coi đoạn đường Boulam - Boubah như là một chặng thăm dò, dịp để đánh giá trọng lượng thích hợp nhất cho đám khuân vác, điều chỉnh hài hòa vận tốc đi, ấn định độ dài của các chặng và nghiên cứu thái độ của dân chúng: phân biệt kẻ cắp với người tham ăn, người nhút nhát với kẻ ương ngạnh, những kẻ lợi dụng và thám báo.

Những việc nghiêm túc bắt đầu từ giờ. Ông đi về hướng miền núi cao, về hướng những người Peul hung dữ và bất ngờ, quá chậm trễ để bày tỏ tình cảm nhưng lại quá nhanh để rút dao ra. Những con đường cheo leo trên những con dốc dựng đứng xuất hiện trong vùng lân cận của Sambafil. Người của ông xuống ngựa để thúc lừa. Còn ông thì không cần xuống khỏi ngựa của ông. Cưỡi ngựa chưa bao giờ là điểm mạnh của con người lực lưỡng rắn chắc vốn chỉ quen thuộc với các đỉnh núi của Mont-Blanc và của các khu núi lửa xứ Islande này cả. Ông chỉ dùng ngựa của mình để băng qua những ổ gà sũng nước và những nhánh sông cụt mà thôi. Phần thời gian còn lại, ông thường cầm dây ngựa trong tay dắt đi, hay đưa nó cho người chăn ngựa. Người ta bắt đầu đếm các thác nước đầu tiên, những ghềnh đá đầu tiên, những cú bong gân đầu tiên, những cú rắn mổ đầu tiên. Hoa bạt ngàn khắp nơi cũng nhiều như các mạch nước nguồn. Chim muông ló ra, khiến ta ngất ngây bởi màu sắc của chúng, bởi số lượng của chúng, rồi đến lũ khỉ, đông vô số và chí chóe ầm ĩ.

Một số kẻ khuân vác lợi dụng các chỗ rẽ để bỏ trốn cùng với số hàng chúng đeo, một số khác lại quẳng đi ở ngay gốc khuất đầu tiên để thưởng thức niềm vui của sự tự do.

Đúng như dự kiến, Aguibou đón ông ở Guidali, cách Boubah ba ngày đường. Lễ đón tiếp diễn ra trong một mảnh sân rộng trải đầy đá dăm và cây sả, bao quanh là những túp lều lớn có mái bằng dưới những khoảnh hiên, những con dê non, gà mái và lũ trẻ đầu bù tóc rối nô giỡn thỏa thuê.

- Chào mừng đến xứ sở của Almâmi! Ngươi khỏe chứ? Không gặp rắc rối gì từ lúc khởi hành đến đây chứ?

Nhiều tuần liền sống giữa người Peul và người Nalou đã đủ dạy cho ông những tập tục ở đây, chí ít thì ông cũng nghĩ thế.

- Tôi từ Boubah đến, ở đó chẳng có rắc rối gì, chỉ toàn thuận lợi thôi. Hành trình của tôi rất tốt, không gặp rủi ro gì.

 

- Chúc mừng ý chí của ngươi, Da Trắng ạ, chúc mừng ý chí của ngươi đấy! Ta đã nghe nói về tên ngươi. Người Fouta-Djalon nói rằng cái tên ngươi rất tốt. Timbo sẵn sàng đón ngươi, triều đình sẵn sàng nghiên cứu những mong muốn của ngươi. Có vẻ như ngươi muốn một con đường để cho tàu hơi nước chạy đến tận Timbo.

- Đúng thế! Tôi tính sẽ bàn bạc chuyện này với Almâmi, ngay khi...

Chẳng cần đến Mâly để hiểu rằng ông vừa mới phạm phải một sai lầm có lẽ còn khủng khiếp hơn cả đận rủi ro kỳ cục của ông trên đảo Boubak. Ông chỉ cần đọc trong vẻ thù nghịch bất ngờ hiện trên những khuôn mặt và trong động tác nóng nảy của những bàn tay đưa nhanh về phía những cây gậy và những con dao găm; Aguibou phác một cử chỉ để giảm nhẹ độ mãnh liệt của đám đông, mặc dù chính ánh mắt ông ta cũng chẳng có gì trấn an cả. Ông ta nháy mắt cho nhà thông thái của mình, người này ngay lập tức biểu thị cơn giận dữ lên đầu tên toubab đang hết sức sửng sốt:

- Mi, bàn luận với Almâmi ư, hỡi người Peul, các người đã nghe rõ câu ấy chưa hả?

Mâ-Yacine cúi sát tai ông để giải thích về tội khi quân không thể dung tha của ông. Almâmi là một biểu tượng linh thiêng, người thứ ba trên đời sau có Chúa trời và Tiên tri. Người không yêu cầu, mà chỉ ra lệnh, Người không đón tiếp mà chỉ triệu tập, Người cũng đôi khi đàm đạo, nhưng chỉ với các ông hoàng và các đấng quân vương mà thôi. 

"Ngươi có phải là hoàng tử hoặc vua gì đó không hả? Trả lời đi nào, tên nghịch khách, một kẻ không danh dự và vô giáo dục!", nhà thông thái gầm lên trong lúc các giọng nói vang lên đòi người ta phải đánh đòn ông, rằng người ta bắt giữ hết người của ông và tịch thu tài sản, rằng người ta nên trục xuất ông khỏi đó và tống về miền duyên hải, rằng người ta nên ném ông cho lũ cá sấu.

Vào lúc đó, Mâly, ngay từ lúc xảy ra cuộc va chạm đã không ngừng nháy mi liên hồi, do cứ vắt óc suy nghĩ, đã phát ra một cú hắng giọng. Trong thế giới của người Peul này, nơi mà mọi người đều cúi đầu phủ phục và thì thầm, bóng gió và gợi ý, thì điều đó có nghĩa là anh ta có điều cần nói nếu như Triều đình cho phép.

- Hãy tha tội cho kẻ Da Trắng ngớ ngẩn này đi, thưa hoàng tử Aguibou! Hắn lẽ ra phải bắt đầu bằng việc chuyển tới Fouta lời chào trân trọng của chú hắn...

Rồi người thông ngôn tài tình này đề nghị một cách nhún nhường là đừng nên trông mặt mà bắt hình dong để phán xét: người toubab bất hạnh này, đã trở nên xấu xí do chứng đau bụng, phủ đầy bụi bặm do đường sá, bị gai cào xé, không là ai khác mà chính là đứa cháu ruột gọi vua Pháp bằng bác - hãy nghe cho rõ đây, ái nam của em trai của Almâmi nơi đó đấy, cùng mẹ, cùng cha đấy! Ngai vàng nước Pháp sẽ thuộc về bốn người: vua, con trai vua, em trai của vua và sau cùng là hắn, Olivier de Sanderval, cho dù lớp bụi đường bám trên tóc hắn và lớp bùn dày cả hai pouce(1) mà ta nhìn thấy rõ ràng dưới đế giày hắn kia... Thì Fouta-Djalon sẽ rất vinh hạnh được đón tiếp hắn như hắn xứng đáng điều ấy, wallâhi!... Thế đấy, người của triều thần, đó là tất cả những gì anh muốn nói, chính anh, Mâly này, đó là những gì anh đã nói hết!

Đương nhiên, vị toubab tức thì muốn cải chính sự dối trá bất nhã này. Nhưng những cái nháy mắt và những cú huých tay của hai gia nhân của ông đã ngăn không cho ông mở miệng.

Một loạt tiếng rì rầm dài lan tỏa đi trong đám đông, rồi nhà thông thái quay về phía đám người ngoại bang:

- Kẻ Da Trắng có thư từ gì của ông chú rất tôn kính của hắn không?

- Các người vậy là chẳng hề biết gì về phong tục của nước Pháp ư, lũ người Peul rừng rú ngu xuẩn và khép mình kia?

Mâ-Yacine vừa nói: Sérère, anh có quyền thóa mạ những người Peul nhân danh phong tục cổ truyền có quan hệ thân cận với trò bông lơn. Tên đao phủ rút kiếm ra, Mâly chỉ còn đủ thời gian xen vào:

- Người sẽ làm gì hả, đồ bất hạnh?... Aguibou, hoàng tử xứ Peul, Người sẽ không để cho một Sérère bị xọc chết dưới mái nhà của Người chứ hả? Ô, có chứ hả?

Một tiếng lầu bầu khiển trách bắn thẳng về phía tên đao phủ:

- Sao các người lại nhìn ta như vậy? Ta đâu có biết đó là một Sérère, wallâhi, ta đã không biết!

Hoàng tử nói với Mâ-Yacne, lúc này đang hì hục lấy lại hơi và chỉnh lại chiếc áo thụng, rõ ràng là rất sung sướng vì đã cứu được cái đầu của mình:

- Người đã thắng rồi đấy, Sérère ạ, chúng ta sai rồi. Chúng tôi đáng bị phạt. Người đồng ý một con cừu chứ?

 

- Thật xấu hổ cho chủng tộc các người! Một con cừu, quá ít ỏi cho một Sérère. Sẽ là mọt con bò tót hoặc chẳng có gì cả!

Phong tục là vậy: một Sérère có quyền đả một người Peul, cho dù người đó là hoàng tử hay vua đi nữa. Nếu người này cư xử tồi, thì ông ta sẽ phải chịu một khoản phạt.

- Hãy cho ông ta một sợi dây chão để tự ông ta vào trong chuồng gia súc, ông ta thích buộc con nào tùy thích!

- Vậy là vụ va chạm đã giải quyết xong, - nhà thông thái sủa lên. - Giờ thì sao, những phong tục của nước Pháp ấy?

Bằng một vẻ nghiêm túc nhất, vị Sérère khi ấy bắt đầu giải thích rằng vua Pháp chỉ viết cho bọn tôi tớ thôi, rằng ông nói chuyện với những người đồng chức đồng quyền với mình qua miệng của những đứa cháu ruột. Mà nói về các cháu thì vua Pháp chỉ có một mà thôi, chính gã toubab khốn khổ này, đỏ chín người vì nắng mặt trời, muỗi đốt toàn thân. Con người bất hạnh này đang ở quá xa những vườn hoa quả và cung điện
của hắn!

- Rồi, - Aguibou cắt ngang, dứt khoát, - cháu của vua Pháp sẽ được cư xử theo cấp bậc danh phận của ông ta. Hãy mổ một con bò để thết đãi ông ta, hãy tặng cho ông ta mái nhà tươm tất nhất trong ngôi làng này!

Hoàng tử đáng thương của nước Pháp buộc phải mở rương hòm: tám yard(1) vải cốt tông nhiều màu sặc sỡ, hai mươi coudé(2) guiné(3), tám con dao đồ tể, năm hòn hổ phách Thụy Điển, hai mảnh vải len mê-ri-nốt trắng nạm kim tuyến bạc, hai khẩu súng Chassepot và ba ngàn franc để tạ ơn người đồng cấp Peul của mình vì lòng độ lượng.

Đó là một sai lầm!

Lũ lừa đảo và bọn bợ đỡ đã đến quấy quả ông cả mười lần trong đêm. Kẻ này nói mình là anh em họ của Aguibou, muốn hổ phách để đảm bảo lòng thịnh tình của hoàng tử, kẻ kia tự cho mình là đạo sĩ của Almâmi, đòi ngọc trai để đảm bảo an toàn cho ông ở Timbo. Người khác nữa, lại nói mình là nhân viên hải quan của các ông hoàng ở Timbi, đòi một khẩu súng để tạo điều kiện dễ dàng cho ông trên lộ trình. Từ đó, ông nhanh chóng rút ra một bài học: nơi người Peul luôn ganh ghét, hám của và bịp bợm này, những món quà, tốt hơn cả là nên đưa trong đêm, với một nhân chứng duy nhất là ánh mắt các vầng tinh tú và của Ơn Trên lòng lành.

Cuối cùng, khi ông đã rũ bỏ được lũ quấy rầy, thì ông quyết định phân giải với hai người dưới quyền kề cận mình.

- Ta không phải là hoàng tử nước Pháp, hiểu chưa? Ta trả tiền cho các người để phục vụ thông ngôn cho ta và để tìm đồ ăn nước uống cho ta, chứ không phải là để kể những điều
nhảm nhí.

- Da Trắng ạ, ông đang ở đây, nơi những người Peul đấy! - Mâ-Yacine đáp lại. Ở đây thì phải là hoàng tử nếu như ta muốn mọi chuyện diễn ra được dễ dàng!

- Dù gì thì đều tệ hại đã xảy ra rồi, bây giờ chúng ta bị gắn liền vào một sợi thòng lọng rồi! - Mâly tiếp lời. - Ông là hoàng tử nước Pháp, cho dù ông có muốn hay không! Nếu ông nói điều ngược lại, thì chúng ta sẽ bị cho là coi thường Fouta và đầu chúng ta sẽ bị rời khỏi cổ.

 

- Và nếu như chúng không rơi, thì chúng tôi hả, chúng tôi sẽ bỏ mặc ông ở đây để quay về Dakak ngay, hiểu chưa, hả đồ toubab cứng cổ? - Mâ-Yacine nổi cáu.

Cả đêm ông chỉ ngồi giết gián, quá mệt mỏi để vùi đầu vào những cuốn sổ và quá bị tổn thương do bản chất để có thể chìm vào giấc ngủ. Ông đành lòng ghi lại những câu này trên một mẩu các tông: "Ta đã không hề nghi ngờ sẽ gặp phải những phong tục kỳ cục trong các vùng này, nhưng từ đó để rơi vào trò đùa liên quan huyết thống thì...! Một Phi châu kỳ cục! Thật ranh mãnh là Mâly và Mâ-Yacine! Thật bịp bợm là các hoàng tử Peul!... Thôi được, hãy là hoàng tử nước Pháp đi, nhưng chỉ là để giữ được cái đầu mình thôi. Có thể nói nếu ở Pháp, người ta đúng ra là đã chém phứt nó đi rồi!"

 

Aguibou lại tiếp ông một lần nữa, và lần này là trực diện nhau, có nghĩa là chỉ có người đầu bếp và kẻ thông ngôn. Anh ta luôn giữ được dáng bộ kiểu cách của Négus tự tin vào sự ra đời và ngai vàng của mình. Nhưng dẫu sao hình như cũng lo lắng, hay đúng hơn là thận trọng.

- Có thể ông đúng là cháu ruột của vua Pháp, có thể ông cũng không phải thế: người không có mặt ở đây là kẻ duy nhất biết được mẹ ông ta thuộc dạng người như thế nào. Ông có thể nói dối tôi, điều đó chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng ở Timbo, sẽ là nghiêm trọng gấp ba lần. Tôi đảm bảo với ông đấy, vị toubab đáng thương của tôi ạ, những cái đầu rơi rất nhanh ở Timbo đấy!

- Có nghĩa là... Hãy nghe này, tôi sẽ trình bày tất...

 

- Tôi thề danh dự với ông đấy, thưa hoàng tử Aguibou, - Mâly cắt ngang, - người đàn ông này cũng hết sức quý tộc trong triều đình Pháp hệt như ông trong triều đình Labé vậy!

- Đồng ý, đồng ý rồi! - Aguibou sốt sắng. - Bàn về chuyện này thế là đủ rồi!

- Về chuyện lộ trình thì thế nào? - Mâly tiếp tục.

- Các trưởng thôn đã buộc phải có trách nhiệm đảm bảo sự an ninh cho các ông, cung cấp phu khuân vác và các khu nhà nghỉ quá giang cho các ông. Phần còn lại thì mỗi người trong bọn họ sẽ thực thi điều thích hợp. Chúc mừng Người ngoại bang đến lãnh thổ của chúng ta!

-Vâng, cám ơn hoàng tử, cám ơn!

- Đó là trách nhiệm người Peul của ta, đừng cám ơn ta làm gì, toubab ạ! Ông tính sẽ ở lại Timbo trong bao lâu?

- Một tuần, có thể là hai, sau đó tôi sẽ đi Dinguiraye!

Ông không nhận thấy khuôn mặt của hoàng tử đã lại tối sầm xuống.

- Đi Dinguiraye à?

- Và tiếp đến sẽ là Siguiri, Sakouta, Kayes. Tôi có ý muốn luồn lách khắp vùng Soudan sau khi viếng thăm vùng đất Fouta tuyệt diệu của ông.

- Đúng thế đấy, Da Trắng ạ, người ta cho ông một ngón cái, thì ông lại muốn giằng lấy trọn cả cánh tay kìa! Dinguiraye ư! Rồi sau còn gì nữa đây, ngai vàng của Fouta, La Mecque và Médine nữa sao? Tốt hơn hết là ông nên dừng lại ở Timbo, ta đảm bảo rằng ông sẽ an toàn hơn nhiều đấy!

Nói rồi anh ta bỗng bất ngờ chấm dứt cuộc trò chuyện.

 

 

Ngày hôm sau, ông đón cuộc thăm viếng của Taïbou. Nàng bước vào với vẻ chậm rãi được nghiên cứu một cách tỉ mỉ chỉ rõ sự quý tộc và thứ hạng ở người Peul. Nàng còn rực rỡ hơn cả lần trước đó: nhiều dải sam và đồ trang sức hơn, hào nhoáng và thanh nhã quý phái hơn! Hai bờ vai bà được phủ nhẹ một tấm khăn san bằng đăng ten, để lộ cặp vú đầy tròn và rắn chắc mà núm vú được những quầng hạt nhỏ tí tí màu mật ong bao quanh và trên đó phủ đặc những chuỗi vòng nhẫn trơn và ngọc trai. Khuôn mặt nàng với những đường nét đều đặn tỏa sáng với những hình phản chiếu màu đồng trong ánh sáng mặt trời đầu ngày. Nhìn nghiêng, nàng có dáng vẻ của một thiếu nữ với thân hình mảnh dẻ và cặp vú tròn căng của nàng. Nhưng từ cặp mắt xinh đẹp hình nhánh tỏi toát ra một cái nhìn đại bàng, chỉ có nơi những người được ra đời để la mắng và ra lệnh. Nàng mới chỉ hai mươi bốn tuổi, hay nhiều nhất là hai mươi tám, trong xứ sở cô lập này, nơi mà ngoài một vài gia đình đã được Ả-rập hóa một cách toàn diện, thì chuyện hộ tịch hoàn toàn xa lạ. Nhưng đó là người đàn bà có thể lực nhất Fouta. Người ta nói nàng rất giàu có, độc lập và hiếu chiến. Nàng sở hữu nhiều vàng và đất đai không kém gì ông hoàng chồng nàng. Những người tình của nàng phải tính đến cả chục và nô lệ của nàng lên tới hàng ngàn. Là người cưỡi ngựa vô địch, chính nàng cầm đầu cả sáu vạn chiến binh. Những huyền thoại điên khùng nhất lan truyền đi về thân thế nàng. Người ta nói rằng nàng cắt cụt tứ chi đám nô lệ và cho chặt đầu những người trai trẻ không hợp ý. Kẻ nào bất hạnh va phải đường ngắm của nàng thì sẽ, ngày một ngày hai, gặp cảnh rủi ro, một kiểu tiến thoái lưỡng nan: lưỡi dao của Aguibou hay độc dược của chính nàng.

Nàng ngồi nghiêng trong một góc nhà. Ở tộc Peul, người ta luôn ngồi nghiêng, ăn nghiêng, nói nghiêng, liên minh nghiêng, đánh nhau theo thế nghiêng và giảng hòa cũng theo thế nghiêng. Bộc lộ sự thẳng thắn là một cách thiếu tế nhị, nhìn thẳng vào mặt nhau là một dấu hiệu không thể tha thứ của thói quê kệch. Với cư dân vùng duyên hải, sự thẳng thắn được coi là đức tính tốt nhất của con người, thì ở Fouta, sự hai mặt lại được coi là dấu hiệu của tầng lớp quý tộc và của sự tinh tế.

Giờ đã là hơn một tuần ông sống giữa những người Peul. Ông đã biết rằng sự giáo dục một cá nhân sẽ được nhận biết theo quá trình và cách thức chào đón của người ấy, theo khả năng biết che giấu tình cảm; biết giữ kín đáo và giữ kẽ trong những tình huống kịch tính nhất.

Nàng ngồi nghiêng và cùng nói với chất giọng dịu dàng và bất biến ấy, và thi thoảng, liếc nhìn rất nhanh người đối thoại mình. Ông không hiểu hết điều nàng nói, nhưng trong ngữ cảnh như vậy thì chẳng cần đến thông ngôn, vài nụ cười, vài động tác và chừng hai trăm từ tiếng Peul mà ông đã kịp nhồi nhét vào đầu thì cũng đã rất đủ rồi.

- Yémé có thực sự thích ở chỗ chúng tôi không? Ông ta có bị đau ốm không? Liệu có ai thóa mạ gì ông ấy không? Người ta có từ chối cấp nước cho ông ấy không?...

Ông trả lời rằng không, mọi chuyện diễn ra rất suôn sẻ, ông chưa bao giờ cảm thấy thoải mái như kể từ lúc đặt chân đến Fouta. Cám ơn Labé, cám ơn Timbo, cám ơn Taïbou và Almâmi! Sự phải phép buộc người ta phải trả lời như vậy ngay cả khi đã bị đánh đòn, bị cắt cụt tay chân và bị lột hết đồ đạc.

 

Khi nói xong, nàng liền che mặt bằng một vạt khăn san và cười khúc khích:

- Sao Yémé lại nhìn tôi như vậy hả?

- Nàng đã biết là vì sao rồi, - Da Trắng đáp và tiến lại gần.

- Đương nhiên là ta biết - nàng thở dài. - Khi chỉ có mỗi một người đàn ông và một người đàn bà trong một ngôi nhà...

- Chúng ta mới gặp nhau có một lần duy nhất nhưng lại cứ như thể ta đã biết nàng từ lâu lắm rồi trong khi sự thực lại không phải thế.

Ông cố ý tìm nắm tay nàng, nàng đẩy ra:

- Ông đã biết rõ ta là ai rồi. Cả xứ Fouta nói về ta như ở những nơi khác người ta nói về mưa vậy. Những khách ngoại bang biết rõ những bí mật của ta ngay khi vừa bước qua khỏi đường biên giới. Người ta hẳn đã nói với ông rằng ta không yêu chồng ta và rằng ta đúng ra là rất đặc biệt so với một người đàn bà tộc Peul.

Da Trắng không sao rời được ánh mắt mình khỏi ngấn cổ nàng, đôi môi và cặp vú. Ông cảm thấy ánh mắt mình bốc lửa, dây thần kinh căng lên, mạch máu ông phồng lên và sôi sục, trái tim ông sắp nhảy khỏi lồng ngực. Thông thường, chính trong những thứ thuộc về tinh thần khiến ông hoảng loạn; ông vẫn luôn biết giữ bình tĩnh trước những gì liên quan đến thân xác.Vậy mà giờ đây, trước ánh mắt của người đàn bà trẻ này, những điều căn bản ngăn nắp Công giáo của ông bắt đầu tan chảy còn nhũn mềm hơn cả sáp nến, lý trí của ông suy sụp, các giác quan của ông tuột mất, các nắp van đức hạnh của ông lần lượt bị đổ gục hết lĩnh vực này đến lĩnh vực khác. Chắc chắn chính cả điều ấy nữa rồi, sự huyền diệu của Phi châu!

Ông lau trán và nuốt nước bọt một cách khó khăn.

- Đồng ý thôi, công nương không yêu chồng mình, nhưng trong số đám người tình, ai là người được công nương thích
hơn cả?

- Nếu mà ta nói điều đó ra thì chính cả Fouta này sẽ bắt đầu bốc lửa cháy hết.

- Thật khó hình dung nổi lại có thể tồn tại những phụ nữ Peul giống như công nương đây!

- Ở đây, chúng ta có một cây được gọi là Kourahi. Nhưng mà này, trong số rất nhiều quả của nó, thì bao giờ cũng có một quả không có hạt.

- Tôi đã phải lòng Người rồi, công nương biết không? - Ông nói tiếp sau một hồi dài im lặng.

- Ta biết. Bất kỳ người đàn ông nào ta gặp thì đều cũng phải lòng ta, đáng buồn thế!

Nàng chỉnh lại những dải sam của mình, mơ màng trong giây lát và lên tiếng:

- Cả ta nữa, ta cũng phải lòng ngươi rồi.

Da Trắng giật thót mình, há hốc miệng, như thể bị ngạt thở do những gì mà ông vừa nghe:

- Ngươi rất đẹp! Ngoài ra, ta vẫn còn chưa biết nó như thế nào, giường ngủ của đàn ông Da Trắng ấy. Nhưng dẫu sao, ta cũng sẽ không trao thân cho ngươi đâu.

- Tại sao vậy hả?

- Cuộc đời ta như vậy đã phức tạp lắm rồi để còn có thể thêm một người tình da trắng nữa.

- A, tôi hiểu rồi, công nương muốn thử nghiệm ta, vậy hãy tự mình chọn thời điểm. Nhưng tôi cũng sẽ có thể từ chối công nương lắm chứ, cô bé ranh mãnh ạ, công nương không tin điều đó sao?

Nàng chỉnh lại chiếc khăn san và ra dấu cho tên tù nhân đang đứng đợi dưới hiên nhà sắp đến lúc ra về, trước khi đáp lời ông:

- Ngươi sẽ không thể đâu. Có ba điều mà không một người đàn ông nào có thể kháng cự nổi: vàng, quyền lực và đàn bà. Còn ta, ta là cả ba thứ ấy kia! Hi hi hi...!

- Không cho ta thân thể nàng, thì chí ít, hãy cho ta sự bảo vệ đi. Fouta của các người thật không được an toàn cho lắm!

- Ta đã nói với ngươi rồi, ta ban phước cho lộ trình của ngươi.

- Cám ơn công nương, cám ơn! - Ông nói, thở hổn hển trong lúc ôm bờ vai nàng.

Nhưng nàng lại đẩy ông ra và khoác lên bộ mặt độc tài:

- Kẻ ngoại bang, hãy liệu hồn đấy, ta là phu nhân của vua Labé tương lai. Hãy buông ta ra, nếu không ta kêu lên bây giờ!

Trong lúc bước qua cửa, nàng nói thêm:

- Sau Dabalâré, hãy rẽ qua thay ta chào hoàng tử Kâdé. Rồi ngươi xem, đó là một hoàng tử oai phong lẫm liệt, cả Fouta này sẽ nghe nói về người ấy.

Ông chào Aguibou trước khi nhổ trại. Những câu nói của phu quân đáng kính thì lại hoàn toàn trái ngược và thậm chí còn khiến ông run rẩy vì hãi hùng:

- Đến Dabalâré thì đừng có rẽ ngang dọc làm gì, Da Trắng ạ! Hãy đi thẳng đến Timbo, điều ấy sẽ tốt hơn cho ngươi đấy!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và lại một lần nữa chinh chiến với rừng rú, những ghềnh sâu và những con đèo khó vượt qua và lũ khuân vác bướng bỉnh. Nhưng nỗi cực nhọc thực sự của ông lại không nằm nhiều trong các biến cố bất thường xuất hiện trên lộ trình hay trong chính sự đau ốm quặt quẹo muôn thủa mà thiên nhiên đã gán cho ông: ông không sao tìm thấy cơn buồn ngủ.

Ngay từ khi ở Pháp thì ông đã hiểu rằng vũ khí chủ yếu của ông sẽ là mưu mẹo và lòng kiên nhẫn. Ở đây, phải dùng mưu mẹo với tất cả: khí hậu, thiên nhiên và nhất là con người.

Ông đã tính toán chi li và biết rằng phải mất năm tuần để đến được Timbo. Điều hoàn toàn có thể thực hiện được với những chặng đường hai mươi ki-lô-mét một ngày và trọng tải nhiều nhất từ hai mươi đến hai mươi lăm ki-lô-gam cho một tên phu khuân vác. Ông đã trù tính tất cả những tình huống khó lường có thể xảy ra trong thời gian này: sự ranh mãnh của cư dân, những thói đỏng đảnh của các ông hoàng, những hiểm nguy về lương thực, sự bỏ cuộc của đám khuân vác (mà tốt hơn là nên đổi sau mỗi chặng), những chứng đau bụng và những cơn khủng hoảng của bệnh sốt rét.

Vùng đồi núi mấp mô chẳng khiến cho lộ trình dễ dàng. Có những con lũ bất ngờ xảy đến cuốn người và ngựa xuống hang sâu vực thẳm cũng nhanh như vận tốc những hòn sỏi rơi. Trời mát hơn trên những độ cao này, nhưng dẫu sao vẫn phải đợi cho mặt trời giữa trưa hạ xuống để leo lên những đỉnh núi hiểm trở nhất. Và chẳng có gì tồi tệ hơn đối với một đoàn người ngựa khi phải chờ đợi giữa rừng rú. Chính trong những thời điểm ấy mà mọi bất hạnh xảy đến: những vụ trộm, những cuộc nổi loạn, những trận ẩu đả, ý chí giảm và sự chồn chân mỏi gối, những vết mổ của rắn và bọ cạp. Nhưng tất cả những chuyện đó vẫn còn chịu đựng được. Tinh thần ông đã được chuẩn bị cho điều đó rất kỹ càng và, với những gì thuộc về thể trạng, thì ông đúng ra là được trang bị rất chu đáo.

Trong gia đình Olivier, đứa trẻ chào đời cứng cáp với vóc dáng của tre, bộ xương của ngựa và sức mạnh của đầu xe lửa. Người ta khắc sâu vào trí óc tính cố gắng từ khi còn rất nhỏ. Ở ký túc xá Oullins, những thầy tu dòng thánh Dominique đã dạy cho ông sự chính xác cao độ của toán học, và những quy tắc vàng của khổ hạnh và thiếu thốn. Trong những lần leo núi dài với cha xứ Garnier, ông đã phiêu lưu với tất cả các rủi ro mà một thằng bé ở tuổi ông có thể làm.

Như ông nhớ được, thì ông đã luôn va phải những hiểm nguy và cảm thấy hơi thở của cái chết phả trên mặt ông. Ông đã không lớn lên, mà thực ra, ông đã phải tái sinh, sau mỗi lần để chuyển từ độ tuổi này sang độ tuổi khác. Và điều đó đã bắt đầu gần như từ lúc còn ở trong nôi. Mới lên tám tuổi và đi dạo cùng cha trên cầu Saint-Jean vào cái ngày đáng nguyền rủa đó, hôm mà đám quân Cách mạng năm 1848 đã ném cha ông thẳng xuống dòng sông Saône. Cặp mắt nhỏ của đứa trẻ là ông ngày ấy đã nhìn thấy cha mình biến mất dưới những con sóng cùng lúc với những nền tảng của thế giới và ý nghĩa của cuộc sống. Chuyện đó đã kéo dài một khoảng bất tận và rồi, những người lính gác bỏ đi, tác giả của cuộc đời ông, sau vài sải tay, đã tái xuất hiện từ bên kia cầu, không hề thốt ra một câu và thậm chí cũng chẳng thèm cất lời kể lại vụ rắc rối đó vào buổi tối, khi cả nhà quây quần quanh bàn ăn.

Đây là những gì ông đã ghi nhận được từ bài học không lời đó: "Chết, chẳng có gì là đặc biệt cả; sinh ra từ chính đám tro của mình, cũng vậy thôi!" Chỉ có điều kể từ ngày hôm đó, ông không ngừng bắt chước con Sphinx... Hai mươi tuổi, ông đã bị gãy xương đùi khi thử một bộ nhảy dù theo sự sáng tạo của riêng mình... Hai mươi hai tuổi, ông tự thoát nạn khỏi một con tàu bị đắm... Đến tuổi hai mươi lăm, ông suýt bị bọn cướp đường xử tử trong lúc thám hiểm những con kênh đào để, theo như ông nói, làm thông thương giữa hai bờ đại dương của Pháp... Ba mươi tuổi, trên chiến tuyến Sedan, nơi ông chỉ huy một đơn vị pháo, ông đã bị tuyên án tử hình bốn lần liền trong cùng một tuần và cả bốn lần ông đều vượt ngục thành công trước khi về được Paris, nơi những người Công xã Paris đang chuẩn bị dựng lên những chướng ngại vật ở khắp nơi... Ba mươi hai tuổi, ở Marennes, nơi cha ông đã phái ông đến xây dựng các nhà máy, ông đã suýt nữa bị nổ tung cùng với phòng thí nghiệm của mình trong lúc ông đang cố gắng chứng minh rằng người ta có thể phân tách được chất liệu.

Dẫu xảy ra chuyện đó, các nhà máy của ông tiếp tục vận hành. A-xít sun-fua-ríc của gia đình ông đã làm giàu cho biết bao cư dân đến nỗi mà ông được họ bầu là thị trưởng của thành phố. Thị trưởng, có thể được, nhưng nghị sĩ hay Bộ trưởng thì không đời nào - dẫu những người bạn thân như Gambetta và hầu tước Chasseloup-Labat cố năn nỉ -, đó phải chăng là chưa đủ liều lĩnh!

Đói khát, mệt mỏi, đi tả, hừm...! Ông hơn nữa buộc phải nhịn ăn ba ngày liền trước khi tiếp tục cuộc phiêu lưu. Ông chẳng thể làm gì để chống lại điều đó, chính căn bệnh mất ngủ mà ông phải đeo đẳng như một bệnh tủi hổ. Đêm xuống, chính là thời khắc mộng mơ cho bao người bình thường nhưng với ông lại là điểm khởi đầu nỗi khổ hình. Ông cuối cùng đã bị đẩy đến chỗ nuôi dưỡng một niềm hận thù mãnh liệt đối với sự tra tấn khả ố này, con quái vật Lucifier như ông đã tìm cho nó một biệt danh như thế.

Ông đã không đem theo nhiều sách, trọng lượng tối thiểu nhất cũng được tính đếm trong kiểu phiêu lưu này. Chỉ mỗi ấn phẩm Những đặc tính của La Bruyère, Những bản điếu văn của Bossuet, Những thử thách của Sully Prudhomme và cuốn Về sự bình an của tâm hồn của Plutarque. Ngoài những tác phẩm đó ra, ông chỉ còn mỗi bản thảo của cuốn Vô Cùng, những cuốn sổ đi đường và những ván chơi bài đơn bất tận để chờ đến lúc những người khác thức dậy mà thôi. Bát đĩa của ông, ông đã đặc biệt cho đặt làm ở xưởng thủ công tỉnh Sèvres: màu đen để tránh xa những kẻ thèm muốn chiếm đoạt, mỏng đi để không làm nặng thêm đống đồ đạc. Một cái đĩa bằng nickel và chiếc chảo cao thành dùng để nấu ăn, có dao, nĩa, thìa và một chiếc cốc bằng bạc mạ đỏ - đồng ý là nuốt gì cũng được nhưng chắc chắn là không thể ăn uống một cách cẩu thả!

Để thay đổi chút đỉnh, thì thoảng ông ra ngoài để chiêm ngưỡng thán phục sự thoáng đãng của bầu trời, cũng lấp lóe như một thứ pháo hoa vào những mùa khô như lúc này: vẩn vơ như ma trơi của sao Polaire, đỏ rực của chòm sao Grande Ourse. Ông nghe thấy vẳng đến, như một điệu nhạc dịu êm, những tiếng động không thể quên của Fouta đang chìm trong giấc ngủ: những làn điệu tràn trề thành kính của những bài vịnh thánh, những tiếng rên xiết của những đôi đang yêu nhau và bất thình lình vang lên những tiếng kêu khó dỗ bật ra từ một cơn ác mộng của một thằng bé nào đó: "Hãy cứu con, mẹ ơi! Porto(1), Porto, Da Trắng, Da Trắng! Hắn sẽ ăn thịt con, gã Da
Trắng ấy!"

 

"Hãy đi thẳng đến Timbo, điều ấy sẽ tốt hơn cho ngươi!" Ông đã đang ở Tchikampil, nhưng giọng nói của Aguibou vẫn còn phảng phất trong tâm tưởng ông. Liệu đó có phải là một sự đe dọa không? Hay đó là một sự gợi ý đây? Với những hoàng tử Peul này thì ông có lẽ sẽ chẳng bao giờ biết được điều gì bị cấm đoán và điều gì thì không; điều gì bạn phải trả giá bằng đầu lìa khỏi cổ hay chỉ là một lời khiển trách nhẹ nhàng. Ông đã không nghĩ đến điều này, rằng tất cả những tiếng thở dài hay cả những điều bí mật thầm kín nhất thì rốt cuộc, sớm hay muộn cũng sẽ đến được tai các ông hoàng, trong xứ sở Fouta-Djalon này, quá đỗi dịu ngọt, quá đỗi thanh bình, Chúa ơi, mà rồi khi ông có thời gian để tìm hiểu, thì ra tất cả các bức tường đều có tai hết và mỗi một tên đao phủ đều có việc làm.

Nguy hiểm, ý tưởng của Taïbou, nhưng kích động, tuy nhiên lại rất kích động! Kâdé đáng để ghé qua thăm thú lắm. Cả khu này nằm trong một ngã ba đặc biệt giữa những con sông và các bộ tộc, những đoàn lữ hành và các đồ vật hiếm. Dựng một thương điếm tại đó thì sẽ kiểm soát được sự trao đổi hàng hóa thịnh vượng nối liền với các vùng duyên hải và các vương quốc hùng hậu nằm sâu trong đất liền. Nhất là nếu ta có mối liên hệ mật thiết với một ông hoàng xuất chúng và nhiều tham vọng, trong xứ sở Fouta-Djalon này, nơi mà mọi thứ đều được diễn ra trong một kiểu nhập nhằng mờ mịt của một tầng lớp quý tộc mà các mối liên minh máu mủ luôn đối chọi nhau không ngừng với những cạnh tranh lợi ích! "Được, ta sẽ đi Kâdé, điều gì phải xảy ra thì sẽ xảy ra!" Ông quyết định dứt khoát trong lúc ra khỏi Tchikampil.

Ngày hôm sau, tuy nhiên, một rắc rối tẻo teo xảy đến khiến dự định này tan theo bọt nước: một người đàn ông từ đâu chui ra, trên tay cầm một cây gậy lớn và cứ thế bắt đầu đánh túi bụi vào đám phu khuân vác, miệng ra rả chửi rủa chúng. - Các người không xấu hổ ư, lũ chó ghẻ, khi đi khuân vác đồ cho một tên Da Trắng, cho một kẻ ngoại đạo, một con chó của Công giáo hả? Các người sẽ bị đầy xuống địa ngục hết, những sinh linh hèn hạ, những tâm hồn bị đầy đọa nơi diêm phủ!

 

Olivier de Sanderval nắm lấy một khẩu súng từ tên lính gác ouolof của ông và nã vài phát chỉ thiên để đuổi hắn ra xa. Người đàn ông lùi vài bước nhưng rồi quay lại ngay sau đó và giơ gậy ra dọa ông. Da Trắng nghĩ sẽ khiến hắn lỉnh đi khi nảy tiếp vài viên giữa hai chân hắn. Tên này chạy quanh và nhảy choi choi trước mỗi viên nhưng vẫn quay lại, còn cương quyết hơn nữa khi đạn thôi vãi ra:

- Ta không sợ ngươi đâu, Da Trắng ạ, ta sợ khẩu súng của ngươi thôi!

 

Hắn đuổi theo đoàn người cho đến tận Saala và luôn miệng lặp đi lặp lại:

     - Hãy ném súng của ngươi xuống đi, Da Trắng kia, và đến đây đánh nhau như một người đàn ông thực thụ xem nào!

- Chuyện đùa tếu hả - thì đó quả đúng là một đấy, và đúng hơn là chào mừng bạn đến với những con đường gập ghềnh của vùng rừng rú hoang dã, nơi mà đương nhiên ta có nhiều cơ may gặp lũ cướp đường và thú hoang hơn là những nữ vũ công Cabaret - đã kéo dài cho đến tận các vùng ven của Saala, rồi mọi thứ bắt đầu xấu đi một cách nghiêm trọng.

Sự im lặng trang nghiêm của rừng rậm bất ngờ bị phá vỡ do những tiếng động của cơn ho và của tiếng ngựa hí. Môt đoàn kỵ sĩ bao vây đoàn người đúng lúc họ băng qua đèo ngang dãy núi ngất ngưởng của thành phố. Những đoản kiếm rút ra khỏi bao, tiếng súng lên nòng lách cách. Đưa mắt liếc nhanh, Olivier de Sanderval đánh giá lũ người tấn công: năm trăm, có thể cả ngàn! "Kháng cự lại chẳng ích gì, - ông lầm bầm. - Aguibou đã giăng bẫy ta hoặc Almâmi muốn thủ tiêu ta trước khi ta tiến vào những bí mật của vương quốc ông ta... Và nếu gặp may, khi đó chỉ là những kẻ cướp đường thì ta sẽ thương lượng để giữ lại phân nửa số hổ phách để tiếp tục đi đến tận Dinguiraye. Ta sẽ cho cho chúng một lá thư bảo đảm chúng sẽ được thanh toán trên vùng duyên hải."

Mùi cái chết lại phảng phất thêm một lần nữa, bất ngờ, sững sờ, quen thuộc, và không thể chấp nhận được! Ô nhục ở Montredon, ở Perrache hay còn ở Montmartre, phi lý ở mọi nơi khác, thì lại tàn bạo, bỉ ổi, phát nôn mửa ở đây, nhất là trong tình cảnh của ông - người Da Trắng duy nhất trên hành tinh đang đứng giữa đống bụi gai, lũ sói vằn và đám người Peul!

Cuộc sống của ông từ những ngày gần đây, hệt như sự vây hãm này: khắp nơi đều là bẫy sập, những con bò sát, những kẻ thám báo, những đoản kiếm! Ông đã trải qua sự nhọc nhằn, cảm giác tuyệt vọng mà thay vì dấn sâu vào một lãnh thổ thì ông lại trườn vào trong một trận đồ bát quái xây lên bằng những đám sương mù và những cái bóng lẩn quất chui lủi, bằng những mưu kế ngầm và những tiếng thì thầm, bằng những ngôn từ đẹp đẽ và những nhát dao đâm: thế giới êm ả nhẹ êm và đầy lo ngại của người Peul! Dần dần, rừng dày đặc thêm lên, những vách đá cheo leo hơn, con người trở nên mưu mẹo lắt léo và khó nắm bắt. Lạnh lùng, nhạy cảm và thực sự là khó chia sẻ cuộc sống, lũ người Peul này, đúng là những người Anh thực sự (chủng tộc mà ông vẫn ghét thậm tệ mà thậm chí cũng chẳng thèm đặt câu hỏi tại sao)! Và đó chỉ mới là bước khởi đầu mà thôi, ở Timbo hẳn còn có điều khủng khiếp hơn nhiều đang đợi ông. Chỉ có điều ông không thể thoái lui được nữa, một cách cụ thể hơn, ông không biết phải thoái lui đi đâu - quá khứ của ông, những khu rừng, những hang đá, những thung lũng, con người, tất cả, cũng hệt như những bụi cây gai trên đường, luôn khép lại sau lưng theo nhịp ông tiến lên. Vả lại, ông cũng chẳng thoái lui, lời nói danh dự của người thuộc gia đình Olivier, tính hiếu kỳ sôi sục muốn đi đến cùng sự hãi hùng cuốn ông đi trước mọi thứ còn lại! Ông nhìn lũ người tấn công mình, hai mươi người lính của ông và một trăm phu khuân vác, cởi nút áo redingote để khỏi bị ngộp thở, buồn bã lắc đầu: "Những gì xảy đến thì sẽ xảy đến thôi, dẫu ta cũng buồn khi ngoẻo trước khi nhìn thấy thành Timbo!"

Như để đáp lại đoạn độc thoại thống thiết của ông, giọng nói của một kỵ sĩ vang lên từ trên đỉnh núi, được phóng đại một cách quá quắt do âm vang:

 

- Là ngươi ư, gã Da Trắng mà người ta gọi là Yémé?

- Đúng thế. Nhưng ơn Chúa, hãy nói ngay cho ta biết ngươi là ai và số phận nào ngươi tính dành cho ta đây!

- Hãy trình hộ chiếu của ngươi cho lính của ta đi... Tốt rồi, ta chỉ muốn trấn an mình thôi.

Đó là một chàng trai khôi ngô, mảnh mai và thanh nhã hệt như phần đông những thanh niên trẻ nơi đây, nhưng với một vẻ tuyệt mỹ mà người Da Trắng này vẫn chưa một lần chứng kiến kể từ lúc ông xuống tàu. Anh ta vận một chiếc áo chùng đẹp màu xanh lơ và đeo lủng lẳng trước ngực một đoản kiếm và một khẩu súng. Anh ta chạy nhanh xuống, lao thẳng vào ông,
khi còn cách ông chừng một mét thì dừng lại, hích cho ngựa
hí vang.

- Alpha Yaya, hoàng tử xứ Kâdé! Chính những tiếng súng đã báo động chúng ta. Chính người đã nã chúng ư?

- Kẻ khùng này bỗng dưng lao tới đánh quân của tôi...

- Ồ! Ta cứ ngỡ đó là tên cướp đường Alpha Gaoussou. Kẻ đưa thư của chị dâu ta đã nói cho ta hay về chuyến thăm viếng mà ngươi tính dành cho ta. Than ôi, cùng lúc ta cũng nhận được thông điệp của anh trai ta, mời ta đến gặp anh ấy để trợ giúp đánh lùi bọn phiến loạn quân.

Anh ta lại hích cho ngựa hí một lần nữa, rồi quay về phía kẻ điên khùng cầm gậy:

- Ngươi từ đâu đến hả?

- Từ Lèye-Féto, phía Butte-aux-chacals!

- Người đâu, hãy dẫn hắn về Lèye-Féto và hãy bắt hắn nộp phạt một con bò sữa và năm rạ lúa-rơm, điều đó sẽ dạy cho hắn thế nào là thiếu lễ độ với một khách quý của Almâmi.

 

- Ô không, thưa hoàng tử! Một con bò sữa và năm rạ lúa-rơm vì một chuyện tầm thường chẳng đáng kể ư!

- Chuyện đó hả, nó cũng chẳng khiến ta vui thích gì đâu, kẻ ngoại bang ạ! Ta thì ta chiểu theo luật pháp và ngươi chỉ
nên đành lòng nhìn thôi. Chúng ta có thể hợp tác như vậy được chứ hả?

Người Da Trắng bối rối, miệng ấp úng điều gì đó.

- Còn bây giờ, nếu ngươi đồng ý, chúng ta hãy đi đến bên dòng sông để cùng nhau uống sữa tình bạn đi, - Alpha Yaya tiếp tục nói.

Họ băng qua sông, đến giữa một nguérou, khoảng trống tròn rộng trải đầy đá dăm và cát, có hàng cọc bao quanh mà người Peul sửa sang ngay ở đầu những ngôi làng hay ở bên cạnh những con đường để dành cho những buổi hòa giải, những buổi lễ an táng hay chuẩn bị tham trận. Da Trắng hắt hơi. Một đàn gà gô từ đám cành cây bay vụt ra.

- Này toubab! - Alpha Yaya thốt lên. - Ngươi hắt hơi, đàn gà gô bay vụt ra, tất cả những điều đó chỉ có thể là những điềm rất lành mà thôi. Sự có mặt của ngươi có thể tạo điều kiện thuận lợi cho Fouta đấy!

- Mong sao sự có mặt của tôi tạo điều kiện thuận lợi cho Fouta, mong sao về phía mình, Fouta không hủy diệt tôi!

Đến lượt mình, Alpha Yaya cũng hắt hơi, nhìn trừng trừng vị khách quý của mình trong lúc nắm chặt đoản kiếm đã cắm mạnh xuống nền đất:

- Nhờ đấng Allah, đúng là buổi sáng của những điềm báo may mắn! Nào, (anh ta chìa tay cho ông), hãy là bạn của ta nhé, kẻ ngoại bang!

 

- Taïbou đã cố nài để tôi phải rẽ qua Kâdé!

- Thế nên rất bình thường khi phu quân yêu quý của chị ấy phản đối điều đó.

- Điều mà tôi không hiểu, chính là sự hùng hổ cương quyết mà ông ta biểu lộ trong chuyện này!

- Anh trai ta là thế, nồng hậu nhưng hung hăng như tất cả những đứa trẻ được nuông chiều. Đôi khi ta tự nhủ rằng cha chúng ta đã quá yêu chiều anh ấy, điều đó thật chẳng tốt gì đối với một hoàng tử.

Họ uống sữa tình bạn trong lúc bàn luận như thể họ đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi. Hoàng tử trẻ thu hút người Da Trắng bằng sự thanh lịch và trí óc sống động. "Nếu anh ta ra đời ở Timbo, anh ta hẳn đã là Almâmi rồi", ông nhủ thầm. Ông cảm thấy đằng sau giọng nói từ tốn, hơi có vẻ như hát, là một con người sáng suốt và cương quyết. Tất cả những gì nơi anh ta - ánh mắt, cử chỉ, cách diễn đạt, dáng điệu - đều nói lên sự ra đời và thị hiếu, sự quý tộc và lịch thiệp. Một hoàng tử, một hoàng tử thực sự như vẫn còn tồn tại trong xứ sở Phi châu ấy: những đường nét thanh nhã, đầu óc tinh tế, sự uyển chuyển của loài báo và dáng vóc mảnh mai của các ông bố Peul; nước da đậm, nụ cười rạng rỡ, vẻ oai vệ và tính cách hung hăng của các bà mẹ xứ Mandingue.

"Người này, - Sanderval nhủ thầm, - tất cả các công chúa của Fouta đều phải mơ được lấy làm chồng."

Rồi bất thình lình, người đàn ông đứng phắt dậy và lại chìa tay ra:

- Giờ ta phải đi đã! Thật đáng tiếc là nói chuyện với nhau quá ít! Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau. Đấng Tối cao đã cho lộ trình của hai ta giao nhau. Đấng tối cao sẽ không chia rẽ chúng ta nữa. Nếu có điều bất hạnh xảy đến với ngươi, đừng ngần ngại gì cả, hãy gọi Alpha Yaya nhé!

Anh ta phi ngựa lao đi, được một đoạn lại quay đầu và réo gọi Da Trắng:

- Đến Timbo, hãy tìm sự bảo trợ nơi Bôcar-Biro. Ông ta là cháu gọi Almâmi bằng chú ruột, và cũng là người bạn thân nhất của ta đó.

- Tạm biệt hoàng tử! Cám ơn vì tất cả!

- Hãy bình thân, Yémé! Và hãy thận trọng với người ở Timbo nhé, nhất là với kẻ có tên là Diogo Môdy Macka, đó là quan tể tướng của Almâmi và đó là kẻ đáng gờm nhất trong
tất cả.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau những vách đá cheo leo Tchikampil và khu chợ nô lệ Saala, thì phải tiến lên giữa các ghềnh núi và đá khối cùng lúc với con đường mà mỗi người phải tự phát quang cho mình, bằng cách phạt ánh chừng trong sự chồng chéo của loài dây leo và những cây chứa nhựa độc. May thay, độ nóng gắt của mặt trời và không khí kém phần ngột ngạt hơn ở vùng ven biển. Những bản làng lần lượt hiện ra giống hệt như vậy, hoặc vắt vẻo trên một quả đồi, hoặc nằm rạp mình dưới thung lũng sâu, được bao quanh bằng một hàng rào dày đặc những cây ăn quả và cây tầm xuân, tất cả đều bạt ngàn hoa. Có một trận ẩu đả với Parawali, một đợt tấn công của báo ở vùng lân cận Cantabanie. Đám khu khuân vác mà Alpha Yaya cấp cho đã bỏ rơi ông ngay cửa ngõ Dabalâré, đem theo chúng cả số lương thực và gia súc. Tất cả những chuyện đó gieo rắc một sự náo loạn không tưởng. Đám ouolof của ông phải huơ súng lên, Mâly và Mâ-Yacine phải điều đình suốt cả một buổi chiều. Ông ăn tối bằng một nắm gạo nấu với mỡ nước và quần nhau suốt đêm, với sự trợ giúp của nguồn long não dự trữ, để chống lại một đội quân kiến bag-bag hùng mạnh đã kịp xâm chiếm cả khu nhà. Vào lúc sáng sớm, chiếc xanh-tuya len và dây đồng hồ của ông đã chẳng còn lại gì. Chiếc ô dù lớn của ông bị xé tan thành từng mảnh, những chiếc túi bằng da bị thủng lỗ chỗ to như ngón tay cái!

Ở Dabalâré, ông bỏ rơi những mái nhà bằng cây gai để đến những mái rơm. Họ tiến vào vào một Fouta thực sự. Ông nhận thấy rằng ở đây sự hiếu kỳ của dân chúng có phần kín đáo hơn. Ở đây, người ta không thổ ra những tiếng kêu chế nhạo, người ta không chạm vào ông rồi biểu lộ những cái bĩu môi ghê tởm. Người ta nhắm mắt lại và lẩy bẩy vì hãi hùng, hoặc vứt bỏ gói quần áo và chạy trốn mất, miệng kêu inh ỏi như gặp quỷ. Ông không hạn chế tán tụng thiên nhiên và đàn bà. Thứ ba ngày mùng chín tháng Ba, ông ghi nhanh, hoan hỉ và hạ cố: "Gặp một cô gái rất xinh: cặp mắt đẹp huyền bí, mũi rất được, mảnh và khoằm, đôi môi gần như cắn chỉ. Đáng tiếc rằng tất cả đều đen!"

Ông có cảm giác là đã bước đi cùng một bước chân từ xứ sở của những giấc mơ thời hoa niên đến xứ sở thực sự tồn tại, lúc này đang trải dài dưới tầm mắt ông. Fouta mà ông đang nhìn thấy đây đã hút hồn ông cũng nhiều hệt như Fouta mà ông đã hình dung rất lâu trong lúc tra cứu những tập tranh và các tấm bản đồ. Khắp nơi đều là những quả đồi, khắp nơi đều là những vườn cây ăn quả, chỗ nào cũng là những thảo nguyên và hoa nở bạt ngàn! Khắp nơi, chỗ nào cũng có suối nguồn, sông ngòi và các con rạch! Ngày 11 tháng Ba, ông băng qua Tominé, dừng lại rất lâu trong thung lũng của nó, chú tâm quan sát hệ động thực vật, đánh giá sự chênh lệch độ cao của sườn núi, ước lượng sự lưu thông của nó.

Mùa mưa đã kết thúc và lúc này đang bắt đầu mùa khô. Ông đã hiểu làm thế nào để sống sót qua những hậu quả tàn phá hủy diệt của mặt trời: phải đi từ lúc rạng đông đến lúc giữa sáng, và từ lúc nửa buổi chiều đến khi đêm buông xuống. Vào giữa trưa, người ta trầm mình trong mồ hôi của chính mình, buổi đêm thì các vực sâu sẽ hút bạn xuống. Ông ăn những gì mà rừng rậm tặng cho, chữa bệnh đau bụng bằng những quả botane. Đám ouolof khiêng ông đi khi căn bệnh quật ngã ông. Mâly và Mâ-Yacine giúp ông thoát khỏi những mánh khóe của các trưởng bản và sự giảo hoạt của lũ khuân vác.

Timbo đã ra lệnh đón tiếp ông với những vinh hạnh bắt buộc dành cho một khách quý của Fouta. Nhưng tất cả các trưởng thôn không cư xử cùng một thể thức. Một số đến gặp ông, dành cho ông những ngôi nhà tinh tươm nhất và thậm chí thi thoảng, trong khi chẳng có gì bắt buộc, còn chu cấp cho ông cả sữa, ngũ cốc và thịt. Một số khác thì ngược lại, cho đám tù nhân của họ đến đón tiếp và cho ông ở trong một túp lều lụp xụp, nếu đó không phải là cái chuồng gà, và không hề để tâm gì đến đám quân của ông, khi ấy buộc phải ngủ ngoài trời.

Đó là một đất nước dễ chịu, dễ chịu nhưng không chắc chắn: rừng rậm đầy báo và rắn độc, địa hình mấp mô, con người thì quá bí ẩn. Phải thận trọng với mọi thứ, ngày cũng như đêm, phải luôn canh chừng. Mỗi bước đi, ông đều có thể gặp phải vực sâu và rắn. Mỗi bữa ăn, ông đều có thể gặp phải sự đầu độc. Ông buộc phải uống nhiều sữa để thanh lọc cơ thể mình khỏi mọi sự trúng độc nếu có. Còn về đám quân của ông, nhất là những người đến từ vùng ven biển, thì họ buộc phải tụ tập lại và không đi quá xa khỏi người Da Trắng. Biệt lập, người ta có thể lục lọi họ, đánh đòn hoặc biến họ thành nô lệ.

 

May mắn thay là rừng hoang, thườn 50000 g nồng hậu hơn con người, đảm nhận những trách nhiệm bề ngoài của dưỡng đường và công việc nhàn hạ nhưng được việc. Hiểm ác và hoang dã, chắc chắn là thế, nhưng với tính năng cho ở trọ và nuôi ăn! Ông quay về phía nó để thoát khỏi tính keo bẩn bằn tiện của những trưởng thôn hay để tìm lại khiếu thẩm mỹ lạ thường của việc cắm trại mà cha xứ Garnier đã bày cho ông trên bờ sông Azergue. Ông khám phá ra cây douki, một loại giống như cây măng cụt, quả hình trái lê ngọt tuyệt, thử loại quả dôn dốt chua của cây mít Phi châu, quả ngọt của cây vả, loại có chùm tchingali khiến ông nhớ đến hình dáng và hương vị của những chùm nho ngon và đẹp nhất xứ Beaujolais, quả sơn trà mampata, quả sangala... Ông săn chim hoang và làm quen với nhựa hoa mà vị của nó mang chất rượu nhẹ khiến ông nghĩ đến những quả mận vàng.

Cả Fouta nhìn ông tiến sâu vào vùng đất của nó. Thoạt tiên, người ta tụ tập bên lề đường và trên các quảng trường khu chợ để chiêm ngưỡng chòm râu đen và đôi găng tay trắng của ông. Người ta chỉ trỏ cái mũ cứng của ông, đôi giày đinh, chiếc ô không thể thiếu của ông. Người ta thì thầm sôi sục quanh lều trại của ông, "một cái nhà, cha mẹ ơi, một cái nhà thực sự mà lại có thể gập lại và trải ra thật dễ dàng hệt như chúng ta làm với cái khố của mình vậy ". Lũ trẻ chen lấn nhau xung quanh bàn của ông, hy vọng rằng ông rút cục sẽ ném cho chúng những cái bánh bích quy hay những mẩu sô-cô-la. Họ nhìn ông nuốt những loại củ được nấu sống sượng và quả dại nghiền luôn được dọn trong các đĩa sứ và ăn kèm với các loại rượu vang ngon nhất của Pháp. Wallâhi, người đàn ông này có vẻ kỳ cục thật! Kỳ cục khi ăn bằng những mẩu kim loại thay vì giống như tất cả mọi người: ăn bằng tay! Kỳ cục khi hỉ mũi vào một mảnh vải sạch bong và đã được là cẩn thận; sau đó lại còn gói cả nước mũi lại, hệt như người ta làm với số vàng của họ, với những đồng cauri hay những đồ trang sức đắt tiền. Ối, cha mẹ ơi, ối ối!! Kỳ cục vì không bao giờ rời chiếc ô nhỏ tẹo và đôi găng tay, kỳ cục vì vẫn giữ được độ hoàn hảo ngay giữa đám bùn bẩn. Kỳ cục vì đội mũ cứng, kỳ cục vì không đội mũ mũ cứng. Kỳ cục vì là người da trắng, kỳ cục vì không hề ngủ, kỳ cục vì không ợ hơi, kỳ cục vì chẳng hiểu rõ tiếng Peul, kỳ cục dưới ánh mặt trời, kỳ cục giữa rừng xanh núi thẳm...

 

Trên đường tới Guélé, ông ghé thăm thác nước Diourney, mà ta nghe tiếng gầm khi còn cách nó cả hai ki-lô-mét, và mơ đem về Pháp vài con loukou, lại xâu dài xổ ra những sợi tơ dài mảnh mà cho đến tận lúc này vẫn còn bị cho là vô tác dụng.

Ở Waltoundé, xảy đến với ông một chuyện rất hiếm gặp: ông đã ngủ được. Buổi chiều đó, thoạt đầu, sau khi đi loanh quanh rất lâu trong những lougan(1), sau đó hí hoáy ghi chép, rồi tiếp đến chơi vài ván bài, ông nằm dài trên chiếc giường tạp sần sùi, dưới gốc một cây xoài để nghe những bản nhạc ồn ào của trảng rừng. Điều đó kéo dài có thể là năm phút nhưng với ông, nó là cả một khoảng thời gian bất tận ngọt ngào và đáng buồn là đã bị ngắt quãng bởi một tiếng ầm váng tai ông chưa bao giờ nghe thấy, ngay cả trong những giây phút đẫm máu của Công xã Paris. Cả chục dân làng ló ra khỏi nhà và vừa chạy hoảng vừa hét toáng lên vì sợ:

- Quỷ dữ! Quỷ dữ! Quỷ dữ đấy!

Ông cố gắng hỏi xem có chuyện gì nhưng xung quanh ông, chẳng còn mấy người. Rồi trong đám xô lấn, ông cuối cùng cũng thoáng thấy Mâ-Yacine và Mâly, toàn thân run rẩy vì sợ, đang vắt vẻo trên đỉnh ngọn cây bông. Ông không sao thuyết phục họ tụt xuống và lại càng khó khăn hơn để hiểu những gì mà, với cặp mắt thất thần và hơi thở đứt quãng, họ cố gắng giải thích cho ông hiểu: họ đã nhìn thấy quỷ dữ! Tất cả mọi người đều nhìn thấy quỷ dữ. Họ đã nhìn thấy Nó bất ngờ xuất hiện từ hư vô, băng qua ngôi làng, nhặt một quả xoài thối và dừng lại rất lâu gần giếng nước.

- Con quỷ ấy da trắng đấy! - Mâly, sáng suốt nhất trong hai người, kết luận. - Nó có cặp mắt xanh và bộ tóc dài màu vàng xõa xuống tận đầu gối, - anh ta nói thêm bằng một giọng trách móc. - Ông nói gì về điều đó hả?

- Ta tin chắc rằng hắn trần truồng, con quỷ đó ấy mà, - Mâly rên lên. - Nó chỉ có chiếc lá để che buồi của nó thôi.

Mười, mười lăm, hai mươi nhân chứng khác đến xác nhận điều đó: "Quỷ dữ tồn tại và nó đã đi qua Waltoundé rồi!" Sự làm chứng của họ ăn ý nhau hết mức đến nỗi mà Olivier de Sanderva hối hả chất vấn:

- Thế thì có đúng là hắn bốc mùi lưu huỳnh không?

- Theo lời những người tiến đến gần hắn, thì có lẽ bốc mùi cứt thì đúng hơn - người ta đáp lời ông, mặt tỉnh như không.

- Thế hiện giờ hắn ở đâu?

- Làm sao mà ông lại muốn người ta biết con quỷ ấy sẽ trốn ở đâu mới được chứ? - Một người khác nổi đóa, liền đập lại.

- Hắn đã nhảy qua hàng rào và biến mất đằng kia kìa, trong rừng ấy.

Ông liền đi về phía được chỉ.

- Ông sẽ làm gì, hả con người đáng thương? - Mâ-Yacine hỏi ông bằng giọng run rẩy.

- Ờ thì... ta sẽ đi bắt tay quỷ dữ!

 

Một nhóm nhỏ can đảm và có vẻ có khí phách tách khỏi đám đông để đi theo ông: một số cầu xin ông quay lại, một số khác thì đợi xem điều gì sẽ xảy ra.

Ông lục lọi những bụi cây gai và các rặng tre, nhìn sang phía sau những tảng đá và trong các vực sát vách núi.

"Lũ người này đã ăn phải nấm", ông nhủ thầm trong lúc bồn chồn tìm kiếm đường quay về. Vào đúng lúc đó, ánh mắt ông va phải một thân cây và thiếu chút nữa thì ngất xỉu. Ngồi vắt hai bên ở chỗ lõm của cành cây, con quỷ đang quay lưng lại phía ông và cắn ngập răng vào một quả đu đủ chín.

Ông bám vội vào một sợi dây leo để khỏi ngã vì chóng mặt. Rồi bất ngờ vung tay lên sờ trán, lý trí ông vụt bừng sáng trở lại và một nụ cười ma mãnh xuất hiện trên khóe miệng:

- Ê này, hãy xuống khỏi cây đi nào, thưa ngài quỷ dữ! - Ông ra lệnh bằng một giọng của sĩ quan cấp trên.

- Cái gì, - con quỷ kêu lên và quay ngoắt lại, - ông nói tiếng Pháp sao?

Hắn trượt dọc thân cây một cách thuần thục và tiến
gần lại:

- Bây giờ, xin hãy nghe câu chuyện buồn của tôi đây. Tôi không phải là quỷ dữ, chớ có tin những gì mà đám ngu đần Mọi đen này kể nhé! Tôi có tất cả những gì của một người dân Pháp. Do muốn thăm viếng xứ sở này, tôi đã phiêu lưu đến tận Timbo, nhưng lại không tính đến sự ác độc của lũ người Peul này, thưa ngài thân mến. Almâmi đã giam giữ tôi sáu tháng liền. Sau khi đã lột sạch của tôi tất cả trang phục và gia tài, ông ta cho tôi năm tuần để quay trở lại vùng ven biển.

 

- Đương nhiên rồi, thưa ngài Moutet, tôi rất tin điều
đó đấy!

- Sao cơ, ông biết tôi à?

- Không, nhưng tôi hình dung ông ăn vận chỉn chu hơn thế kia đấy. Ông dẫu sao cũng có thể kiếm cho mình một vài bộ áo quần nhàng nhàng trên đường đi chứ hả?

- Làm thế nào hả, ngài tốt bụng của tôi ơi? Con khỉ Phi châu này đã đe dọa chém đầu tất cả dân cư trong hoàng triều của hắn nếu họ dám cho tôi một sợi chỉ. Tôi đi bộ dọc theo các con nước để thoát khỏi những ánh mắt tò mò và phải ăn quả dại để sống. Thế còn ông, ông làm gì ở đây hả?

- Tôi đi Timbo!

- Ông điên hay sao! Rồi ông sẽ kết thúc ở cánh đồng Saroudia thôi. Chính tại đó chúng xử trảm những kẻ bị kết tội đấy. Tốt hơn là ông nên theo tôi để quay lại vùng ven biển càng nhanh càng tốt.

- Tôi có thể là được gì cho ông?

- Chẳng làm được gì cả!

- Nhưng làm sao tôi có thể để ông như thế này được?

- Được mà! Hãy đi cùng tôi hay cố gắng mà trốn đi thôi! Mong sao chí ít thì một trong hai ta cũng may mắn được gặp lại nước Pháp dịu hiền.

- Hãy chờ đã!

Ông cố nhặt vài đồng louis và chút hạt san hô thất lạc tận sâu trong đáy túi. Nhưng người kia nhìn ông với vẻ ghê tởm và ném chúng xuống sông.

 

- Ông muốn tôi làm gì với chúng hả? Lũ người ở đây sẽ nói rằng tôi ăn cắp được... Thôi nào, hãy trốn đi, hãy trốn đi nhé, tôi nói với ông rồi mà!

Họ nghe thấy tiếng lũ người Peul đang ở cách đó một
bụi cây.

- Đúng hơn là chính ông nên trốn đi! Lần đầu tiên họ chạy trốn ông, nhưng lần thứ hai họ có thể ném đá ông cho đến
chết đấy!

- Thế nào hả, ông cuối cùng đã nhìn thấy con quỷ đó
rồi chứ?

- Ô không, Mâly đáng thương của ta, ta đã chẳng nhìn thấy gì cả, ta chỉ đang tìm lối để quay trở về làng.

 

Những cơn đau nhức của ông trong vùng mạc rối đó càng ngày càng trở nên gay gắt. Để quên chúng đi, ông hòa nhập tất cả tâm hồn và thể xác vào trong thiên nhiên hoang dã tẩm đầy hương thơm mà những bông hồng, những cây hoa phấn, những bông caro-cadoundes và cây dành dành đua nhau rịn ra từng chút một.

Ở Missidé-Goungourou, ông ghi lại: "Nếu như trong đất nước quá đỗi mênh mông này có những cánh đồng có thể trồng trọt, đầy nước và ánh nắng mặt trời được người Da Trắng đến ở, thì đó sẽ thật là tuyệt vời." Ngày hôm sau, vắt vẻo trên những quả đồi của Missidé-Malanta, ông tự coi mình là đức Moise: "Ta nhận thấy miền đất hứa từ phía xa xa nơi ta sẽ có những trái cam, chuối và hoa quả tươi, ta có thể sẽ ở đó vào ngày mai." Sốt cao hừng hực vào đêm hôm đó, ông ních đầy thuốc ký ninh trong lúc tai nghe thấy những lời cầu nguyện Hồi giáo, chúng khiến ông nhớ đến Bài ca của người châu Phi: "Về hướng đôi bờ của dòng sông Tage", vân vân...

Lại bắt đầu các sườn núi dựng đứng và đường bậc thang, thuyền độc mộc, cầu bằng dây leo và những sợi dây chão bắc qua vực! Lại bắt đầu những đợt khua động để săn thú và các đám lửa rừng, những người mục đồng chuyển súc vật lên miền núi cao và những đoàn nô lệ. Các ngôi làng cứ kéo dài mãi, cũng yêu kiều trên các quả đồi hệt như đồ trang sức ngự trong chiếc hộp xinh xắn, cùng với làn hương hoa nhài và cái tên rất đỗi ngạc nhiên của chúng: Dounguédâbi, Télikoné, Diôuntu, Bouroumba, Simpéting. Ông cảm thấy mệt nhoài nhưng thán phục.

Ở Simpéting, ông lại hí hoáy trong cuốn sổ của mình: "Khắp nơi chỉ toàn là cây hoa: nhài, nguyệt quế hồng, mi-mô-da vàng..." Một cụ già nói với ông rằng cụ nhớ có một người Da Trắng đã đi qua đó, cách đây chừng hai chục năm, có thể là ba chục. Đó chắc chắn phải là ngài Lambert cần mẫn ấy rồi, mà nước Pháp phái đi để tìm cách nối lại những mối quan hệ thương mại với Almâmi Oumarou, người khi đó đang ngự trên ngai vàng của Fouta. Ông nấn ná vài ngày ở Missidé-Dindéra để thám hiểm các triều thần của Saala và Kakrina: "Những ông chủ ấp sống vương giả ở đó với một ngày làm việc vài giờ... Đó là thiên đường trần gian, thiên đường trong tội lỗi, với những ngồn nước sáng và có chất sắt, quả cây, hoa với mùi hương êm ái và những cánh đồng chăn thả bất tận mà ta có thể nuôi hàng ngàn ngựa, bò và cừu..."

Ở Dindéyah, ông viết: "Tối nay thoạt tiên là nuốt ký ninh cùng với Mâly, sau đó là cơm nấu với sốt dầu lạc - một món rất ngon để thêm vào ẩm thực Pháp - và sau cùng là thịt dê non nấu với hạt kê." Ở Dâra-Labé, không khí trong lành trên các đỉnh núi đã khiến ông quên đi đôi chút những cơn đau bụng và sự mỏi mệt, ông cho phép mình mơ mộng và lại viết: "Miền đất vẫn đầy vẻ quyến rũ. Đó là sự tiếp nối không ngừng của những quả đồi và các thung lũng mê ly. Chỉ còn thiếu các trang trại, biệt thự và những tòa lâu đài để vương giả hơn tất cả những gì mà châu Âu gọi là quyến rũ... Những cây cam trĩu quả, hương vị dịu ngọt, những bóng râm mát mẻ, tất cả đều khiến ta mơ tới xứ sở của Aїda... Ngành thương mại với Trung Phi và Niger sẽ thuộc về những ông thầy của đất nước này, nơi mà người châu Âu có thể định cư và sống đề huề."

 

Thứ sáu ngày mùng 2 tháng Tư, ông bị choáng ngợp trước phong cảnh mê hồn trải dài trước mắt đến nỗi mà ông quyết định cắm trại ở ngay đó mặc dù mới vừa đi được nhõn nửa ngày đường. Một người chăn gia súc già đến kể cho ông nghe cùng một câu chuyện như ở Simpéting:

- Rất lâu rồi, có một người Da Trắng đã ghé qua đây, trên vùng bình nguyên cao này. Ông ta có một khẩu súng và di chuyển trên một cỗ kiệu. Ông ta không cao lớn cho lắm, nhưng đầu đội một cái mũ cứng giống ông đấy.

- Ông ta tên là gì?

- Làm sao mà ta biết được cơ chứ, chuyện diễn ra đã lâu lắm rồi! Vả lại, những người Da Trắng ấy mà, cũng như thể chim trên trời, có lẽ chẳng ai nghĩ tới việc nhớ tên họ... Ông có gì không, hả người Da Trắng ơi, để chữa cho ta chứng chóng mặt?

- Có đấy, tôi có thuốc viên Vichy đây!

- Hãy cho ta đi, ta sẽ đổi cho ông một con dê.

 

- Không!

- Một con dê để đổi những viên thuốc và ngươi, người Da Trắng, người còn dám từ chối ư!

- Sẽ không cho ông đâu, chừng nào ông còn chưa nói cho ta biết tên của vùng đất này.

- Vùng này à? Ta cho rằng người ta gọi nó là Kahel đấy.

- Kahel ư? Đó quả là một cái tên rất hay!

 

Ông ngắm nhìn những xóm làng bao quanh và, sát bên dưới kia là một cánh đồng rộng lớn, phủ đầy màu vàng, những cánh rừng non và bạch đàn cùng với tầng tầng lớp lớp những chỏm núi tuyệt diệu ngả về hướng bắc. Một cảm giác chóng mặt mơ hồ bỗng choán lấy ông. Ông cảm thấy như đang mọc cánh, để mặc cho niềm hạnh phúc bùng nổ lách tách và sự nhẹ nhàng của chim trời cuốn đi. Những tiếng rống ầm ĩ của đàn bò phủ đầy vách núi. Những con vẹt và đàn khỉ vui sướng nhảy nhót hát ca trong rừng. Một đàn linh dương băng qua cánh đồng và hốt hoảng chạy về phía dòng sông ngoằn ngoèo sáng màu thủy ngân. Ông đứng dậy mà không hề thốt ra lời nào, và dưới ánh mắt cảm thương của những người đồng hành, ông lao nhanh xuống sườn núi về phía múi đất xanh hình con thoi bao quanh cánh đồng, vừa chạy vừa bám vào các bụi cây. Xuống tới nơi, cả mặt, cánh tay ông đều bị gai cào trầy xước, nhưng lại tràn ngập một sự kích động trẻ thơ. Ông để mặc cho chân bước vào tận giữa khu rừng và vừa dùng gậy chống đập xuống nền đất vừa thốt lên:

- Chính tại đây, ta sẽ xây dựng hoàng triều của ta!

 

Làn sóng giọng nói của ông rung lên trong những cành cây, va phải những vách núi và rền vang không ngớt trong thung lũng đầy hang động.

Đó chính là đức Moise trên đỉnh ngọn núi Sinai, chính là Alexandre le Grand đi đến Indus, là César đang thưởng thức vinh quang của mình trong những miền đồng bằng tỏa khói
ở Alésia!

Tiếng ca của chim trời và tiếng động của súc vật ngừng bặt trong khoảnh khắc một giây đồng hồ để mặc cho ông nói, để rồi cuộc sống nơi rừng hoang lại tiếp tục, hệt như một ca khúc hùng tráng ca ngợi chiến thắng của ông, bản giao hưởng mờ tối của ông.

Xung quanh ông, chỉ thoáng nhận ra từ đầu trở lên, và giống như những con cú mèo, lũ khỉ nhòm ngó ông qua đám lá. Ông không biết liệu chúng muốn chiêm ngưỡng ông hay chúng muốn chế nhạo ông.

- Điều đó chẳng liên quan gì đến lũ khỉ cả! - Ông vừa nói vừa cố gắng bắt chước những bộ mặt nhăn nhó của chúng.
Điều đó liên quan đến con người, những con người thực sự, người Da Trắng!

Một kiểu như linh tính đã ngay lập tức xâm chiếm con người ông khi ông đi đến chỗ này: sẽ là đây và chẳng ở nơi nào khác cả! Nhưng đó chỉ là một linh cảm thôi. Hơn nữa, người đàn ông ấy đã thốt lên từ Kahel và tất cả đã được tiết lộ cùng với điều kỳ diệu sởn gai ốc của một người đàn bà bị rũ bỏ bộ khố của mình. Giờ ông chỉ còn việc phác họa những pháo đài và những cung điện của mình, những khu vườn và các trại quân đội và đánh thêm một chấm nhỏ vào niềm vinh quanh liên tiếp của nhân loại.

 

"Maharajah của đất nước Ấn Độ, hoàng đế của Trung Hoa, ông thầy của hai đất nước Ai Cập, ông hoàng của Kahel!"

 

Nhưng ông vẫn còn chưa đến đoạn đó. Lúc này, ông phải tiếp tục lộ trình đến tận Timbo, phải chiếm được thịnh tình và ơn huệ của những lãnh chúa Peul đáng gờm, phải ních được từ họ vài thửa ruộng từ vùng đất tỏa hương và nhấp nhô này mà ông sẽ chú tâm chăm lo đến chúng tựa như con sư tử cái chăm nom đàn con của nó. Rồi sau đó, đúng vậy, sau đó ông sẽ không cần phải gian lận lẫn giao chiến làm gì: khoa học và kỹ thuật, đường xe lửa và thương mại, chính chúng sẽ tự đánh đổ những kẻ chăn gia súc cuồng nhiệt thô lỗ và kiêu ngạo này - không phải để chinh phục hay vượt trước, khủng bố hay ăn hiếp; mà chỉ cần chiểu theo luật tự nhiên mà qua đó gió mùa thu cuốn đi những chiếc lá vàng. Một mùa này kết thúc, thì đương nhiên một mùa khác sẽ bắt đầu, sẽ mới mẻ hơn, triển vọng hơn, thấm đẫm hương vị cuộc sống và đầy sức mạnh, đó sẽ là mùa của chính ông!

Khi ấy, từ những tòa lâu đài ở Kahel của ông, chậm rãi, cùng một phương thức như căn bệnh hủi lan dần khắp cơ thể, sức mạnh và vinh quang của ông sẽ trải dài ra mãi, từng mái nhà, từng bộ tộc, từng trảng hoang, từng cánh rừng cho tới toàn cả châu lục. Thoạt tiên là những người Peul, tiếp đến là Bambaras, Songhais, Mossis, Haoussas, Béribérí, Bantous, tất cả những người Da Đen, có hay không mang vạch trên mặt, có hay không vấn vành khăn trên đầu, có hay không có xương xuyên qua mũi. Lôi họ ra khỏi những khu rừng rậm và những suy nghĩ tăm tối ủ rột của họ, những kẻ hoang dã này có lẽ phải nếm đủ chương trình Đại số học, những món ăn tinh tế, nền kiến trúc và những học thuyết của Platon, trước khi dưới sức đẩy không tránh nổi của sự tiến triển, nền khí hậu chuyển đổi, trước khi những khối đá băng của Laponie xâm lấn cả vùng Languedoc và rằng những kẻ Da Trắng đáng thương hoảng loạn chạy đến sưởi ấm ở gần đường xích đạo. Phi châu khi ấy sẽ là trung tâm của vũ trụ, trái tim của nền văn minh, xứ sở Thèbes mới, thành Athènes mới, thành Roma mới và cả Florence tinh khôi xuất hiện cùng một lúc. Và đó sẽ là một kỷ mới của Nhân loại mà ông đã có linh cảm trước những người khác từ rất lâu rồi và sẽ được chính tài năng của ông đặt nền móng.

 

Ông đến Kébali và viết: "Một thung lũng rất hào hoa, được những quả đồi dựng đứng vây quanh ở sườn đông nam. Hệ thực vật xum xuê màu mỡ trên các cánh đồng, nhấp nhô một cách đẹp mắt, những bụi cam, đu đủ và cây sơn trà mampata, cây néré, những bãi chăn thả tươi mát, những cánh rừng rợp bóng râm sẽ làm lên sự nổi tiếng của một Nhà nước châu Âu." Ông băng qua Téné, thận trọng tránh xa khu Fougoumba huyền thoại, nơi mà ở vùng ven biển, người ta không ngừng nhắc đi lặp lại rằng tất cả đã bắt đầu. Chính tại đó mà người Peul đã tung ra cuộc thánh chiến của đạo Hồi và chính nó đã cho phép họ chiếm lấy toàn bộ đất nước. Từ đó nơi này đã trở thành thủ đô tôn giáo rất khắc khổ, nơi trú ngụ của các hoàng tử cuồng nhiệt nhất và đối nghịch nhất đối với người Công giáo. Có lẽ tốt hơn là nên nhận được sự bảo lãnh của Timbo trước khi đi phiêu lưu vào đó. Ông đã đi vòng qua đỉnh Kourou, nó đã khiến ông ngất ngây bởi những đỉnh đồi màu xanh lơ của chúng và sự rực rỡ của mùa hoa nở. Ở Porédaka, ông phác thảo chân dung của một vì vua được cả đoàn tùy tùng kéo theo, trong đó một số cưỡi ngựa, đem theo ô dù và ăn vận toàn áo thụng sặc sỡ và ghi lại ở cuối trang giấy: "Đoàn người đông đúc này sáng rỡ dưới ánh mặt trời thực sự gây hiệu ứng."

Ở Bhouria, đói lả và mệt nhoài do những cơn đau bụng, do các vết mụn và vết lở loét, ông ngủ ngay mà chẳng vật vã gì, nhưng chẳng mấy chốc lại rơi vào cơn ác mộng: ông mơ thấy con trai mình đang hấp hối.

Thứ ba ngày mùng bảy tháng Tư, sau ba ngày đầy đinh nhọt và sốt cao, ông cuối cùng cũng tới được Timbo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cả thị trấn nằm bắt đầu từ giữa một thung lũng sâu rồi trải dài lên cao dần, đến tận một đỉnh quả đồi phủ đầy dương xỉ và lantanier. Những hàng rào mây và mái nhà hình chóp của nhà thờ Hồi giáo hình như trung thành với các bức họa của Hecquart và Lambert. Phía tây, những ngọn cây trùng điệp cao thấp khác thường, hình dáng của chúng sẽ hòa lẫn với sắc màu đa dạng của đường chân trời. Phía nam là quả đồi Koudéko, còn phía tây nam là dải bình nguyên Niâli. Ở đằng kia, phía đông chắc phải là đỉnh núi Hélaya, nơi nhà huyền thoại Karamoko Alpha đã kết thúc đợt ở ẩn của mình kéo dài bảy năm bảy tháng và bảy ngày, trước khi thành lập hoàng triều của mình. Dải rừng rực rỡ kia chỉ có thể bao quanh và chạy dọc dòng sông Bâdio-Dôri chạy xuyên qua miền đồng bằng Saroudia, nơi những kẻ phạm tội bị xử tử.

Ông thu ống nhòm về và bước xuống gò đất toàn đá granit trong lúc nghĩ đến câu nói của Taïbou: "Kẻ ngoại bang, hãy bảo trọng nhé! Ở Timbo, không hề có giải pháp nửa chừng đâu: hoặc ngươi thăng tiến nhanh hoặc ngươi bị chém đầu."

 Hiện thời, ông đang nằm trọn trong quyền lực của người Peul, cũng có thể nói ở ngay giữa tổ của loài rắn vi-pe. Tất cả đều phụ thuộc vào ông, vào khả năng vận dụng trí óc và kiểm soát tinh thần. Ông biết rằng mình đang sẵn sàng chơi ván cờ khủng khiếp nhất đời mình. Ông biết rằng mình sẽ được gắn vương miện khi trò chơi kết thúc hay đầu sẽ lìa khỏi cổ. Để cứu mạng mình, ông sẽ phải tỏ ra cao sang quyền quý mà không ngạo nghễ, khéo léo mà không chứng tỏ là bất khả kháng, nhún nhường mà không mang vẻ hèn nhát. Người Peul thoạt đầu là thử bạn rồi sau đó mới mở lòng và mở cửa nhà họ cho bạn, điều đó thì Taïbou đã nhắc đi nhắc lại khá đủ cho ông nghe rồi. Những người tự mình hoàn thành công việc xứng đáng trở thành những người bạn. Nhưng người đàn ông phải hoàn thành cái gì nơi lũ người Peul xảo trá độc ác cổ lỗ này chứ? Một người nào đó nhìn thấy mà không cần người ta chỉ cho và người đó phải hiểu mà không cần người ta giải thích. Người nào đó biết giăng bẫy và biết biến những chiếc bẫy mà người ta giăng cho mình thành những chiếc nơ rút để khiến cho kẻ thù phải bị mắc trong đó. Tóm lại, phải biết dùng gậy ông đập lưng ông.

Nàng ta đã nói và còn nhắc lại cho ông nghe: "Đầu óc phán đoán, đúng rồi, đó chính là chiếc chìa khóa của Poulâkou, nền đạo đức học vĩ đại của người Peul!"

Những giờ đây thì ông chẳng còn cần Taïbou để hiểu điều đó. Trong năm tuần liền ròng rã cuốc bộ, ông đã có thời gian mở mắt và nhìn thấy chút đỉnh qua vô số những chiếc mặt nạ của người Peul. Ông đã nắm bắt được nghệ thuật mưu phản và tránh né mang đặc xứ Florence của họ. Ông đã hiểu rằng, nơi họ những mánh khóe được coi là một môn thể thao quý tộc. Sống, trên hết đó là lừa đảo, ăn sống nuốt tươi lẫn nhau. Kẻ nào chuẩn bị những cuộc mưu phản tài tình nhất, thì kẻ đó xứng đáng vị trí trong triều đình và những lời tụng khen của giới thông thái. Những kẻ bình dân và có trí óc đần độn thì chẳng gợi được bất kỳ lòng trắc ẩn nào hết. Ở đây, người ta sinh ra hoặc nhiều mánh khóe hoặc bị nguyền rủa: là ông hoàng hoặc chẳng là gì hết.

Timbo, dưới con mắt ông, thật trơ lì và không thể thấm vào được hệt như một ván chơi cờ quỷ quái vậy! Ông có thể thắng nếu ông chơi tinh ý. Khi ấy, ông sẽ có hẳn một quốc gia cho ông: với vàng và các đàn súc vật, sức mạnh và vinh quang. Nhưng với bất kỳ một sự vụng về nhỏ nhặt nhất nào, thì đó hẳn sẽ là nhà tù và ai mà biết trước được, có thể là đầu lìa khỏi cổ.

Ông băng qua sông, cắm trại ngay giữa cánh đồng và phái hai gia nhân trung thành của mình đến thông báo với triều đình việc ông đã đến nơi. Ông chờ đợi cả ngày liền, chơi cờ và không ngừng nhai sô-cô-la để giữ bình tĩnh. Một ngày dài kiên nhẫn ở ngay trước ngưỡng cửa Timbo chỉ có thể giống như phòng đợi của giá treo cổ dưới thời trị vì của Néron. Điều gì đã xảy đến với hai biệt phái viên của ông? Những ông vua Peul bịp bợm xảo trá này có thể đã bắt nhốt họ chăng, đâm chết, treo cổ hay đã bán họ đi như những kẻ nô lệ. Ý tưởng này thoảng đến trong đầu ông một chốc một lát vào buổi sáng, thì đến cuối ngày chúng đã trở thành một nỗi ám ảnh thực sự. Và mặc dù những ván cờ, những thanh kẹo sô-cô-la, mặc dù dòng huyết quản kiên cường và vững chãi của những người thuộc gia đình Olivier, thì ông cũng không sao che giấu nổi sự lo lắng được nữa. Quân của ông, chỉ cách ông vài mét, đang rang củ và những hạt đậu để đánh lừa cái đói và họ không còn hát nghêu ngao nữa, không còn chồng chéo những âm thanh vang vọng bằng tiếng cười giòn và gây bực mình của họ nữa. Lúc này, họ chỉ đành lòng lầu bầu trong thứ thổ ngữ của họ và nhìn ông với ánh mắt đầy oán trách. Đương nhiên, tất cả chuyện này đều là lỗi của ông. Ông hoàn toàn thấu hiểu sự bực tức của họ và ý muốn lộ rõ trong tất cả mọi thổ ngữ trên đời sẽ bỏ trốn ngay khi màn đêm buông xuống và để mặc ông ở đây, gã Da Trắng, con chiên Công giáo và đang đói khát lả người, một mình ở giữa đám người Peul. Khi ấy ông sẽ phải làm gì đây? Trước hết là phải cố gắng giải thoát hai người bạn đồng hành (danh dự buộc ông phải làm điều đó), kế đến thì nghĩ đến lọ cyanure quý báu (chứng sợ đau vô cớ và vô tác dụng khuyên nhủ ông thực hiện điều ấy).

Vào quãng năm giờ, giọng nói của viên chức Hồi giáo gọi con chiên đi lễ buổi cầu nguyện Alansara từ xa vẳng tới - các bạn biết không chứ, vào đúng lúc mà kích thước cái bóng của bạn bắt đầu dài hơn chính con người bạn ấy mà! - lôi ông ra khỏi những phán đoán ma quái. Ông ngước mắt nhìn về phía dòng sông và nhận ra Mâly và Mâ-Yacine, được vây quanh là vài nhà quý tộc ăn vận áo choàng bóng nhoáng. Ông để mặc họ tiến lại gần và kín đáo chuẩn bị sẵn khẩu súng của mình, và ông chỉ buông xuống khi nụ cười của hai kẻ trung thành Sénégal của ông lộ rõ vẻ hớn hở.

Rất nhanh, người hình như có vẻ là quan trọng nhất, do chiếc áo choàng lấp lánh và chiếc ô đa sắc của ông ta, bứt khỏi đoàn người để chìa cho ông một bình sữa, làm bằng quả bầu khô, và một hạt cây cô-la. Oài, dấu hiệu của sự chúc mừng đến lãnh thổ!

Ông ta tên là Saїdou, thư ký của triều đình mà Almâmi đã phái đi đón ông, Mâ-Yacine trấn an ông, sự chậm trễ tệ hại này thực ra chẳng có gì trầm trọng cả, đó chỉ là do chứng đỏng đảnh của Almâmi và sự thiếu nhanh nhẹn của thể lệ đón tiếp chính thức mà thôi!

 

Ở ngay ngưỡng cửa thành phố, một người đàn bà, đầu đội một trái bầu khô nhìn ngắm ông rất lâu và nói:

- Đúng là lần đầu tiên ta nhìn thấy một người Da Trắng đấy. Mọi người nói với ta rằng họ toàn bốc mùi cháy khét, họ rặt là một lũ ngoại đạo, trong khi thực tế thì không phải thế!

 

Người ta xếp ông vào một cái nhà có dáng vẻ là một ngôi nhà thực sự: tường chắc chắn, mái rơm hệt như khắp nơi ở Fouta, nhưng ngoài những cánh cửa xếp rộng và cửa ra vào, nó còn có rất nhiều phòng, chắc chắn là ô nhiễm do đầy gián và ruồi, nhưng thông thoáng khí. Quân của ông ở chen chúc trong năm túp lều tranh ngay kế bên. Có một cây xoài to ngay giữa sân và một dãy cọc tre với một cánh cửa lớn bằng mây và dây leo bao trùm lên tất cả.

Saїdou sai đem đến cho ông bữa tối cũng như nước để ông tắm rồi biến mất. Trong lúc từ chòi nhỏ nằm sau nhà ông đi ra, nơi được sử dụng làm nhà vệ sinh và nhà tắm, thì ông bắt gặp người đàn bà ban nãy đang đứng đợi ông trong sân cùng với một thiếu nữ có cặp mắt thông minh, lấp lánh và một thân hình tuyệt vời màu đồng hun. Olivier de Sanderval ngay lập tức tìm được cho nàng một cái tên: "nơi tĩnh tại của cặp mắt".

- Đây là con gái Fatou của ta, - người đàn bà nói với ông. - Nó sẽ đến quét dọn nhà cho ngươi. Ngươi cũng sẽ có quần áo bẩn phải giặt giũ và nó sẽ giặt hết cho ngươi. Nhà ta nằm ngay phía bên kia hàng rào gần lougan ấy. Ngươi sẽ nhận ra nó thôi: giàn dây bầu phủ hết cả mái nhà ấy.

 

 

Ngày hôm sau, ông muốn ra ngoài đi dạo cho đỡ cuồng cẳng, nhưng những lính gác đeo vũ khí và đoản kiếm ngăn không cho ông bước ra khỏi cổng.

Chẳng còn có ai đến thăm ông lẫn chào hỏi ông, ngay cả việc đem đồ ăn đồ uống cho ông cũng không nốt.

Vào ngày thứ ba, ông ăn kiệt tất cả đồ dự trữ. Đám người vẫn đứng gác ngay trước cửa cổng: và không chỉ có số người tăng lên gấp đôi mà kể từ đó họ cầm súng và đoản kiếm trong tay, chứ không còn giắt chúng trong áo choàng như trước

Vào ngày thứ năm, những ước đoán báo động bắt đầu rộ lên trong hàng ngũ quân của ông. Chắc Almâmi không hài lòng rồi! Họ mường tượng cảnh ông ta khép mình trong một gian nhà trái trong cung điện để quyết định điều phù hợp phải làm: trục xuất kẻ Da Trắng hay xử trảm hắn đây? Hay tịch thu tài sản của hắn hay bán đám quân của hắn cho Sierra Leone?

Ngày thứ bảy, ông nghiêm túc nghĩ đến việc nuốt lọ cyanure mà ông vẫn giấu trong một chiếc răng hàm. Vì một điều nhỏ nhặt nhất, có chuyện rằng vua ở Dahomey dành cho số phận những tù nhân da trắng của ông ta: ông ta buộc họ phải chặt đầu và tứ chi đám bạn đồng hành của họ trước khi đến lượt họ cũng bị chặt chân tay và xử trảm.

Ngày thứ tám, ông ních đầy ký ninh và nước long não để đánh lừa cái đói và nguệch ngoạc những câu này trong các cuốn sổ ghi chép: "Ta hiểu rồi, lũ sói Peul này không muốn bẩn tay đây! Chúng muốn ta tự chết một mình. Vì bệnh ngã nước hay do đói lả! Và đương nhiên, chúng đã nghĩ là ném một viên đá trúng hai đích: thương thảo trong thời gian này một khoản tiền chuộc kếch sù với Saint-Louis! Điều này hả, đúng là chỉ có bọn Peul mới làm được!" Rồi ông đặt bút chì xuống và bất ngờ vỗ trán: "Mẹ kiếp, lũ người Anh rồi!... Ô, đúng vậy, ta lẽ ra phải ngờ đến điều này... Ông bạn Lawrence... khách quý của Fouta... đường biên giới ấy được mở quá nhanh... Chúa ơi, nhưng từ khi ở Boulam kia, cái bẫy này đã được giăng ra rồi!" Ông liền đi ra ngoài và kêu tướng với đám lính gác: "Quân của ta đã chẳng làm gì hết, hãy cho họ ăn uống đi!" Hình như chỉ có những con bọ rầy đen đỏ đậu đặc trên các cành cây xoài là muốn đáp lời ông mà thôi. Ông đi về phía ngôi nhà một cách buồn bã và thốt lên: "Thế thì sẽ là tối nay, vào lúc đồng hồ điểm mươi hai cú giữa đêm nay!" Ông nằm ngay xuống chiếc giường tạm sơ sài và viết một lá thư dài cho vợ, tiếp đến ông chỉ dẫn cho Mâly và Mâ-Yacine những điều cần làm nếu may ra họ sống sót được. Ông chỉnh đồng hồ báo thức và lại đi nằm, hai tay bắt chéo trên ngực.

 Những cú chày giã hạt ngũ cốc, những ca khúc của các cô gái chăn gia súc gọi đám bò cái, tiếng gọi của các viên chức Hồi giáo kêu gọi con chiên vào giờ cầu nguyện... Những tiếng chó sủa, những tiếng động bước chân vẳng vào từ ngoài sân... Mâly bỗng xuất hiện ngay trước mặt ông trước khi ông kịp nhỏm đầu dậy:

- Ông còn đợi gì nữa hả, Da Trắng kia? Hãy ra ngoài mà chào hoàng tử đi!

Một thiếu niên tuấn tú khôi ngô chừng mười lăm tuổi đang đợi ông dưới bóng cây xoài, ngồi trên một mảnh da cừu, dáng vẻ giống hệt như một bức tượng đồng thau trong bóng tối của màn đêm đang đến.

- Ta tên là Diaїla và chính do Almâmi, cha ta phái đến đây. Người sẽ tiếp ngươi vào ngày mai sau buổi lễ rạng đông. Môdy Saїdou sẽ đến để dẫn ngươi đến cung điện.

 

 

 

 

 

 

Chỉ vừa ra khỏi giường bệnh, ông đã thấy mình đang đứng trước cửa vào cung điện, nơi có một đội quân ấn tượng, trang bị toàn đoản kiếm và súng. Ta chỉ bước qua đó nếu được phép mà thôi, trái lệnh sẽ bị xử trảm. Những tháp canh, những tường thành, các mái nhà, toàn bộ những công trình đó chỉ là một sự chồng chất toàn rơm khô và giàn bầu leo thảm hại. Nhưng dẫu sao, ông cũng thấy ở đó có một sự long trọng, ông, người đã biết hương vị của triều đình Nga hoàng và tất cả các Nhà nước của liên bang Nga khi Nga hoàng đã phái một viên tướng đến gặp ông để mời xây dựng các nhà máy hóa học ở Odesssa! Không cười, không thầm thì gì hết nhé! Người ta chỉ được phép ho hoặc hắt hơi ở đó mà thôi.

Ngay khi vừa đến nơi, ông được đưa vào trong mbatirdou, biệt thự mọc ngay giữa sân, và chính tại đó mà Almâmi chấp thuận những buổi thuyết trình công khai. Ông đứng đó giây lát và nhà thông thái thường trực, mình vận áo chùng dài, đầu vấn khăn, cả hai thứ đều đỏ rực, thông báo bằng một giọng cao lanh lảnh rằng ông đã đến, trong lúc miệng hát bài ca được dành cho sự kiện này. Almâmi bước vào phòng và ngồi vào chỗ mình mà không một ai phải đứng dậy: bên trái Người là Sanderval, bên phải là các Bộ trưởng và các em trai của Người, cách một khoảng khá xa là các quan chức ngồi thành nhiều hàng tùy theo thứ tự quan trọng của họ, giữa Người và những quan chức lớn là những thông ngôn viên.

Một người đàn ông khổ người cao lớn vận áo chùng khắc khổ và đeo một bộ râu xồm xoàm gớm ghiếc đứng dậy, quét ánh mắt đỏ dữ dằn lên khắp lượt cử tọa. Chắc phải là ông ta rồi, Diogo Môdy Macka mà Alpha Yaya đã nhắc tới. Ông ta xướng to chương trình nghị sự và đề nghị Saїdou đưa lần lượt từng khách mời đang ngồi đợi trong phòng áo. Thường xuyên nhất là những đoàn xe khách đến xin giấy phép đi về vùng ven biển, những biệt phái viên của các tù trưởng tỉnh lẻ hay còn có cả những người đến kêu án. Almâmi, không bao giờ mở lời trước công chúng, ngồi nghe những lời biện hộ và kết luận bằng một cử chỉ gật hay lắc đầu. Người này được tái thiết lập các quyền hạn, người khác, bị tuyên án cho vào chuồng gia súc hoặc thưởng vàng. Án được thi hành ngay lập tức, đối với cả những trường hợp bị đày biệt xứ hay bị tuyên án tử hình, những lời tuyên cứ kế tiếp nhau khiến cho vị khách toubab của chúng ta ngồi ngáp dài cả phần lớn buổi sáng.

Toàn bộ lâu đài được thể hiện trong một sự quanh co lòng vòng đầy con hẻm nhỏ, sân và các ngôi nhà chỉ hơi bề thế hơn những nơi ở của dân thường. Cả triều thần, đông và gay gắt, chen lấn quanh vị quân vương của mình, im lặng đến ấn tượng và trang nghiêm. Ông ngưỡng mộ tư thế đường bệ của đấng quân vương và sự quý tộc trong các đường nét nhưng cũng bị ấn tượng bởi sự đơn giản của nơi chốn và khiêm nhường của đồ đạc. Người ta đem tới cho ông một chiếc ghế.

- Một chiếc ghế chỗ người Da Đen, có lẽ đây là chiếc duy nhất của triều đình! - Ông nhăn nhó lẩm bẩm.

 

Ngay tức thì, giọng nói chắc nịch của Diogo Moody Macka khiến cả cử tọa rung lên:

- Kẻ Da Trắng vừa nói gì?

- Ông ấy nói rằng ngay cả nơi quê hương ông ta, ở nước Pháp xa xôi kia, những chiếc ghế cũng không đẹp nhường này ạ! - Mâly hối hả chữa ngay.

"Chuyện tầm phào, tầm phào, rồi lại tầm phào, người ta chẳng đến nơi người Da Đen để nói chuyện tầm phào chứ hả", ông sẽ ghi lại như thế để tóm tắt lại buổi thuyết trình dài, chán ngắt và vô vị này.

Lúc này, khi đã vào cuối buổi sáng, thì giọng nói sang sảng và những động tác phóng khoáng của nhà thông thái thường trực cất lên đề nghị Mâly giới thiệu Da Trắng.

Kế đến, người ta đòi ông xuất trình hộ chiếu mà Aguibou đã cấp cho ông. Almâmi liếc nhìn qua, Môdy Saїdou đọc to lên. Sau đó, nhà thông thái có thể hỏi người ngoại bang:

- Ngươi đã khởi hành từ Boulam, chúng ta hiểu rồi. Ngươi đã ghé qua Boubah, chúng ta đã hiểu. Cái này là hộ chiếu mà Aguibou đã cấp cho ngươi, điều này nữa, chúng ta cũng đã hiểu. Điều mà chúng ta không hiểu, Da Trắng ạ, đó là mục đích chuyến viếng thăm của ngươi ở đây.

- Đúng vậy, - cả quần thần tiếp lời trong một sự hỗn độn không tưởng, - một mình ra đi từ nước Pháp và tại sao lại đến tận Timbo chứ?

- Để chúng ta trở thành bạn của nhau và để yêu cầu các ông cho phép mở đường thương mại! - Ông cố gắng trả lời trong lúc cố nhấn mạnh lên giọng nói.

 

- Hắn muốn cho chúng ta cái gì và chúng muốn gì ở chúng ta? - Đám đông rền lên trong sự náo động còn dữ dội hơn nữa

Almâmi hắng giọng.

- Im lặng, - nhà thông thái thường trực kêu lên.

- Thương mại ư, chuyện đó diễn ra ở vùng ven biển kia, - một người nào đó lên tiếng.

- Anh nói đúng đấy, - một người khác đồng tình, - người Da Trắng chẳng bao giờ đem lại điều gì tốt đẹp cả. Hãy để họ trụ lại ở vùng ven biển đi!

- Im lặng! - Nhà thông thái lại rền lên.

- Để hắn nói xem hắn là ai đã!

- Im lặng nào! - Nhà thông thái lại kêu lên lần nữa. - Rồi, ngươi hiểu rồi chứ, Da Trắng, trước hết hãy nói ngươi là ai...

- Tên tôi là Olivier, Aimé Olivier! Tôi đến đây là vì tình bạn, tôi chỉ muốn sự hòa bình mà thôi! Tôi chỉ muốn thăm viếng lãnh thổ của các ông, ký kết những hiệp ước thương mại, xin phép xây dựng một tuyến xe lửa.

- Một còn đường gì hả? - Nhà thông thái chợt bị kích động.

- Tôi đã nói với các ông rồi đấy thôi! Hắn muốn đặt cả Fouta lên đống sắt! - Một ông già bật khóc sụt sịt.

Almâmi lại hắng giọng lần nữa và nhà thông thái dịch nghĩa trong lúc bắt cử tọa giữ im lặng bằng một động tác huơ tay lên:

- Đường xe lửa, đó là cái gì vậy?

- Xin chờ một chút, tôi sẽ quay lại ngay!

Ông chạy ngay về nhà mình dưới cặp mắt sững sờ của cả triều thần. Mâly bắt đầu chạy sau ông mà không sao tìm được lời giải thích cho chuyện này. Ông hối hả lục trong đống đồ đạc dự trữ và rương hòm. Lát sau, ông quay trở lại cung điện với một chiếc hộp rất lớn và bắt đầu gỡ ra trong lúc miệng lầu bầu những câu mà đương nhiên cả triều đình, chẳng ai hiểu gì.

- Đây, một tuyến đường xe lửa là vậy đấy!

Rồi, dưới cặp mắt sững sờ của cả Fouta, ông lắp từng đoạn đường ray, những thanh ngang, gắn đầu xe lửa và ghép những toa tàu.

- Giờ chỉ còn thiếu tiếng động nữa thôi, nhưng điều này, tôi có thể làm được cho các vị, - ông nói thêm mà không hề cười.

Và ông bắt chước tiếng huyên náo của động cơ, tiếng rít của lò than, tiếng va chạm của sỏi đá đập vào các thành toa tàu, sự va chạm của cành cây, và tiếng rú du dương trầm bổng của gió.

- Với cái này, ông nói thêm, các ông sẽ có thể đi từ Bouham tới Timbo trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn mà thôi.

Rồi nhẹ nhàng, ông tiến về phía Almâmi và chìa cho Người cỗ máy:

- Tặng Người đấy, thưa quân vương! Hãy bỏ chút thời gian chiêm ngưỡng kỳ quan này đi, tôi tặng nó cho Người!

Toàn bộ chuyện này có vẻ như vô thực. Người ta gãi đầu, người ta trợn mắt, người ta há hốc miệng. Chỉ có sắc thái trên khuôn mặt mới có thể diễn tả nổi trước một điều huyễn hoặc nhường ấy. Hoặc thảng là sự im lặng và nhún nhường mà, cùng với chúng, người Peul biết tiếp nhận các hiện tượng nguyệt thực, động đất và tất cả những điều kỳ diệu của đấng Tối cao lòng lành. Phải mất thời gian khá lâu để ai đó thốt ra được một câu:

- Kẻ Da Trắng này là một tên bịp bợm!

Rồi từ các hàng bên trái, nhà quý tộc của một tỉnh xa xôi, trán ướt đẫm mồ, bị nhụt trí cũng nhanh như cơn phẩn nộ trào dâng trước trải nghiệm mà ông vừa chứng kiến:

 

- Anh nói đúng đấy, tôi không hiểu làm thế nào mà sắt lại có thể chạy được với một vận tốc mà một con tuấn mã cũng không sánh nổi.

- Đúng vậy, - người ngồi cạnh ông ta đồng tình, kẻ Da Trắng này đang nhạo báng chúng ta đây mà, chúng ta buộc phải xử trảm hắn thôi!

- Và cứ cho là có chuyện đó thật đi, thì tại sao lại đặt đường xe lửa trong khi mỗi người có hai chân để đi và các khu chợ thì nhung nhúc những ngựa là ngựa chứ?

Almâmi ra một cử chỉ bằng đầu, giọng nói lanh lảnh của nhà thông thái thường trực lại cất lên lần nữa:

- Và bằng chính đôi tay của ngươi mà ngươi thực hiện điều ấy ư, hả Da Trắng kia?

- Không, không phải bằng tay của tôi mà bằng khối óc của tôi, - ông đáp lại một cách ranh mãnh. - Còn bàn tay hả, chính các ông sẽ trợ giúp tôi.

Tiếng rì rầm bất bình rộ lên, lan đi trong đám đông. Người ta đã biết mười mươi rằng khi đào đất xây đựng cung điện hoàng gia thì phải trả giá bao nhiêu tên nô lệ hay việc chuyển hàng ngàn súc vật đến tận Boulam là bao nhiêu, còn đây phải tạo dựng một con đường xe lửa hoàn toàn bằng sắt và bằng chính đôi tay mình thì khủng khiếp đến cỡ nào!

- Thế nào, hả nhà thông thái? - Một người chột mắt cất giọng khe khẽ hỏi.

- Thế nào cái gì?

- Ta sẽ để cho hắn làm hay sẽ xử trảm hắn đây?

Almâmi thốt lên một tiếng gằn trong cổ họng và nhà thông thái dịch ngay ra:

 

- Hãy cẩn thận nhé, nhà quý tộc thân mến! Chuyện ấy không thuộc thẩm quyền của anh, mà thuộc thẩm quyền của Almâmi kia... Sáng nay đến đây tạm hết. Mặt trời đã lên cao rồi, chúng ta phải chia tay nhau thôi. Hãy bình thân, hỡi các nhà quý tộc của Timbo, hãy đi thư giãn trong các vườn cây trái và với các đàn gia súc của mình đi.

Nhà thông thái nháy mắt, Mâly giải thích cho Da Trắng rằng ông phải ở lại. Almâmi mất hút đằng sau những bức tường, kéo theo sau cả đoàn tùy tùng của Người và những lời tụng ca của nhà thông thái. Và chỉ sau đó thì cả cử tọa mới tản dần đi. Ông đang đứng đợi trong sân, một mình cùng với Mâ-Yacine và Mâly thì một tên lính gác đến kiếm ông:

- Ê, kẻ Da Trắng kia, có thật nhà ngươi là cháu gọi vua Pháp bằng chú ruột không?

- Ơ thì... vâng... đúng thế...

- Thế thì đến đây đi, Almâmi sẽ tiếp ngươi!

Người ta dẫn ông đi dưới giàn cây uốn thành vòm được sử dụng làm phòng khách hoàng gia, nơi Almâmi đang có mặt cùng với đoàn tùy tùng thu hẹp. Vị quân vương mời ông ngồi ngay sát cạnh và lần này, Người nói mà không cần thông qua nhà thông thái. Người lôi chiếc tàu nhỏ xíu ra, yêu cầu giải thích tường tận tỉ mỉ và rất lâu về hệ thống. Da Trắng chỉ cho Người xem chỗ đặt động cơ, chỗ đặt bình hơi, giả làm chức năng vận động của các bánh xe, giải thích tại sao có những lỗ giữa các đường ray. Ông ca ngợi cỗ máy và nấn ná rất lâu trên những tiện ích của thương mại:

- Đồng ý, Da Trắng ạ, đồng ý! Chừng nào mà sẽ chỉ vì thông thương, thì chừng ấy ngươi sẽ còn là bạn của ta và sẽ mãi là khách quý của Fouta Người có thể mở các thương điếm, nhập khẩu những gì ngươi muốn.

- Thế còn những gì liên quan đến đường xe lửa thì sao?

- À ừ nhỉ, đường xe lửa của ngươi hả? Ta không nghĩ đó là một điều tồi đâu, nhưng ta còn phải tham khảo ý kiến của các nhà quý tộc đã.

- Khi nào?

- Khi nào đấng Tối cao mong muốn điều đó sẽ được thực hiện. Diago, fab’i diago, ngày mai, ngày kia!... Hãy đợi sự gia hạn nhiệm chức của các vua, ta sẽ tận dụng dịp đó để hỏi ý kiến họ...

Một chàng trai trẻ có chòm râu dê, đeo một chuỗi tràng hạt hổ phách to sụ quanh cổ, chặn ông lại trước khi ông ra khỏi giàn cây hình vòm:

- Ta là Pâthé, cháu gọi Almâmi bằng chú ruột. Con tàu của ông là một điều thú vị đấy. Ta tin chắc rằng nó sẽ đem lại sức mạnh cho Fouta. Ta sẽ ghé qua thăm ông, chúng ta có rất nhiều điều để nói với nhau đấy.

Chàng ta vẫn còn chưa dứt câu thì một chàng trai trẻ to con khác, trên mặt loang lổ những nốt rỗ của bệnh đậu mùa, đến lượt mình cũng tiến đến cạnh ông, chìa tay ra:

- Còn tôi, tôi là Bôcar-Biro, một người cháu khác của Almâmi, và cũng là thủ lĩnh chiến tranh.

Pâthé, Bôcar-Biro, Aguibou, Alpha Yaya! Ông còn lâu mới tưởng tượng ra được số phận thê thảm chẳng bao lâu nữa sẽ liên kết ông với bốn vị hoàng tử này của Fouta!

 

Ông tặng cho Almâmi một con ngựa xứ Camargue, những yên ngựa, cương ngựa và kim loại luyện của hãng Walker, những vũ khí, hổ phách, san hô ngọc trai và cả núi vải đẹp. Hàng loạt đồ vật sang trọng này chẳng mấy chốc lan đi khắp cung điện. Mỗi quần thần đều đòi chút quà gì đó. Ông phải giở hết những mưu mẹo của tổ tiên Gaulois của mình ra để không phải trút lại đó cả giày, lẫn đồng hồ và chiếc lều bạt của mình.

Vẫn còn hai ngày nữa trong tình trạng như thế và, thật kỳ diệu, đám lính gác đã biến khỏi cửa chính. Ba mươi phút đã đủ để ông đi một vòng hết cả Timbo. Quay về nhà, ông ghi lại: "Là vậy đấy, Versailles của Fouta là thế này đây! Lũ gà mái của chúng ta cũng còn được ở tốt hết thế!"

Những ngày sau đó, ông khóa chặt mình trong nhà, tự hứa phải làm việc với tác phẩm Vô Cùng và những cuốn sổ ghi chép. Nhưng lũ gián và ruồi, và nhất là đám đông những kẻ tò mò không để cho ông có thời gian. Một số đến sờ nắn da ông. Một số khác lại đến hít thở mùi của ông. Người ta kiểm tra độ mềm của mái tóc ông, chỉ trỏ những chiếc cúc áo trên chiếc redingote của ông. Người ta ước đoán đến kiệt cả trí óc về màu da và mốt sống của ông. Liệu ông có ăn uống không? Liệu ông có nhạy cảm với lửa không? Ông uống nước hay uống kim loại hóa lỏng nhỉ? Người ta giám sát khi ông đi săn, người ta theo dõi từng bước khi ông đi dạo, người ta rình rập khi ông tách khỏi con đường để đi vệ sinh. Không còn khoảng trống nào để mà tạo cảm hứng nữa, không bao giờ còn chút thời gian thầm kín cho riêng ông! Những kẻ bạo gan nhất còn lần vào tận mái hiên nhà ông, đến tận thành giường của ông. Ông cứ uổng công để chiếc đồng hồ báo thức của mình réo vang, mọi người chỉ bỏ trốn giây lát để rồi lại kéo đến ngay sau đó. Ông lần lượt thử hết sự phản chiếu của gương soi, mùi vị của long não và đe dọa bằng súng. Chẳng ăn thua gì hết! Chuyện đó cứ kéo dài nhiều ngày liền, cho đến tận lúc ông bỗng chợt hiểu ra. Đó chính là do hai tên vô liêm sỉ Mâly và Mâ-Yacine! Hai kẻ Sénégal này đã đòi được trả bằng gà vịt, ngô hãy sữa để cho phép họ đến thưởng thức màn biểu diễn. Hoàn toàn không kiểm soát được cơn bực tức, ông vớ khẩu súng và bắt quả tang đám người thô thiển kia trong nhà của Mâly, đang ngồi giữa đống lương thực vừa thu gom được.

- Ta đến để đòi phần của mình đây, - ông gào lên. - Kể từ bây giờ, sẽ là chia đôi năm mươi - năm mươi. Dẫu gì thì cũng chính ta là con vật biểu diễn của sở thú đó!

Nhưng, khi về đến nhà, ông bắt gặp cô bé Fatou đang đợi ông trên giường, mình cũng trần như nhộng giống hệt như lúc mới sinh ra.

- Ô không đâu, cô bé Fatou đáng thương, - ông kêu lên và buộc cô bé phải mặc lại quần áo, - chiếc giường này quá bé cho hai chúng ta đấy! Hãy đi làm chuyện đó với người khác đi! Đi đi, đi đi nào!

Ông chật vật mãi mới đẩy được cô bé ra sân và cho nó một viên hổ phách để xoa dịu những cơn nấc nức nở của nó. Chính lúc đó, bà mẹ xuất hiện từ những bụi cây rậm lougan và lao thẳng vào ông:

- Hãy cưới nó đi! Mi không thấy là nó đẹp đến thế nào ư? Hãy làm nhanh lên đi, hãy cưới nó đi! Hãy vâng lời đi, kẻ Da Trắng vô cảm kia ơi! Nào, hãy làm những gì ta nói đi!

Mâly và Mâ-Yacine, người mà ông đã không tuyển mộ mà vô dụng, ra khỏi nhà để xua đuổi hai con gà mái và bảo vệ ông chủ khỏi những trận cục ta cục tác cuồng nhiệt của họ.

 

Như đã hứa, Pâthé đến thăm ông. Đó là một hoàng tử Peul hệt như người ta vẫn hình dung trong các phòng khách sang trọng ở Paris hay ở Marseille. Cao lớn và mảnh mai, những đường nét thanh tú, da màu đồng hun, giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ điềm đạm, lại thêm vào một phong thái hiệp sĩ và huyền bí toát ra từ ngọn lửa hừng hực của tia mắt. Chàng vận một chiếc áo chùng đẹp bằng vải bazin trắng thêu xanh ở ngang tầm túi và một trong số những chiếc mũ hình chóp phủ đầy chữ Ả-rập mà người Peul gọi là pouto. Và đương nhiên cả chòm râu dê lịch lãm và chuỗi tràng hạt quanh cổ chẳng bao giờ rời khỏi chàng. Chàng chìa ra một cuốn sách rồi cất tiếng mà không hề giấu vẻ tự hào:

- Chính một người Thổ Nhĩ Kỳ đến từ Istanbul đã viết hết lịch sử của gia đình ta trong này đó.

Chàng nói rất lâu về đạo Hồi và về Fouta. Người Da Trắng ngồi nghe một cách lịch sự, rồi đã thành công chuyển hướng cuộc trò chuyện về điều duy nhất khiến ông quan tâm: Fouta, không còn chỉ toàn nói về thời tổ tiên họ mà còn nói về thời hiện tại. Ngay khi đến Boubah, ông đã không tránh khỏi việc mình đang đứng trên mặt đất của một đất nước đầy phức tạp và mâu thuẫn. Một cánh rừng bao báp thực sự: chắc nịch trong gốc rễ của chúng, nhưng mong manh trong thân và cành lá. Quá nhiều tỉnh lỵ, quá nhiều các cấp xét xử! Quá nhiều triều đại và các ông hoàng! Đó là một hệ thống sáng sủa, chắc chắn là một sự sắp đặt mềm mỏng nhưng quá nhạy cảm trước những luồng gió độc của sự ganh ghét, hiềm tỵ và hoài bão. Ông không để cho hoàng tử kết thúc nốt bài diễn văn về những thâm nhập lẩn quất của Nhà thờ và sự đạo đức giả của Công giáo, ông lập tức hỏi ngay:

 

- Almâmi bao nhiêu tuổi hả?

- Có hai điều mà ở đây người ta không bao giờ tính đến: đó là số bò Người có và tuổi của Người. Điều đó đem đến bất hạnh.

- Điều chắc chắn, đó là Người không còn trẻ nữa.

Ông nhìn sâu vào đáy mắt hoàng tử để đoán nhận hết những phản ứng của chàng và nói thêm:

- Và sắp phải thay thế Người chứ?

- Fouta đã nghĩ đến mọi chuyện, Da Trắng ạ! Người sẽ được thế vị một cách đều đặn ngay sau khi người ta chôn cất Người.

- Thế mọi người đã biết tên của người có diễm phúc
đó chưa?

- Người đó đang ngồi ngay trước mặt ông, kẻ ngoại bang tò mò ạ.

- A, thưa hoàng tử kế vị! Hôm nọ, ông đã nói với ta ở cung điện ông là cố vấn thứ nhất.

- Đó hoàn toàn là điểm yếu của người Peul đấy, bạn thân mến ơi! Đó là một cái tật nơi đất nước chúng tôi là phải chơi trò nhún nhường. Nếu tôi mà nói là hoàng tử kế vị thì cả Fouta này sẽ cười vào mũi tôi, ấy thế mà đúng đấy, tôi là hoàng tử kế vị
của Fouta.

- Thế thì người đang ngồi trong nhà tôi đây không ai khác là Almâmi tương lai của Fouta, ông thốt lên và chìa cho hoàng tử một thanh sô-cô-la.

- Thế tôi có dáng vẻ đó không hả? - Hoàng tử nói tếu.

- Ở đây, các ông ai cũng có dáng vẻ cả. Phải tự hỏi là các ông để con dân của mình ở đâu nhỉ!... Hãy nói cho tôi biết, thưa hoàng tử, ông sẽ làm gì với con đường xe lửa của tôi khi ông
lên ngôi?

 

- Ta sẽ ủng hộ. Giới trẻ đều muốn có nó, chính các ông già không thích nó.

- Những người già sẽ chẳng bao giờ muốn có nó và ở đây, không có những người già thì... Nếu tôi hiểu rõ thì ngài Bôcar-Biro là anh trai của ông phải không?

- Đúng thế, anh cùng cha đấy!

- Hừm, điều đó chẳng bao giờ tốt lành cả, anh em cùng cha ấy mà, nhất là ở người Peul các ông!

- Không đúng với trường hợp chúng tôi đâu, chúng tôi rất hợp ý nhau.

- Hãy coi là tôi chưa nói gì cả, thưa hoàng tử, tôi đã chưa nói gì hết!

Đêm đến, mệt mỏi phải nghe những ca khúc của lũ ếch nhái, ông lại lần mở một trang mới của Vô Cùng ra: "Chúng ta không thể định nghĩa cái hư không của sự Tương đối hay Tuyệt đối bởi vì chúng ta còn lâu mới biết hết toàn bộ sự Tương đối, tất cả những gì mà sự Tuyệt đối nắm giữ bằng sức mạnh, tất cả những gì sẽ lại ra đời trong cuộc sống trong tương lai..."

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một hôm, khi từ nguồn nước suối trở về, nơi ông đã có thói quen đến đó để đánh lừa sự buồn chán của mình, thì một cảnh mê ly thu hút ánh mắt ông và khiến ông dừng bước. Đằng sau một hàng rào tươi mát đầy hoa lay ơn và sơn trà mampata, một cô gái trẻ đang giã hạt fonio, miệng lẩm nhẩm hát mà không hề để ý đến sự hiện diện của ông. "Nàng thật tuyệt diệu, vị công chúa da đen này: cặp mắt to đẹp và sâu thẳm khiến ta có thể chết chìm trong đó, một ngấn cổ tuyệt hảo và chẳng có gì bí ẩn, khiến ta mơ tưởng đến Phidias, khiến ta nhập vào sự ngất ngây điên cuồng Anacréon và tất cả những thi sĩ trong trường ông. Diễm lệ và quyến rũ làm sao!" ông ghi lại trong cuốn sổ của mình, hoàn toàn bị thôi miên. Ông hẳn có thể hiến tặng cả đất nước Pérou và tất cả châu báu của Apollon để kéo dài mãi cảnh tượng hoan hỉ này. Nhưng mới chưa được đầy mươi phút thì bất hạnh xảy đến, một quả xoài chín ruỗng rơi xuống cạnh nơi ông đang đứng! Khi phát hiện ra ông, nữ nhân yêu kiều kia bỏ chày rồi vừa chạy trốn vừa kêu như gặp quỷ hiện hình. Ông nhảy qua hàng rào và chạy đuổi theo nàng: "Daro! Daro Yandi! Đứng lại đi, ta van em, ta thề rằng không có ý định gây hại gì cho em hết!" Ông thốt ra những câu tiếng Peul mà ông đã học được, nhưng thiếu nữ trẻ lại càng chạy nhanh gấp bội. Họ chạy băng qua một hai đám lougan, luồn lách giữa nhiều ngôi nhà. Chó sủa rộ lên, gà dê hoảng hồn khi họ chạy qua. Sau vài phút tưởng như bất tận của cuộc chạy đuổi này, cô gái trẻ đẩy cánh cửa của một hàng giậu rách nát mà, phía sau nó, một nhóm đàn bà, mình phủ đầy bọt xà phòng đang cọ lưng cho nhau, rồi đóng sập lại ngay lập tức. Đám lính gác có mặt tức thì sau vài giây đồng hồ, lăm lăm đoản kiếm và gậy gộc:

- Rõ là thế mà, lũ Da Trắng, thô lỗ và vô giáo dục! Chúng ta phải cấm tiệt chúng đến Fouta mới được, wallâhi, chúng ta phải làm vậy thôi! Ngươi muốn gì ở người đàn bà trẻ này hả, trả lời ngay, đồ vô giáo dục!...

Ừ nhỉ, ông đã làm gì nhỉ?... Ông thậm chí tự mình cũng chẳng biết nữa. Ông đành đứng trân, vặn xoắn mẩu khăn mùi soa che đầu mà ông đang cầm trên tay, chiếc khăn mà thiếu nữ trẻ đã đánh rơi trong cuộc chạy trốn.

- Nếu địa ngục mà tồn tại, thì nó chắc phải giống như thế, - ông lầm bầm, tin chắc rằng lần này sẽ bị lôi lên giàn xử trảm, hay chí ít cũng bị đối diện với lính gác ngục.

Rồi ông bỗng nghe thấy tiếng ai đó vang lên:

- Các người không thấy, hả lũ đần kia, rằng ông ta chỉ muốn trả lại cho cô gái chiếc khăn trùm đầu thôi đó sao?

Ông quay lại và nhận ra Diaїla , chàng hoàng tử trẻ mà
ông đã gặp tối nọ, đang vắt vẻo trên mình ngựa. Ông đã được cứu sống!

 

Sự va chạm mau chóng rơi vào quên lãng, nhưng than ôi, cả con người khốn khổ của ông cũng thế. Ông sống vậy trong nhiều ngày liền mà không hề có bất kỳ tin tức gì từ bên ngoài. Pâthé đã không đến như đã hứa còn Bôcar-Biro thì chẳng thấy tăm hơi đâu. Nhưng tất cả những chuyện đó cũng chẳng thấm tháp gì. Bệnh tật đã lợi dụng giai đoạn đen tối cô độc và tâm hồn lãng đãng, buỗn bã và lo lắng bồn chồn này để tấn công ông. Lần này là rất nghiêm trọng! Chẳng có gì giống với những lần khủng hoảng thoáng qua của bệnh sốt rét, những cơn đau bụng kinh niên mà ông đã vướng phải khi lên bảy tuổi, khi ông phải sống trong ký túc xá khổ hạnh Oullins, nơi các thầy tu dòng thánh Dominique đã nhồi cho ông toàn tiếng La-tinh, đậu nghiền và những lời đẹp ý hay cơ bản của cuộc sống. Thông thường, bệnh tật chỉ đành lòng quấy quả ông, mà cơ thể chắc nịch của ông không cảm thấy bị yếu đi thực sự. Lần này thì không rồi! Ông bị ngất đi rất lâu đến nỗi mà người ta đã nghiêm túc nghĩ tới việc đào cho ông một huyệt mộ. Nhưng ở đâu mới được chứ? Và theo phong tục tập quán nào đây, Chúa ơi? Ngoài một nhà mạo hiểm người Anh đã đến đây truyền đạo từ một thế kỷ trước, thì không một người Da Trắng nào đã chết ở Timbo cả.

Ông chìm trong trạng thái hôn mê gần như cả ngày và lại bắt đầu nôn ngay khi vừa tỉnh lại. Các động mạch chạy sát sạt làn da, cũng lộ rõ như các rảnh xương của ông. Tóc ông bắt đầu rụng, da trở nên vàng ủng. Trí óc lờ mờ, ông nghĩ mình đã bốc mùi thối của xác chết. Ngán ngẩm vì ních đầy ký ninh, những viên thuốc vichy, nước long não và moóc-phin, ông gọi hoàng tử trẻ Diaїla , và thổ lộ cho anh ta nghe những lời gửi gắm cuối cùng: "Nếu tôi chết, thì tôi đã lệnh cho quân của tôi để họ thiêu thi hài tôi và mong họ sẽ mang tro hài cốt của tôi về tận Saint-Louis. Tôi van ông, đừng áp dụng những nguyên tắc cứng nhắc của đạo Hồi để ngăn cản điều đó." Bị cuốn đi trong cơn mê sảng, ông nói tiếp: "Và đừng quên, hãy ra lệnh không cho ai được đụng đến của cải của tôi nhé! Tôi sẽ nhượng lại cho ông năm xu, bánh xà phòng và chiếc kính hiển vi."

Mê tín dị đoan cho rằng bên bờ huyệt mộ của mình, kẻ hấp hối thấy lại, hệt như trong phim, những biến cố khác nhau của đời mình. Thế mà, ông chẳng cần cố gắng để quan sát với một ấn tượng rõ ràng mười mươi, quá khứ của ông dần trỗi dậy.

Ông đang ở ký túc xá Oullins trong lớp tiếng La-tinh của cha xứ Lacordaire! Kia là cha Bourgeat đang giảng luận văn về Platon còn cha Mermet đang sắp hàng những công thức vật lý! Hình ảnh cứ dần dần trở nên lờ mờ để nhường chỗ cho hình ảnh của bậc thầy luyện kim Michaud mà cùng với ông ấy, vào năm 1963, ông đã xây dựng nhà máy sản xuất xe đạp đầu tiên mà, trong cơn điên giận dữ điên loạn, các chiến sĩ công xã đã đốt cháy hết; kế đến là hình ảnh chiếc mề đay mà ông nhận được ít lâu sau vì đã cứu được chiếc thuyền buồm gặp nạn ở vịnh Marseille. Còn bây giờ là lúc ông ba mươi tuổi, râu rậm, đã lập gia đình và là thị trưởng thành phố Marennes, nơi ông sẽ là người đầu tiên trong lịch sử nước Pháp cấp xe đạp cho bưu tá! Sau Marennes, Marseille, nơi mà trong nhiều năm làm việc ở phòng thí nghiệm, ông sẽ một lần nữa cố thử phân tách chất liệu và phát minh máy bay. Và rồi đến bữa ăn trưa tuyệt vời trên đỉnh Verryère mà người ta vẫn còn nói đến bên bờ cảng Vieux-Port, hơn một thế kỷ rưỡi sau đó: ba trăm khách mời nổi tiếng được chở lên đỉnh đồi đá bằng những con lừa đặc biệt được đưa về từ miền núi Pyrénées hay bằng những cỗ kiệu, bát đĩa được đặt ở xưởng gia công của tỉnh Sèvres chỉ cho riêng dịp này và tất cả đều được khắc tên của mỗi khách mời, một dàn nhạc giao hưởng và thi sĩ Jean Aicard xướng to những bài thơ của mình!...

 

Nhưng sự mê tín cũng không nói sự thật: những ảo giác của kẻ hấp hối còn đi xa hơn rất nhiều chính cuộc sống thực của hắn, để mơn trớn những đường vòng bên ngoài của toàn bộ cây phả hệ của hắn nữa. Những khuôn mặt già nua, đã biến mất cũng lúc với những chiếc quần cộc của tuổi hoa niên của ông, lợi dụng cơ thể ông đang tan chảy theo cơn sốt để tái sinh và trở về chế nhạo ông. Cụ già đội mũ ti-rol kia, nhìn là biết ngay đó là Simonet, có lẽ là ông trẻ, giáo hoàng tuyệt vời của ngành sản xuất vải mút-sơ-lin đấy! Bên phải, vị tướng đội mũ hai sừng kia, đương nhiên đó là ông nội rồi, người là tướng tổng quản của Napoléon trong cuộc chiến ở Italia! Và bên trái, là ông ngoại kỳ cục Claude Marius Perret!...

Timbo chẳng hiểu gì về chuỗi đuốc bốc lên mà ông khó nhọc lần tìm dưới sự hối thúc của những cơn mê sảng. Dù gì chăng nữa, với tộc người Peul, tất cả những gì màu trắng đều kỳ cục, giả tạo và khó giải thích. Cuộc sống của người Da Trắng là một sự cuồng điên mà nó chẳng cần run rẩy và sốt cao để phồng lên và đầu độc quan niệm tốt.

"Nhưng, đấng Tối cao lòng lành, kẻ Da Trắng này không còn giống như kẻ kia nữa rồi, kẻ Da Trắng này đã trở thành một trong chúng ta, wallâhi, kẻ Da Trắng này sẽ chết!"

Tình trạng ông trở nên quá đỗi thảm thương đến nỗi mà Almâmi tổ chức một buổi cầu nguyện ở nhà thờ Hồi giáo để cầu xin đấng Allah cho ông khỏi bệnh; và lệnh cho chàng Pâthé bí ẩn đến thăm ông, đem theo một siêu nước chứa đầy thuốc chiết được bằng cách ngâm nhựa thảo dược với các trang giấy mà trên những tờ giấy đó người ta đã viết sẵn các tiết thơ trong kinh Coran và người Peul gọi đó là Nassi:

 

- Hãy uống cái này đi cho tôi, - chàng nói với ông.

Và ông uống ngay lập tức, tin chắc là sẽ trút hơi thở cuối cùng trước khi uống đến ngụm thứ hai, vì hợp chất lỏng đó lấp lóa chất bẩn và bốc mùi thối của nhà tiểu cổng cộng. Ông khép mắt lại để chờ cái chết, đó chính là điều tốt lành hơn cả đối với ông. Nhưng ông thức dậy mà không hề đau đầu và cũng hết cảm giác chóng mặt sau ba ngày chìm sâu vào giấc ngủ và không chậm trễ đòi ngay một đĩa cơm ma-phê. Ông ăn ngon lành và lần này thì ông ợ hơi, cũng rõ to hệt như một người Peul chính hiệu khỏe mạnh biểu thị niềm vui vì đã được ăn uống no đủ. Rồi, không cần trợ giúp gì, ông băng qua khoảng cách vài bước ngăn ông với bên ngoài. Đến giữa sân, ông cho đem ra một chiếc ghế gấp và nằm dài dưới hơi ấm của ánh nắng mặt trời để bắt đầu một thời kỳ dưỡng sức dài và sảng khoái. Khi được thông báo điều đó, Pâthé đến gặp ông ngay để thưởng thức thành công của mình:

- Ông thấy rõ những đạo sĩ của chúng tôi là những người thần tài nhất rồi đấy nhé! Ông nên chuyển đạo đi, bạn thân mến của tôi ơi! Wallâhi, ông là một gã quá tốt để cứ ở lại làm một con chiên Công giáo tồi tàn!

- Tôi thú nhận điều này với anh, bạn Peul của tôi ạ, anh đã cứu sống tôi đấy! Làm thế nào để cảm ơn anh đây?

- A ha! Hãy cho tôi những cỗ đạn pháo!

- Những cỗ đạn pháo ư?

- Nếu không, tôi sẽ quay về với các bạn Thổ Nhĩ Kỹ của
tôi đấy!

Ông hiểu ngay rằng mình cần phải hành động gấp nếu ông muốn có được Fouta.

 

Ngày hôm sau, rốt cuộc thì anh chàng tàng hình Bôcar-Biro, đến lượt mình cũng xuất hiện cùng với một con vật săn được, một liễn mật ong và một làn quả dứa.

- Anh đã chẳng bao giờ đến thăm tôi cả, anh ấy mà, ấy vậy mà anh đã hứa với tôi, - người Da Trắng phàn nàn.

- Tôi phải đi trận!

- Fouta đã tuyên bố chiến tranh với quốc gia bất hạnh
nào vậy?

Khi ấy vị hoàng tử trẻ bắt đầu giải thích rằng chàng đã phải dẫn những đoàn quân của mình đi đến các vùng thuộc xứ Sierra Leone, không phải chinh chiến với đất nước này mà là để cố gắng tiêu diệt lần thứ một trăm tộc người Houbous, giáo phái Hồi giáo Peul và những chiến binh cuồng nhiệt này, kể từ thời cha chàng trị vì, một Almâmi Oumaron rất vĩ đại và rất đáng kính, đã luôn lăm le bẻ gẫy ngai vàng của những Almâmi.

- Đó là một cuộc chiến khiến chúng tôi hao mòn, -
chàng tiếp tục. - Sẽ không có chuyện ấy nếu như tôi đã có đủ súng đạn.

- Súng đạn ư? - Da Trắng thầm thì trong lúc vuốt chòm râu.

- Ông có thể đầu tư cho chúng tôi được không?

- Đó không phải là không thể.

- Này, hãy nói đi, Da Trắng, ông đang nói nghiêm túc đấy chứ hả?... Ờ thì, ông biết đấy, chúng ta có thể trở thành bạn
của nhau!

Bị cơn hứng thú cuốn đi, chàng ngay lập tức đứng dậy để chào ra về, nhưng Da Trắng giữ chàng bằng cách kéo một vạt chiếc áo chùng rồi hắng giọng:

 

- Cẩn thận nhé, tôi có một điều kiện!... Rằng anh phải ủng hộ tôi bên cạnh Almâmi!

- Hãy coi như anh đã có điều ấy rồi! Bây giờ, đây là điều kiện của tôi: ông sẽ không nói gì về chuyện súng đạn cả nhé!

- Với Almâmi à?

- Không, với anh trai tôi kia!

 

Bôcar-Biro ra về, Fatou cuối cùng đã có thể tiến gần lại để tặng cho ông làn cam và bắt đầu lại ca khúc tình ái bị cự tuyệt của mình:

- Hãy cưới em đi, nếu không em sẽ nhảy xuống giếng đấy!

Chuyện đó kéo cả cả phân nửa buổi sáng và, bất thình lình, cô ngẩng phắt đầu dậy như thể cô vừa có một ý tưởng nào đó, luồn nhanh về phía căn nhà và lẩn vào giường của Da Trắng.

Cô đã đoán đúng: trời bắt đầu đổ mưa. Mâly thu dọn ghế gấp và giúp Sanderval đi vào chỗ trú ẩn. Nhưng thiếu nữ nhất định từ chối đi khỏi nơi đó... Họ phải gọi đến đám lính Sénégal để lôi cô ra khỏi đó.

- Chuyện đã vậy thì, Yémé ạ, tôi sẽ lôi anh đi bộ đến địa ngục, nói như người Peul vẫn nói thế. Tôi sẽ tố cáo anh với Almâmi. Anh là một tên gián điệp, anh đã đến đây để thủ tiêu Người và để chiếm đoạt Fouta của Người và của tổ tiên Người!

Ông chẳng cho những câu nói vu khống của thiếu nữ ấy là quan trọng, lại càng không vì ngay tối đó Bôcar-Biro đến để thông báo cho ông một tin vui:

- Những ông hoàng của các tỉnh sẽ đến trong chừng mươi ngày nữa: ông sẽ có nó, con đường xe lửa của ông ấy!

 

 

Chỉ có điều, ngày hôm sau, khi đi săn bươm bướm về, ông bắt gặp một cảnh nhộn nhạo ồn ĩ bao trùm lên nhà ông. Đám lính gác chạy đi chạy lại vất vả trong sân. Đám tù binh xếp hàng dài đi ra khỏi nhà ông và ông nhận ra trên đầu họ vác những hành lý khác nhau của mình. Mâly và Mâ-Yacine cố gắng chặn đường họ nhưng vô ích. Ông vớ ngay được Saїdou và những người của cung điện hoàng gia đang đợi ông dưới gốc cam.

- Điều gì đang xảy ra ở đây vậy hả? - Ông nổi đóa gào lên và nắm ngay cổ áo người này. - Ông nhìn lũ vô tích sự này làm mà không nói gì cả à, hay chính ông cho người lục lọi đồ đạc của
tôi vậy?

- Bình tĩnh lại đi! - Saїdou khuyên ông một cách khô khốc. - Ta đảm bảo với ông rằng đây không phải lúc để khiến cho mọi thứ trở nên trầm trọng thêm đâu.

Ông giả bộ huơ súng lên, đám lính rút ngay kiếm ra. Ông thổ ra bốn năm câu chửi thề nhưng cuối cùng cũng phải đi theo đoàn người. Trong lúc bước những bước thật dài để làm dịu đi cơn tức điên của mình thì David, Mâly và Mâ-Yacine thở hổn hển theo sau ông để cố gắng giải thích cho ông hiểu chuyện:

- Chính là Fatou đấy! Con bé ngớ ngẩn đó đã thực thi lời đe dọa của nó đấy!

- Tệ hại hơn cả là người ta đã tin nó, con điên ấy! - Mâly khóc sụt sịt. - Họ dọa sẽ xử trảm ông còn chúng tôi thì sẽ bị biến thành nô lệ.

Họ đến đầu kia của thành phố, trong khu thợ dệt, trước một quần thể những ngôi nhà tranh thảm hại, bao quanh là một hàng rào cao bằng mây và dây leo. Một bụi cây gai ngăn cách họ với những ngôi nhà gần nhất, một lối mòn nhỏ hẹp, hai bên đường mọc đầy cây lantanlier và cây tầm xuân nối liền họ với con lộ lớn. Da Trắng buồn bã ngắm nhìn xung quanh và thốt lên:

- Nếu ta hiểu đúng, thì ta là tù nhân rồi!

- Tù nhân ư? Ô không đâu! - Saїdou phản đối. - Làm sao mà khách quý của Fouta lại có thể trở thành tù nhân được cơ chứ? A, các ông, những người Da Trắng ấy mà! Các ông không thể thốt ra khỏi miệng một câu mà không làm nó trở nên quá đáng!

- Chuyện này là do ông hay đó là quyết định của
Almâmi hả?

- Không phải do tôi đâu, chính Almâmi là người có thể quyết định cho khách quý của mình trọ ở chỗ nào.

Ông cho người của mình vào nơi ở, sắp xếp đồ đạc vào nhà và ngay lập tức bổ đến cung điện hoàng gia, theo sau là những bạn đồng hành đang hoảng loạn. Ông vớ một nắm sỏi và, trong một động tác điên khùng, chạy xổ về phía vị quân vương.

- Yémé! - Mâly kêu lên với ông bằng một giọng điệu mà ta có thể đọc được tất cả mọi sự trầm uất trên đời.

Ông giảm tốc độ, và bằng một cố gắng siêu nhân, lấy lại tâm trí và chậm rãi cúi người để đặt nhẹ nhàng những viên sỏi dưới chân Almâmi.

- Điều đó là nghĩa gì hả, kẻ Da Trắng kia? - Diogo Môdy Macka nổi đóa hỏi.

- Đó là... đó là một tập tục nơi họ đấy ạ, - Mâly lắp bắp trong lúc lẩy bẩy vì sợ... - một dấu hiệu tôn kính... Ở đó, khi ông muốn bày tỏ sự kính trọng với ai đó, ông... đặt những viên sỏi dưới chân họ... Người Da Trắng này ở đây không phải để tỏ lòng bất kính với Người đâu, thưa Almâmi, mà là để tuân phục một cách nhún nhường quyết định của Người... Đây là lỗi của tôi, tôi đã không nghĩ đến việc phải nói với hắn rằng ở chỗ chúng ta mọi chuyện diễn ra không giống thế...

Đám đông nhăn nhó, David, Mâly và Mâ-Yacine cuối cùng đã có thể thở.

- Thế thì, hãy đứng dậy đi, con người quả cảm của ta! Nhà thông thái mủi lòng nói.

- Nếu dân Da Trắng biết đến sự tôn kính, thì họ dẫu sao cũng có những tập tục thật kỳ cục! - Vị đạo sĩ của triều đình nhận xét.

 

Liệu ông có phải là tù nhân không? Không phải, người ta đảm bảo với ông thế qua miệng của tất cả các nhà chức trách của Timbo. Chính vì an ninh cho ông mà người ta đã chuyển ông tới đây. Ông chẳng có gì phải sợ cả. Ông mãi vẫn là khách quý của Almâmi và là bạn của tộc Peul.

Nhưng ngày hôm sau, khi ông lấy ô và chiếc mành để đi săn bươm bướm, thì những người của cung điện hoàng gia đã chặn cửa hàng rào nhà ông, thì thầm tranh luận với nhau mà thậm chí còn chẳng thèm để ý đến ông.

Đỏ mặt vì tức tối, ông trưng trên mái nhà ông một băng rôn, trên đó, nhớ lại những bài học tiếng La-tinh, ông viết hàng chữ màu đỏ và thật đậm: "Constituaenda est Timbo!" Cả Timbo nổi giận kinh hoàng: một số nhìn nhận dòng này là một lời thóa mạ, một số khác lại coi đó là một lời tuyên chiến.

Da Trắng phải cầu viện Pâthé để người ta thôi ném đá vào nhà ông và ngừng những tiếng kêu thù hận chĩa vào ông. Nhưng sự bình yên chỉ quay trở lại khi ông thuận tình cho gỡ dải băng rôn xuống và đốt nó đi trước sự chứng kiến của công chúng. Một sự hòa bình quá đỗi tạm thời, dẫu vậy: thứ năm sau đó, ông thấy Fatou đến với một làn quần áo và một chiếc rương bằng gỗ.

- Cô đến làm gì ở đây vậy, hả cô bé ngớ ngẩn kia! Cô không cho rằng mình gây bất hạnh thế là đủ rồi sao?

- Sao lại thế, cô ta đến làm gì? - Mâ-Yacine đáp. - Ông không biết rằng một trong đám Ouolouf của ông vừa cưới với cô ta hay sao?

 

Các ông hoàng và hoàng tử của Fouta cuối cùng cũng nhóm họp.

Đám lính gác đến kiếm ông để đưa đến cung điện. Thể thức trọng thể chán ngắt không còn xa lạ với ông nữa. Almâmi xuất hiện, trong những chiếc áo chùng lấp lánh của Người, và cả thành phố nín lặng; đoàn tùy tùng của Người còn đường bệ hơn lần trước và những lời tán dương của các nhà thông thái còn rền vang hơn nhiều. Những lễ bộ khai mạc kéo dài đến tận trưa. Người ta đọc kinh Co-ran, chúc tụng nhau, người ta ban phước cho Fouta trong lúc sự hiếu kỳ ác tâm của đám đông soi mói săm soi ông dưới tất cả mọi góc độ. Ông nhận ra nhà thông thái thường trực và vị đạo sĩ của cung điện. Ngược lại, ông phải căng mắt để phân biệt Bôcar-Biro và Pâthé, lần này, vẻ uy nghi của họ gần như ngang hàng với vẻ uy nghi của Almâmi. Sau đó, mọi sự lịch sự và những lời thổ lộ sốt sắng tắt dần trên môi mỗi người. Sự im lặng bao trùm cung điện hệt như giọt nước hoa lấp đầy không gian. Diogo Môdy Macka khua tay và nhà thông thái thường trực đứng dậy để thông báo chương trình nghị sự:

 

- Để bắt đầu, hỡi các nhà quý tộc của Fouta đã tập hợp ở đây, Almâmi đề nghị chúng ta kiểm tra một vụ việc đã trở nên quan trọng đối với triều đình. Các vị không phải là không biết rằng, kể từ vài tuần nay, chúng ta có một kẻ Da Trắng đến sống giữa bức tường của chúng ta. Kẻ Da Trắng này, hắn nói hắn đến từ Boulam. Hắn nói hắn xuất thân từ một gia đình giàu có, thuộc dòng dõi vua Pháp. Hắn nói đến đây bằng bàn tay không dao và trí óc không hận thù. Hắn nói hắn chỉ cần một con đường cho tàu hơi nước chạy qua. Hắn nói hắn là bạn của Almâmi và là nhà hảo tâm của Fouta. Bằng tình bạn, Almâmi đã đón tiếp hắn; bằng tình hảo tâm, Fouta đã mở cửa cho hắn. Chính từ đó mà sự nghi ngờ đã bắt đầu xâm chiếm tâm trí mọi người. Rất nhiều cái miệng đã lên tiếng và chúng ta đã nghe được tất cả các thể loại chuyện. Có vẻ như sự ra đời của hắn không chắc, rằng con đường đi của hắn không thẳng, rằng các ý định của hắn không sáng sủa. Toàn bộ chuyện ấy khiến cho những tâm tưởng bấn loạn, toàn bộ chuyện đó gây phức tạp cho những thượng vụ của Almâmi.

Vài tiếng rì rầm nổi lên, vài tiếng ho húng hắng và cả phòng họp không chậm trễ đặt câu hỏi đầu tiên:

- Hãy nói cho chúng tôi biết, thầy Diogo Môdy Macka, người đàn ông này có đem theo giấy tờ gì của chú hắn không, vua của nước Pháp ấy?

Thủ tướng đáng gờm giải thích bằng chất giọng to vang rằng người đàn ông này đã đi trên nền đất của Timbo mà chẳng có gì trong tay ngoài đôi găng không thể thiếu của hắn. Ông giải thích những điều mà cả Timbo đã biết rõ mười mươi: ở xứ sở Da Trắng, nơi mà tất cả đều trái ngược và vặn vẹo ấy, thì các vị vua không viết, họ chỉ nói qua miệng những đứa cháu ruột của mình mà thôi.

- Nói vậy, thì bất kể một kẻ coi ngựa nào có thể tới từ Sokoto hay từ Tombouctou rồi tự nói mình là cháu gọi vua của La Mecque bằng chú ruột được đấy! - Một vị hoài nghi cất giọng phẫn nộ.

- Vậy chúng ta hãy bắt đầu bằng việc làm sáng tỏ vấn đề này, - Diogo Môdy Macka gầm gừ trong lúc quay về phía
Da Trắng. - Có hay không việc ngươi là cháu ruột của vua
Pháp hả?

Và, một lần nữa, lại diễn ra cảnh giống hệt ở Guidali, trong sân của hoàng tử Aguibou. Da Trắng, bằng tất cả lòng trung thực, muốn giãi bày sự mập mờ. Mâly Và Mâ-Yacine đã khiến ông câm miệng bằng những cú huých khuỷu tay và những cái nháy mắt và, bằng cách nói vòng vo bóng gió xun xoe của họ, họ đã thành công khiến những kẻ Peul đa nghi nhất phải nuốt trôi câu chuyện huyền thoại hết sức khiếm nhã của họ.

Nhà thông thái lấy lại trật tự  và lại cất giọng hỏi cả phòng họp:

- Có ai khác muốn nói gì nữa không?

- Chúng ta hãy quay lại vụ việc này ở Dinguiraye đi! Có vẻ như người ngoại bang đang có mặt tại đây đã đến với rất nhiều của cải và đạn dược và hắn muốn tặng nó cho vua Dinguiraye, kẻ thù của tất cả chúng ta, điều đó có thật không?

- Chúng ta đã đặt một câu hỏi cho Da Trắng, - nhà thông thái sốt sắng.

Đúng thế, ông rất muốn đi đến Dinguiraye, Sanderval nói. Không, không đời nào ông muốn đi Dinguiraye cả, Mâly dịch lại.

 

Bị lũng loạn bởi những lời dối trá của mình, con người này không nhận ra người đàn ông vận áo chùng, ngồi ở hàng ghế thứ hai, lúc này đang sẵn sàng mở miệng:

- Da Trắng có thể nhìn thẳng vào mặt ta và thề rằng hắn đã chưa bao giờ nói với ta rằng hắn sẽ đi Dinguiraye không?

Đó chính là Aguibou, người chắc đã thế chỗ của cha mình, ông hoàng của xứ Labé, đã quá già yếu. Mâly lảo đảo dưới hiệu ứng của sự ngạc nhiên. Những tiếng ấp úng của anh ta đã ký nhận những lời thú tội của mình.

- Các vị thấy chưa hả? - Một ai đó kêu lên - ... Ô không, Fatou đã không nói dối đâu!...

Lần này, nhà thông thái không sao ổn định được trật tự. Những giọng nói nổi lên trong những hàng cuối cùng, mặc cho những lễ nghi thể thức:

- Da Trắng, hắn nói điều này để rồi lát sau lại nói điều khác! - Một tiếng nói kêu to. - Phải xử trảm hắn thôi.

Diogo Môdy Macka thì thầm điều gì đó vào tai Almâmi. Người này hắng giọng và, một lần nữa, giọng nói của nhà thông thái vang lên:

- Có ai đó trong số những quý tộc đây phản đối việc xử trảm người đàn ông này không?

Kéo theo đó một sự im lặng dài, chỉ bị ngắt bởi tiếng thì thầm và những cơn ho trước khi giọng nói đã giảm khí thế của vua Kankalabé cất lên:

- Chúng ta là người Peul, những người anh em ạ, ngành đạo đức học của chúng ta, Poulâkou, dạy cho chúng ta cư xử hệt như con tắc kè hoa: đảm bảo rằng thế giới không sụp đổ dưới bước chân đầu tiên của chúng ta trước khi mạnh dạn bước bước thứ hai. Chúng ta đang giận dữ, người đàn ông này đã nói dối chúng ta. Nhưng dù có chuyện đó đi nữa, chúng ta hãy thận trọng. Giờ ta giết hắn, rồi sau đó ta mới vỡ lẽ hắn đúng là cháu của vua Pháp thật thì sao, các người đã nghĩ đến điều đó chưa?

Những câu nói này khiến cho một làn sóng ngờ vực nhỏ nổi lên trong phòng. Những tư tưởng cân bằng đồng tình. Những kẻ quá kích động hồi nãy thì bộc lộ sự lưỡng lự. Điều đó làm nảy sinh một tia sáng hy vọng trong ánh mắt của Mâly. Vị thông ngôn bất hạnh này ngẩng đầu lên để cố gắng bám vào một niềm hy vọng mới:

- Wallâhi, người đàn ông này đúng là cháu của vua Pháp thật mà! Tại sao tôi lại phải nói dối các ông chứ?

- Thế thì hắn phải nhanh chóng mà chứng tỏ điều đó trước khi ta cho gọi đao phủ đến! - Diogo Môdy Macka đỏ mặt nói.

- Hắn, một hoàng tử ư? - Có ai đó phẫn nộ. Thế thì tại sao áo quần hắn lại xỉn màu và chật chội như thể hắn thiếu vải vậy?

Một luồng sáng thần tiên lóe lên trong đầu Da Trắng, có lẽ là do hiệu quả huyền bí của sự cùng quẫn! Thay bằng chứng kiến cảnh hắn ta bị suy sụp, thì cả Fouta lại hết sức ngạc nhiên thấy ông phá cười:

- Vậy hãy cho tôi vài phút, tôi sẽ chứng minh cho các ông thấy rằng tôi đúng là cháu của vua Pháp!

Nhà thông thái quay sang Almâmi. Người này gật đầu đồng thuận.

- Đồng ý, - nhà thông thái tiếp tục. - Chúng ta thuận cho Da Trắng vài phút. Nhưng quân lính sẽ nã đạn bắn gục ngay nếu như hắn có ý định bỏ trốn.

 

Ông chạy nhanh về phía nhà mình, lục từng cái rương và cuối cùng đã tìm thấy bộ trang phục kỳ diệu của Méphistophélès mà ông đã tự nhủ vứt nó xuống khỏi tàu. Ông thậm chí còn không chắc đã đem nó theo. Và trong lúc lôi nó ra khỏi hòm và giở ra, ông vẫn không biết liệu mình có nên mặc nó vào không. Có đấy, dẫu gì đi nữa, ông đã đủ dũng cảm để vận nó vào mình, người ta sẽ coi ông là ai nhỉ: là một hoàng tử kế vị nước Pháp hay là ông hoàng của những tay hề đây? Ông nhìn ngắm màu đỏ tím của bộ trang phục, những chiếc cúc gỗ, những sợi dây lụa và chiếc mũ có sừng điểm những đường viền lông thú và, mặc dù chỉ có một mình trong phòng, ông phá lên cười rất to. Ông diện nó vào người với vẻ ung dung và phong thái đài các của một đấng quân vương sắp sửa đến dự khiêu vũ.

- Họ đã không chấp nhận ta là một con người, thì họ sẽ rất chấp thuận cho ta trong trang phục Méphistophélès.

Ông ra khỏi cung điện hoàng gia là một tên tù nhân, giờ quay lại, ông là một hoàng đế.

- Louis XVI chắc cũng tạo cùng một hiệu ứng trước lũ nhà quê của tỉnh Saône-et-Loire, - ông lầu bầu trong đám râu rậm, đúng ra là tự hào về diện mạo của mình.

Sự kính trọng và ngưỡng mộ sáng lên ngay trong chính cặp mắt của Diogo Môdy Macka. Ông nghe thấy những tiếng thì thầm nổi lên quanh ông và hiểu rằng ông đã thắng cuộc.

- Thường thì bọn Da Trắng xấu xí, nhưng tên này, hắn đã trở nên đẹp thực sự! - Ai đó lên tiếng trước.

- Ôi, hắn vẫn luôn giữ được cặp mắt tắc kè hoa và bộ tóc dính, chỉ có điều bộ trang phục này, là cái gì đó khác hẳn. A, đúng thế đấy!

 

- Ngay các vị vua của La Mecque cũng không diện những trang phục phong phú và lấp lánh nhường ấy!

Rồi người ta nghe thấy tiếng nhà thông thái vang lên, át hẳn những tiếng tiếng khác:

- Một chút im lặng nào, những người anh em! Ibrahima, vua xứ Fougoumba có đôi điều muốn nói.

- Người đàn ông này là dòng dõi nhà vua, đồng ý! - Ibrahima bắt đầu mở lời. - Nhưng có phải vì thế mà chấp nhận hắn là bạn của Fouta hay không? Có phải là lúc đối với người Peul tin tưởng người đầu tiên đặt chân đến đây hay không?

Những người xứ Alphaya không thể tìm được dịp tốt hơn để thò móng vuốt của mình ra:

- Đúng vậy đấy, thưa Almâmi, tại sao Người lại để cho kẻ ngoại bang này chạy qua những đồi núi của chúng ta chứ? Tại sao Người lại đón tiếp hắn trong tình hữu nghị hả? Người Da Trắng là kẻ thù của chúng ta; chúng đến đây quấy rối sự ngơi nghỉ của chúng ta, ăn cắp đàn bà của chúng ta và có thể biến chúng ta thành một dạng tù nhân, chúng ta không muốn điều đó.

- Còn vụ Dinguiraye nữa, vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa! Phải làm sáng tỏ những ý định của Da Trắng! - Có tiếng kêu rõ to vang lên ở hàng cuối cùng.

Bóng gió, thì thầm, giận dỗi, thay đổi thái độ, giảng hòa nổi lên, giống hệt như trong tất cả các buổi nhóm họp của người Peul! Điều đó kéo dài cho đến tận giờ cầu nguyện buổi tối. Cuối cùng, Almâmi thì thầm điều gì đó vào tai nhà thông thái và người này lại gào lên:

- Da Trắng đang có mặt tại đây là bạn của Almâmi và là khách quý của Fouta! Almâmi thuận cho ông ta những gì ông ta cầu xin. Ông ta sẽ có con đường cho cỗ máy hơi nước chạy qua, nhưng Người cấm ông ta đi về hướng Dinguiraye. Những ai giúp ông ta thực hiện điều đó sẽ bị xử trảm.

 

Khi trở về nhà mình, ông lại thấy lũ lính gác ra khỏi nhà ông, trên lưng vác tất cả đồ lương thực và những rương hòm.

- Còn chuyện gì diễn ra nữa đây, - ông gào lên. - Người ta dẫn tôi ra cọc xử chém hay trục xuất tôi ra khỏi thành phố thế này hả?

- Cả hai điều ấy đều không có đâu! - Saїdou đến sau lưng ông và trấn an. - Người ta chuyển ông về nơi ở cũ của ông đấy thôi mà. Ông thấy đấy, ông đúng là khách quý của Fouta rồi!

Thế giới đã đổi thay. Người ta giúp ông. Người ta giúp ông ổn định lại nơi ăn chốn ở và đem đến cho ông một đĩa to cơm kèm theo mọt thứ sốt gà ngâm lạc, đến trực tiếp từ cung điện của Almâmi.

Các phiên chợ lại mở và những ánh mắt đã kém phần giận dữ đe dọa, đám lính gác có phần kín đáo hơn và hàng xóm tỏ ra vui vẻ hồ hởi hơn Những làn sóng những kẻ tò mò thô thiển lại tái xuất hiện dưới mái hiên và sân nhà ông, còn các hoàng tử từ khắp các tỉnh tìm kiếm tình bạn nơi ông. Ai nấy đều muốn có kẻ ngoại bang này trong phe mình, kẻ ngoại bang mà người đồn rằng rất giàu có và đầy quyền lực và, hơn thế nữa, kể từ buổi chiều hôm đó, ông là người bạn thực sự của Almâmi. Ai nấy đều tin tưởng ở ông: các tỉnh thì muốn sao cho có được quyền hạn ngang bằng với quyền lực lấn át của Timbo, xứ Alphayas thì để buộc Almâmi phải tôn trọng sự thay đổi quyền lực; và mỗi một hoàng tử sorya thì để, đến lúc thuận tiện, thì hất cẳng những người anh em cùng cha khác mẹ và đoạt ngôi báu. Những cuộc thăm viếng này thường diễn ra về đêm và kèm theo vô số quà cáp và những câu chuyện khiếm nhã về phe đối địch.

Ngày mùng 10 tháng Năm, ngán ngẩm vì không ngủ được, ông lôi bút chì ra và ghi lại lời tiên đoán này: "Ta có linh cảm rằng đất nước này đang chuẩn bị diễn lại, và cùng một màn, hai thời kỳ đen tối âu sầu của lịch sử nước Pháp... Một bên là người xứ Armagnac và một bên là xứ Bourgogne! Còn ở đây, một bên là Timbo; bên kia là Labé! Ai nấy đều có những vực thẳm để làm chỗ trú cho vua Henri III và Hầu tước De Guise của họ! Ở đây là Pâthé và Bôcar-Biro; ở kia là Aguibou và Alpha Yaya!... Fouta thật kỳ quặc! Những người Peul này rất ranh mãnh, có thể còn quá ranh mãnh là khác! Fouta đã trở thành một tấm lưới, một tấm lưới nghịch lý khác thường. Rơi vào đó cũng dễ dàng như để cho những người Peul này rơi vào đó.

 

Ông đi lang thang lẩn quất trong vùng để kiểm định và ghi lại những hang hốc và các nguồn suối, lấy những mẫu đất và cây thân mềm rồi lại chuyển sang săn voi. Ông đã thoát chết khỏi một cú ngã, một vụ đầu độc và một vết rắn cắn. Còn về bệnh đau bụng do những khủng hoảng của bệnh sốt rét, thì ông thường xuyên cận kề với hôn mê. Thế rồi người ta thông báo cho ông biết có vua Koїn đến thăm:

- Mọi người gọi ta là Dion-Koїn, ông hình dung ra ông chủ của Koїn nghĩa là gì rồi chứ! - Người này vừa nói vừa cười khẩy. - Ta đã nghe nói về ông từ rất lâu và cũng như tất cả mọi người, hôm nọ ta đã vỗ tay hoan nghênh dáng vẻ bề thế của ông ở cung điện hoàng gia. Nếu ông muốn, chúng ta sẽ trở thành bạn của nhau. Hãy rẽ qua Koїn trước khi quay về nhà ông. Chúng tôi có vật săn rất ngon và sữa tốt nhất nước - còn về những gì thuộc về đàn bà thì...

Ba tràng ho cất lên không ngớt từ ngoài vẳng vào. Ông ta cúi xuống, nói trong lúc tay vung vẩy rất bồn chồn:

- Nào!...Vào đi!... Đã bảo vào đi cơ mà!... Ơ, mình còn đợi gì nữa thế hả?

Một cái bóng ngập ngừng, băng qua khu sân trải đá dăm và đến ngồi chồm hỗm dưới mái hiên.

- Là vợ tôi đấy!... Vào đi, vào đi nào!... Rảo chân lên đi... Ông không từ chối cô ấy vào đây chứ, đúng thế không? Cô ấy hẳn sẽ rất thất vọng. Ông hiểu chứ, cô ấy chưa bao giờ nhìn thấy một người Da Trắng nào hết.

Người phụ nữ trẻ vẫn lưỡng lự, rồi vào nhà bằng một bước chân và thế là cả căn phòng sáng bừng lên. Đó chính là người đàn bà trẻ hôm nọ, mà do cô ta, ông đã suýt bị xử tội ném đá đến chết. Da Trắng không còn để tâm đến những gì mà vị khách của mình đang nói. Nàng thật đẹp, đẹp, còn kiều diễm hơn nhiều khi nhìn quá gần như thế! Cặp mắt thất thần, miệng há hốc, hơi thở gấp gáp, ông nghiến ngấu nàng bằng cặp mắt. Ông có dáng vẻ của một kẻ thiểu năng trí tuệ và ông cũng chẳng bận tâm đến điều đó. Ông săm soi nàng từ đầu đến chân, ngừng lại rất lâu trên vòng lượn của gáy, đôi vành tai, những nếp gấp của mũi và những nét uốn của vành môi: không một nhược điểm. Làn da Peul của nàng và các đồ trang sức nàng đeo lóe sáng trong bóng tối căn nhà khiến ông nghĩ đến tia sáng của những tấm kính ghép đẹp nhất của thánh đường Đức Bà ở tỉnh Chartres dưới ánh sáng ban ngày.

 

Dion-Koїn bắt đầu lo lắng:

- Ê, Da Trắng, ông sao vậy? Lạy thánh Allah, có điều gì xảy đến với ông vậy?

Ông không biết có chuyện gì xảy đến với mình, ông không biết liệu mình đang yêu hay đã phát điên.

Ông đứng phắt dậy. Nắm hai bả vai Dion-Koїn và nói với anh ta rất rõ ràng:

- Hãy tặng lại vợ ông cho tôi đi! Tôi cầu khẩn ông đấy, hãy nhượng nàng cho tôi!

Người này, ngỡ là một câu chuyện phiếm, miệng cười khẩy trong lúc đi ra khỏi nhà và xông thẳng về phía đoàn tùy tùng của mình đang đứng trong sân:

- Da Trắng bị điên thật rồi! Hắn muốn ta tặng lại vợ cho hắn. Ta chưa bao giờ nghe nói đến chuyện này cả! Đúng là một chuyện kỳ cục! Các ông nên ca tụng điều đó được đấy, các nhà thông thái ạ!

Rồi ông ta dụi mắt, quay trở lại nhà và vẫn bắt gặp Da Trắng trong cùng một dáng vẻ của chú bé vị thành niên bị thôi miên như lúc ông ta đi ra.

- Tôi van xin ông, hãy tặng nàng cho tôi đi, - Olivier de Sanderval lặp lại câu nói mà không hề phảng phất chút mai mỉa nào trên khuôn mặt.

- Nhưng ta không thể cho ngươi nàng hôn thê của ta được: đó là ái nữ của một vị vua vĩ đại, hơn nữa, vị vua này là một người bạn thân. Ngươi thấy rõ là ta không thể cho ngươi cô ấy được. Tại sao ngươi không đi Kébou? Ở đó, ngươi sẽ tìm thấy những cô gái còn đẹp hơn nhiều.

- Thế thì, hãy nói cho tôi biết, nàng tên là gì?

 

- Cô ấy tên là Dalanda. Nhưng đó là một cái tên quá phức tạp đối với ngươi, rồi ngươi sẽ quên nó ngay thôi, ta chắc chắn điều đó.

Anh ta cầm tay vợ và kéo nàng ra phía cửa. Ra đến hiên, anh ta quay lại và nói:

- Cả Dalanda nữa, hãy quên cô ấy đi, điều đó có lợi hơn cho cả ba chúng ta.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một căn bệnh khủng khiếp đã tấn công ông, còn trầm trọng và khó chịu đựng hơn cả bệnh đau bụng và chứng mất ngủ và nó chẳng có tên. Một cơn đau không định hình đốt nóng thân thể ông, đầu độc dòng huyết quản của ông và khiến tâm trí ông bấn loạn. Mâly đã ngỡ ông phát điên, Mâ-Yacine, người lại vừa bị người ta đầu độc cùng đám lính Sénégal, do một trong những đạo sĩ Peul đáng gờm đã làm việc ông bằng cỗ tràng hạt. Ông trở nên đơn độc và dễ nổi cáu. Ông khước từ tất cả mọi thứ đồ ăn người ta đem đến: sữa đông và couscous hạt kê, món taro nghiền cũng như thịt cừu viên. Ông lả người cả nhiều ngày liền trong một xó nhà. Sau đó, ông lang thang trong các con hẻm của Timbo, vô cảm trước các đám đàn bà trẻ con đang cười hô hố sau lưng và thô lỗ chỉ thẳng vào cặp mắt chim hiếm và làn da đỏ rực của ông. Ông đi hết nhà này đến nhà khác, tìm kiếm dưới mỗi mái hiên và trong các góc khuất của đám lougan. Ông mạo hiểm công khai săm soi các bà: những người đang giã fonio và cả những người từ giếng trở về. Ông chẳng thấy nàng ở đâu cả. Rõ ràng là bất cẩn, nhưng ông cũng chẳng thèm để tâm đến điều đó. Ở Cassini, những người Nibous tuy nhiên đã nhắc cho ông nghe cả ngàn lần câu ngạn ngữ: "Nếu anh muốn tránh lưỡi dao của người Peul, thì hãy tránh ngai vàng, đàn gia súc và phu nhân của họ." Ông đi khắp lượt Timbo và các xóm làng lân cận, độc thoại triền miên bên bờ sông và không sao nhấn chìm nổi nỗi buồn rầu bâng khuâng của mình trước khi lại lê bước chân về cái tổ của mình hệt như một con sư tử già thất trận.

Thế rồi, vào một buổi chiều đẹp trời, một con bé đến lôi ông ra khỏi trạng thái u mê.

- Nó muốn gì ở ta, con bé kia? - Ông quát mắng Mâly.

- Nó muốn ông đi theo nó.

- Nhưng để đi đâu, hả Chúa ơi?

- Có thể là đến chỗ Almâmi.

Trong tất cả những giai đoạn nhọc nhằn và lang thang thì chưa một lần ông đi trên con đường này cả. Con bé dẫn ông đi từ phía sau nhà, xuyên qua một khu lougan bỏ hoang. Họ đi qua trước một cái chòi nghỉ bằng tre, nơi ông vẫn có thói quen đi vệ sinh, vượt qua một hàng rào um tùm những cây dương xỉ, rẽ vào một lối mòn đầy cỏ, ngoằn ngoèo bất tận giữa những gò rau và những ngôi nhà trước khi đến một bãi chuối nhỏ xíu mọc lên gần một con suối. Đến đó, nó dừng lại mà không hề nói lời nào và chỉ tay về phía bãi chuối. Ông khó nhọc căng cặp mắt đã đờ ra do những đêm không ngủ và bệnh sốt rét.

Ông đã nhìn thấy. Nàng đang ở đó, nổi bật giữa những thân chuối và con suối, váy ngắn, ngực trần mái tóc nàng đầy những san hô và ngọc trai, cặp hoa tai bằng vàng, một mạng dày vòng đeo cổ đỏ như san hô, một số chỉ nhỉnh hơn cổ nàng, một số khác lại đổ xuống tận núm vú; một bình sữa và một chiếc thìa gỗ đặt dưới chân nàng.

- Dalanda ư! - Ông run lên.

Nàng chỉ mỉm cười. Rồi thời gian như ngừng trôi. Họ đứng chết lặng trước mặt nhau, im lặng và vô thực hệt như những bản khắc mà ta thoáng thấy trên các vách đá của dãy Hélaya. Đến lượt mình, nàng thì thầm điều gì đó nhưng ông không hiểu. Ông quay về phía con bé hồi nãy để cầu khẩn nó giúp đỡ, nhưng nó cũng chỉ đành buông thõng cánh tay tỏ ý bất lực. Ông những muốn uống ừng ực những câu nói của nàng, cũng hau háu hệt như những kẻ chăn gia súc hưởng thụ liễn mật ong của họ vào buổi trưa sau cả nửa ngày chạy thốc tháo đó đây.
Nàng lại cất giọng trong lúc ra hiệu bằng tay. Lần này thì ông hiểu được:

- Hôm qua em đã nhìn thấy ông đứng gần chuồng ngựa của cung điện... và sau đó hôm kia lại đứng bên cạnh trường Hồi giáo trung tâm... Có phải ông đã mất một con gà mái hay không mà lại lang thang như vậy hả?

Ông lao vào một làn sóng ngôn từ dài bất tận và nhanh liến láu để diễn tả tình yêu của ông đối với nàng, những đêm dài ông thức thao thức để đợi nàng, cái chết âm ỉ mà sự vắng bóng của nàng gây cho ông. Nàng chẳng hiểu gì cả. Quay về phía con bé, nàng cười khùng khục:

- Sao chứ, đấng Tối cao lòng lành, có thể nào người ta sinh ra trên đời này mà lại không nói được một từ Peul nào chứ?

Nàng cúi xuống, cầm chiếc thìa gỗ và múc sữa từ trong bình ra:

- Uống đi, sữa đấy!

Ông uống hổn hển. Có thể nói đó như một con chó con tu nước sau một cuộc chạy dài. Ông lấy lại hơi và nhảy bổ về phía nàng. Nhưng nàng bỗng kêu lên khe khẽ và đẩy ông một cách mãnh liệt vào lúc ông quỳ xuống dưới chân nàng. Nàng ném một ánh mắt gượng gạo về phía con bé và nhắc lại nhiều lần cho đến tận lúc ông hiểu:

 

- Đêm nay... khi tiếng gọi của người điều hành lễ cầu nguyện chấm dứt, thì em sẽ ghé qua thăm ông.

 

Tối đó, ông đi nằm sớm mà không hề viết lách tí nào trong các cuốn sổ, cũng chẳng động gì đến những quân cờ. Ông phủ tấm chăn đắp để tránh gián và muỗi rồi dồn hết tâm trí lên những tiếng động xào xạc trữ tình của Timbo. Ông nghe thấy những tiếng chày giã hạt và tiếng chó sủa, tiếng gầm của những ông thầy đọc kinh Coran và tiếng líu ríu của con trẻ lần lượt tắt dần; rồi đến những tiếng kể chuyện và các bài hát đơn điệu của các nhà thông thái. Cả thành phố bắt đầu chìm vào giấc ngủ, ông để mặc tâm tưởng mình chấp chới trong những tiếng kêu chói tai của đám dế mèn, tiếng ộp oạp của ếch và những tiếng hú khủng khiếp của loài sói vằn và linh cẩu. Ông cảm tưởng hình như nàng chẳng bao giờ đến. Bài bi ca chua loét của thầy điều khiển buổi cầu nguyện quá đỗi siêu thực, gây bấn loạn quá dỗi giữa đêm khuya, ngay cả với kẻ nghịch đạo.

Đây rồi, cuối cùng thì lời than vãn chờ đợi khắc khoải nhường ấy cũng đến! Ông mài sắc các giác quan và nhìn chăm chăm cửa ra vào, nhưng chẳng có gì sượt qua cửa nhà ông ngoài lũ mèo, chó hoang và những con chuột cống bẩn thỉu kếch xù hàng ngày. Rồi ông cũng mơ màng chìm vào giấc ngủ: có lẽ là do nỗi sợ hãi quá dữ dội! Ông đang mơ thấy mình đứng trước sân khấu nhà hát thì cảm thấy cái gì đó chạm vào tay mình. Ông tiếp tục mơ màng, nghĩ rằng đó là một con chuột cống, rồi bất thình lình hất tung tấm chăn đắp và lao đến vớ ngay lấy khẩu súng, khi ý nghĩ rằng đó có thể là một tên trộm hay một kẻ giết người nào đó sượt qua tâm trí.

 

- Đừng sợ, là em đây mà! Nàng thì thầm với ông, cả tấm thân lõa lồ rực rỡ dưới ánh sáng của ngọn nến.

 

Bôcar-Biro quay lại vào sáng hôm sau để thông báo cho ông biết rằng ông vẫn không nên tuyệt vọng để được phép đi đến tận Dinguiraye. Ông ta đã nói chuyện với Almâmi và người này đã chẳng thấy có điều gì bất tiện nghiêm trọng cả, tóm lại, Almâmi đã đáp lời ông ta:

- Hãy xoay xở với Diogo Môdy Macka và những cố vấn khác của hoàng triều đi!

- Và với Diogo Môdy Macka và lũ chân tay của ông ta hả, sẽ chẳng có gì phức tạp đâu, - Bôcar-Biro kết luận, - ông chỉ cần nhấn chìm họ trong thật nhiều hổ phách và san hô thôi.

 

Sau đó ít lâu, ông là nạn nhân của một trận ỉa chảy khủng khiếp, nó đã vặn xoắn gan ruột ông một cách dữ dội trong hai ngày liên tiếp trước khi bắt đầu xỉu đi. May mắn thay, ông được đem kèm một chiếc bô lớn bằng nhựa trước khi xuống tàu, mà quân của ông, từng người lần lượt đến phiên đem đi đổ.

Tuần sau đó, ông cảm thấy đã hơi khỏe để có thể đi đến tận chiếc chòi tre mà ông đã sử dụng làm nhà vệ sinh Nhưng vào lúc ông sắp bước vào, thì có một cái bóng động đậy đằng sau cây xoài lớn. Cái bóng đó tiền về phía ông, đội trên đầu cái gì đó có vẻ như một bữa ăn. Sự ngạc nhiên và tức giận ngăn ông đáp lại lời chào và nụ cười rạng rỡ của nàng. Ông chộp lấy cánh tay nàng một cách thô lỗ và chạy về phía nhà mình và quẳng nàng vào đó qua cửa hậu.

 

Xong đâu đó, ông quay lại và khép mình một lúc lâu trong chiếc chòi. Kế đến, ông nấn ná trong sân để nói chuyện phiếm với quân của ông để tránh xa những ngờ vực.

- Không cho ai quấy rầy tôi nhé, tôi sẽ đi nghỉ một lát! - Ông tuyên bố trước khi quay vào gặp nàng.

Ông ghì chặt nàng trong vòng tay mình, trong khi đó thì, trước đây vài phút ông đã có một ý muốn điên cuồng phải giã cho nàng một trận cho hả dạ. Nàng đem đến cho ông những chiếc bánh ga tô pha mật ong và hạt fonio trộn folléré. Ông khoái trá thưởng thức trong lúc nghe nàng trút lời thương cảm lên số phận con bệnh của nàng, Da Trắng đáng thương thất lạc nơi những người Peul, người tình không danh dự, người vẫn còn chưa thèm quyết định mời tình địch của mình ra cánh đồng để thẳng thắn giải thích, bằng dao.

Khi nàng nhồi hết cho ông những viên bánh nhỏ xíu được chính bàn tay nàng nhào nặn với tình cảm yêu thương, thì nàng bắt đầu nhẹ nhàng lau rửa chân tay cho ông và kéo ông về phía giường, trong lúc miệng cười nhí nhảnh hệt như một thiếu nữ.

- Ông không phải là một người đàn ông, Yémé ạ, wallâhi! - Nàng nói điều đó trong lúc cởi bỏ trang phục. Em đã nghĩ rằng ông chắc phải đâm chết Dion-Koїn rồi và bắt cóc Dalanda!

 

Lúc này cả hai bọn họ ngồi phệt trên nền đất, Da Trắng chìm nghỉm vào những cuốn sổ ghi, cô gái trẻ, tựa lên vai ông, rót cho ông cốc si rô soumbala và miệng hát một ca khúc mục đồng cổ xưa.

- Giữa Fatou và em, ai là người ông thích nhất hả?

- Ta chỉ yêu em thôi.

 

Ông vỗ nhẹ lên má nàng. Nàng đáp lại trong lúc vuốt ve mơn trớn ngón tay mình giữa sống lưng ông.

- Ông không thể chỉ yêu một mình em, điều ấy là không tưởng!

- Chỉ mình em thôi, mình em, mình em thôi mà!

Nàng đã thành công bắt ông thú nhận rằng mình đã có một người vợ tại Pháp, một người Da Trắng, đương nhiên rồi và rằng ông cũng yêu người ấy hệt như ông yêu nàng. Nàng hỏi ông lý do sự có mặt của ông ở chốn này, ở Fouta đây, và thật ngất ngây khi biết rằng ông đến đây để thành lập một vương quốc.

- Thánh Allah cao cả, - nàng thốt lên, - như vậy, ông sẽ có hai hoàng hậu, một Da Trắng và một Da Đen nhỉ!

- Than ôi, - ông thở dài sườn sượt, - mọi thứ lại không bao giờ đơn giản đối với người Da Trắng bọn anh!

- Tại sao mọi thứ lại không bao giờ...

Câu hỏi của nàng bị gián đoạn do một tiếng động rền vang khủng khiếp. Ông nhảy bổ tới vớ cây súng và đi ra xem. Chừng trăm người đem theo đoản kiếm và gậy gộc chạy lao về phía nhà ông theo các ngả đường, xuyên qua khu trảng hoang và nhảy qua các hàng giậu, miệng gào vang cuồng loạn:

- Phải giết Da Trắng đi! Phải giết gã Da Trắng! Phải giết gã Da Trắng!

Phản ứng đầu tiên của ông là quay ngay vào nhà để bảo vệ Dalanda.

- Có chuyện gì thế? - Nàng hỏi ông một cách ngây thơ với nụ cười thiên thần tuyệt diệu của mình. - Họ chạy đuổi theo một tên ăn cắp à?

 

Ông vớ ngay lấy nàng, quắp nàng chạy nhanh về phía cửa hậu, nhưng rồi lại đổi ý để nghĩ đến cái giường.

- Nào, - ông nói trong lúc đẩy nàng vào đó. - Em phải nằm im dưới đó nhé! Cấm ngọ nguậy, cấm ho và cấm hắt hơi đấy!

Rồi ông nằm dài xuống trước cửa nhà, súng chĩa ra sân. Những kẻ đầu tiên bò tới dừng sựng ngay lại khi nhìn thấy mũi súng. Ông đã đoán trúng, Dion-Koїn có mặt trong đám đó. Ông nhìn thấy kẻ nhà quê ấy nhảy qua hàng giậu mà không hề giảm độ nhanh, rồi dữ dằn rút đoản kiếm ra khỏi bao khi chạy đến gốc cây cam trong sân. Những ý tưởng xô đẩy nháo nhào trong đầu ông với một vận tốc của tia sét. Bọn họ quá đông, còn ông thì không đủ đạn. Đó là hết đối với ông: Hạ thủ tên đểu kia trước khi bị ném đá đến chết bởi số còn lại hay để cho bị phạt đầu mà không phản ứng gì. Ông nghĩ đến giải pháp thứ ba: tự sát. Nhưng chuyện này không nằm trong tính khí của ông. Con người ta phải cứu cuộc sống của mình trong lúc chiến đấu chống lại tất cả, cha ông đã dạy ông điều này, vào cái ngày đáng nguyền rủa mà những nhà Cách mạng đã ngỡ dìm chết ông ấy khi ném ông xuống dòng sông Saône. Rồi ông nghĩ đến Dalanda. Nếu ông chết thì nàng, ai sẽ bảo vệ nàng đây? Ông chỉ việc nằm im tại chỗ ông đang nằm, ngón tay dính chặt trên cò súng, nhưng trên hết là đừng theo hướng làm bùng nổ những kịch tính; chỉ nã đạn nếu họ có ý định vượt qua hiên nhà. Sau đó, sự thể thế nào sẽ rõ.

Nhưng có một điều ngỡ ngàng xảy đến. Dion-Koїn vung kiếm lên, không phải chống lại ông, mà là chống lại tất cả những người khác. Anh ta đã đứng chắn giữa Da Trắng và họ, khổ người khổng lồ của anh ta trở thành một tấm ba-ri-e thực sự, ông ta tức đỏ mặt:

- Người đầu tiên bước thêm một bước nữa, ta thì sẽ chém bay đầu! Hãy thu gậy và kiếm rồi bình tâm trở về nhà đi. Nào, nào! Nhanh lên đi!

Từng người một, họ thu vũ khí về và buộc phải kéo nhau lê về phía hàng rào.

Rồi hắn đi vào hiên nhà, thân tình nâng Da Trắng dậy và kéo ông vào bên trong. Người này ngồi sụp xuống gờ của một trong đám rương hòm của mình, duỗi thẳng chân tay để lấy lại hơi và cố tích tụ một cố gắng siêu phàm để không nhìn về phía giường ngủ:

- Số phận thật quá đỗi lạ lùng, Da Trắng ạ, - Dion-Koїn cười khẩy trong lúc ngồi phịch xuống một chiếc rương khác. - Tôi, người lẽ ra phải giết ông, thì lại chính tôi cứu sống ông!

- Những người Bồ Đào Nha đã giết chết một người Peul ở vùng ven biển, thế là những kẻ đần này muốn trả thù.

Người đàn ông đưa mắt quét khắp lượt xung quanh mình và hỏi Da Trắng liệu ông đã có được giấy tờ cho con đường xe lửa của ông hay chưa. Ông trả lời rằng chưa, nhưng chẳng có gì khiến ông nghi ngờ lời hứa của Almâmi.

- Tôi biết tại sao Người lại khiến cho ông tiến triển một cách rù rờ như vậy, đó là bởi Người vẫn còn chưa chắc chắn về các mối quan hệ của ông với kẻ thù Dinguiraye của Người. Trong hoàng triều, người ta kháo nhau rằng ông đang cất giấu đầy của cải và súng ống cho người này.

- Thế tôi cất giấu chúng ở đâu mới được chứ?

Ông ta đứng lên và nhìn về phía giường ngủ:

- Dưới gầm giường ông, đương nhiên rồi! Ông hẳn sẽ sợ tôi kiểm tra, nhỉ?

 

- Cứ việc, hãy kiểm tra đi! - Người Da Trắng đáp lại trong lúc hít thở thật sâu để chế ngự cơn hoảng loạn. - Anh sẽ thấy là chẳng có gì hết. Chỉ có tí rượu mạnh thôi!

Bị một cơn lợm giọng bất thần choán lấy, gã trai to con lùi ngay lại:

- Rượu mạnh ư? Eo ôi!

Anh ta khạc nhổ ồn ĩ và chạy ngay ra cửa. Lúc đi qua hiên nhà, anh ta đưa mắt nhìn nhanh sau lưng mình:

-          Ông chắc chắn là mình vẫn chưa muốn chuyển đạo ư?

 

Ngày hôm sau, khi gặp lại nàng gần bãi chuối cạnh con suối, ông nhận thấy một cái bướu to trên đầu nàng.

- Ai đã làm em như vậy hả? Chính hắn phải không? Là hắn hả? Thế thì điều gì đến ắt sẽ đến, lần này anh sẽ giết hắn.

- Không, không phải là anh ấy đâu, Yémé ạ! Là... là Fatou đấy! Người tình yêu thích nhất của ông đấy! - Nàng nấc lên trước khi chạy đi ẩn đằng sau những thân chuối.

Ông chạy như một cơn lốc xộc thẳng vào trong nhà của Ouolouf. Chỉ có mỗi một mình Fatou ở đó, ngồi gần ống khói, đang nghiền lạc. Ông nhảy xổ về phía cô gái để tóm cổ cô, nhưng ngay lập tức hạ tay xuống và lùi lại khi nhận thấy tình trạng chiếc bụng ngồn ngộn của cô: Chẳng nghi ngờ gì nữa: cô ta đang mang bầu. Mang bầu, đúng thế và chí ít là cũng đã ba tháng!

- Tội nghiệp anh chồng ouolouf khốn khổ! Giờ thì ta hiểu tại sao bà già kia lại nhất định muốn ta cưới con gái bà ấy
đến thế!

 

Ông quay lại cửa ra vào, cảm thấy lợm giọng, trong lúc sau lưng ông lanh lảnh vang lên những tiếng kêu thù hận và khó quên của Fatou:

-Tôi sẽ giết nó, con phò của ông ấy! Tôi sẽ giết nó, tôi sẽ giết nó, giết nó!

 

Những ngày sau đó, ông không hề nhận được tin tức gì.

- Tôi không thể chịu nổi nữa rồi, tôi phải tìm lại nàng bằng được, - cuối cùng ông thốt lên với chính mình, trong lúc sôi sục đội mũ, đi giày và đeo găng. - Kể cả chồng nàng có giết ta đi nữa, thì ta cũng cóc cần!

Khi đến bên hàng rào, ông chạm ngay với một biệt phái của cung điện hoàng gia, người này buộc ông phải quay lại:

- Da Trắng sẵn sàng chưa? Almâmi đang đợi ông.

- Nhưng tại sao thế nhỉ?

- Tại sao, tại sao cái gì hả? Để ra đi chứ còn gì nữa!... Đến Donghol-Féla, đương nhiên rồi, nơi nghỉ mát của ông đấy! Chỉ còn thiếu mỗi Da Trắng, cả hoàng triều đang chờ ông, dây đeo dưới chân và ngựa đã thắng xong.

- A, tôi hiểu rồi, - Da Trắng thở dài não nuột! - Ông ta sợ trong lúc mình vắng mặt, tôi trốn đi Dinguiraye đây mà!

Khoảng thời gian khốn đốn đi nghỉ ở Donghol-Féla này kéo dài lượt thượt gần một tuần. Khi trở về Timbo, ông đau đớn được tin Dion-Koїn đã rời thành phố. Anh ta quay về những vùng độc chiếm của mình, đem theo cả vũ khí và hành lý, cả vợ và đoàn người xe của mình.

Chuyến đi này đã truất nốt toàn bộ những động lực cuối cùng của ông. Ông quay về nhà mình với một cảm giác trống rỗng khủng khiếp. Ông kéo tấm ri đô dày đăng ten che phủ giữa ông và những cơn rối loạn không lành mạnh của Tim bo và chìm vào trong sự quên lãng, mệt mỏi đếm những ngày qua đi, những cơn đau bụng và đau đầu. Ông bắt cuộc sống của mình đông đặc lại trong chiếc vòng xích cổ của những đêm mất ngủ và trong những đợt lóe sáng khó giải thích của hoài niệm về nàng. Cha của ông đã từng dạy ông điều đó, trong cái ngày đáng nguyền rủa mà các nhà Cách mạng đã ném ông ấy xuống nước: phải biết bám vào một cái gì đó, chẳng có cách nào khác để thoát khỏi vực thẳm. Ông đang sống giữa những cơn hiểm nghèo, thêm lý do nữa để trụ vững, và trụ vững hơn nữa. Đằng sau ông, những mưu kế không thành văn của triều đình và những đớn đau cho cuộc hành trình: những cú trượt ngã, những lần hôn mê, và cả ngàn lẻ một lần rắp rem đầu độc, vẻ đẹp choáng váng của đất nước độc ác và mê ly này. Trước mặt ông, là vực thẳm không đáy của điều không tưởng và của những giấc mơ. Chỉ một bước sảy chân nhỏ thôi và thế là chắc chắn có sự lệch dòng.

Khi thực tế trở nên nhớp nhúa và ngột ngạt nhường ấy, thì con người thông minh phải buộc mình coi thường nó và phải tỏ thái độ. Vậy là ông ẩn mình vào trong ánh mắt xoa dịu của Dalanda, trong mùi hương quả dại và khăng khăng chối từ những đòi hỏi từ bên ngoài. Ông đẩy đĩa ăn của Mâ-Yacine đưa vào cho ông và, để sống qua ngày, ông chỉ gặm những thanh sô-cô-la cuối cùng và uống trà nhạt, bởi ông chỉ còn một mẩu đường duy nhất. Ông lại nghĩ đến tự tử và đến tình yêu say đắm rồi tự nhủ rằng sau khi đã chịu đựng tất cả những gì ông đã chịu đựng, thì ông còn đủ sức chịu đựng nữa, những cơn đói cồn cào, những bệnh tật, những đau khổ của tình yêu và những vụ đe dọa lấy mạng.

 

Kết quả gì thì cũng chẳng quan trọng: chỉ có sự cố gắng mới đem lại ý nghĩa của sự tồn tại mà thôi! Không bao giờ được chĩa mắt mình vào khoảng cách, mà chỉ xuống bước chân ta đi. Bước này đã thắng, thì ngay lập tức phải nghĩ đến bước tiếp theo. Và giọng nói khảng khái bất biến của cha ông làm cuộc sống mới lên tám tuổi mong manh của ông rung lên: Từ xửa từ xưa ở Hy Lạp, có một ông tên là Sisyphe...vân vân. Mỗi người hiện diện ở đây, trên mặt đất là để làm điều mình phải làm. Phận sự của mỗi người là di chuyển phiến đá của mình mà không hề bận tâm để xem liệu nó sẽ lại rớt xuống một khi ta đã ẩy nó lên không.

Trước mắt, phiến đá của ông, chính là sự sống sót, phải sống sót bằng mọi giá, có nghĩa là phải giữ được tinh thần và thể xác, dù là nhỏ nhất, ngày mai, sẽ chẳng có gì là không thể. Ông sẽ cân nhắc sau về chuyến hồi hương giả định của ông, con đường xe lửa, những dự án điền trang và các thương điếm và những giấc mơ về đế chế và vinh quang. Để thực hiện điều đó, ông phải bơm hút nghị lực của mình từ trong âm sắc mượt mà của giọng nói của nàng mà ông cảm thấy hình như vẫn còn nghe thấy, trong những làn hơi cỏ thơm bốc lên, chúng xông hương cho cơ thể nàng và chúng còn xức thơm bàn tay ông như thể nàng chỉ vừa mới vừa rời đi. Quan trọng gì đâu, sau chuyện đó, những âm mưu phản loạn của các hoàng tử Peul gian thâm và tiền hậu bất nhất; ánh mắt ngờ vực của hàng xóm láng giếng, sự tò mò ác tâm của đám đông rỗi hơi, sự lúc nhúc của đám sinh vật nhỏ và sâu bọ tranh cãi nhau trong ngôi nhà của ông!

Chuyện đó có thể kéo dài một tháng nữa hay có thể là vĩnh viễn, đối với ông thì cũng vậy cả thôi.

 

Dẫu vậy, cô nàng Fouta ngớ ngẩn kia cũng chẳng chịu buông tha ông. Mệt mỏi vì ngồi đợi ông gần chiếc ghế gấp bên ngoài, bây giờ nó đến gặp ông hẳn trong nhà, lục lọi đám rương hòm của ông, lần lượt thử hết từ mũ cứng, đến găng tay và lại xỏ cả vào đôi bốt đinh của ông nữa, xong còn đi lang thang quanh giường ngủ trong lúc miệng lầm bầm những câu kỳ cục mà cũng không sao lôi được ông ra khỏi sự tê dại. Cô ả ở lại đó nhiều đêm liền để sưởi ấm, cuộn tròn gần lò sưởi của ông mà không lúc ngừng nói lẩm bẩm. Ả chỉ đành rời khỏi đấy khi Mâly và Mâ-Yacine, dưới những mệnh lệnh của chồng ả, quyết định đến đón ả về.

Thực ra, ông thậm chí còn chẳng nhìn thấy ả. Chính Dalanda mới là người ám ông. Dalanda và mái tóc đẹp như lụa của nàng! Dalanda và tấm thân mỹ miều thơm mát mùi đu đủ, thật mềm, thật tươi và nhuốm màu nâu ánh vàng mới đẹp tuyệt trần làm sao!

Giá mà chính nàng là người quấy rầy ông nhường ấy nhỉ!

 

Thế rồi, những tiếng còi của thực tế cuối cùng đã chiến thắng ông. Ông bước lê đến tận chiếc ghế gấp và viết điều này, sau đó giao trách nhiệm cho Mâly và Mâ-Yacine đem đến
triều đình:

"Rốt cục thì các ông muốn gì hả? Rằng tôi chết mòn âm ỉ hay tôi trở nên điên đây? Tôi thông báo cho các ông biết trước rằng nếu các ông không thuận cho tôi ngay những gì tôi đề nghị, thì con đường xe lửa sẽ khởi hành từ Saint-Louis để đi thẳng tới nhà kẻ thù của các người ở Dinguiraye và sau đó sẽ là đến Ségou, chỗ người Bambara!"

 

Ông hận mình vì ngay từ đầu đã không sử dụng chiến lược này, bởi Môdy Pâthé ngay lập tức đến thăm ông. Sau đó đến Bôcar-Biro và rất đông các đạo sĩ và các cố vấn, các hoàng tử và các ông lớn. Tất cả đều xin ông tha lỗi và kiên nhẫn.

- Diango, fab’i diango! Ngày mai, ngày kia thôi!... Almâmi đồng ý rồi... Các cố vấn của Người thì đều thuận... Tất cả các đạo sĩ đã nhóm họp... Diango, fab’i diango!

 

Diango, fab’i diango ... Thứ sáu sau đó, lần đầu tiên từ rất lâu rồi, tim ông lóe lên một luồng sáng hy vọng thực sự khi ông nhìn thấy Môdy Pâthé bước qua hàng rào:

- Đi nào, bạn ơi, đến đây đi!... Thôi, không cần tìm mũ cứng và găng tay làm gì đâu. Đến ngay lập tức trước khi Almâmi đổi ý! Rồi ông xem, sẽ nhanh thôi!

Và quả đúng như vậy, chuyện đã chẳng kéo dài. Almâmi cho đọc to tờ giấy trước mặt toàn thể quần thần và chính Người chìa nó ra cho ông:

"Bismillâhi!... Ta tạ ơn đấng Allah!...Chỉ mình Allah, salam!

Người trình diện cùng với văn bản này đến thay mặt cho thủ lĩnh các đạo sĩ, vua tên là Sory, con trai của Abdoul Kadiri. Tất cả mọi người nhìn thấy văn bản hiện hành hãy biết rằng: người đàn ông đến từ xứ sở Da Trắng này đã đến đây và ông ta đã nói với Almâmi: "Tôi là khách quý của Người... Điều mà tôi đề nghị Người, đó là Người cho tôi một con đường để cho xe hơi nước chạy đến tận nơi nào tôi chỉ định." Đó là điều ông ta đã nói với Almâmi. Almâmi đã trả lời ông ta: "Đồng ý, những lời nói dành cho ông, ta cho ông con đường để cỗ xe chạy qua... Mong sao sự bảo trợ của đáng Allah sẽ chiếu rọi vào ông!..."

 

Văn bản được viết vào ngày mùng 1 tháng Sáu năm 1880, đúng theo lời đọc của Almâmi Sory qua đạo sĩ của Người, thầy Salidou Doukayanké. Thông ngôn viên: tên là Mâly."

Người ta còn đưa cho ông một văn bản khác mà họ cho là không cần thiết phải tiết lộ trước triều thần: cho phép đi xuyên qua Fouta để đi đến tận Boké, theo lộ trình nào tùy ý, được mua lương thực và tuyển phu khuân vác.

Sau đó, nhà thông thái quay sang nói với ông:

- Ông không còn là một người Da Trắng giống người trước đây. Ông đã trở thành một trong chúng ta, một người anh em của Almâmi, một người bạn của Fouta... Chúng ta hy vọng rằng tất cả những gì ông nói đều là sự thật và rằng ông sẽ quay trở lại đây... Điều buồn phiền đó là các ông, những người da trắng, chúng tôi không bao giờ gặp lại các ông lần thứ hai. Cả Lambert cũng đã nói rằng ông ấy sẽ quay trở lại và Lambert đã chẳng bao giờ quay lại. Chúng ta xấu hổ vì đã không phải lúc nào cũng đối xử tốt với ông. Để tạ lỗi, Almâmi sẽ cho đem đến tặng ông vàng và da hổ cũng như một trăm phu khuân vác. Ông sẽ ra đi vào ngày mai, Almâmi đã quyết định rồi. Hãy đi đi, người bạn da trắng của chúng ta, hãy vui vẻ và nhất là hãy nghĩ đến chúng ta nhé!"

   Sau đó là những tiếng khóc nổi lên, những cái ôm hôn, những lời chúc tụng, những câu cáo lỗi không ngớt. Người ta cứ ngỡ là người cùng một gia đình. Chỉ có điều lại có lão Diogo Môdy Macka này. Con quỷ ấy đã tìm được cách lần đến tận chỗ ông và nói nhỏ vào tai ông, trong lúc làm ra vẻ như bối rối:

- Theo thỏa thuận, ta giữ lại da hổ và vàng cho mình. Ông sẽ chỉ cần đường xe lửa thôi. Người Anh và người Bồ Đào Nha đã khá ghen tỵ với điều đó rồi đấy.

 

 

 

 

 

 

Ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1880, Olivier de Sanderval rời Timbo cùng với những người trung thành của mình, Mâly và Mâ-Yacine, chừng hai chục tay súng Sénégal và một trăm phu khuân vác. Dưới những mái hiên nhà, đằng sau các hàng giậu hay trên những ngọn cây xoài, cả thành phố náo động một cách thái quá nhìn ông ra đi. Một số đem đến các món quà tặng, một số khác lại vung tay quệt nước mắt. Một đoàn các nhà quý tộc, trong số đó có Pâthé và Bôcar-Biro, đi bộ tiễn ông cả nửa ngày đường. Ngoài ra còn có Saїdou, thư ký của Almâmi, đấng quân vương này còn thêm vào đoàn người ấy rất đông tù nhân và các nhà thông thái, cũng như viên đạo sĩ của triều đình. "Ngay cả đấng quân vương cũng chẳng được đối xử như vậy, ông hả hê ngắm cả giới quý tộc ấy cưỡi ngựa tụ tập chỉ vì mình. Ta cho rằng mình đã đặt được chút nền móng trong xứ sở toàn đạo đức giả và sương mù này. Cho hai ta đấy, Fouta thân
mến ạ!"

 

Sự vô công rồi nghề còn bào mòn ông hơn cả cơn đói cồn cào và bệnh tật. Đó là một người đàn ông lực lưỡng quen với bơi lội và những cuộc cuốc bộ dài. Ông cần hoạt động để giữ tinh thần. Vậy mà, hai tháng ở Timbo, ông không hề động đến mái chèo, lẫn một lần leo núi. Hoạt động thể thao của ông quy gọn lại trong vài cuộc dạo bộ trong các con hẻm và đi săn bắt bươm bướm, và luôn luôn bị những kẻ thiếu giáo dục và thám báo theo sát. Còn lúc này ông được tự do giữa không gian thoáng đãng. Ông có cả lộ trình cho mình đến tận vùng duyên hải và những kỳ quan bất tận của xứ sở Fouta.

Đây là những thác nước của Gongooré, những vách đá của Doubel, những khu rừng đầy khỉ của Poukou! Gió nhẹ và nắng vàng rực rỡ. Cánh rừng tỏa đậm hương nhài và ớt tươi... ông hít thở tốt hơn... Những con sông và các tầng dây leo thơm ngát... Và đây lại là một ngọn thác nữa, một trảng đất mênh mông và một thung lũng... Đây, dưới chân ông là cả vùng đồng bằng tuyệt diệu Bhouria và những cánh đồng cỏ cao đang mùa nở hoa, uốn mình trong gió. Ông lôi sổ ra và ghi nhanh trước khi tiến vào thành phố: "Nhìn từ đây, hàng loạt những thung lũng và những quả đồi của Timbo nhấp nhô thật dễ chịu. Nó khiến ta nhớ đến con đường chạy từ Paris dẫn đến Versailles. Một nhánh cỏ xanh dịu hiền trước mặt cũng thu phục được tất cả."

Dẫu vậy, ông cũng không nấn ná lâu. Ông được Tierno Cita, lãnh chúa khu vực đón tiếp lạnh lùng một cách khinh bỉ. "Họ kiêu ngạo một cách ngạc nhiên, lũ độc tài nhỏ mọn Da Đen này", ông hối hả ghi lại. Người ta dọn cho ông một bữa ăn dè sẻn. Ngôi nhà ông ở tối om. Ông cho thu dọn hành lý ngay lúc thức dậy.

 

Ở Fougoumba, ông được biết Aguibou đang có mặt tại đây. Ông không hề muốn gặp lại anh ta sau những gì xảy ra ở Timbo. Ông sẽ làm hệt như ở Bhouria, ông sẽ khởi hành ngay ngày hôm sau. Nhưng tối đó, sau một tô fonio đạm bạc nấu với sữa, một tên tù nhân đến thông báo cho ông hay rằng công nương Taïbou sẽ ghé qua thăm ông.

Vẫn cùng một dáng vẻ uyển chuyển tuyệt mỹ hệt như ông đã từng gặp ở Boubah và sau đó là ở Guidali: cùng cặp mắt to lóe sáng với cặp mí đầy vẻ ranh mãnh, kiêu kỳ và thanh thoát, cùng vẻ bình tĩnh bất biến của những người được ra đời để chọn lựa và để ra lệnh. Nàng chí ít thì cũng đẹp ngang Dalanda, nhưng đó là một vẻ đẹp khiến ta ngại ngùng và e sợ, lòng nhiệt tình bị giảm do thói quen của sức mạnh và thị hiếu uy quyền.

Nàng ngồi xuống chiếc giường đất nện. Còn ông lại thích một góc chiếc hòm của mình hơn.

Nàng ngước nhìn những dải dây leo quấn quýt nhau, những vành tre và những khoang mạng nhện trên mái nhà rồi lên tiếng:

- Người ta lẽ ra có thể tìm được một ngôi nhà khá hơn đấy.

- Điều đó không phải do tôi quyết định, công nương biết rõ rồi mà.

- Ở Labé, ta hẳn đã cho ngươi cư trú trong lâu đài.

- Công nương nói vậy bởi tôi không có ý định rẽ qua Labé!

Nàng chưng ra một nụ cười rạng rỡ và lạnh lùng, rồi lại tiếp tục chất giọng còn nhẹ nhàng hơn nữa:

- Ngươi đã gầy đi đấy, wallâhi! Ở Timbo, người ta không cho ngươi ăn hay sao?

- Vào ngày tôi là bạn của họ thì có, còn ngày tôi bị là tù nhân của họ thì không.

- Đúng thế, đúng thế, ta biết hết, cả những vụ thất tình não nề của ngươi nữa kia. Những tay đánh xe ở Labé đã chứng kiến trận ẩu đả ở chợ, hai người đàn bà cấu xé nhau vì cặp mắt đẹp của ngươi đấy.

- Về phần mình, tôi đã nghe rất nhiều điều về Alpha Yaya và công nương. Giữa hai người có chuyện gì đó à?

- Nếu ta mà nói ra thì có lẽ cả thành Fouta sẽ bắt đầu bốc cháy mất. Cỗ máy phù thủy của ngươi ấy mà, ngươi sẽ đem đến cho chúng ta thực ư?

- Chính vì để biết điều ấy mà công nương đến thăm tôi?

- Ê, đừng chơi trò ngốc đi, Da Trắng, - nàng đáp lại - và cởi áo chẽn ra, ta đến để qua đêm ở đây.

 

Ông không đợi bình minh đến. Ông để mặc công nương thưởng thức hơi ấm êm của giường ngủ và ra đi dưới ánh sáng lờ mờ của các vì tinh tú xô đẩy đoàn xe của ông. Họ đang ở giữa mùa mưa. Cả một tuần mưa đổ không ngớt chẳng có gì đặc biệt. Sét và mưa đá đổ xuống cũng thường xuyên như một trận mưa cam trong một ngày có bão. Nếu như không khí dịu mát
đi một cách dễ chịu, thì những con lộ lại nhơ nhớp bùn đất và các dòng sông với đôi bờ nhung nhúc cá sấu lại trở nên sôi sục vì lũ.

 

Ở Timbi-Touni, ông được tiếp đón với sự nồng nhiệt. Đức vua đi vắng, tham trận. Em trai Người, một vị có tên là Tierno, mời ông vào ngụ trong những ngôi nhà sang trọng nhất, hào phóng tặng ông ngũ cốc và chọc tiết hẳn một con bò tót. Lệnh cho các nhà thông thái ca tụng ông, tặng ông hẳn một buổi biểu diễn bắn súng trên mình ngựa hoành tráng, đưa ông băng qua con sông Kokoulo, mà lòng sông lúc này đã rộng gấp ba lần bình thường, rồi tiễn ông đến tận Ninguilandé với một đoàn tùy tùng cả năm chục người.

Tuy nhiên, sự vất vả lại nhanh chóng ập đến. Ở Télibôfin, - cách Boké hơn năm ngày đường! – ông đã ngã quỵ ngay trước cổng làng, lả người vì mệt và đói. Ông nằm liệt suốt hai ngày liền, nằm vật giữa đống nôn mửa mà chính ông oẹ ra. Đám lính của ông, dẫu vậy, vẫn quyết định đi tiếp bằng cách thay nhau rước ông, vì địa thế nơi này kém an toàn.

Ở Missidé-Téliko, mạch đập của ông quá yếu và nhiệt độ cơ thể ông quá cao đến nỗi thêm một lần nữa, ông lại trăng trối lời di chúc của mình: "Xác ta, sẽ phải cho hỏa táng và tro hài cốt của ta thì hãy ném xuống dòng sông nào đó tùy các người: dòng Cogon, dòng Konkouré hay dòng Kakrina cũng được. Còn gia tài của ta, các người hãy phân xử theo ý thích. Nhưng đám giấy tờ của ta thì... ơn Chúa, hãy chuyển bằng được chúng về nước Pháp nhé!" Không gì điên khùng hơn là phải chết quá gần Boké đến thế, một mình giữa bầy Da Đen, không tình thương cảm trìu mến của người thân và không được xức nước thánh! Lại càng ngán ngẩm hơn khi phải chết mà trước đó đã không được gặp một con người văn minh nào để trao lại cho anh ta toàn bộ những hình ảnh tràn trề và cảm xúc mà Fouta đã tặng cho ông trong suốt bốn tháng trời đầy say mê cũng như những rủi ro!

"Thôi nào, hãy cố thêm lần cuối cùng đi! - Ông tự nhủ. - Hãy mạnh hơn cả hư vô đi! Mi phải trụ bằng được đến tận Boké! Một khi đã ở Boké rồi, thì điều gì phải đến ắt sẽ đến! Một khi những cuốn sổ của mi đã được an toàn ở đó thì mi có thể thanh thản buông mình cho cái chết đang quá gần gũi và hết sức tốt lành ấy. Và, với một chút may mắn, Dehous có thể sẽ an táng mi gần tượng đài nhỏ mà mi đã dựng để tưởng niệm René Caillé. Vì không thể nắm được nó thì cũng đáng kề cận sự vinh quang ấy lắm chứ, nhất là sẽ bất tử."

Ở Tinguilinta, ông thuê một hướng dẫn viên để đưa đoàn băng qua rio Nunez và dẫn đoàn đến tận Boké. Nhưng những kẻ bạo gan ấy đã bỏ rơi họ giữa rừng. Họ lần mò, dò dẫm suốt hai ngày liền trước khi vô tình gặp một đoàn người đến từ Sarrakolé, trên đường đến vùng duyên hải.

Nước Pháp đã không còn ở quá xa nữa, chỉ còn chừng hai mươi ki-lô-mét nữa thôi. Boké hiện ra dưới ánh sáng le lói đầu đêm cùng với những ngôi nhà lá, cảng và chiến lũy phòng ngự xây bằng đá granit nổi lên sừng sững, vượt hơn cả là chòi gác màu trắng phấp phới lá cờ tam sắc lấp lánh. Ông trợn trừng mắt và lảo đảo. Chỉ còn vài bước thôi là đến những ngôi nhà đầu tiên, nhưng với ông thì tưởng chừng như dài bất tận.

Dehous đi vắng, đi sâu vào đất liền để thương thảo với các bộ tộc. May mắn thay, Bonnard đang có mặt trong thành phố. Ông ta đang đợi ông tại nhà một người có tên là Moustier.

- Tôi đang nhìn thấy gì đây hả?... Lạy Chúa lòng lành!... Mọi người cứ ngỡ là ông chết rồi, ông Olivier ạ!

Bonnard, con người cương nghị Bonnard này, đã không thể ngăn nổi hàng nước mắt khi đón ông trên bậc thềm nhà.

- Ôi đây rồi, người đồng loại của tôi! Cám ơn Bonnard tốt bụng của tôi, cám ơn đã đến với tôi!

Ông ta đỡ choàng lấy ông, hệt như ông ta có thể làm với một đứa trẻ hay với một quả bóng - ông chủ ngã quỵ xuống và ông ta, Bonnard, đang sống trong một cơn xúc động cứ trào dâng mãi khiến sức lực của ông ấy tăng gấp bội - để đưa Olivier lên tầng, sau giây lát suy nghĩ, ông ấy lên tiếng:

- Tôi sẽ để ông nằm nghỉ trong lúc chuẩn bị một bài thuốc. Ngài sẽ tốt hơn nhiều khi nằm trên giường. Nhưng trước hết, hãy thề với tôi là không được ngất xỉu nhé!

Olivier de Sanderval ho một cách đau đớn nhưng cũng thốt lên được:

- Ô không, trước tiên tôi phải được nếm lại nguồn thức ăn thực sự đã... những gì sẽ xảy ra sau đó, đối với tôi, chẳng có gì là quan trọng cả... Những cuốn sổ ghi của tôi nằm trong hòm số tám, tôi đã nói hết với Mâly rồi... - nhưng hơi thở của ông bỗng trở nên gấp gáp và nước mũi sổ ra át hẳn câu nói của ông.

Moustier đem đến cho ông một chai nước và chạy đi đôn dáo, bằng những cú roi ngựa, chừng chục gia nhân của mình để chúng chuẩn bị bồn tắm và đặt chảo lên bếp.

Họ ăn tối với tất cả đồ ngon vật lạ của nước Pháp mà trong suốt chuỗi ngày dài sống trong rừng hoang núi thẳm, là điều không tưởng đối với ông: gan béo, pa-tê terine thỏ, xúc xích hun khói rosette xứ Lyon, dưa chuột muối xứ Bretagne, hạt đậu lùn, hạt đậu đỏ, măng tây, đùi cừu non tẩm hành và chim cút nấu nho. Có rượu vang, sâm banh, rượu mạnh armagnac. Bữa tiệc kết thúc bằng chục loại pho-mát và một chiếc bánh táo tuyệt vời. Miệng đắng ngắt và run lập cập vì sốt cao, ông chỉ nếm mỗi món chừng một thìa, nhưng sau này khi phu nhân của ông hỏi thì chắc chắn ông sẽ đáp lại rằng chính nhờ bữa ăn đó mà ông đã thoát khỏi những đau đớn và bất hạnh của châu Phi. Sự sạch sẽ của bàn ăn và sắc màu đa dạng của thực phẩm đã thừa sức để ông tìm lại được sức mạnh của ý chí và ý nghĩa của vạn vật.

 

Ông vẫn còn đủ sức để lôi sổ ghi chép ra, trước khi chìm lút vào giấc ngủ trên chiếc giường êm ái: "Đây rồi, bánh mì, rượu vang và trứng được nấu chín!... Phải ăn đã, phải viết và phải trải qua cuộc sống cơ cực thì mới thấu hiểu được giá trị của những thứ này, chính chúng phân biệt rõ ràng con người bên bàn ăn và con vật trong máng gia súc."

 

Ông dẫu sao cũng rất ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn sống vào ngày hôm sau, ngạc nhiên nhưng cũng mang chút ngất ngây! Ông mở cửa sổ và háo hức hít thở mùi vị phảng phất của đu đủ và hương hoa dại. Ông lắng ghe tiếng hót của lũ chim hồng hoàng, cảm nhận sự mơn man của những tia nắng mặt trời khiến ta khỏe lại. Ông đã tự mình lần đến tận phòng khách, Moustier và Bonnard đang đợi ông ở đó, uống trà và bằng vẻ hào hứng của kẻ chiến thắng, ông đã kịp lấy lại chất giọng của một người ra lệnh:

- Tôi cần một con tàu để đi Gorée!

Tầm giữa trưa, sau khi đã húp vài thìa canh và một thứ nước sắc từ vỏ cây ký ninh, ông gượng dậy để đi "thăm hỏi" René Caillé, mặc cho sự ngăn cản nhiệt thành của Moustier và Bonnard.

- Uầy! - Bonnard thốt lên khi thấy ông bước xuống cầu thang.

- Uầy cái gì, hả Bonnard?

- Cái vùng Fouta-Djalon này ấy mà, nó ra sao hả ngài Olivier?

- Ông thấy rõ là tôi từ đó trở về đây rồi còn gì, hả ông bạn Bonnard tốt bụng của tôi ơi, ông thấy rõ rồi đấy thôi!

 

Rồi ông mất hút trong góc cầu thang. Ông vẫn còn chưa đi đến các bồn hoa hồng trong sân thì Bonnard đã nghe thấy ông kêu lên một tiếng "Ối" đau đớn và ngã gục xuống. Bonnard lại dìu ông lên tầng mặc cho ông phản đối và đặt ông vào giường, đốt ngay một chảo than khi bắt đầu thấy ông rét run lập cập một cách dữ dội.

 

Hôm đó là ngày mùng 8 tháng Bảy. Trong mười ngày, ông đã có thời gian bình phục và ăn đã thấy ngon miệng. Dehous, trở về sau chuyến thăm thú nơi rừng hoang trảng vắng, đã ngay lập tức đến thăm ông.

- Trông ông khỏe hơn nhiều so với tình trạng mà người ta đã kể cho tôi nghe đấy, thưa ngài Olivier.

Mười lăm ngày trước, Dehous đã được các đoàn xe thông báo, và ông đã nhẹ người trút đi được gánh nặng biết bao nhiêu, rằng ngài De Sanderval không những còn sống mà ông ấy đã gần về đến Boké. Nhưng ông đã phải bất ngờ đi ngược sông để xoa dịu các bộ tộc đúng ra là đang rất kích động trong thời gian này. Ở Balarandé, quân lính của ông và chính ông suýt nữa thì đã bỏ mạng ở đó. Họ đã sống sót được là chỉ nhờ chính tư cách tác phong của họ.

- Thưa đại úy Dehous, ngài đang ở chốn tiền đồn của cuộc chiến văn minh của nước Pháp đấy! A, giá mà những kẻ biếng lười ở Bộ Hải quân chịu rời phòng làm việc êm ái của họ giây lát để đến đây chứng kiến, mục sở thị công việc của ngài nhỉ.

Giọng nói của ông nhuốm âm sắc của những vị tướng khi họ gắn mề đay cho cấp dưới trong sân điện Invalides.

 

- Ngài đang đùa đấy chứ, hả ngài Olivier! Họ hả, ở đây ư, giữa đám Da Đen, muỗi mòng, báo và rắn rết ư!

- Tuy nhiên, điều đó sẽ có ích cho họ đấy, Phi châu sẽ là một bài học đáng giá cho họ về tính nhún nhường.

- Điều đó hả, thì ngài có lý đấy! Phi châu khiến cho tất cả những gì động chạm đến chúng đều trở nên nhún nhường, chỉ trừ sư tử và voi thôi.

- Ngài chờn gì nhất ở đây hả, thưa đại úy?

- Bệnh tật.

- Còn hơn cả đám Da Đen à?

- Đám Da Đen ư, ta có thể chiến đấu với chúng, còn bệnh tật thì không bao giờ... Những người Peul thì sao hả?

- Đúng là dân Anh quốc ở Phi châu đấy! Họ có tất cả các nhược điểm và ưu điểm trên trái đất này: keo kiệt, xảo trá, dễ nổi cáu, thông minh, tinh tế và quý tộc về bản chất!

- Thế họ tiếp đón ngài thế nào?

- Theo kiểu người Peul: bạn không bao giờ biết được liệu mình là khách sang hay là tù nhân chiến tranh của họ cả!

- Và ngài đã đạt được những gì?

- Tất cả những gì tôi muốn: quyền mở những thương điếm và vạch một con đường xe lửa.

- Theo ngài, Fouta vậy là có thể trở thành Pháp nhỉ!

- Không có bọn đần ở Saint-Louis, thì có lẽ nó đã là
Pháp rồi.

- Xứ sở ấy có đẹp thật như các đoàn xe kháo không?

Ông đáp lại Dehous rằng đúng như thế và hối hả miêu tả toàn cảnh rất đỗi choáng ngợp của một góc trời Phi châu này, nơi mà những ngọn núi lửa vùng Auvergne và những thửa ruộng có cây cối bao quanh của xứ Normandie hay những con suối róc rách của miền Jura và những thung lũng của đất nước Thụy Sĩ sẽ có thể tới thả hồn vào đó.

- Đúng là thế giới Aida đấy! Chúng ta phải chinh phục nó! Và phải thật nhanh, ngài hiểu chứ, hả Dehous?

- Thế thì, hãy cho qua đi, Olivier ạ! Fouta-Djalon như vậy đã là quá khó để tiếp cận rồi còn người Peul thì quá phức tạp.

- Không có Fouta-Djalon thì không thể có được Soudan.

- Các đồn bốt của chúng tôi đã tiến nhanh về phía Soudan rồi, nhờ tướng Faidherbe.

- Chúng ta sẽ mất chúng ngay sau khi người Anh chiếm được Fouta-Djalon, điều rất có thể xảy ra: người Peul rất mê loại vải cốt tông dày để chần ghế của thành phố Manchester và bắt đầu tính bằng đồng shiling.

- Cảm ơn ngài về bài học địa chính trị tuyệt vời này, thưa ngài Olivier. Nhưng hiện tại, nước Pháp có những người để soạn thảo chính sách với Phi châu rồi.

- Những con người chẳng có trí tưởng tượng nào ư?

- Gì hả?

- Chẳng cần đến tấm bản đồ của Bộ Tham mưu để biết lẽ ra phải bắt đầu bằng Fouta-Djalon. Nhưng chiểu theo những con số mà những kẻ ngu đần sống trong các Bộ của chúng ta...

- Người ta không thể nói thế với một sĩ quan Pháp về nước Pháp được! Đó là một sự thóa mạ.

- Một sự thóa mạ ư? Tôi chỉ...

- Ông im đi! Trước hết, ông là ai hả? Chẳng là cái gì sất! Ông đã đến đây chính vì những ảo ảnh của ông thúc đẩy. Và người ta vẫn chưa biết là vì lợi ích của ai: của ông, của nước Pháp hay của một thế lực thù địch nào?

Và ông ta đi lại bồn chồn trong phòng, giáng bốt một cách giận dữ lên sàn nhà. Rồi lại ngồi xuống tháo giày và thổ ra những câu chửi rủa bất bình, giận điên và tu cạn liên hồi nhiều ly rượu liền. Ông ta ợ hơi ầm ĩ và lầu bầu một lúc lâu trước khi giọng nói lại trở nên minh bạch:

- Tôi lẽ ra đã cho bắn ông ngay từ đầu... Đúng vậy, đó chính là điều lẽ ra tôi phải làm... Xử bắn ông... Bởi vì chúng tôi những người lính, chúng tôi có mặt ở đây không phải là để đùa tếu đâu, chúng tôi đang ở trong vùng có chiến tranh, ở đây này!... Lũ Da Đen, báo, muỗi mòng... Chúng tôi có mặt ở đây không phải là để chơi trò láu cá...

Ngạc nhiên trước sự chuyển hướng bất ngờ của cuộc nói chuyện, Olivier de Sanderval nhìn ông ta đang thốt ra từng tiếng chuỗi độc thoại bệnh hoạn của mình mà không biết nên phải thận trọng hay nên thương hại ông ta.

- Tôi nói nghiêm túc đấy, tốt hơn là ông nên đi đi!... Ô không, tôi không thích ông đâu, ông Olivier ạ!... Và nói một cách trung thực thì thậm chí là không hề có chút cảm tình nào với ông hết.

Sau câu đó, ông ta không hề phát ra một tiếng nào nữa. Ông ta chỉ ngồi nấc lên và ợ hơi cho đến tận lúc chai Pernod cuối cùng đã cạn sạch. Rồi cầm mũ lên, đeo súng và đi ủng:

- Ông lẽ ra nên ở lại trong nước thì tốt hơn, Olivier ạ! Ông sẽ chẳng bao giờ hiểu gì về châu Phi cả, và giả như có điều đó xảy ra thật thì châu Phi, về phía nó, nó chẳng bao giờ hiểu ông đâu! Vĩnh biệt, thưa ngài Olivier, vĩnh biệt lần cuối cùng!

 

Rồi ông ta mất hút trong bóng đêm đúng vào lúc tiếng rền vang của sấm và của những con linh cẩu bắt đầu khiến vùng rừng hoang trảng vắng rung lên.

 

Ngày 31 tháng Tám, vào tám giờ tối, sau một cơn bão dữ dội, thì ông cập bến Gorée. Các dịch vụ vệ sinh sức khỏe ngay lập tức tống ông vào phòng cách ly năm ngày liền.

Nhưng khi ông vẫn còn chưa giở hết hành lý rương hòm thì một người đến gõ cửa phòng ông. Ông mở cửa và thấy trước mặt mình một người đàn ông trẻ, mảnh mai và râu tóc nhẵn nhụi, dáng vẻ thể thao và quyến rũ, mặc dù làn da anh ta nhợt nhạt và cơ thể gầy guộc.

- Sao, ông vẫn chưa có chúng à, các vệt rạch trên mặt ấy, hả ông ngoại? Họ chưa cho ông một vương quốc ư? Sao cơ, ông không nhận ra tôi hay sao, hả ông ngoại?

- Souvignet! Ô, ngạc nhiên quá đấy! Nhưng cậu làm gì ở đây, hả chàng trai quả cảm của tôi?

- Con bệnh cùng danh tước như ông thôi, ông ngoại ạ! Chỉ có điều, ông đang trong thời kỳ quan sát còn tôi thì đã vướng rồi: bệnh sán xơ mít đấy, rồi sốt vàng và còn rất nhiều các bệnh khác mà người ta vẫn còn chưa tìm ra tên. Vào lúc mà tôi còn trụ được trên đôi chân mình thì tôi chẳng sợ cái đếch gì cả. Tôi tự nhủ mình cảm thấy còn khỏe hơn cả chúng nữa kia.

Anh chỉ tay về phía dãy tranh mà họ có thể nhìn thoáng thấy qua các khe cửa chớp. Ở đó có ba nghĩa địa nhỏ tách biệt, ngăn cách bằng những bức tường thấp, với những nấm mộ màu trắng và cây thập tự gỗ, đứng được là nhờ những sợi dây chão. Bên trái, bệnh kiết lỵ, bên phải bệnh sốt vàng, còn ở giữa là bệnh sán máng.

- Họ chắc sẽ tự hỏi sẽ đặt tôi vào khu nào, vào cái ngày sẽ đến lượt tôi ấy, rất có thể là trong cả ba, anh bắt đầu nhăn nhó. Nhưng ông chắc cũng lạc quan như tôi và ông cũng sẽ nói là tôi vẫn còn trẻ và rằng chẳng phải vài ba căn bệnh nhãi ranh của châu Phi sẽ bẻ gục được Jean-Marie Souvignet đâu, đúng không? Thế thì, ông hoàn toàn có lý, ông ngoại ạ... Chuyến đi trên biển quá nhanh đến nỗi mà tôi quên chưa hỏi tên của ông.

- Olivier! Aimé Olivier!

- Ông có thể thề với tôi rằng ông đã thực sự đặt chân đến chính Fouta-Djalon không, hả ông ngoại?... Hừm!...

- Ồ, tôi đã đoán được điều anh sẽ nói với tôi rằng chỉ có bốn người Pháp đã đặt chân đến đó. Mollien, René Caillé, Hecquard và Lambert. Kể từ đây, anh có thể thêm vào bản danh sách người thứ năm, là tôi, Aimé Olivier... Đừng cười nhé, chàng trai trẻ... Ngược lại là khác, nếu anh có một tấm mề đay cho tôi, hẳn sẽ không bị từ chối đâu.

- Ông thực sự không tồi lắm đối với một người từ Fouta-Djalon trở về. Tôi hả, tôi mới chỉ từ Rufisque trở về và đã bị tàn phá ghê gớm!

- Đó là vì anh chưa nhìn bộ ruột của tôi đấy thôi.

- Thế còn vương quốc thì thế nào?

- Tôi vẫn chưa có nó, nhưng đã có tên cho nó rồi!

- Tên là gì?

- Ô, không được đâu, chuyện này ấy mà, đó là bí mật quốc gia đầu tiên của tôi đấy... Giờ tôi chỉ còn mỗi việc tìm cho mình một quan đại thần thôi.

- Ông đã nghĩ đến ai chưa?

- Đến anh!

- Đến tôi hả? Thật thế chứ? Ôi, thế thì tuyệt quá!

 

- Gì hả, anh sẽ chấp nhận nó thật chứ?

- Sao lại không! Tôi không thể bỏ qua rừng hoang trảng vắng được nữa rồi.

- Anh sẽ xây cho tôi cung điện, đường sá và đền đài!

- Ôi, mọi chuyện coi như đã xong, thưa hoàng thượng!

- Cẩn thận nhé, tôi rất kỹ tính đấy, quan đại thần ạ!

- Tôi sẽ tuân lệnh ngài đến từng chi tiết, thưa hoàng thượng! Nhưng ngài cũng cần phải chú ý, thưa ông ngoại, tôi cũng có điều kiện của mình, và nó không nhỏ đâu.

- Điều kiện gì?

- Rằng trước khi xuống tàu, ông ghé qua cầm bức thư về cho gia đình tôi! Để họ biết rằng tôi sẽ qua Noel ở đây, như vậy tôi có thể thông báo tin vui cho gia đình: chính tôi, đứa con trai đẹp nhất của họ vừa được tiến cử quan đại thần Phi châu! Đó chẳng phải là một nơi để qua đêm Noel hay sao, ông đồng ý với tôi chứ!

Khi ra khỏi phòng cách ly, thì một trong đám nhân viên của ông đang đợi trong một cỗ xe ba bánh do lừa kéo: còn lâu lắm mới có tàu. Ông đành đi bộ, câu cá để giải khuây và dùng bữa với một cặp vợ chồng sinh thái người Đức, hai người này nói rằng đã tìm thấy một con sò không thể xếp hạng theo học thuyết của Limé. Cuối cùng, khi có tin thông báo con tàu Point-Noire-Bordeaux sắp khởi hành, ông liền rẽ qua như đã hứa để lấy thư của Souvignet. Nhưng, ở cửa, nhân viên phụ trách nhìn ông với dáng vẻ kỳ lạ:

- Gì cơ? Cậu Souvignet hả? Ông nói rõ là cậu Jean-Marie Souvignet phải không... Ôi, nhưng ông không biết gì sao, hả ngài đáng kính, chính cậu ấy đang ở đằng kia kìa!

Rồi bà chỉ một cỗ quan tài gỗ điều sơ sài mà một nhóm Da Đen đang khênh đi, ở phía bên kia con đường đi dạo.

 

Một dòng nước mắt chảy tràn trên má ông trong lúc các nhân viên mai táng lẳng xuống những xẻng đất đầu tiên. Ông lẩm nhẩm hát La Marseillaise và ném xuống một cành sơn trà đang nở hoa. Giọng ông tự thốt ra, run run và không còn là giọng của ông nữa:

- Vĩnh biệt, vị tướng Faidherbe tương lai của tôi!

Rồi quay lại chỗ người phụ trách, ông chìa cho bà chiếc đồng hồ vàng tuyệt vời mà Souvignet đã tặng ông lúc trên tàu:

- Bà hẳn sẽ gửi đồ đạc của cậu ấy về cho gia đình chứ?

- Đó là quy định chúng, thưa ông!

- Thế thì bà bỏ thêm cái này vào số đồ ấy!

- Nhưng mà...

- Làm ơn hãy thực hiện điều tôi nói đi, thưa bà, - ông cầu khẩn, một tiếng nấc tức tưởi át cả giọng nói của ông.

- Được thôi, thưa ông, được thôi! - Người phụ trách nhân nhượng trong lúc đảo tròn cặp mắt sững sờ nhìn ông đi xa dần.

 

Con tàu mang tên Le Congo, một con tàu chở khách mỹ miều của Công ty vận tải hàng hóa hệt như Marseille vẫn thường xuyên nhìn thấy chúng xuất xưởng khỏi những xưởng La Courronne của mình.

Ông nhìn Phi châu đang xa dần, và bằng một giọng thần bí, ông nói với những cái bóng của cây cối và những khoảng thời gian đang lùi xa dần: "Ô, không, Phi châu đáng thương của ta, giờ Người không còn là một kẻ xa lạ nữa rồi!"

Ông cập bến thành phố Bordeaux vào ngày 11 tháng Mười năm 1880. Chính xác là ông đã rời nước Pháp đúng mười tháng mười chín ngày.

 


1. Tên gọi miền Bắc Việt Nam trong thời Pháp thuộc.

1. Áo vest đàn ông có đuôi dài.

1. Pistachier trong ngữ cảnh này là những thầy ký, người làm công cho những thương quán thuộc địa (chú thích của tác giả). Trong truyện sẽ có hai lời chú thích của tác giả (TG) và dich giả (ND).

1. Rios ở đây nhằm nói đến những cửa sông lớn, ăn sâu vào phía trong đất liền, tạo thành những con sông chảy từ vùng Fouta-Djalon xuống vùng duyên hải Guinée và Guinée-Bissau (TG).

1. Almâmi: vua của những vị vua, quân vương xứ Fouta-Djalon (TG).

1. Chính vì tậu lại những nhà máy của Olivier và Perret mà Saint-Gobain đã tạo dựng sản nghiệp (TG).

1. Ngôn ngữ người Peul chỉ người Da Trắng (ND).

2. Griot: nhạc sĩ kiêm thi sĩ, nhưng trong truyện cũng có nghĩa là nhà thông thái của các vua quan trong triều thần Peul. Người dịch sẽ sử dụng thuật ngữ này trong suốt tác phẩm (ND).

3. Bôwé: những bình nguyên cao cỏ um tùm, đặc tính của vùng Fouta-Djalon. Touldé: một ụ đá hoa cương cao ngất hình bàn, hình phiến… (TG).

1. 1 pouce = 27 mi-li-mét (ND).

1. Đơn vị đo của Anh. 1 yard = 0,914mét (ND).

2. Đơn vị đo chiều dài = 0,5 mét (ND).

3. Đơn vị tiền tệ cổ của Anh, đồng guiné. 1 guiné = 21 shilling (ND).

1. Tên mà người Peul dùng để chỉ người châu Âu (TG).

1. Lougan: vườn rau thường bao quanh những ngôi nhà ở Fouta (TG).

 

Một nhóm nhỏ can đảm và có vẻ có khí phách tách khỏi đám đông để đi theo ông: một số cầu xin ông quay lại, một số khác thì đợi xem điều gì sẽ xảy ra.

Ông lục lọi những bụi cây gai và các rặng tre, nhìn sang phía sau những tảng đá và trong các vực sát vách núi.

"Lũ người này đã ăn phải nấm", ông nhủ thầm trong lúc bồn chồn tìm kiếm đường quay về. Vào đúng lúc đó, ánh mắt ông va phải một thân cây và thiếu chút nữa thì ngất xỉu. Ngồi vắt hai bên ở chỗ lõm của cành cây, con quỷ đang quay lưng lại phía ông và cắn ngập răng vào một quả đu đủ chín.

Ông bám vội vào một sợi dây leo để khỏi ngã vì chóng mặt. Rồi bất ngờ vung tay lên sờ trán, lý trí ông vụt bừng sáng trở lại và một nụ cười ma mãnh xuất hiện trên khóe miệng:

- Ê này, hãy xuống khỏi cây đi nào, thưa ngài quỷ dữ! - Ông ra lệnh bằng một giọng của sĩ quan cấp trên.

- Cái gì, - con quỷ kêu lên và quay ngoắt lại, - ông nói tiếng Pháp sao?

Hắn trượt dọc thân cây một cách thuần thục và tiến
gần lại:

- Bây giờ, xin hãy nghe câu chuyện buồn của tôi đây. Tôi không phải là quỷ dữ, chớ có tin những gì mà đám ngu đần Mọi đen này kể nhé! Tôi có tất cả những gì của một người dân Pháp. Do muốn thăm viếng xứ sở này, tôi đã phiêu lưu đến tận Timbo, nhưng lại không tính đến sự ác độc của lũ người Peul này, thưa ngài thân mến. Almâmi đã giam giữ tôi sáu tháng liền. Sau khi đã lột sạch của tôi tất cả trang phục và gia tài, ông ta cho tôi năm tuần để quay trở lại vùng ven biển.

 

- Đương nhiên rồi, thưa ngài Moutet, tôi rất tin điều
đó đấy!

- Sao cơ, ông biết tôi à?

- Không, nhưng tôi hình dung ông ăn vận chỉn chu hơn thế kia đấy. Ông dẫu sao cũng có thể kiếm cho mình một vài bộ áo quần nhàng nhàng trên đường đi chứ hả?

- Làm thế nào hả, ngài tốt bụng của tôi ơi? Con khỉ Phi châu này đã đe dọa chém đầu tất cả dân cư trong hoàng triều của hắn nếu họ dám cho tôi một sợi chỉ. Tôi đi bộ dọc theo các con nước để thoát khỏi những ánh mắt tò mò và phải ăn quả dại để sống. Thế còn ông, ông làm gì ở đây hả?

- Tôi đi Timbo!

- Ông điên hay sao! Rồi ông sẽ kết thúc ở cánh đồng Saroudia thôi. Chính tại đó chúng xử trảm những kẻ bị kết tội đấy. Tốt hơn là ông nên theo tôi để quay lại vùng ven biển càng nhanh càng tốt.

- Tôi có thể là được gì cho ông?

- Chẳng làm được gì cả!

- Nhưng làm sao tôi có thể để ông như thế này được?

- Được mà! Hãy đi cùng tôi hay cố gắng mà trốn đi thôi! Mong sao chí ít thì một trong hai ta cũng may mắn được gặp lại nước Pháp dịu hiền.

- Hãy chờ đã!

Ông cố nhặt vài đồng louis và chút hạt san hô thất lạc tận sâu trong đáy túi. Nhưng người kia nhìn ông với vẻ ghê tởm và ném chúng xuống sông.

 

- Ông muốn tôi làm gì với chúng hả? Lũ người ở đây sẽ nói rằng tôi ăn cắp được... Thôi nào, hãy trốn đi, hãy trốn đi nhé, tôi nói với ông rồi mà!

Họ nghe thấy tiếng lũ người Peul đang ở cách đó một
bụi cây.

- Đúng hơn là chính ông nên trốn đi! Lần đầu tiên họ chạy trốn ông, nhưng lần thứ hai họ có thể ném đá ông cho đến
chết đấy!

- Thế nào hả, ông cuối cùng đã nhìn thấy con quỷ đó
rồi chứ?

- Ô không, Mâly đáng thương của ta, ta đã chẳng nhìn thấy gì cả, ta chỉ đang tìm lối để quay trở về làng.

 

Những cơn đau nhức của ông trong vùng mạc rối đó càng ngày càng trở nên gay gắt. Để quên chúng đi, ông hòa nhập tất cả tâm hồn và thể xác vào trong thiên nhiên hoang dã tẩm đầy hương thơm mà những bông hồng, những cây hoa phấn, những bông caro-cadoundes và cây dành dành đua nhau rịn ra từng chút một.

Ở Missidé-Goungourou, ông ghi lại: "Nếu như trong đất nước quá đỗi mênh mông này có những cánh đồng có thể trồng trọt, đầy nước và ánh nắng mặt trời được người Da Trắng đến ở, thì đó sẽ thật là tuyệt vời." Ngày hôm sau, vắt vẻo trên những quả đồi của Missidé-Malanta, ông tự coi mình là đức Moise: "Ta nhận thấy miền đất hứa từ phía xa xa nơi ta sẽ có những trái cam, chuối và hoa quả tươi, ta có thể sẽ ở đó vào ngày mai." Sốt cao hừng hực vào đêm hôm đó, ông ních đầy thuốc ký ninh trong lúc tai nghe thấy những lời cầu nguyện Hồi giáo, chúng khiến ông nhớ đến Bài ca của người châu Phi: "Về hướng đôi bờ của dòng sông Tage", vân vân...

Lại bắt đầu các sườn núi dựng đứng và đường bậc thang, thuyền độc mộc, cầu bằng dây leo và những sợi dây chão bắc qua vực! Lại bắt đầu những đợt khua động để săn thú và các đám lửa rừng, những người mục đồng chuyển súc vật lên miền núi cao và những đoàn nô lệ. Các ngôi làng cứ kéo dài mãi, cũng yêu kiều trên các quả đồi hệt như đồ trang sức ngự trong chiếc hộp xinh xắn, cùng với làn hương hoa nhài và cái tên rất đỗi ngạc nhiên của chúng: Dounguédâbi, Télikoné, Diôuntu, Bouroumba, Simpéting. Ông cảm thấy mệt nhoài nhưng thán phục.

Ở Simpéting, ông lại hí hoáy trong cuốn sổ của mình: "Khắp nơi chỉ toàn là cây hoa: nhài, nguyệt quế hồng, mi-mô-da vàng..." Một cụ già nói với ông rằng cụ nhớ có một người Da Trắng đã đi qua đó, cách đây chừng hai chục năm, có thể là ba chục. Đó chắc chắn phải là ngài Lambert cần mẫn ấy rồi, mà nước Pháp phái đi để tìm cách nối lại những mối quan hệ thương mại với Almâmi Oumarou, người khi đó đang ngự trên ngai vàng của Fouta. Ông nấn ná vài ngày ở Missidé-Dindéra để thám hiểm các triều thần của Saala và Kakrina: "Những ông chủ ấp sống vương giả ở đó với một ngày làm việc vài giờ... Đó là thiên đường trần gian, thiên đường trong tội lỗi, với những ngồn nước sáng và có chất sắt, quả cây, hoa với mùi hương êm ái và những cánh đồng chăn thả bất tận mà ta có thể nuôi hàng ngàn ngựa, bò và cừu..."

Ở Dindéyah, ông viết: "Tối nay thoạt tiên là nuốt ký ninh cùng với Mâly, sau đó là cơm nấu với sốt dầu lạc - một món rất ngon để thêm vào ẩm thực Pháp - và sau cùng là thịt dê non nấu với hạt kê." Ở Dâra-Labé, không khí trong lành trên các đỉnh núi đã khiến ông quên đi đôi chút những cơn đau bụng và sự mỏi mệt, ông cho phép mình mơ mộng và lại viết: "Miền đất vẫn đầy vẻ quyến rũ. Đó là sự tiếp nối không ngừng của những quả đồi và các thung lũng mê ly. Chỉ còn thiếu các trang trại, biệt thự và những tòa lâu đài để vương giả hơn tất cả những gì mà châu Âu gọi là quyến rũ... Những cây cam trĩu quả, hương vị dịu ngọt, những bóng râm mát mẻ, tất cả đều khiến ta mơ tới xứ sở của Aїda... Ngành thương mại với Trung Phi và Niger sẽ thuộc về những ông thầy của đất nước này, nơi mà người châu Âu có thể định cư và sống đề huề."

 

Thứ sáu ngày mùng 2 tháng Tư, ông bị choáng ngợp trước phong cảnh mê hồn trải dài trước mắt đến nỗi mà ông quyết định cắm trại ở ngay đó mặc dù mới vừa đi được nhõn nửa ngày đường. Một người chăn gia súc già đến kể cho ông nghe cùng một câu chuyện như ở Simpéting:

- Rất lâu rồi, có một người Da Trắng đã ghé qua đây, trên vùng bình nguyên cao này. Ông ta có một khẩu súng và di chuyển trên một cỗ kiệu. Ông ta không cao lớn cho lắm, nhưng đầu đội một cái mũ cứng giống ông đấy.

- Ông ta tên là gì?

- Làm sao mà ta biết được cơ chứ, chuyện diễn ra đã lâu lắm rồi! Vả lại, những người Da Trắng ấy mà, cũng như thể chim trên trời, có lẽ chẳng ai nghĩ tới việc nhớ tên họ... Ông có gì không, hả người Da Trắng ơi, để chữa cho ta chứng chóng mặt?

- Có đấy, tôi có thuốc viên Vichy đây!

- Hãy cho ta đi, ta sẽ đổi cho ông một con dê.

 

- Không!

- Một con dê để đổi những viên thuốc và ngươi, người Da Trắng, người còn dám từ chối ư!

- Sẽ không cho ông đâu, chừng nào ông còn chưa nói cho ta biết tên của vùng đất này.

- Vùng này à? Ta cho rằng người ta gọi nó là Kahel đấy.

- Kahel ư? Đó quả là một cái tên rất hay!

 

Ông ngắm nhìn những xóm làng bao quanh và, sát bên dưới kia là một cánh đồng rộng lớn, phủ đầy màu vàng, những cánh rừng non và bạch đàn cùng với tầng tầng lớp lớp những chỏm núi tuyệt diệu ngả về hướng bắc. Một cảm giác chóng mặt mơ hồ bỗng choán lấy ông. Ông cảm thấy như đang mọc cánh, để mặc cho niềm hạnh phúc bùng nổ lách tách và sự nhẹ nhàng của chim trời cuốn đi. Những tiếng rống ầm ĩ của đàn bò phủ đầy vách núi. Những con vẹt và đàn khỉ vui sướng nhảy nhót hát ca trong rừng. Một đàn linh dương băng qua cánh đồng và hốt hoảng chạy về phía dòng sông ngoằn ngoèo sáng màu thủy ngân. Ông đứng dậy mà không hề thốt ra lời nào, và dưới ánh mắt cảm thương của những người đồng hành, ông lao nhanh xuống sườn núi về phía múi đất xanh hình con thoi bao quanh cánh đồng, vừa chạy vừa bám vào các bụi cây. Xuống tới nơi, cả mặt, cánh tay ông đều bị gai cào trầy xước, nhưng lại tràn ngập một sự kích động trẻ thơ. Ông để mặc cho chân bước vào tận giữa khu rừng và vừa dùng gậy chống đập xuống nền đất vừa thốt lên:

- Chính tại đây, ta sẽ xây dựng hoàng triều của ta!

 

Làn sóng giọng nói của ông rung lên trong những cành cây, va phải những vách núi và rền vang không ngớt trong thung lũng đầy hang động.

Đó chính là đức Moise trên đỉnh ngọn núi Sinai, chính là Alexandre le Grand đi đến Indus, là César đang thưởng thức vinh quang của mình trong những miền đồng bằng tỏa khói
ở Alésia!

Tiếng ca của chim trời và tiếng động của súc vật ngừng bặt trong khoảnh khắc một giây đồng hồ để mặc cho ông nói, để rồi cuộc sống nơi rừng hoang lại tiếp tục, hệt như một ca khúc hùng tráng ca ngợi chiến thắng của ông, bản giao hưởng mờ tối của ông.

Xung quanh ông, chỉ thoáng nhận ra từ đầu trở lên, và giống như những con cú mèo, lũ khỉ nhòm ngó ông qua đám lá. Ông không biết liệu chúng muốn chiêm ngưỡng ông hay chúng muốn chế nhạo ông.

- Điều đó chẳng liên quan gì đến lũ khỉ cả! - Ông vừa nói vừa cố gắng bắt chước những bộ mặt nhăn nhó của chúng.
Điều đó liên quan đến con người, những con người thực sự, người Da Trắng!

Một kiểu như linh tính đã ngay lập tức xâm chiếm con người ông khi ông đi đến chỗ này: sẽ là đây và chẳng ở nơi nào khác cả! Nhưng đó chỉ là một linh cảm thôi. Hơn nữa, người đàn ông ấy đã thốt lên từ Kahel và tất cả đã được tiết lộ cùng với điều kỳ diệu sởn gai ốc của một người đàn bà bị rũ bỏ bộ khố của mình. Giờ ông chỉ còn việc phác họa những pháo đài và những cung điện của mình, những khu vườn và các trại quân đội và đánh thêm một chấm nhỏ vào niềm vinh quanh liên tiếp của nhân loại.

 

"Maharajah của đất nước Ấn Độ, hoàng đế của Trung Hoa, ông thầy của hai đất nước Ai Cập, ông hoàng của Kahel!"

 

Nhưng ông vẫn còn chưa đến đoạn đó. Lúc này, ông phải tiếp tục lộ trình đến tận Timbo, phải chiếm được thịnh tình và ơn huệ của những lãnh chúa Peul đáng gờm, phải ních được từ họ vài thửa ruộng từ vùng đất tỏa hương và nhấp nhô này mà ông sẽ chú tâm chăm lo đến chúng tựa như con sư tử cái chăm nom đàn con của nó. Rồi sau đó, đúng vậy, sau đó ông sẽ không cần phải gian lận lẫn giao chiến làm gì: khoa học và kỹ thuật, đường xe lửa và thương mại, chính chúng sẽ tự đánh đổ những kẻ chăn gia súc cuồng nhiệt thô lỗ và kiêu ngạo này - không phải để chinh phục hay vượt trước, khủng bố hay ăn hiếp; mà chỉ cần chiểu theo luật tự nhiên mà qua đó gió mùa thu cuốn đi những chiếc lá vàng. Một mùa này kết thúc, thì đương nhiên một mùa khác sẽ bắt đầu, sẽ mới mẻ hơn, triển vọng hơn, thấm đẫm hương vị cuộc sống và đầy sức mạnh, đó sẽ là mùa của chính ông!

Khi ấy, từ những tòa lâu đài ở Kahel của ông, chậm rãi, cùng một phương thức như căn bệnh hủi lan dần khắp cơ thể, sức mạnh và vinh quang của ông sẽ trải dài ra mãi, từng mái nhà, từng bộ tộc, từng trảng hoang, từng cánh rừng cho tới toàn cả châu lục. Thoạt tiên là những người Peul, tiếp đến là Bambaras, Songhais, Mossis, Haoussas, Béribérí, Bantous, tất cả những người Da Đen, có hay không mang vạch trên mặt, có hay không vấn vành khăn trên đầu, có hay không có xương xuyên qua mũi. Lôi họ ra khỏi những khu rừng rậm và những suy nghĩ tăm tối ủ rột của họ, những kẻ hoang dã này có lẽ phải nếm đủ chương trình Đại số học, những món ăn tinh tế, nền kiến trúc và những học thuyết của Platon, trước khi dưới sức đẩy không tránh nổi của sự tiến triển, nền khí hậu chuyển đổi, trước khi những khối đá băng của Laponie xâm lấn cả vùng Languedoc và rằng những kẻ Da Trắng đáng thương hoảng loạn chạy đến sưởi ấm ở gần đường xích đạo. Phi châu khi ấy sẽ là trung tâm của vũ trụ, trái tim của nền văn minh, xứ sở Thèbes mới, thành Athènes mới, thành Roma mới và cả Florence tinh khôi xuất hiện cùng một lúc. Và đó sẽ là một kỷ mới của Nhân loại mà ông đã có linh cảm trước những người khác từ rất lâu rồi và sẽ được chính tài năng của ông đặt nền móng.

 

Ông đến Kébali và viết: "Một thung lũng rất hào hoa, được những quả đồi dựng đứng vây quanh ở sườn đông nam. Hệ thực vật xum xuê màu mỡ trên các cánh đồng, nhấp nhô một cách đẹp mắt, những bụi cam, đu đủ và cây sơn trà mampata, cây néré, những bãi chăn thả tươi mát, những cánh rừng rợp bóng râm sẽ làm lên sự nổi tiếng của một Nhà nước châu Âu." Ông băng qua Téné, thận trọng tránh xa khu Fougoumba huyền thoại, nơi mà ở vùng ven biển, người ta không ngừng nhắc đi lặp lại rằng tất cả đã bắt đầu. Chính tại đó mà người Peul đã tung ra cuộc thánh chiến của đạo Hồi và chính nó đã cho phép họ chiếm lấy toàn bộ đất nước. Từ đó nơi này đã trở thành thủ đô tôn giáo rất khắc khổ, nơi trú ngụ của các hoàng tử cuồng nhiệt nhất và đối nghịch nhất đối với người Công giáo. Có lẽ tốt hơn là nên nhận được sự bảo lãnh của Timbo trước khi đi phiêu lưu vào đó. Ông đã đi vòng qua đỉnh Kourou, nó đã khiến ông ngất ngây bởi những đỉnh đồi màu xanh lơ của chúng và sự rực rỡ của mùa hoa nở. Ở Porédaka, ông phác thảo chân dung của một vì vua được cả đoàn tùy tùng kéo theo, trong đó một số cưỡi ngựa, đem theo ô dù và ăn vận toàn áo thụng sặc sỡ và ghi lại ở cuối trang giấy: "Đoàn người đông đúc này sáng rỡ dưới ánh mặt trời thực sự gây hiệu ứng."

Ở Bhouria, đói lả và mệt nhoài do những cơn đau bụng, do các vết mụn và vết lở loét, ông ngủ ngay mà chẳng vật vã gì, nhưng chẳng mấy chốc lại rơi vào cơn ác mộng: ông mơ thấy con trai mình đang hấp hối.

Thứ ba ngày mùng bảy tháng Tư, sau ba ngày đầy đinh nhọt và sốt cao, ông cuối cùng cũng tới được Timbo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cả thị trấn nằm bắt đầu từ giữa một thung lũng sâu rồi trải dài lên cao dần, đến tận một đỉnh quả đồi phủ đầy dương xỉ và lantanier. Những hàng rào mây và mái nhà hình chóp của nhà thờ Hồi giáo hình như trung thành với các bức họa của Hecquart và Lambert. Phía tây, những ngọn cây trùng điệp cao thấp khác thường, hình dáng của chúng sẽ hòa lẫn với sắc màu đa dạng của đường chân trời. Phía nam là quả đồi Koudéko, còn phía tây nam là dải bình nguyên Niâli. Ở đằng kia, phía đông chắc phải là đỉnh núi Hélaya, nơi nhà huyền thoại Karamoko Alpha đã kết thúc đợt ở ẩn của mình kéo dài bảy năm bảy tháng và bảy ngày, trước khi thành lập hoàng triều của mình. Dải rừng rực rỡ kia chỉ có thể bao quanh và chạy dọc dòng sông Bâdio-Dôri chạy xuyên qua miền đồng bằng Saroudia, nơi những kẻ phạm tội bị xử tử.

Ông thu ống nhòm về và bước xuống gò đất toàn đá granit trong lúc nghĩ đến câu nói của Taïbou: "Kẻ ngoại bang, hãy bảo trọng nhé! Ở Timbo, không hề có giải pháp nửa chừng đâu: hoặc ngươi thăng tiến nhanh hoặc ngươi bị chém đầu."

 Hiện thời, ông đang nằm trọn trong quyền lực của người Peul, cũng có thể nói ở ngay giữa tổ của loài rắn vi-pe. Tất cả đều phụ thuộc vào ông, vào khả năng vận dụng trí óc và kiểm soát tinh thần. Ông biết rằng mình đang sẵn sàng chơi ván cờ khủng khiếp nhất đời mình. Ông biết rằng mình sẽ được gắn vương miện khi trò chơi kết thúc hay đầu sẽ lìa khỏi cổ. Để cứu mạng mình, ông sẽ phải tỏ ra cao sang quyền quý mà không ngạo nghễ, khéo léo mà không chứng tỏ là bất khả kháng, nhún nhường mà không mang vẻ hèn nhát. Người Peul thoạt đầu là thử bạn rồi sau đó mới mở lòng và mở cửa nhà họ cho bạn, điều đó thì Taïbou đã nhắc đi nhắc lại khá đủ cho ông nghe rồi. Những người tự mình hoàn thành công việc xứng đáng trở thành những người bạn. Nhưng người đàn ông phải hoàn thành cái gì nơi lũ người Peul xảo trá độc ác cổ lỗ này chứ? Một người nào đó nhìn thấy mà không cần người ta chỉ cho và người đó phải hiểu mà không cần người ta giải thích. Người nào đó biết giăng bẫy và biết biến những chiếc bẫy mà người ta giăng cho mình thành những chiếc nơ rút để khiến cho kẻ thù phải bị mắc trong đó. Tóm lại, phải biết dùng gậy ông đập lưng ông.

Nàng ta đã nói và còn nhắc lại cho ông nghe: "Đầu óc phán đoán, đúng rồi, đó chính là chiếc chìa khóa của Poulâkou, nền đạo đức học vĩ đại của người Peul!"

Những giờ đây thì ông chẳng còn cần Taïbou để hiểu điều đó. Trong năm tuần liền ròng rã cuốc bộ, ông đã có thời gian mở mắt và nhìn thấy chút đỉnh qua vô số những chiếc mặt nạ của người Peul. Ông đã nắm bắt được nghệ thuật mưu phản và tránh né mang đặc xứ Florence của họ. Ông đã hiểu rằng, nơi họ những mánh khóe được coi là một môn thể thao quý tộc. Sống, trên hết đó là lừa đảo, ăn sống nuốt tươi lẫn nhau. Kẻ nào chuẩn bị những cuộc mưu phản tài tình nhất, thì kẻ đó xứng đáng vị trí trong triều đình và những lời tụng khen của giới thông thái. Những kẻ bình dân và có trí óc đần độn thì chẳng gợi được bất kỳ lòng trắc ẩn nào hết. Ở đây, người ta sinh ra hoặc nhiều mánh khóe hoặc bị nguyền rủa: là ông hoàng hoặc chẳng là gì hết.

Timbo, dưới con mắt ông, thật trơ lì và không thể thấm vào được hệt như một ván chơi cờ quỷ quái vậy! Ông có thể thắng nếu ông chơi tinh ý. Khi ấy, ông sẽ có hẳn một quốc gia cho ông: với vàng và các đàn súc vật, sức mạnh và vinh quang. Nhưng với bất kỳ một sự vụng về nhỏ nhặt nhất nào, thì đó hẳn sẽ là nhà tù và ai mà biết trước được, có thể là đầu lìa khỏi cổ.

Ông băng qua sông, cắm trại ngay giữa cánh đồng và phái hai gia nhân trung thành của mình đến thông báo với triều đình việc ông đã đến nơi. Ông chờ đợi cả ngày liền, chơi cờ và không ngừng nhai sô-cô-la để giữ bình tĩnh. Một ngày dài kiên nhẫn ở ngay trước ngưỡng cửa Timbo chỉ có thể giống như phòng đợi của giá treo cổ dưới thời trị vì của Néron. Điều gì đã xảy đến với hai biệt phái viên của ông? Những ông vua Peul bịp bợm xảo trá này có thể đã bắt nhốt họ chăng, đâm chết, treo cổ hay đã bán họ đi như những kẻ nô lệ. Ý tưởng này thoảng đến trong đầu ông một chốc một lát vào buổi sáng, thì đến cuối ngày chúng đã trở thành một nỗi ám ảnh thực sự. Và mặc dù những ván cờ, những thanh kẹo sô-cô-la, mặc dù dòng huyết quản kiên cường và vững chãi của những người thuộc gia đình Olivier, thì ông cũng không sao che giấu nổi sự lo lắng được nữa. Quân của ông, chỉ cách ông vài mét, đang rang củ và những hạt đậu để đánh lừa cái đói và họ không còn hát nghêu ngao nữa, không còn chồng chéo những âm thanh vang vọng bằng tiếng cười giòn và gây bực mình của họ nữa. Lúc này, họ chỉ đành lòng lầu bầu trong thứ thổ ngữ của họ và nhìn ông với ánh mắt đầy oán trách. Đương nhiên, tất cả chuyện này đều là lỗi của ông. Ông hoàn toàn thấu hiểu sự bực tức của họ và ý muốn lộ rõ trong tất cả mọi thổ ngữ trên đời sẽ bỏ trốn ngay khi màn đêm buông xuống và để mặc ông ở đây, gã Da Trắng, con chiên Công giáo và đang đói khát lả người, một mình ở giữa đám người Peul. Khi ấy ông sẽ phải làm gì đây? Trước hết là phải cố gắng giải thoát hai người bạn đồng hành (danh dự buộc ông phải làm điều đó), kế đến thì nghĩ đến lọ cyanure quý báu (chứng sợ đau vô cớ và vô tác dụng khuyên nhủ ông thực hiện điều ấy).

Vào quãng năm giờ, giọng nói của viên chức Hồi giáo gọi con chiên đi lễ buổi cầu nguyện Alansara từ xa vẳng tới - các bạn biết không chứ, vào đúng lúc mà kích thước cái bóng của bạn bắt đầu dài hơn chính con người bạn ấy mà! - lôi ông ra khỏi những phán đoán ma quái. Ông ngước mắt nhìn về phía dòng sông và nhận ra Mâly và Mâ-Yacine, được vây quanh là vài nhà quý tộc ăn vận áo choàng bóng nhoáng. Ông để mặc họ tiến lại gần và kín đáo chuẩn bị sẵn khẩu súng của mình, và ông chỉ buông xuống khi nụ cười của hai kẻ trung thành Sénégal của ông lộ rõ vẻ hớn hở.

Rất nhanh, người hình như có vẻ là quan trọng nhất, do chiếc áo choàng lấp lánh và chiếc ô đa sắc của ông ta, bứt khỏi đoàn người để chìa cho ông một bình sữa, làm bằng quả bầu khô, và một hạt cây cô-la. Oài, dấu hiệu của sự chúc mừng đến lãnh thổ!

Ông ta tên là Saїdou, thư ký của triều đình mà Almâmi đã phái đi đón ông, Mâ-Yacine trấn an ông, sự chậm trễ tệ hại này thực ra chẳng có gì trầm trọng cả, đó chỉ là do chứng đỏng đảnh của Almâmi và sự thiếu nhanh nhẹn của thể lệ đón tiếp chính thức mà thôi!

 

Ở ngay ngưỡng cửa thành phố, một người đàn bà, đầu đội một trái bầu khô nhìn ngắm ông rất lâu và nói:

- Đúng là lần đầu tiên ta nhìn thấy một người Da Trắng đấy. Mọi người nói với ta rằng họ toàn bốc mùi cháy khét, họ rặt là một lũ ngoại đạo, trong khi thực tế thì không phải thế!

 

Người ta xếp ông vào một cái nhà có dáng vẻ là một ngôi nhà thực sự: tường chắc chắn, mái rơm hệt như khắp nơi ở Fouta, nhưng ngoài những cánh cửa xếp rộng và cửa ra vào, nó còn có rất nhiều phòng, chắc chắn là ô nhiễm do đầy gián và ruồi, nhưng thông thoáng khí. Quân của ông ở chen chúc trong năm túp lều tranh ngay kế bên. Có một cây xoài to ngay giữa sân và một dãy cọc tre với một cánh cửa lớn bằng mây và dây leo bao trùm lên tất cả.

Saїdou sai đem đến cho ông bữa tối cũng như nước để ông tắm rồi biến mất. Trong lúc từ chòi nhỏ nằm sau nhà ông đi ra, nơi được sử dụng làm nhà vệ sinh và nhà tắm, thì ông bắt gặp người đàn bà ban nãy đang đứng đợi ông trong sân cùng với một thiếu nữ có cặp mắt thông minh, lấp lánh và một thân hình tuyệt vời màu đồng hun. Olivier de Sanderval ngay lập tức tìm được cho nàng một cái tên: "nơi tĩnh tại của cặp mắt".

- Đây là con gái Fatou của ta, - người đàn bà nói với ông. - Nó sẽ đến quét dọn nhà cho ngươi. Ngươi cũng sẽ có quần áo bẩn phải giặt giũ và nó sẽ giặt hết cho ngươi. Nhà ta nằm ngay phía bên kia hàng rào gần lougan ấy. Ngươi sẽ nhận ra nó thôi: giàn dây bầu phủ hết cả mái nhà ấy.

 

 

Ngày hôm sau, ông muốn ra ngoài đi dạo cho đỡ cuồng cẳng, nhưng những lính gác đeo vũ khí và đoản kiếm ngăn không cho ông bước ra khỏi cổng.

Chẳng còn có ai đến thăm ông lẫn chào hỏi ông, ngay cả việc đem đồ ăn đồ uống cho ông cũng không nốt.

Vào ngày thứ ba, ông ăn kiệt tất cả đồ dự trữ. Đám người vẫn đứng gác ngay trước cửa cổng: và không chỉ có số người tăng lên gấp đôi mà kể từ đó họ cầm súng và đoản kiếm trong tay, chứ không còn giắt chúng trong áo choàng như trước

Vào ngày thứ năm, những ước đoán báo động bắt đầu rộ lên trong hàng ngũ quân của ông. Chắc Almâmi không hài lòng rồi! Họ mường tượng cảnh ông ta khép mình trong một gian nhà trái trong cung điện để quyết định điều phù hợp phải làm: trục xuất kẻ Da Trắng hay xử trảm hắn đây? Hay tịch thu tài sản của hắn hay bán đám quân của hắn cho Sierra Leone?

Ngày thứ bảy, ông nghiêm túc nghĩ đến việc nuốt lọ cyanure mà ông vẫn giấu trong một chiếc răng hàm. Vì một điều nhỏ nhặt nhất, có chuyện rằng vua ở Dahomey dành cho số phận những tù nhân da trắng của ông ta: ông ta buộc họ phải chặt đầu và tứ chi đám bạn đồng hành của họ trước khi đến lượt họ cũng bị chặt chân tay và xử trảm.

Ngày thứ tám, ông ních đầy ký ninh và nước long não để đánh lừa cái đói và nguệch ngoạc những câu này trong các cuốn sổ ghi chép: "Ta hiểu rồi, lũ sói Peul này không muốn bẩn tay đây! Chúng muốn ta tự chết một mình. Vì bệnh ngã nước hay do đói lả! Và đương nhiên, chúng đã nghĩ là ném một viên đá trúng hai đích: thương thảo trong thời gian này một khoản tiền chuộc kếch sù với Saint-Louis! Điều này hả, đúng là chỉ có bọn Peul mới làm được!" Rồi ông đặt bút chì xuống và bất ngờ vỗ trán: "Mẹ kiếp, lũ người Anh rồi!... Ô, đúng vậy, ta lẽ ra phải ngờ đến điều này... Ông bạn Lawrence... khách quý của Fouta... đường biên giới ấy được mở quá nhanh... Chúa ơi, nhưng từ khi ở Boulam kia, cái bẫy này đã được giăng ra rồi!" Ông liền đi ra ngoài và kêu tướng với đám lính gác: "Quân của ta đã chẳng làm gì hết, hãy cho họ ăn uống đi!" Hình như chỉ có những con bọ rầy đen đỏ đậu đặc trên các cành cây xoài là muốn đáp lời ông mà thôi. Ông đi về phía ngôi nhà một cách buồn bã và thốt lên: "Thế thì sẽ là tối nay, vào lúc đồng hồ điểm mươi hai cú giữa đêm nay!" Ông nằm ngay xuống chiếc giường tạm sơ sài và viết một lá thư dài cho vợ, tiếp đến ông chỉ dẫn cho Mâly và Mâ-Yacine những điều cần làm nếu may ra họ sống sót được. Ông chỉnh đồng hồ báo thức và lại đi nằm, hai tay bắt chéo trên ngực.

 Những cú chày giã hạt ngũ cốc, những ca khúc của các cô gái chăn gia súc gọi đám bò cái, tiếng gọi của các viên chức Hồi giáo kêu gọi con chiên vào giờ cầu nguyện... Những tiếng chó sủa, những tiếng động bước chân vẳng vào từ ngoài sân... Mâly bỗng xuất hiện ngay trước mặt ông trước khi ông kịp nhỏm đầu dậy:

- Ông còn đợi gì nữa hả, Da Trắng kia? Hãy ra ngoài mà chào hoàng tử đi!

Một thiếu niên tuấn tú khôi ngô chừng mười lăm tuổi đang đợi ông dưới bóng cây xoài, ngồi trên một mảnh da cừu, dáng vẻ giống hệt như một bức tượng đồng thau trong bóng tối của màn đêm đang đến.

- Ta tên là Diaїla và chính do Almâmi, cha ta phái đến đây. Người sẽ tiếp ngươi vào ngày mai sau buổi lễ rạng đông. Môdy Saїdou sẽ đến để dẫn ngươi đến cung điện.

 

 

 

 

 

 

Chỉ vừa ra khỏi giường bệnh, ông đã thấy mình đang đứng trước cửa vào cung điện, nơi có một đội quân ấn tượng, trang bị toàn đoản kiếm và súng. Ta chỉ bước qua đó nếu được phép mà thôi, trái lệnh sẽ bị xử trảm. Những tháp canh, những tường thành, các mái nhà, toàn bộ những công trình đó chỉ là một sự chồng chất toàn rơm khô và giàn bầu leo thảm hại. Nhưng dẫu sao, ông cũng thấy ở đó có một sự long trọng, ông, người đã biết hương vị của triều đình Nga hoàng và tất cả các Nhà nước của liên bang Nga khi Nga hoàng đã phái một viên tướng đến gặp ông để mời xây dựng các nhà máy hóa học ở Odesssa! Không cười, không thầm thì gì hết nhé! Người ta chỉ được phép ho hoặc hắt hơi ở đó mà thôi.

Ngay khi vừa đến nơi, ông được đưa vào trong mbatirdou, biệt thự mọc ngay giữa sân, và chính tại đó mà Almâmi chấp thuận những buổi thuyết trình công khai. Ông đứng đó giây lát và nhà thông thái thường trực, mình vận áo chùng dài, đầu vấn khăn, cả hai thứ đều đỏ rực, thông báo bằng một giọng cao lanh lảnh rằng ông đã đến, trong lúc miệng hát bài ca được dành cho sự kiện này. Almâmi bước vào phòng và ngồi vào chỗ mình mà không một ai phải đứng dậy: bên trái Người là Sanderval, bên phải là các Bộ trưởng và các em trai của Người, cách một khoảng khá xa là các quan chức ngồi thành nhiều hàng tùy theo thứ tự quan trọng của họ, giữa Người và những quan chức lớn là những thông ngôn viên.

Một người đàn ông khổ người cao lớn vận áo chùng khắc khổ và đeo một bộ râu xồm xoàm gớm ghiếc đứng dậy, quét ánh mắt đỏ dữ dằn lên khắp lượt cử tọa. Chắc phải là ông ta rồi, Diogo Môdy Macka mà Alpha Yaya đã nhắc tới. Ông ta xướng to chương trình nghị sự và đề nghị Saїdou đưa lần lượt từng khách mời đang ngồi đợi trong phòng áo. Thường xuyên nhất là những đoàn xe khách đến xin giấy phép đi về vùng ven biển, những biệt phái viên của các tù trưởng tỉnh lẻ hay còn có cả những người đến kêu án. Almâmi, không bao giờ mở lời trước công chúng, ngồi nghe những lời biện hộ và kết luận bằng một cử chỉ gật hay lắc đầu. Người này được tái thiết lập các quyền hạn, người khác, bị tuyên án cho vào chuồng gia súc hoặc thưởng vàng. Án được thi hành ngay lập tức, đối với cả những trường hợp bị đày biệt xứ hay bị tuyên án tử hình, những lời tuyên cứ kế tiếp nhau khiến cho vị khách toubab của chúng ta ngồi ngáp dài cả phần lớn buổi sáng.

Toàn bộ lâu đài được thể hiện trong một sự quanh co lòng vòng đầy con hẻm nhỏ, sân và các ngôi nhà chỉ hơi bề thế hơn những nơi ở của dân thường. Cả triều thần, đông và gay gắt, chen lấn quanh vị quân vương của mình, im lặng đến ấn tượng và trang nghiêm. Ông ngưỡng mộ tư thế đường bệ của đấng quân vương và sự quý tộc trong các đường nét nhưng cũng bị ấn tượng bởi sự đơn giản của nơi chốn và khiêm nhường của đồ đạc. Người ta đem tới cho ông một chiếc ghế.

- Một chiếc ghế chỗ người Da Đen, có lẽ đây là chiếc duy nhất của triều đình! - Ông nhăn nhó lẩm bẩm.

 

Ngay tức thì, giọng nói chắc nịch của Diogo Moody Macka khiến cả cử tọa rung lên:

- Kẻ Da Trắng vừa nói gì?

- Ông ấy nói rằng ngay cả nơi quê hương ông ta, ở nước Pháp xa xôi kia, những chiếc ghế cũng không đẹp nhường này ạ! - Mâly hối hả chữa ngay.

"Chuyện tầm phào, tầm phào, rồi lại tầm phào, người ta chẳng đến nơi người Da Đen để nói chuyện tầm phào chứ hả", ông sẽ ghi lại như thế để tóm tắt lại buổi thuyết trình dài, chán ngắt và vô vị này.

Lúc này, khi đã vào cuối buổi sáng, thì giọng nói sang sảng và những động tác phóng khoáng của nhà thông thái thường trực cất lên đề nghị Mâly giới thiệu Da Trắng.

Kế đến, người ta đòi ông xuất trình hộ chiếu mà Aguibou đã cấp cho ông. Almâmi liếc nhìn qua, Môdy Saїdou đọc to lên. Sau đó, nhà thông thái có thể hỏi người ngoại bang:

- Ngươi đã khởi hành từ Boulam, chúng ta hiểu rồi. Ngươi đã ghé qua Boubah, chúng ta đã hiểu. Cái này là hộ chiếu mà Aguibou đã cấp cho ngươi, điều này nữa, chúng ta cũng đã hiểu. Điều mà chúng ta không hiểu, Da Trắng ạ, đó là mục đích chuyến viếng thăm của ngươi ở đây.

- Đúng vậy, - cả quần thần tiếp lời trong một sự hỗn độn không tưởng, - một mình ra đi từ nước Pháp và tại sao lại đến tận Timbo chứ?

- Để chúng ta trở thành bạn của nhau và để yêu cầu các ông cho phép mở đường thương mại! - Ông cố gắng trả lời trong lúc cố nhấn mạnh lên giọng nói.

 

- Hắn muốn cho chúng ta cái gì và chúng muốn gì ở chúng ta? - Đám đông rền lên trong sự náo động còn dữ dội hơn nữa

Almâmi hắng giọng.

- Im lặng, - nhà thông thái thường trực kêu lên.

- Thương mại ư, chuyện đó diễn ra ở vùng ven biển kia, - một người nào đó lên tiếng.

- Anh nói đúng đấy, - một người khác đồng tình, - người Da Trắng chẳng bao giờ đem lại điều gì tốt đẹp cả. Hãy để họ trụ lại ở vùng ven biển đi!

- Im lặng! - Nhà thông thái lại rền lên.

- Để hắn nói xem hắn là ai đã!

- Im lặng nào! - Nhà thông thái lại kêu lên lần nữa. - Rồi, ngươi hiểu rồi chứ, Da Trắng, trước hết hãy nói ngươi là ai...

- Tên tôi là Olivier, Aimé Olivier! Tôi đến đây là vì tình bạn, tôi chỉ muốn sự hòa bình mà thôi! Tôi chỉ muốn thăm viếng lãnh thổ của các ông, ký kết những hiệp ước thương mại, xin phép xây dựng một tuyến xe lửa.

- Một còn đường gì hả? - Nhà thông thái chợt bị kích động.

- Tôi đã nói với các ông rồi đấy thôi! Hắn muốn đặt cả Fouta lên đống sắt! - Một ông già bật khóc sụt sịt.

Almâmi lại hắng giọng lần nữa và nhà thông thái dịch nghĩa trong lúc bắt cử tọa giữ im lặng bằng một động tác huơ tay lên:

- Đường xe lửa, đó là cái gì vậy?

- Xin chờ một chút, tôi sẽ quay lại ngay!

Ông chạy ngay về nhà mình dưới cặp mắt sững sờ của cả triều thần. Mâly bắt đầu chạy sau ông mà không sao tìm được lời giải thích cho chuyện này. Ông hối hả lục trong đống đồ đạc dự trữ và rương hòm. Lát sau, ông quay trở lại cung điện với một chiếc hộp rất lớn và bắt đầu gỡ ra trong lúc miệng lầu bầu những câu mà đương nhiên cả triều đình, chẳng ai hiểu gì.

- Đây, một tuyến đường xe lửa là vậy đấy!

Rồi, dưới cặp mắt sững sờ của cả Fouta, ông lắp từng đoạn đường ray, những thanh ngang, gắn đầu xe lửa và ghép những toa tàu.

- Giờ chỉ còn thiếu tiếng động nữa thôi, nhưng điều này, tôi có thể làm được cho các vị, - ông nói thêm mà không hề cười.

Và ông bắt chước tiếng huyên náo của động cơ, tiếng rít của lò than, tiếng va chạm của sỏi đá đập vào các thành toa tàu, sự va chạm của cành cây, và tiếng rú du dương trầm bổng của gió.

- Với cái này, ông nói thêm, các ông sẽ có thể đi từ Bouham tới Timbo trong khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn mà thôi.

Rồi nhẹ nhàng, ông tiến về phía Almâmi và chìa cho Người cỗ máy:

- Tặng Người đấy, thưa quân vương! Hãy bỏ chút thời gian chiêm ngưỡng kỳ quan này đi, tôi tặng nó cho Người!

Toàn bộ chuyện này có vẻ như vô thực. Người ta gãi đầu, người ta trợn mắt, người ta há hốc miệng. Chỉ có sắc thái trên khuôn mặt mới có thể diễn tả nổi trước một điều huyễn hoặc nhường ấy. Hoặc thảng là sự im lặng và nhún nhường mà, cùng với chúng, người Peul biết tiếp nhận các hiện tượng nguyệt thực, động đất và tất cả những điều kỳ diệu của đấng Tối cao lòng lành. Phải mất thời gian khá lâu để ai đó thốt ra được một câu:

- Kẻ Da Trắng này là một tên bịp bợm!

Rồi từ các hàng bên trái, nhà quý tộc của một tỉnh xa xôi, trán ướt đẫm mồ, bị nhụt trí cũng nhanh như cơn phẩn nộ trào dâng trước trải nghiệm mà ông vừa chứng kiến:

 

- Anh nói đúng đấy, tôi không hiểu làm thế nào mà sắt lại có thể chạy được với một vận tốc mà một con tuấn mã cũng không sánh nổi.

- Đúng vậy, - người ngồi cạnh ông ta đồng tình, kẻ Da Trắng này đang nhạo báng chúng ta đây mà, chúng ta buộc phải xử trảm hắn thôi!

- Và cứ cho là có chuyện đó thật đi, thì tại sao lại đặt đường xe lửa trong khi mỗi người có hai chân để đi và các khu chợ thì nhung nhúc những ngựa là ngựa chứ?

Almâmi ra một cử chỉ bằng đầu, giọng nói lanh lảnh của nhà thông thái thường trực lại cất lên lần nữa:

- Và bằng chính đôi tay của ngươi mà ngươi thực hiện điều ấy ư, hả Da Trắng kia?

- Không, không phải bằng tay của tôi mà bằng khối óc của tôi, - ông đáp lại một cách ranh mãnh. - Còn bàn tay hả, chính các ông sẽ trợ giúp tôi.

Tiếng rì rầm bất bình rộ lên, lan đi trong đám đông. Người ta đã biết mười mươi rằng khi đào đất xây đựng cung điện hoàng gia thì phải trả giá bao nhiêu tên nô lệ hay việc chuyển hàng ngàn súc vật đến tận Boulam là bao nhiêu, còn đây phải tạo dựng một con đường xe lửa hoàn toàn bằng sắt và bằng chính đôi tay mình thì khủng khiếp đến cỡ nào!

- Thế nào, hả nhà thông thái? - Một người chột mắt cất giọng khe khẽ hỏi.

- Thế nào cái gì?

- Ta sẽ để cho hắn làm hay sẽ xử trảm hắn đây?

Almâmi thốt lên một tiếng gằn trong cổ họng và nhà thông thái dịch ngay ra:

 

- Hãy cẩn thận nhé, nhà quý tộc thân mến! Chuyện ấy không thuộc thẩm quyền của anh, mà thuộc thẩm quyền của Almâmi kia... Sáng nay đến đây tạm hết. Mặt trời đã lên cao rồi, chúng ta phải chia tay nhau thôi. Hãy bình thân, hỡi các nhà quý tộc của Timbo, hãy đi thư giãn trong các vườn cây trái và với các đàn gia súc của mình đi.

Nhà thông thái nháy mắt, Mâly giải thích cho Da Trắng rằng ông phải ở lại. Almâmi mất hút đằng sau những bức tường, kéo theo sau cả đoàn tùy tùng của Người và những lời tụng ca của nhà thông thái. Và chỉ sau đó thì cả cử tọa mới tản dần đi. Ông đang đứng đợi trong sân, một mình cùng với Mâ-Yacine và Mâly thì một tên lính gác đến kiếm ông:

- Ê, kẻ Da Trắng kia, có thật nhà ngươi là cháu gọi vua Pháp bằng chú ruột không?

- Ơ thì... vâng... đúng thế...

- Thế thì đến đây đi, Almâmi sẽ tiếp ngươi!

Người ta dẫn ông đi dưới giàn cây uốn thành vòm được sử dụng làm phòng khách hoàng gia, nơi Almâmi đang có mặt cùng với đoàn tùy tùng thu hẹp. Vị quân vương mời ông ngồi ngay sát cạnh và lần này, Người nói mà không cần thông qua nhà thông thái. Người lôi chiếc tàu nhỏ xíu ra, yêu cầu giải thích tường tận tỉ mỉ và rất lâu về hệ thống. Da Trắng chỉ cho Người xem chỗ đặt động cơ, chỗ đặt bình hơi, giả làm chức năng vận động của các bánh xe, giải thích tại sao có những lỗ giữa các đường ray. Ông ca ngợi cỗ máy và nấn ná rất lâu trên những tiện ích của thương mại:

- Đồng ý, Da Trắng ạ, đồng ý! Chừng nào mà sẽ chỉ vì thông thương, thì chừng ấy ngươi sẽ còn là bạn của ta và sẽ mãi là khách quý của Fouta Người có thể mở các thương điếm, nhập khẩu những gì ngươi muốn.

- Thế còn những gì liên quan đến đường xe lửa thì sao?

- À ừ nhỉ, đường xe lửa của ngươi hả? Ta không nghĩ đó là một điều tồi đâu, nhưng ta còn phải tham khảo ý kiến của các nhà quý tộc đã.

- Khi nào?

- Khi nào đấng Tối cao mong muốn điều đó sẽ được thực hiện. Diago, fab’i diago, ngày mai, ngày kia!... Hãy đợi sự gia hạn nhiệm chức của các vua, ta sẽ tận dụng dịp đó để hỏi ý kiến họ...

Một chàng trai trẻ có chòm râu dê, đeo một chuỗi tràng hạt hổ phách to sụ quanh cổ, chặn ông lại trước khi ông ra khỏi giàn cây hình vòm:

- Ta là Pâthé, cháu gọi Almâmi bằng chú ruột. Con tàu của ông là một điều thú vị đấy. Ta tin chắc rằng nó sẽ đem lại sức mạnh cho Fouta. Ta sẽ ghé qua thăm ông, chúng ta có rất nhiều điều để nói với nhau đấy.

Chàng ta vẫn còn chưa dứt câu thì một chàng trai trẻ to con khác, trên mặt loang lổ những nốt rỗ của bệnh đậu mùa, đến lượt mình cũng tiến đến cạnh ông, chìa tay ra:

- Còn tôi, tôi là Bôcar-Biro, một người cháu khác của Almâmi, và cũng là thủ lĩnh chiến tranh.

Pâthé, Bôcar-Biro, Aguibou, Alpha Yaya! Ông còn lâu mới tưởng tượng ra được số phận thê thảm chẳng bao lâu nữa sẽ liên kết ông với bốn vị hoàng tử này của Fouta!

 

Ông tặng cho Almâmi một con ngựa xứ Camargue, những yên ngựa, cương ngựa và kim loại luyện của hãng Walker, những vũ khí, hổ phách, san hô ngọc trai và cả núi vải đẹp. Hàng loạt đồ vật sang trọng này chẳng mấy chốc lan đi khắp cung điện. Mỗi quần thần đều đòi chút quà gì đó. Ông phải giở hết những mưu mẹo của tổ tiên Gaulois của mình ra để không phải trút lại đó cả giày, lẫn đồng hồ và chiếc lều bạt của mình.

Vẫn còn hai ngày nữa trong tình trạng như thế và, thật kỳ diệu, đám lính gác đã biến khỏi cửa chính. Ba mươi phút đã đủ để ông đi một vòng hết cả Timbo. Quay về nhà, ông ghi lại: "Là vậy đấy, Versailles của Fouta là thế này đây! Lũ gà mái của chúng ta cũng còn được ở tốt hết thế!"

Những ngày sau đó, ông khóa chặt mình trong nhà, tự hứa phải làm việc với tác phẩm Vô Cùng và những cuốn sổ ghi chép. Nhưng lũ gián và ruồi, và nhất là đám đông những kẻ tò mò không để cho ông có thời gian. Một số đến sờ nắn da ông. Một số khác lại đến hít thở mùi của ông. Người ta kiểm tra độ mềm của mái tóc ông, chỉ trỏ những chiếc cúc áo trên chiếc redingote của ông. Người ta ước đoán đến kiệt cả trí óc về màu da và mốt sống của ông. Liệu ông có ăn uống không? Liệu ông có nhạy cảm với lửa không? Ông uống nước hay uống kim loại hóa lỏng nhỉ? Người ta giám sát khi ông đi săn, người ta theo dõi từng bước khi ông đi dạo, người ta rình rập khi ông tách khỏi con đường để đi vệ sinh. Không còn khoảng trống nào để mà tạo cảm hứng nữa, không bao giờ còn chút thời gian thầm kín cho riêng ông! Những kẻ bạo gan nhất còn lần vào tận mái hiên nhà ông, đến tận thành giường của ông. Ông cứ uổng công để chiếc đồng hồ báo thức của mình réo vang, mọi người chỉ bỏ trốn giây lát để rồi lại kéo đến ngay sau đó. Ông lần lượt thử hết sự phản chiếu của gương soi, mùi vị của long não và đe dọa bằng súng. Chẳng ăn thua gì hết! Chuyện đó cứ kéo dài nhiều ngày liền, cho đến tận lúc ông bỗng chợt hiểu ra. Đó chính là do hai tên vô liêm sỉ Mâly và Mâ-Yacine! Hai kẻ Sénégal này đã đòi được trả bằng gà vịt, ngô hãy sữa để cho phép họ đến thưởng thức màn biểu diễn. Hoàn toàn không kiểm soát được cơn bực tức, ông vớ khẩu súng và bắt quả tang đám người thô thiển kia trong nhà của Mâly, đang ngồi giữa đống lương thực vừa thu gom được.

- Ta đến để đòi phần của mình đây, - ông gào lên. - Kể từ bây giờ, sẽ là chia đôi năm mươi - năm mươi. Dẫu gì thì cũng chính ta là con vật biểu diễn của sở thú đó!

Nhưng, khi về đến nhà, ông bắt gặp cô bé Fatou đang đợi ông trên giường, mình cũng trần như nhộng giống hệt như lúc mới sinh ra.

- Ô không đâu, cô bé Fatou đáng thương, - ông kêu lên và buộc cô bé phải mặc lại quần áo, - chiếc giường này quá bé cho hai chúng ta đấy! Hãy đi làm chuyện đó với người khác đi! Đi đi, đi đi nào!

Ông chật vật mãi mới đẩy được cô bé ra sân và cho nó một viên hổ phách để xoa dịu những cơn nấc nức nở của nó. Chính lúc đó, bà mẹ xuất hiện từ những bụi cây rậm lougan và lao thẳng vào ông:

- Hãy cưới nó đi! Mi không thấy là nó đẹp đến thế nào ư? Hãy làm nhanh lên đi, hãy cưới nó đi! Hãy vâng lời đi, kẻ Da Trắng vô cảm kia ơi! Nào, hãy làm những gì ta nói đi!

Mâly và Mâ-Yacine, người mà ông đã không tuyển mộ mà vô dụng, ra khỏi nhà để xua đuổi hai con gà mái và bảo vệ ông chủ khỏi những trận cục ta cục tác cuồng nhiệt của họ.

 

Như đã hứa, Pâthé đến thăm ông. Đó là một hoàng tử Peul hệt như người ta vẫn hình dung trong các phòng khách sang trọng ở Paris hay ở Marseille. Cao lớn và mảnh mai, những đường nét thanh tú, da màu đồng hun, giọng nói nhẹ nhàng, cử chỉ điềm đạm, lại thêm vào một phong thái hiệp sĩ và huyền bí toát ra từ ngọn lửa hừng hực của tia mắt. Chàng vận một chiếc áo chùng đẹp bằng vải bazin trắng thêu xanh ở ngang tầm túi và một trong số những chiếc mũ hình chóp phủ đầy chữ Ả-rập mà người Peul gọi là pouto. Và đương nhiên cả chòm râu dê lịch lãm và chuỗi tràng hạt quanh cổ chẳng bao giờ rời khỏi chàng. Chàng chìa ra một cuốn sách rồi cất tiếng mà không hề giấu vẻ tự hào:

- Chính một người Thổ Nhĩ Kỳ đến từ Istanbul đã viết hết lịch sử của gia đình ta trong này đó.

Chàng nói rất lâu về đạo Hồi và về Fouta. Người Da Trắng ngồi nghe một cách lịch sự, rồi đã thành công chuyển hướng cuộc trò chuyện về điều duy nhất khiến ông quan tâm: Fouta, không còn chỉ toàn nói về thời tổ tiên họ mà còn nói về thời hiện tại. Ngay khi đến Boubah, ông đã không tránh khỏi việc mình đang đứng trên mặt đất của một đất nước đầy phức tạp và mâu thuẫn. Một cánh rừng bao báp thực sự: chắc nịch trong gốc rễ của chúng, nhưng mong manh trong thân và cành lá. Quá nhiều tỉnh lỵ, quá nhiều các cấp xét xử! Quá nhiều triều đại và các ông hoàng! Đó là một hệ thống sáng sủa, chắc chắn là một sự sắp đặt mềm mỏng nhưng quá nhạy cảm trước những luồng gió độc của sự ganh ghét, hiềm tỵ và hoài bão. Ông không để cho hoàng tử kết thúc nốt bài diễn văn về những thâm nhập lẩn quất của Nhà thờ và sự đạo đức giả của Công giáo, ông lập tức hỏi ngay:

 

- Almâmi bao nhiêu tuổi hả?

- Có hai điều mà ở đây người ta không bao giờ tính đến: đó là số bò Người có và tuổi của Người. Điều đó đem đến bất hạnh.

- Điều chắc chắn, đó là Người không còn trẻ nữa.

Ông nhìn sâu vào đáy mắt hoàng tử để đoán nhận hết những phản ứng của chàng và nói thêm:

- Và sắp phải thay thế Người chứ?

- Fouta đã nghĩ đến mọi chuyện, Da Trắng ạ! Người sẽ được thế vị một cách đều đặn ngay sau khi người ta chôn cất Người.

- Thế mọi người đã biết tên của người có diễm phúc
đó chưa?

- Người đó đang ngồi ngay trước mặt ông, kẻ ngoại bang tò mò ạ.

- A, thưa hoàng tử kế vị! Hôm nọ, ông đã nói với ta ở cung điện ông là cố vấn thứ nhất.

- Đó hoàn toàn là điểm yếu của người Peul đấy, bạn thân mến ơi! Đó là một cái tật nơi đất nước chúng tôi là phải chơi trò nhún nhường. Nếu tôi mà nói là hoàng tử kế vị thì cả Fouta này sẽ cười vào mũi tôi, ấy thế mà đúng đấy, tôi là hoàng tử kế vị
của Fouta.

- Thế thì người đang ngồi trong nhà tôi đây không ai khác là Almâmi tương lai của Fouta, ông thốt lên và chìa cho hoàng tử một thanh sô-cô-la.

- Thế tôi có dáng vẻ đó không hả? - Hoàng tử nói tếu.

- Ở đây, các ông ai cũng có dáng vẻ cả. Phải tự hỏi là các ông để con dân của mình ở đâu nhỉ!... Hãy nói cho tôi biết, thưa hoàng tử, ông sẽ làm gì với con đường xe lửa của tôi khi ông
lên ngôi?

 

- Ta sẽ ủng hộ. Giới trẻ đều muốn có nó, chính các ông già không thích nó.

- Những người già sẽ chẳng bao giờ muốn có nó và ở đây, không có những người già thì... Nếu tôi hiểu rõ thì ngài Bôcar-Biro là anh trai của ông phải không?

- Đúng thế, anh cùng cha đấy!

- Hừm, điều đó chẳng bao giờ tốt lành cả, anh em cùng cha ấy mà, nhất là ở người Peul các ông!

- Không đúng với trường hợp chúng tôi đâu, chúng tôi rất hợp ý nhau.

- Hãy coi là tôi chưa nói gì cả, thưa hoàng tử, tôi đã chưa nói gì hết!

Đêm đến, mệt mỏi phải nghe những ca khúc của lũ ếch nhái, ông lại lần mở một trang mới của Vô Cùng ra: "Chúng ta không thể định nghĩa cái hư không của sự Tương đối hay Tuyệt đối bởi vì chúng ta còn lâu mới biết hết toàn bộ sự Tương đối, tất cả những gì mà sự Tuyệt đối nắm giữ bằng sức mạnh, tất cả những gì sẽ lại ra đời trong cuộc sống trong tương lai..."

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một hôm, khi từ nguồn nước suối trở về, nơi ông đã có thói quen đến đó để đánh lừa sự buồn chán của mình, thì một cảnh mê ly thu hút ánh mắt ông và khiến ông dừng bước. Đằng sau một hàng rào tươi mát đầy hoa lay ơn và sơn trà mampata, một cô gái trẻ đang giã hạt fonio, miệng lẩm nhẩm hát mà không hề để ý đến sự hiện diện của ông. "Nàng thật tuyệt diệu, vị công chúa da đen này: cặp mắt to đẹp và sâu thẳm khiến ta có thể chết chìm trong đó, một ngấn cổ tuyệt hảo và chẳng có gì bí ẩn, khiến ta mơ tưởng đến Phidias, khiến ta nhập vào sự ngất ngây điên cuồng Anacréon và tất cả những thi sĩ trong trường ông. Diễm lệ và quyến rũ làm sao!" ông ghi lại trong cuốn sổ của mình, hoàn toàn bị thôi miên. Ông hẳn có thể hiến tặng cả đất nước Pérou và tất cả châu báu của Apollon để kéo dài mãi cảnh tượng hoan hỉ này. Nhưng mới chưa được đầy mươi phút thì bất hạnh xảy đến, một quả xoài chín ruỗng rơi xuống cạnh nơi ông đang đứng! Khi phát hiện ra ông, nữ nhân yêu kiều kia bỏ chày rồi vừa chạy trốn vừa kêu như gặp quỷ hiện hình. Ông nhảy qua hàng rào và chạy đuổi theo nàng: "Daro! Daro Yandi! Đứng lại đi, ta van em, ta thề rằng không có ý định gây hại gì cho em hết!" Ông thốt ra những câu tiếng Peul mà ông đã học được, nhưng thiếu nữ trẻ lại càng chạy nhanh gấp bội. Họ chạy băng qua một hai đám lougan, luồn lách giữa nhiều ngôi nhà. Chó sủa rộ lên, gà dê hoảng hồn khi họ chạy qua. Sau vài phút tưởng như bất tận của cuộc chạy đuổi này, cô gái trẻ đẩy cánh cửa của một hàng giậu rách nát mà, phía sau nó, một nhóm đàn bà, mình phủ đầy bọt xà phòng đang cọ lưng cho nhau, rồi đóng sập lại ngay lập tức. Đám lính gác có mặt tức thì sau vài giây đồng hồ, lăm lăm đoản kiếm và gậy gộc:

- Rõ là thế mà, lũ Da Trắng, thô lỗ và vô giáo dục! Chúng ta phải cấm tiệt chúng đến Fouta mới được, wallâhi, chúng ta phải làm vậy thôi! Ngươi muốn gì ở người đàn bà trẻ này hả, trả lời ngay, đồ vô giáo dục!...

Ừ nhỉ, ông đã làm gì nhỉ?... Ông thậm chí tự mình cũng chẳng biết nữa. Ông đành đứng trân, vặn xoắn mẩu khăn mùi soa che đầu mà ông đang cầm trên tay, chiếc khăn mà thiếu nữ trẻ đã đánh rơi trong cuộc chạy trốn.

- Nếu địa ngục mà tồn tại, thì nó chắc phải giống như thế, - ông lầm bầm, tin chắc rằng lần này sẽ bị lôi lên giàn xử trảm, hay chí ít cũng bị đối diện với lính gác ngục.

Rồi ông bỗng nghe thấy tiếng ai đó vang lên:

- Các người không thấy, hả lũ đần kia, rằng ông ta chỉ muốn trả lại cho cô gái chiếc khăn trùm đầu thôi đó sao?

Ông quay lại và nhận ra Diaїla , chàng hoàng tử trẻ mà
ông đã gặp tối nọ, đang vắt vẻo trên mình ngựa. Ông đã được cứu sống!

 

Sự va chạm mau chóng rơi vào quên lãng, nhưng than ôi, cả con người khốn khổ của ông cũng thế. Ông sống vậy trong nhiều ngày liền mà không hề có bất kỳ tin tức gì từ bên ngoài. Pâthé đã không đến như đã hứa còn Bôcar-Biro thì chẳng thấy tăm hơi đâu. Nhưng tất cả những chuyện đó cũng chẳng thấm tháp gì. Bệnh tật đã lợi dụng giai đoạn đen tối cô độc và tâm hồn lãng đãng, buỗn bã và lo lắng bồn chồn này để tấn công ông. Lần này là rất nghiêm trọng! Chẳng có gì giống với những lần khủng hoảng thoáng qua của bệnh sốt rét, những cơn đau bụng kinh niên mà ông đã vướng phải khi lên bảy tuổi, khi ông phải sống trong ký túc xá khổ hạnh Oullins, nơi các thầy tu dòng thánh Dominique đã nhồi cho ông toàn tiếng La-tinh, đậu nghiền và những lời đẹp ý hay cơ bản của cuộc sống. Thông thường, bệnh tật chỉ đành lòng quấy quả ông, mà cơ thể chắc nịch của ông không cảm thấy bị yếu đi thực sự. Lần này thì không rồi! Ông bị ngất đi rất lâu đến nỗi mà người ta đã nghiêm túc nghĩ tới việc đào cho ông một huyệt mộ. Nhưng ở đâu mới được chứ? Và theo phong tục tập quán nào đây, Chúa ơi? Ngoài một nhà mạo hiểm người Anh đã đến đây truyền đạo từ một thế kỷ trước, thì không một người Da Trắng nào đã chết ở Timbo cả.

Ông chìm trong trạng thái hôn mê gần như cả ngày và lại bắt đầu nôn ngay khi vừa tỉnh lại. Các động mạch chạy sát sạt làn da, cũng lộ rõ như các rảnh xương của ông. Tóc ông bắt đầu rụng, da trở nên vàng ủng. Trí óc lờ mờ, ông nghĩ mình đã bốc mùi thối của xác chết. Ngán ngẩm vì ních đầy ký ninh, những viên thuốc vichy, nước long não và moóc-phin, ông gọi hoàng tử trẻ Diaїla , và thổ lộ cho anh ta nghe những lời gửi gắm cuối cùng: "Nếu tôi chết, thì tôi đã lệnh cho quân của tôi để họ thiêu thi hài tôi và mong họ sẽ mang tro hài cốt của tôi về tận Saint-Louis. Tôi van ông, đừng áp dụng những nguyên tắc cứng nhắc của đạo Hồi để ngăn cản điều đó." Bị cuốn đi trong cơn mê sảng, ông nói tiếp: "Và đừng quên, hãy ra lệnh không cho ai được đụng đến của cải của tôi nhé! Tôi sẽ nhượng lại cho ông năm xu, bánh xà phòng và chiếc kính hiển vi."

Mê tín dị đoan cho rằng bên bờ huyệt mộ của mình, kẻ hấp hối thấy lại, hệt như trong phim, những biến cố khác nhau của đời mình. Thế mà, ông chẳng cần cố gắng để quan sát với một ấn tượng rõ ràng mười mươi, quá khứ của ông dần trỗi dậy.

Ông đang ở ký túc xá Oullins trong lớp tiếng La-tinh của cha xứ Lacordaire! Kia là cha Bourgeat đang giảng luận văn về Platon còn cha Mermet đang sắp hàng những công thức vật lý! Hình ảnh cứ dần dần trở nên lờ mờ để nhường chỗ cho hình ảnh của bậc thầy luyện kim Michaud mà cùng với ông ấy, vào năm 1963, ông đã xây dựng nhà máy sản xuất xe đạp đầu tiên mà, trong cơn điên giận dữ điên loạn, các chiến sĩ công xã đã đốt cháy hết; kế đến là hình ảnh chiếc mề đay mà ông nhận được ít lâu sau vì đã cứu được chiếc thuyền buồm gặp nạn ở vịnh Marseille. Còn bây giờ là lúc ông ba mươi tuổi, râu rậm, đã lập gia đình và là thị trưởng thành phố Marennes, nơi ông sẽ là người đầu tiên trong lịch sử nước Pháp cấp xe đạp cho bưu tá! Sau Marennes, Marseille, nơi mà trong nhiều năm làm việc ở phòng thí nghiệm, ông sẽ một lần nữa cố thử phân tách chất liệu và phát minh máy bay. Và rồi đến bữa ăn trưa tuyệt vời trên đỉnh Verryère mà người ta vẫn còn nói đến bên bờ cảng Vieux-Port, hơn một thế kỷ rưỡi sau đó: ba trăm khách mời nổi tiếng được chở lên đỉnh đồi đá bằng những con lừa đặc biệt được đưa về từ miền núi Pyrénées hay bằng những cỗ kiệu, bát đĩa được đặt ở xưởng gia công của tỉnh Sèvres chỉ cho riêng dịp này và tất cả đều được khắc tên của mỗi khách mời, một dàn nhạc giao hưởng và thi sĩ Jean Aicard xướng to những bài thơ của mình!...

 

Nhưng sự mê tín cũng không nói sự thật: những ảo giác của kẻ hấp hối còn đi xa hơn rất nhiều chính cuộc sống thực của hắn, để mơn trớn những đường vòng bên ngoài của toàn bộ cây phả hệ của hắn nữa. Những khuôn mặt già nua, đã biến mất cũng lúc với những chiếc quần cộc của tuổi hoa niên của ông, lợi dụng cơ thể ông đang tan chảy theo cơn sốt để tái sinh và trở về chế nhạo ông. Cụ già đội mũ ti-rol kia, nhìn là biết ngay đó là Simonet, có lẽ là ông trẻ, giáo hoàng tuyệt vời của ngành sản xuất vải mút-sơ-lin đấy! Bên phải, vị tướng đội mũ hai sừng kia, đương nhiên đó là ông nội rồi, người là tướng tổng quản của Napoléon trong cuộc chiến ở Italia! Và bên trái, là ông ngoại kỳ cục Claude Marius Perret!...

Timbo chẳng hiểu gì về chuỗi đuốc bốc lên mà ông khó nhọc lần tìm dưới sự hối thúc của những cơn mê sảng. Dù gì chăng nữa, với tộc người Peul, tất cả những gì màu trắng đều kỳ cục, giả tạo và khó giải thích. Cuộc sống của người Da Trắng là một sự cuồng điên mà nó chẳng cần run rẩy và sốt cao để phồng lên và đầu độc quan niệm tốt.

"Nhưng, đấng Tối cao lòng lành, kẻ Da Trắng này không còn giống như kẻ kia nữa rồi, kẻ Da Trắng này đã trở thành một trong chúng ta, wallâhi, kẻ Da Trắng này sẽ chết!"

Tình trạng ông trở nên quá đỗi thảm thương đến nỗi mà Almâmi tổ chức một buổi cầu nguyện ở nhà thờ Hồi giáo để cầu xin đấng Allah cho ông khỏi bệnh; và lệnh cho chàng Pâthé bí ẩn đến thăm ông, đem theo một siêu nước chứa đầy thuốc chiết được bằng cách ngâm nhựa thảo dược với các trang giấy mà trên những tờ giấy đó người ta đã viết sẵn các tiết thơ trong kinh Coran và người Peul gọi đó là Nassi:

 

- Hãy uống cái này đi cho tôi, - chàng nói với ông.

Và ông uống ngay lập tức, tin chắc là sẽ trút hơi thở cuối cùng trước khi uống đến ngụm thứ hai, vì hợp chất lỏng đó lấp lóa chất bẩn và bốc mùi thối của nhà tiểu cổng cộng. Ông khép mắt lại để chờ cái chết, đó chính là điều tốt lành hơn cả đối với ông. Nhưng ông thức dậy mà không hề đau đầu và cũng hết cảm giác chóng mặt sau ba ngày chìm sâu vào giấc ngủ và không chậm trễ đòi ngay một đĩa cơm ma-phê. Ông ăn ngon lành và lần này thì ông ợ hơi, cũng rõ to hệt như một người Peul chính hiệu khỏe mạnh biểu thị niềm vui vì đã được ăn uống no đủ. Rồi, không cần trợ giúp gì, ông băng qua khoảng cách vài bước ngăn ông với bên ngoài. Đến giữa sân, ông cho đem ra một chiếc ghế gấp và nằm dài dưới hơi ấm của ánh nắng mặt trời để bắt đầu một thời kỳ dưỡng sức dài và sảng khoái. Khi được thông báo điều đó, Pâthé đến gặp ông ngay để thưởng thức thành công của mình:

- Ông thấy rõ những đạo sĩ của chúng tôi là những người thần tài nhất rồi đấy nhé! Ông nên chuyển đạo đi, bạn thân mến của tôi ơi! Wallâhi, ông là một gã quá tốt để cứ ở lại làm một con chiên Công giáo tồi tàn!

- Tôi thú nhận điều này với anh, bạn Peul của tôi ạ, anh đã cứu sống tôi đấy! Làm thế nào để cảm ơn anh đây?

- A ha! Hãy cho tôi những cỗ đạn pháo!

- Những cỗ đạn pháo ư?

- Nếu không, tôi sẽ quay về với các bạn Thổ Nhĩ Kỹ của
tôi đấy!

Ông hiểu ngay rằng mình cần phải hành động gấp nếu ông muốn có được Fouta.

 

Ngày hôm sau, rốt cuộc thì anh chàng tàng hình Bôcar-Biro, đến lượt mình cũng xuất hiện cùng với một con vật săn được, một liễn mật ong và một làn quả dứa.

- Anh đã chẳng bao giờ đến thăm tôi cả, anh ấy mà, ấy vậy mà anh đã hứa với tôi, - người Da Trắng phàn nàn.

- Tôi phải đi trận!

- Fouta đã tuyên bố chiến tranh với quốc gia bất hạnh
nào vậy?

Khi ấy vị hoàng tử trẻ bắt đầu giải thích rằng chàng đã phải dẫn những đoàn quân của mình đi đến các vùng thuộc xứ Sierra Leone, không phải chinh chiến với đất nước này mà là để cố gắng tiêu diệt lần thứ một trăm tộc người Houbous, giáo phái Hồi giáo Peul và những chiến binh cuồng nhiệt này, kể từ thời cha chàng trị vì, một Almâmi Oumaron rất vĩ đại và rất đáng kính, đã luôn lăm le bẻ gẫy ngai vàng của những Almâmi.

- Đó là một cuộc chiến khiến chúng tôi hao mòn, -
chàng tiếp tục. - Sẽ không có chuyện ấy nếu như tôi đã có đủ súng đạn.

- Súng đạn ư? - Da Trắng thầm thì trong lúc vuốt chòm râu.

- Ông có thể đầu tư cho chúng tôi được không?

- Đó không phải là không thể.

- Này, hãy nói đi, Da Trắng, ông đang nói nghiêm túc đấy chứ hả?... Ờ thì, ông biết đấy, chúng ta có thể trở thành bạn
của nhau!

Bị cơn hứng thú cuốn đi, chàng ngay lập tức đứng dậy để chào ra về, nhưng Da Trắng giữ chàng bằng cách kéo một vạt chiếc áo chùng rồi hắng giọng:

 

- Cẩn thận nhé, tôi có một điều kiện!... Rằng anh phải ủng hộ tôi bên cạnh Almâmi!

- Hãy coi như anh đã có điều ấy rồi! Bây giờ, đây là điều kiện của tôi: ông sẽ không nói gì về chuyện súng đạn cả nhé!

- Với Almâmi à?

- Không, với anh trai tôi kia!

 

Bôcar-Biro ra về, Fatou cuối cùng đã có thể tiến gần lại để tặng cho ông làn cam và bắt đầu lại ca khúc tình ái bị cự tuyệt của mình:

- Hãy cưới em đi, nếu không em sẽ nhảy xuống giếng đấy!

Chuyện đó kéo cả cả phân nửa buổi sáng và, bất thình lình, cô ngẩng phắt đầu dậy như thể cô vừa có một ý tưởng nào đó, luồn nhanh về phía căn nhà và lẩn vào giường của Da Trắng.

Cô đã đoán đúng: trời bắt đầu đổ mưa. Mâly thu dọn ghế gấp và giúp Sanderval đi vào chỗ trú ẩn. Nhưng thiếu nữ nhất định từ chối đi khỏi nơi đó... Họ phải gọi đến đám lính Sénégal để lôi cô ra khỏi đó.

- Chuyện đã vậy thì, Yémé ạ, tôi sẽ lôi anh đi bộ đến địa ngục, nói như người Peul vẫn nói thế. Tôi sẽ tố cáo anh với Almâmi. Anh là một tên gián điệp, anh đã đến đây để thủ tiêu Người và để chiếm đoạt Fouta của Người và của tổ tiên Người!

Ông chẳng cho những câu nói vu khống của thiếu nữ ấy là quan trọng, lại càng không vì ngay tối đó Bôcar-Biro đến để thông báo cho ông một tin vui:

- Những ông hoàng của các tỉnh sẽ đến trong chừng mươi ngày nữa: ông sẽ có nó, con đường xe lửa của ông ấy!

 

 

Chỉ có điều, ngày hôm sau, khi đi săn bươm bướm về, ông bắt gặp một cảnh nhộn nhạo ồn ĩ bao trùm lên nhà ông. Đám lính gác chạy đi chạy lại vất vả trong sân. Đám tù binh xếp hàng dài đi ra khỏi nhà ông và ông nhận ra trên đầu họ vác những hành lý khác nhau của mình. Mâly và Mâ-Yacine cố gắng chặn đường họ nhưng vô ích. Ông vớ ngay được Saїdou và những người của cung điện hoàng gia đang đợi ông dưới gốc cam.

- Điều gì đang xảy ra ở đây vậy hả? - Ông nổi đóa gào lên và nắm ngay cổ áo người này. - Ông nhìn lũ vô tích sự này làm mà không nói gì cả à, hay chính ông cho người lục lọi đồ đạc của
tôi vậy?

- Bình tĩnh lại đi! - Saїdou khuyên ông một cách khô khốc. - Ta đảm bảo với ông rằng đây không phải lúc để khiến cho mọi thứ trở nên trầm trọng thêm đâu.

Ông giả bộ huơ súng lên, đám lính rút ngay kiếm ra. Ông thổ ra bốn năm câu chửi thề nhưng cuối cùng cũng phải đi theo đoàn người. Trong lúc bước những bước thật dài để làm dịu đi cơn tức điên của mình thì David, Mâly và Mâ-Yacine thở hổn hển theo sau ông để cố gắng giải thích cho ông hiểu chuyện:

- Chính là Fatou đấy! Con bé ngớ ngẩn đó đã thực thi lời đe dọa của nó đấy!

- Tệ hại hơn cả là người ta đã tin nó, con điên ấy! - Mâly khóc sụt sịt. - Họ dọa sẽ xử trảm ông còn chúng tôi thì sẽ bị biến thành nô lệ.

Họ đến đầu kia của thành phố, trong khu thợ dệt, trước một quần thể những ngôi nhà tranh thảm hại, bao quanh là một hàng rào cao bằng mây và dây leo. Một bụi cây gai ngăn cách họ với những ngôi nhà gần nhất, một lối mòn nhỏ hẹp, hai bên đường mọc đầy cây lantanlier và cây tầm xuân nối liền họ với con lộ lớn. Da Trắng buồn bã ngắm nhìn xung quanh và thốt lên:

- Nếu ta hiểu đúng, thì ta là tù nhân rồi!

- Tù nhân ư? Ô không đâu! - Saїdou phản đối. - Làm sao mà khách quý của Fouta lại có thể trở thành tù nhân được cơ chứ? A, các ông, những người Da Trắng ấy mà! Các ông không thể thốt ra khỏi miệng một câu mà không làm nó trở nên quá đáng!

- Chuyện này là do ông hay đó là quyết định của
Almâmi hả?

- Không phải do tôi đâu, chính Almâmi là người có thể quyết định cho khách quý của mình trọ ở chỗ nào.

Ông cho người của mình vào nơi ở, sắp xếp đồ đạc vào nhà và ngay lập tức bổ đến cung điện hoàng gia, theo sau là những bạn đồng hành đang hoảng loạn. Ông vớ một nắm sỏi và, trong một động tác điên khùng, chạy xổ về phía vị quân vương.

- Yémé! - Mâly kêu lên với ông bằng một giọng điệu mà ta có thể đọc được tất cả mọi sự trầm uất trên đời.

Ông giảm tốc độ, và bằng một cố gắng siêu nhân, lấy lại tâm trí và chậm rãi cúi người để đặt nhẹ nhàng những viên sỏi dưới chân Almâmi.

- Điều đó là nghĩa gì hả, kẻ Da Trắng kia? - Diogo Môdy Macka nổi đóa hỏi.

- Đó là... đó là một tập tục nơi họ đấy ạ, - Mâly lắp bắp trong lúc lẩy bẩy vì sợ... - một dấu hiệu tôn kính... Ở đó, khi ông muốn bày tỏ sự kính trọng với ai đó, ông... đặt những viên sỏi dưới chân họ... Người Da Trắng này ở đây không phải để tỏ lòng bất kính với Người đâu, thưa Almâmi, mà là để tuân phục một cách nhún nhường quyết định của Người... Đây là lỗi của tôi, tôi đã không nghĩ đến việc phải nói với hắn rằng ở chỗ chúng ta mọi chuyện diễn ra không giống thế...

Đám đông nhăn nhó, David, Mâly và Mâ-Yacine cuối cùng đã có thể thở.

- Thế thì, hãy đứng dậy đi, con người quả cảm của ta! Nhà thông thái mủi lòng nói.

- Nếu dân Da Trắng biết đến sự tôn kính, thì họ dẫu sao cũng có những tập tục thật kỳ cục! - Vị đạo sĩ của triều đình nhận xét.

 

Liệu ông có phải là tù nhân không? Không phải, người ta đảm bảo với ông thế qua miệng của tất cả các nhà chức trách của Timbo. Chính vì an ninh cho ông mà người ta đã chuyển ông tới đây. Ông chẳng có gì phải sợ cả. Ông mãi vẫn là khách quý của Almâmi và là bạn của tộc Peul.

Nhưng ngày hôm sau, khi ông lấy ô và chiếc mành để đi săn bươm bướm, thì những người của cung điện hoàng gia đã chặn cửa hàng rào nhà ông, thì thầm tranh luận với nhau mà thậm chí còn chẳng thèm để ý đến ông.

Đỏ mặt vì tức tối, ông trưng trên mái nhà ông một băng rôn, trên đó, nhớ lại những bài học tiếng La-tinh, ông viết hàng chữ màu đỏ và thật đậm: "Constituaenda est Timbo!" Cả Timbo nổi giận kinh hoàng: một số nhìn nhận dòng này là một lời thóa mạ, một số khác lại coi đó là một lời tuyên chiến.

Da Trắng phải cầu viện Pâthé để người ta thôi ném đá vào nhà ông và ngừng những tiếng kêu thù hận chĩa vào ông. Nhưng sự bình yên chỉ quay trở lại khi ông thuận tình cho gỡ dải băng rôn xuống và đốt nó đi trước sự chứng kiến của công chúng. Một sự hòa bình quá đỗi tạm thời, dẫu vậy: thứ năm sau đó, ông thấy Fatou đến với một làn quần áo và một chiếc rương bằng gỗ.

- Cô đến làm gì ở đây vậy, hả cô bé ngớ ngẩn kia! Cô không cho rằng mình gây bất hạnh thế là đủ rồi sao?

- Sao lại thế, cô ta đến làm gì? - Mâ-Yacine đáp. - Ông không biết rằng một trong đám Ouolouf của ông vừa cưới với cô ta hay sao?

 

Các ông hoàng và hoàng tử của Fouta cuối cùng cũng nhóm họp.

Đám lính gác đến kiếm ông để đưa đến cung điện. Thể thức trọng thể chán ngắt không còn xa lạ với ông nữa. Almâmi xuất hiện, trong những chiếc áo chùng lấp lánh của Người, và cả thành phố nín lặng; đoàn tùy tùng của Người còn đường bệ hơn lần trước và những lời tán dương của các nhà thông thái còn rền vang hơn nhiều. Những lễ bộ khai mạc kéo dài đến tận trưa. Người ta đọc kinh Co-ran, chúc tụng nhau, người ta ban phước cho Fouta trong lúc sự hiếu kỳ ác tâm của đám đông soi mói săm soi ông dưới tất cả mọi góc độ. Ông nhận ra nhà thông thái thường trực và vị đạo sĩ của cung điện. Ngược lại, ông phải căng mắt để phân biệt Bôcar-Biro và Pâthé, lần này, vẻ uy nghi của họ gần như ngang hàng với vẻ uy nghi của Almâmi. Sau đó, mọi sự lịch sự và những lời thổ lộ sốt sắng tắt dần trên môi mỗi người. Sự im lặng bao trùm cung điện hệt như giọt nước hoa lấp đầy không gian. Diogo Môdy Macka khua tay và nhà thông thái thường trực đứng dậy để thông báo chương trình nghị sự:

 

- Để bắt đầu, hỡi các nhà quý tộc của Fouta đã tập hợp ở đây, Almâmi đề nghị chúng ta kiểm tra một vụ việc đã trở nên quan trọng đối với triều đình. Các vị không phải là không biết rằng, kể từ vài tuần nay, chúng ta có một kẻ Da Trắng đến sống giữa bức tường của chúng ta. Kẻ Da Trắng này, hắn nói hắn đến từ Boulam. Hắn nói hắn xuất thân từ một gia đình giàu có, thuộc dòng dõi vua Pháp. Hắn nói đến đây bằng bàn tay không dao và trí óc không hận thù. Hắn nói hắn chỉ cần một con đường cho tàu hơi nước chạy qua. Hắn nói hắn là bạn của Almâmi và là nhà hảo tâm của Fouta. Bằng tình bạn, Almâmi đã đón tiếp hắn; bằng tình hảo tâm, Fouta đã mở cửa cho hắn. Chính từ đó mà sự nghi ngờ đã bắt đầu xâm chiếm tâm trí mọi người. Rất nhiều cái miệng đã lên tiếng và chúng ta đã nghe được tất cả các thể loại chuyện. Có vẻ như sự ra đời của hắn không chắc, rằng con đường đi của hắn không thẳng, rằng các ý định của hắn không sáng sủa. Toàn bộ chuyện ấy khiến cho những tâm tưởng bấn loạn, toàn bộ chuyện đó gây phức tạp cho những thượng vụ của Almâmi.

Vài tiếng rì rầm nổi lên, vài tiếng ho húng hắng và cả phòng họp không chậm trễ đặt câu hỏi đầu tiên:

- Hãy nói cho chúng tôi biết, thầy Diogo Môdy Macka, người đàn ông này có đem theo giấy tờ gì của chú hắn không, vua của nước Pháp ấy?

Thủ tướng đáng gờm giải thích bằng chất giọng to vang rằng người đàn ông này đã đi trên nền đất của Timbo mà chẳng có gì trong tay ngoài đôi găng không thể thiếu của hắn. Ông giải thích những điều mà cả Timbo đã biết rõ mười mươi: ở xứ sở Da Trắng, nơi mà tất cả đều trái ngược và vặn vẹo ấy, thì các vị vua không viết, họ chỉ nói qua miệng những đứa cháu ruột của mình mà thôi.

- Nói vậy, thì bất kể một kẻ coi ngựa nào có thể tới từ Sokoto hay từ Tombouctou rồi tự nói mình là cháu gọi vua của La Mecque bằng chú ruột được đấy! - Một vị hoài nghi cất giọng phẫn nộ.

- Vậy chúng ta hãy bắt đầu bằng việc làm sáng tỏ vấn đề này, - Diogo Môdy Macka gầm gừ trong lúc quay về phía
Da Trắng. - Có hay không việc ngươi là cháu ruột của vua
Pháp hả?

Và, một lần nữa, lại diễn ra cảnh giống hệt ở Guidali, trong sân của hoàng tử Aguibou. Da Trắng, bằng tất cả lòng trung thực, muốn giãi bày sự mập mờ. Mâly Và Mâ-Yacine đã khiến ông câm miệng bằng những cú huých khuỷu tay và những cái nháy mắt và, bằng cách nói vòng vo bóng gió xun xoe của họ, họ đã thành công khiến những kẻ Peul đa nghi nhất phải nuốt trôi câu chuyện huyền thoại hết sức khiếm nhã của họ.

Nhà thông thái lấy lại trật tự  và lại cất giọng hỏi cả phòng họp:

- Có ai khác muốn nói gì nữa không?

- Chúng ta hãy quay lại vụ việc này ở Dinguiraye đi! Có vẻ như người ngoại bang đang có mặt tại đây đã đến với rất nhiều của cải và đạn dược và hắn muốn tặng nó cho vua Dinguiraye, kẻ thù của tất cả chúng ta, điều đó có thật không?

- Chúng ta đã đặt một câu hỏi cho Da Trắng, - nhà thông thái sốt sắng.

Đúng thế, ông rất muốn đi đến Dinguiraye, Sanderval nói. Không, không đời nào ông muốn đi Dinguiraye cả, Mâly dịch lại.

 

Bị lũng loạn bởi những lời dối trá của mình, con người này không nhận ra người đàn ông vận áo chùng, ngồi ở hàng ghế thứ hai, lúc này đang sẵn sàng mở miệng:

- Da Trắng có thể nhìn thẳng vào mặt ta và thề rằng hắn đã chưa bao giờ nói với ta rằng hắn sẽ đi Dinguiraye không?

Đó chính là Aguibou, người chắc đã thế chỗ của cha mình, ông hoàng của xứ Labé, đã quá già yếu. Mâly lảo đảo dưới hiệu ứng của sự ngạc nhiên. Những tiếng ấp úng của anh ta đã ký nhận những lời thú tội của mình.

- Các vị thấy chưa hả? - Một ai đó kêu lên - ... Ô không, Fatou đã không nói dối đâu!...

Lần này, nhà thông thái không sao ổn định được trật tự. Những giọng nói nổi lên trong những hàng cuối cùng, mặc cho những lễ nghi thể thức:

- Da Trắng, hắn nói điều này để rồi lát sau lại nói điều khác! - Một tiếng nói kêu to. - Phải xử trảm hắn thôi.

Diogo Môdy Macka thì thầm điều gì đó vào tai Almâmi. Người này hắng giọng và, một lần nữa, giọng nói của nhà thông thái vang lên:

- Có ai đó trong số những quý tộc đây phản đối việc xử trảm người đàn ông này không?

Kéo theo đó một sự im lặng dài, chỉ bị ngắt bởi tiếng thì thầm và những cơn ho trước khi giọng nói đã giảm khí thế của vua Kankalabé cất lên:

- Chúng ta là người Peul, những người anh em ạ, ngành đạo đức học của chúng ta, Poulâkou, dạy cho chúng ta cư xử hệt như con tắc kè hoa: đảm bảo rằng thế giới không sụp đổ dưới bước chân đầu tiên của chúng ta trước khi mạnh dạn bước bước thứ hai. Chúng ta đang giận dữ, người đàn ông này đã nói dối chúng ta. Nhưng dù có chuyện đó đi nữa, chúng ta hãy thận trọng. Giờ ta giết hắn, rồi sau đó ta mới vỡ lẽ hắn đúng là cháu của vua Pháp thật thì sao, các người đã nghĩ đến điều đó chưa?

Những câu nói này khiến cho một làn sóng ngờ vực nhỏ nổi lên trong phòng. Những tư tưởng cân bằng đồng tình. Những kẻ quá kích động hồi nãy thì bộc lộ sự lưỡng lự. Điều đó làm nảy sinh một tia sáng hy vọng trong ánh mắt của Mâly. Vị thông ngôn bất hạnh này ngẩng đầu lên để cố gắng bám vào một niềm hy vọng mới:

- Wallâhi, người đàn ông này đúng là cháu của vua Pháp thật mà! Tại sao tôi lại phải nói dối các ông chứ?

- Thế thì hắn phải nhanh chóng mà chứng tỏ điều đó trước khi ta cho gọi đao phủ đến! - Diogo Môdy Macka đỏ mặt nói.

- Hắn, một hoàng tử ư? - Có ai đó phẫn nộ. Thế thì tại sao áo quần hắn lại xỉn màu và chật chội như thể hắn thiếu vải vậy?

Một luồng sáng thần tiên lóe lên trong đầu Da Trắng, có lẽ là do hiệu quả huyền bí của sự cùng quẫn! Thay bằng chứng kiến cảnh hắn ta bị suy sụp, thì cả Fouta lại hết sức ngạc nhiên thấy ông phá cười:

- Vậy hãy cho tôi vài phút, tôi sẽ chứng minh cho các ông thấy rằng tôi đúng là cháu của vua Pháp!

Nhà thông thái quay sang Almâmi. Người này gật đầu đồng thuận.

- Đồng ý, - nhà thông thái tiếp tục. - Chúng ta thuận cho Da Trắng vài phút. Nhưng quân lính sẽ nã đạn bắn gục ngay nếu như hắn có ý định bỏ trốn.

 

Ông chạy nhanh về phía nhà mình, lục từng cái rương và cuối cùng đã tìm thấy bộ trang phục kỳ diệu của Méphistophélès mà ông đã tự nhủ vứt nó xuống khỏi tàu. Ông thậm chí còn không chắc đã đem nó theo. Và trong lúc lôi nó ra khỏi hòm và giở ra, ông vẫn không biết liệu mình có nên mặc nó vào không. Có đấy, dẫu gì đi nữa, ông đã đủ dũng cảm để vận nó vào mình, người ta sẽ coi ông là ai nhỉ: là một hoàng tử kế vị nước Pháp hay là ông hoàng của những tay hề đây? Ông nhìn ngắm màu đỏ tím của bộ trang phục, những chiếc cúc gỗ, những sợi dây lụa và chiếc mũ có sừng điểm những đường viền lông thú và, mặc dù chỉ có một mình trong phòng, ông phá lên cười rất to. Ông diện nó vào người với vẻ ung dung và phong thái đài các của một đấng quân vương sắp sửa đến dự khiêu vũ.

- Họ đã không chấp nhận ta là một con người, thì họ sẽ rất chấp thuận cho ta trong trang phục Méphistophélès.

Ông ra khỏi cung điện hoàng gia là một tên tù nhân, giờ quay lại, ông là một hoàng đế.

- Louis XVI chắc cũng tạo cùng một hiệu ứng trước lũ nhà quê của tỉnh Saône-et-Loire, - ông lầu bầu trong đám râu rậm, đúng ra là tự hào về diện mạo của mình.

Sự kính trọng và ngưỡng mộ sáng lên ngay trong chính cặp mắt của Diogo Môdy Macka. Ông nghe thấy những tiếng thì thầm nổi lên quanh ông và hiểu rằng ông đã thắng cuộc.

- Thường thì bọn Da Trắng xấu xí, nhưng tên này, hắn đã trở nên đẹp thực sự! - Ai đó lên tiếng trước.

- Ôi, hắn vẫn luôn giữ được cặp mắt tắc kè hoa và bộ tóc dính, chỉ có điều bộ trang phục này, là cái gì đó khác hẳn. A, đúng thế đấy!

 

- Ngay các vị vua của La Mecque cũng không diện những trang phục phong phú và lấp lánh nhường ấy!

Rồi người ta nghe thấy tiếng nhà thông thái vang lên, át hẳn những tiếng tiếng khác:

- Một chút im lặng nào, những người anh em! Ibrahima, vua xứ Fougoumba có đôi điều muốn nói.

- Người đàn ông này là dòng dõi nhà vua, đồng ý! - Ibrahima bắt đầu mở lời. - Nhưng có phải vì thế mà chấp nhận hắn là bạn của Fouta hay không? Có phải là lúc đối với người Peul tin tưởng người đầu tiên đặt chân đến đây hay không?

Những người xứ Alphaya không thể tìm được dịp tốt hơn để thò móng vuốt của mình ra:

- Đúng vậy đấy, thưa Almâmi, tại sao Người lại để cho kẻ ngoại bang này chạy qua những đồi núi của chúng ta chứ? Tại sao Người lại đón tiếp hắn trong tình hữu nghị hả? Người Da Trắng là kẻ thù của chúng ta; chúng đến đây quấy rối sự ngơi nghỉ của chúng ta, ăn cắp đàn bà của chúng ta và có thể biến chúng ta thành một dạng tù nhân, chúng ta không muốn điều đó.

- Còn vụ Dinguiraye nữa, vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa! Phải làm sáng tỏ những ý định của Da Trắng! - Có tiếng kêu rõ to vang lên ở hàng cuối cùng.

Bóng gió, thì thầm, giận dỗi, thay đổi thái độ, giảng hòa nổi lên, giống hệt như trong tất cả các buổi nhóm họp của người Peul! Điều đó kéo dài cho đến tận giờ cầu nguyện buổi tối. Cuối cùng, Almâmi thì thầm điều gì đó vào tai nhà thông thái và người này lại gào lên:

- Da Trắng đang có mặt tại đây là bạn của Almâmi và là khách quý của Fouta! Almâmi thuận cho ông ta những gì ông ta cầu xin. Ông ta sẽ có con đường cho cỗ máy hơi nước chạy qua, nhưng Người cấm ông ta đi về hướng Dinguiraye. Những ai giúp ông ta thực hiện điều đó sẽ bị xử trảm.

 

Khi trở về nhà mình, ông lại thấy lũ lính gác ra khỏi nhà ông, trên lưng vác tất cả đồ lương thực và những rương hòm.

- Còn chuyện gì diễn ra nữa đây, - ông gào lên. - Người ta dẫn tôi ra cọc xử chém hay trục xuất tôi ra khỏi thành phố thế này hả?

- Cả hai điều ấy đều không có đâu! - Saїdou đến sau lưng ông và trấn an. - Người ta chuyển ông về nơi ở cũ của ông đấy thôi mà. Ông thấy đấy, ông đúng là khách quý của Fouta rồi!

Thế giới đã đổi thay. Người ta giúp ông. Người ta giúp ông ổn định lại nơi ăn chốn ở và đem đến cho ông một đĩa to cơm kèm theo mọt thứ sốt gà ngâm lạc, đến trực tiếp từ cung điện của Almâmi.

Các phiên chợ lại mở và những ánh mắt đã kém phần giận dữ đe dọa, đám lính gác có phần kín đáo hơn và hàng xóm tỏ ra vui vẻ hồ hởi hơn Những làn sóng những kẻ tò mò thô thiển lại tái xuất hiện dưới mái hiên và sân nhà ông, còn các hoàng tử từ khắp các tỉnh tìm kiếm tình bạn nơi ông. Ai nấy đều muốn có kẻ ngoại bang này trong phe mình, kẻ ngoại bang mà người đồn rằng rất giàu có và đầy quyền lực và, hơn thế nữa, kể từ buổi chiều hôm đó, ông là người bạn thực sự của Almâmi. Ai nấy đều tin tưởng ở ông: các tỉnh thì muốn sao cho có được quyền hạn ngang bằng với quyền lực lấn át của Timbo, xứ Alphayas thì để buộc Almâmi phải tôn trọng sự thay đổi quyền lực; và mỗi một hoàng tử sorya thì để, đến lúc thuận tiện, thì hất cẳng những người anh em cùng cha khác mẹ và đoạt ngôi báu. Những cuộc thăm viếng này thường diễn ra về đêm và kèm theo vô số quà cáp và những câu chuyện khiếm nhã về phe đối địch.

Ngày mùng 10 tháng Năm, ngán ngẩm vì không ngủ được, ông lôi bút chì ra và ghi lại lời tiên đoán này: "Ta có linh cảm rằng đất nước này đang chuẩn bị diễn lại, và cùng một màn, hai thời kỳ đen tối âu sầu của lịch sử nước Pháp... Một bên là người xứ Armagnac và một bên là xứ Bourgogne! Còn ở đây, một bên là Timbo; bên kia là Labé! Ai nấy đều có những vực thẳm để làm chỗ trú cho vua Henri III và Hầu tước De Guise của họ! Ở đây là Pâthé và Bôcar-Biro; ở kia là Aguibou và Alpha Yaya!... Fouta thật kỳ quặc! Những người Peul này rất ranh mãnh, có thể còn quá ranh mãnh là khác! Fouta đã trở thành một tấm lưới, một tấm lưới nghịch lý khác thường. Rơi vào đó cũng dễ dàng như để cho những người Peul này rơi vào đó.

 

Ông đi lang thang lẩn quất trong vùng để kiểm định và ghi lại những hang hốc và các nguồn suối, lấy những mẫu đất và cây thân mềm rồi lại chuyển sang săn voi. Ông đã thoát chết khỏi một cú ngã, một vụ đầu độc và một vết rắn cắn. Còn về bệnh đau bụng do những khủng hoảng của bệnh sốt rét, thì ông thường xuyên cận kề với hôn mê. Thế rồi người ta thông báo cho ông biết có vua Koїn đến thăm:

- Mọi người gọi ta là Dion-Koїn, ông hình dung ra ông chủ của Koїn nghĩa là gì rồi chứ! - Người này vừa nói vừa cười khẩy. - Ta đã nghe nói về ông từ rất lâu và cũng như tất cả mọi người, hôm nọ ta đã vỗ tay hoan nghênh dáng vẻ bề thế của ông ở cung điện hoàng gia. Nếu ông muốn, chúng ta sẽ trở thành bạn của nhau. Hãy rẽ qua Koїn trước khi quay về nhà ông. Chúng tôi có vật săn rất ngon và sữa tốt nhất nước - còn về những gì thuộc về đàn bà thì...

Ba tràng ho cất lên không ngớt từ ngoài vẳng vào. Ông ta cúi xuống, nói trong lúc tay vung vẩy rất bồn chồn:

- Nào!...Vào đi!... Đã bảo vào đi cơ mà!... Ơ, mình còn đợi gì nữa thế hả?

Một cái bóng ngập ngừng, băng qua khu sân trải đá dăm và đến ngồi chồm hỗm dưới mái hiên.

- Là vợ tôi đấy!... Vào đi, vào đi nào!... Rảo chân lên đi... Ông không từ chối cô ấy vào đây chứ, đúng thế không? Cô ấy hẳn sẽ rất thất vọng. Ông hiểu chứ, cô ấy chưa bao giờ nhìn thấy một người Da Trắng nào hết.

Người phụ nữ trẻ vẫn lưỡng lự, rồi vào nhà bằng một bước chân và thế là cả căn phòng sáng bừng lên. Đó chính là người đàn bà trẻ hôm nọ, mà do cô ta, ông đã suýt bị xử tội ném đá đến chết. Da Trắng không còn để tâm đến những gì mà vị khách của mình đang nói. Nàng thật đẹp, đẹp, còn kiều diễm hơn nhiều khi nhìn quá gần như thế! Cặp mắt thất thần, miệng há hốc, hơi thở gấp gáp, ông nghiến ngấu nàng bằng cặp mắt. Ông có dáng vẻ của một kẻ thiểu năng trí tuệ và ông cũng chẳng bận tâm đến điều đó. Ông săm soi nàng từ đầu đến chân, ngừng lại rất lâu trên vòng lượn của gáy, đôi vành tai, những nếp gấp của mũi và những nét uốn của vành môi: không một nhược điểm. Làn da Peul của nàng và các đồ trang sức nàng đeo lóe sáng trong bóng tối căn nhà khiến ông nghĩ đến tia sáng của những tấm kính ghép đẹp nhất của thánh đường Đức Bà ở tỉnh Chartres dưới ánh sáng ban ngày.

 

Dion-Koїn bắt đầu lo lắng:

- Ê, Da Trắng, ông sao vậy? Lạy thánh Allah, có điều gì xảy đến với ông vậy?

Ông không biết có chuyện gì xảy đến với mình, ông không biết liệu mình đang yêu hay đã phát điên.

Ông đứng phắt dậy. Nắm hai bả vai Dion-Koїn và nói với anh ta rất rõ ràng:

- Hãy tặng lại vợ ông cho tôi đi! Tôi cầu khẩn ông đấy, hãy nhượng nàng cho tôi!

Người này, ngỡ là một câu chuyện phiếm, miệng cười khẩy trong lúc đi ra khỏi nhà và xông thẳng về phía đoàn tùy tùng của mình đang đứng trong sân:

- Da Trắng bị điên thật rồi! Hắn muốn ta tặng lại vợ cho hắn. Ta chưa bao giờ nghe nói đến chuyện này cả! Đúng là một chuyện kỳ cục! Các ông nên ca tụng điều đó được đấy, các nhà thông thái ạ!

Rồi ông ta dụi mắt, quay trở lại nhà và vẫn bắt gặp Da Trắng trong cùng một dáng vẻ của chú bé vị thành niên bị thôi miên như lúc ông ta đi ra.

- Tôi van xin ông, hãy tặng nàng cho tôi đi, - Olivier de Sanderval lặp lại câu nói mà không hề phảng phất chút mai mỉa nào trên khuôn mặt.

- Nhưng ta không thể cho ngươi nàng hôn thê của ta được: đó là ái nữ của một vị vua vĩ đại, hơn nữa, vị vua này là một người bạn thân. Ngươi thấy rõ là ta không thể cho ngươi cô ấy được. Tại sao ngươi không đi Kébou? Ở đó, ngươi sẽ tìm thấy những cô gái còn đẹp hơn nhiều.

- Thế thì, hãy nói cho tôi biết, nàng tên là gì?

 

- Cô ấy tên là Dalanda. Nhưng đó là một cái tên quá phức tạp đối với ngươi, rồi ngươi sẽ quên nó ngay thôi, ta chắc chắn điều đó.

Anh ta cầm tay vợ và kéo nàng ra phía cửa. Ra đến hiên, anh ta quay lại và nói:

- Cả Dalanda nữa, hãy quên cô ấy đi, điều đó có lợi hơn cho cả ba chúng ta.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một căn bệnh khủng khiếp đã tấn công ông, còn trầm trọng và khó chịu đựng hơn cả bệnh đau bụng và chứng mất ngủ và nó chẳng có tên. Một cơn đau không định hình đốt nóng thân thể ông, đầu độc dòng huyết quản của ông và khiến tâm trí ông bấn loạn. Mâly đã ngỡ ông phát điên, Mâ-Yacine, người lại vừa bị người ta đầu độc cùng đám lính Sénégal, do một trong những đạo sĩ Peul đáng gờm đã làm việc ông bằng cỗ tràng hạt. Ông trở nên đơn độc và dễ nổi cáu. Ông khước từ tất cả mọi thứ đồ ăn người ta đem đến: sữa đông và couscous hạt kê, món taro nghiền cũng như thịt cừu viên. Ông lả người cả nhiều ngày liền trong một xó nhà. Sau đó, ông lang thang trong các con hẻm của Timbo, vô cảm trước các đám đàn bà trẻ con đang cười hô hố sau lưng và thô lỗ chỉ thẳng vào cặp mắt chim hiếm và làn da đỏ rực của ông. Ông đi hết nhà này đến nhà khác, tìm kiếm dưới mỗi mái hiên và trong các góc khuất của đám lougan. Ông mạo hiểm công khai săm soi các bà: những người đang giã fonio và cả những người từ giếng trở về. Ông chẳng thấy nàng ở đâu cả. Rõ ràng là bất cẩn, nhưng ông cũng chẳng thèm để tâm đến điều đó. Ở Cassini, những người Nibous tuy nhiên đã nhắc cho ông nghe cả ngàn lần câu ngạn ngữ: "Nếu anh muốn tránh lưỡi dao của người Peul, thì hãy tránh ngai vàng, đàn gia súc và phu nhân của họ." Ông đi khắp lượt Timbo và các xóm làng lân cận, độc thoại triền miên bên bờ sông và không sao nhấn chìm nổi nỗi buồn rầu bâng khuâng của mình trước khi lại lê bước chân về cái tổ của mình hệt như một con sư tử già thất trận.

Thế rồi, vào một buổi chiều đẹp trời, một con bé đến lôi ông ra khỏi trạng thái u mê.

- Nó muốn gì ở ta, con bé kia? - Ông quát mắng Mâly.

- Nó muốn ông đi theo nó.

- Nhưng để đi đâu, hả Chúa ơi?

- Có thể là đến chỗ Almâmi.

Trong tất cả những giai đoạn nhọc nhằn và lang thang thì chưa một lần ông đi trên con đường này cả. Con bé dẫn ông đi từ phía sau nhà, xuyên qua một khu lougan bỏ hoang. Họ đi qua trước một cái chòi nghỉ bằng tre, nơi ông vẫn có thói quen đi vệ sinh, vượt qua một hàng rào um tùm những cây dương xỉ, rẽ vào một lối mòn đầy cỏ, ngoằn ngoèo bất tận giữa những gò rau và những ngôi nhà trước khi đến một bãi chuối nhỏ xíu mọc lên gần một con suối. Đến đó, nó dừng lại mà không hề nói lời nào và chỉ tay về phía bãi chuối. Ông khó nhọc căng cặp mắt đã đờ ra do những đêm không ngủ và bệnh sốt rét.

Ông đã nhìn thấy. Nàng đang ở đó, nổi bật giữa những thân chuối và con suối, váy ngắn, ngực trần mái tóc nàng đầy những san hô và ngọc trai, cặp hoa tai bằng vàng, một mạng dày vòng đeo cổ đỏ như san hô, một số chỉ nhỉnh hơn cổ nàng, một số khác lại đổ xuống tận núm vú; một bình sữa và một chiếc thìa gỗ đặt dưới chân nàng.

- Dalanda ư! - Ông run lên.

Nàng chỉ mỉm cười. Rồi thời gian như ngừng trôi. Họ đứng chết lặng trước mặt nhau, im lặng và vô thực hệt như những bản khắc mà ta thoáng thấy trên các vách đá của dãy Hélaya. Đến lượt mình, nàng thì thầm điều gì đó nhưng ông không hiểu. Ông quay về phía con bé hồi nãy để cầu khẩn nó giúp đỡ, nhưng nó cũng chỉ đành buông thõng cánh tay tỏ ý bất lực. Ông những muốn uống ừng ực những câu nói của nàng, cũng hau háu hệt như những kẻ chăn gia súc hưởng thụ liễn mật ong của họ vào buổi trưa sau cả nửa ngày chạy thốc tháo đó đây.
Nàng lại cất giọng trong lúc ra hiệu bằng tay. Lần này thì ông hiểu được:

- Hôm qua em đã nhìn thấy ông đứng gần chuồng ngựa của cung điện... và sau đó hôm kia lại đứng bên cạnh trường Hồi giáo trung tâm... Có phải ông đã mất một con gà mái hay không mà lại lang thang như vậy hả?

Ông lao vào một làn sóng ngôn từ dài bất tận và nhanh liến láu để diễn tả tình yêu của ông đối với nàng, những đêm dài ông thức thao thức để đợi nàng, cái chết âm ỉ mà sự vắng bóng của nàng gây cho ông. Nàng chẳng hiểu gì cả. Quay về phía con bé, nàng cười khùng khục:

- Sao chứ, đấng Tối cao lòng lành, có thể nào người ta sinh ra trên đời này mà lại không nói được một từ Peul nào chứ?

Nàng cúi xuống, cầm chiếc thìa gỗ và múc sữa từ trong bình ra:

- Uống đi, sữa đấy!

Ông uống hổn hển. Có thể nói đó như một con chó con tu nước sau một cuộc chạy dài. Ông lấy lại hơi và nhảy bổ về phía nàng. Nhưng nàng bỗng kêu lên khe khẽ và đẩy ông một cách mãnh liệt vào lúc ông quỳ xuống dưới chân nàng. Nàng ném một ánh mắt gượng gạo về phía con bé và nhắc lại nhiều lần cho đến tận lúc ông hiểu:

 

- Đêm nay... khi tiếng gọi của người điều hành lễ cầu nguyện chấm dứt, thì em sẽ ghé qua thăm ông.

 

Tối đó, ông đi nằm sớm mà không hề viết lách tí nào trong các cuốn sổ, cũng chẳng động gì đến những quân cờ. Ông phủ tấm chăn đắp để tránh gián và muỗi rồi dồn hết tâm trí lên những tiếng động xào xạc trữ tình của Timbo. Ông nghe thấy những tiếng chày giã hạt và tiếng chó sủa, tiếng gầm của những ông thầy đọc kinh Coran và tiếng líu ríu của con trẻ lần lượt tắt dần; rồi đến những tiếng kể chuyện và các bài hát đơn điệu của các nhà thông thái. Cả thành phố bắt đầu chìm vào giấc ngủ, ông để mặc tâm tưởng mình chấp chới trong những tiếng kêu chói tai của đám dế mèn, tiếng ộp oạp của ếch và những tiếng hú khủng khiếp của loài sói vằn và linh cẩu. Ông cảm tưởng hình như nàng chẳng bao giờ đến. Bài bi ca chua loét của thầy điều khiển buổi cầu nguyện quá đỗi siêu thực, gây bấn loạn quá dỗi giữa đêm khuya, ngay cả với kẻ nghịch đạo.

Đây rồi, cuối cùng thì lời than vãn chờ đợi khắc khoải nhường ấy cũng đến! Ông mài sắc các giác quan và nhìn chăm chăm cửa ra vào, nhưng chẳng có gì sượt qua cửa nhà ông ngoài lũ mèo, chó hoang và những con chuột cống bẩn thỉu kếch xù hàng ngày. Rồi ông cũng mơ màng chìm vào giấc ngủ: có lẽ là do nỗi sợ hãi quá dữ dội! Ông đang mơ thấy mình đứng trước sân khấu nhà hát thì cảm thấy cái gì đó chạm vào tay mình. Ông tiếp tục mơ màng, nghĩ rằng đó là một con chuột cống, rồi bất thình lình hất tung tấm chăn đắp và lao đến vớ ngay lấy khẩu súng, khi ý nghĩ rằng đó có thể là một tên trộm hay một kẻ giết người nào đó sượt qua tâm trí.

 

- Đừng sợ, là em đây mà! Nàng thì thầm với ông, cả tấm thân lõa lồ rực rỡ dưới ánh sáng của ngọn nến.

 

Bôcar-Biro quay lại vào sáng hôm sau để thông báo cho ông biết rằng ông vẫn không nên tuyệt vọng để được phép đi đến tận Dinguiraye. Ông ta đã nói chuyện với Almâmi và người này đã chẳng thấy có điều gì bất tiện nghiêm trọng cả, tóm lại, Almâmi đã đáp lời ông ta:

- Hãy xoay xở với Diogo Môdy Macka và những cố vấn khác của hoàng triều đi!

- Và với Diogo Môdy Macka và lũ chân tay của ông ta hả, sẽ chẳng có gì phức tạp đâu, - Bôcar-Biro kết luận, - ông chỉ cần nhấn chìm họ trong thật nhiều hổ phách và san hô thôi.

 

Sau đó ít lâu, ông là nạn nhân của một trận ỉa chảy khủng khiếp, nó đã vặn xoắn gan ruột ông một cách dữ dội trong hai ngày liên tiếp trước khi bắt đầu xỉu đi. May mắn thay, ông được đem kèm một chiếc bô lớn bằng nhựa trước khi xuống tàu, mà quân của ông, từng người lần lượt đến phiên đem đi đổ.

Tuần sau đó, ông cảm thấy đã hơi khỏe để có thể đi đến tận chiếc chòi tre mà ông đã sử dụng làm nhà vệ sinh Nhưng vào lúc ông sắp bước vào, thì có một cái bóng động đậy đằng sau cây xoài lớn. Cái bóng đó tiền về phía ông, đội trên đầu cái gì đó có vẻ như một bữa ăn. Sự ngạc nhiên và tức giận ngăn ông đáp lại lời chào và nụ cười rạng rỡ của nàng. Ông chộp lấy cánh tay nàng một cách thô lỗ và chạy về phía nhà mình và quẳng nàng vào đó qua cửa hậu.

 

Xong đâu đó, ông quay lại và khép mình một lúc lâu trong chiếc chòi. Kế đến, ông nấn ná trong sân để nói chuyện phiếm với quân của ông để tránh xa những ngờ vực.

- Không cho ai quấy rầy tôi nhé, tôi sẽ đi nghỉ một lát! - Ông tuyên bố trước khi quay vào gặp nàng.

Ông ghì chặt nàng trong vòng tay mình, trong khi đó thì, trước đây vài phút ông đã có một ý muốn điên cuồng phải giã cho nàng một trận cho hả dạ. Nàng đem đến cho ông những chiếc bánh ga tô pha mật ong và hạt fonio trộn folléré. Ông khoái trá thưởng thức trong lúc nghe nàng trút lời thương cảm lên số phận con bệnh của nàng, Da Trắng đáng thương thất lạc nơi những người Peul, người tình không danh dự, người vẫn còn chưa thèm quyết định mời tình địch của mình ra cánh đồng để thẳng thắn giải thích, bằng dao.

Khi nàng nhồi hết cho ông những viên bánh nhỏ xíu được chính bàn tay nàng nhào nặn với tình cảm yêu thương, thì nàng bắt đầu nhẹ nhàng lau rửa chân tay cho ông và kéo ông về phía giường, trong lúc miệng cười nhí nhảnh hệt như một thiếu nữ.

- Ông không phải là một người đàn ông, Yémé ạ, wallâhi! - Nàng nói điều đó trong lúc cởi bỏ trang phục. Em đã nghĩ rằng ông chắc phải đâm chết Dion-Koїn rồi và bắt cóc Dalanda!

 

Lúc này cả hai bọn họ ngồi phệt trên nền đất, Da Trắng chìm nghỉm vào những cuốn sổ ghi, cô gái trẻ, tựa lên vai ông, rót cho ông cốc si rô soumbala và miệng hát một ca khúc mục đồng cổ xưa.

- Giữa Fatou và em, ai là người ông thích nhất hả?

- Ta chỉ yêu em thôi.

 

Ông vỗ nhẹ lên má nàng. Nàng đáp lại trong lúc vuốt ve mơn trớn ngón tay mình giữa sống lưng ông.

- Ông không thể chỉ yêu một mình em, điều ấy là không tưởng!

- Chỉ mình em thôi, mình em, mình em thôi mà!

Nàng đã thành công bắt ông thú nhận rằng mình đã có một người vợ tại Pháp, một người Da Trắng, đương nhiên rồi và rằng ông cũng yêu người ấy hệt như ông yêu nàng. Nàng hỏi ông lý do sự có mặt của ông ở chốn này, ở Fouta đây, và thật ngất ngây khi biết rằng ông đến đây để thành lập một vương quốc.

- Thánh Allah cao cả, - nàng thốt lên, - như vậy, ông sẽ có hai hoàng hậu, một Da Trắng và một Da Đen nhỉ!

- Than ôi, - ông thở dài sườn sượt, - mọi thứ lại không bao giờ đơn giản đối với người Da Trắng bọn anh!

- Tại sao mọi thứ lại không bao giờ...

Câu hỏi của nàng bị gián đoạn do một tiếng động rền vang khủng khiếp. Ông nhảy bổ tới vớ cây súng và đi ra xem. Chừng trăm người đem theo đoản kiếm và gậy gộc chạy lao về phía nhà ông theo các ngả đường, xuyên qua khu trảng hoang và nhảy qua các hàng giậu, miệng gào vang cuồng loạn:

- Phải giết Da Trắng đi! Phải giết gã Da Trắng! Phải giết gã Da Trắng!

Phản ứng đầu tiên của ông là quay ngay vào nhà để bảo vệ Dalanda.

- Có chuyện gì thế? - Nàng hỏi ông một cách ngây thơ với nụ cười thiên thần tuyệt diệu của mình. - Họ chạy đuổi theo một tên ăn cắp à?

 

Ông vớ ngay lấy nàng, quắp nàng chạy nhanh về phía cửa hậu, nhưng rồi lại đổi ý để nghĩ đến cái giường.

- Nào, - ông nói trong lúc đẩy nàng vào đó. - Em phải nằm im dưới đó nhé! Cấm ngọ nguậy, cấm ho và cấm hắt hơi đấy!

Rồi ông nằm dài xuống trước cửa nhà, súng chĩa ra sân. Những kẻ đầu tiên bò tới dừng sựng ngay lại khi nhìn thấy mũi súng. Ông đã đoán trúng, Dion-Koїn có mặt trong đám đó. Ông nhìn thấy kẻ nhà quê ấy nhảy qua hàng giậu mà không hề giảm độ nhanh, rồi dữ dằn rút đoản kiếm ra khỏi bao khi chạy đến gốc cây cam trong sân. Những ý tưởng xô đẩy nháo nhào trong đầu ông với một vận tốc của tia sét. Bọn họ quá đông, còn ông thì không đủ đạn. Đó là hết đối với ông: Hạ thủ tên đểu kia trước khi bị ném đá đến chết bởi số còn lại hay để cho bị phạt đầu mà không phản ứng gì. Ông nghĩ đến giải pháp thứ ba: tự sát. Nhưng chuyện này không nằm trong tính khí của ông. Con người ta phải cứu cuộc sống của mình trong lúc chiến đấu chống lại tất cả, cha ông đã dạy ông điều này, vào cái ngày đáng nguyền rủa mà những nhà Cách mạng đã ngỡ dìm chết ông ấy khi ném ông xuống dòng sông Saône. Rồi ông nghĩ đến Dalanda. Nếu ông chết thì nàng, ai sẽ bảo vệ nàng đây? Ông chỉ việc nằm im tại chỗ ông đang nằm, ngón tay dính chặt trên cò súng, nhưng trên hết là đừng theo hướng làm bùng nổ những kịch tính; chỉ nã đạn nếu họ có ý định vượt qua hiên nhà. Sau đó, sự thể thế nào sẽ rõ.

Nhưng có một điều ngỡ ngàng xảy đến. Dion-Koїn vung kiếm lên, không phải chống lại ông, mà là chống lại tất cả những người khác. Anh ta đã đứng chắn giữa Da Trắng và họ, khổ người khổng lồ của anh ta trở thành một tấm ba-ri-e thực sự, ông ta tức đỏ mặt:

- Người đầu tiên bước thêm một bước nữa, ta thì sẽ chém bay đầu! Hãy thu gậy và kiếm rồi bình tâm trở về nhà đi. Nào, nào! Nhanh lên đi!

Từng người một, họ thu vũ khí về và buộc phải kéo nhau lê về phía hàng rào.

Rồi hắn đi vào hiên nhà, thân tình nâng Da Trắng dậy và kéo ông vào bên trong. Người này ngồi sụp xuống gờ của một trong đám rương hòm của mình, duỗi thẳng chân tay để lấy lại hơi và cố tích tụ một cố gắng siêu phàm để không nhìn về phía giường ngủ:

- Số phận thật quá đỗi lạ lùng, Da Trắng ạ, - Dion-Koїn cười khẩy trong lúc ngồi phịch xuống một chiếc rương khác. - Tôi, người lẽ ra phải giết ông, thì lại chính tôi cứu sống ông!

- Những người Bồ Đào Nha đã giết chết một người Peul ở vùng ven biển, thế là những kẻ đần này muốn trả thù.

Người đàn ông đưa mắt quét khắp lượt xung quanh mình và hỏi Da Trắng liệu ông đã có được giấy tờ cho con đường xe lửa của ông hay chưa. Ông trả lời rằng chưa, nhưng chẳng có gì khiến ông nghi ngờ lời hứa của Almâmi.

- Tôi biết tại sao Người lại khiến cho ông tiến triển một cách rù rờ như vậy, đó là bởi Người vẫn còn chưa chắc chắn về các mối quan hệ của ông với kẻ thù Dinguiraye của Người. Trong hoàng triều, người ta kháo nhau rằng ông đang cất giấu đầy của cải và súng ống cho người này.

- Thế tôi cất giấu chúng ở đâu mới được chứ?

Ông ta đứng lên và nhìn về phía giường ngủ:

- Dưới gầm giường ông, đương nhiên rồi! Ông hẳn sẽ sợ tôi kiểm tra, nhỉ?

 

- Cứ việc, hãy kiểm tra đi! - Người Da Trắng đáp lại trong lúc hít thở thật sâu để chế ngự cơn hoảng loạn. - Anh sẽ thấy là chẳng có gì hết. Chỉ có tí rượu mạnh thôi!

Bị một cơn lợm giọng bất thần choán lấy, gã trai to con lùi ngay lại:

- Rượu mạnh ư? Eo ôi!

Anh ta khạc nhổ ồn ĩ và chạy ngay ra cửa. Lúc đi qua hiên nhà, anh ta đưa mắt nhìn nhanh sau lưng mình:

-          Ông chắc chắn là mình vẫn chưa muốn chuyển đạo ư?

 

Ngày hôm sau, khi gặp lại nàng gần bãi chuối cạnh con suối, ông nhận thấy một cái bướu to trên đầu nàng.

- Ai đã làm em như vậy hả? Chính hắn phải không? Là hắn hả? Thế thì điều gì đến ắt sẽ đến, lần này anh sẽ giết hắn.

- Không, không phải là anh ấy đâu, Yémé ạ! Là... là Fatou đấy! Người tình yêu thích nhất của ông đấy! - Nàng nấc lên trước khi chạy đi ẩn đằng sau những thân chuối.

Ông chạy như một cơn lốc xộc thẳng vào trong nhà của Ouolouf. Chỉ có mỗi một mình Fatou ở đó, ngồi gần ống khói, đang nghiền lạc. Ông nhảy xổ về phía cô gái để tóm cổ cô, nhưng ngay lập tức hạ tay xuống và lùi lại khi nhận thấy tình trạng chiếc bụng ngồn ngộn của cô: Chẳng nghi ngờ gì nữa: cô ta đang mang bầu. Mang bầu, đúng thế và chí ít là cũng đã ba tháng!

- Tội nghiệp anh chồng ouolouf khốn khổ! Giờ thì ta hiểu tại sao bà già kia lại nhất định muốn ta cưới con gái bà ấy
đến thế!

 

Ông quay lại cửa ra vào, cảm thấy lợm giọng, trong lúc sau lưng ông lanh lảnh vang lên những tiếng kêu thù hận và khó quên của Fatou:

-Tôi sẽ giết nó, con phò của ông ấy! Tôi sẽ giết nó, tôi sẽ giết nó, giết nó!

 

Những ngày sau đó, ông không hề nhận được tin tức gì.

- Tôi không thể chịu nổi nữa rồi, tôi phải tìm lại nàng bằng được, - cuối cùng ông thốt lên với chính mình, trong lúc sôi sục đội mũ, đi giày và đeo găng. - Kể cả chồng nàng có giết ta đi nữa, thì ta cũng cóc cần!

Khi đến bên hàng rào, ông chạm ngay với một biệt phái của cung điện hoàng gia, người này buộc ông phải quay lại:

- Da Trắng sẵn sàng chưa? Almâmi đang đợi ông.

- Nhưng tại sao thế nhỉ?

- Tại sao, tại sao cái gì hả? Để ra đi chứ còn gì nữa!... Đến Donghol-Féla, đương nhiên rồi, nơi nghỉ mát của ông đấy! Chỉ còn thiếu mỗi Da Trắng, cả hoàng triều đang chờ ông, dây đeo dưới chân và ngựa đã thắng xong.

- A, tôi hiểu rồi, - Da Trắng thở dài não nuột! - Ông ta sợ trong lúc mình vắng mặt, tôi trốn đi Dinguiraye đây mà!

Khoảng thời gian khốn đốn đi nghỉ ở Donghol-Féla này kéo dài lượt thượt gần một tuần. Khi trở về Timbo, ông đau đớn được tin Dion-Koїn đã rời thành phố. Anh ta quay về những vùng độc chiếm của mình, đem theo cả vũ khí và hành lý, cả vợ và đoàn người xe của mình.

Chuyến đi này đã truất nốt toàn bộ những động lực cuối cùng của ông. Ông quay về nhà mình với một cảm giác trống rỗng khủng khiếp. Ông kéo tấm ri đô dày đăng ten che phủ giữa ông và những cơn rối loạn không lành mạnh của Tim bo và chìm vào trong sự quên lãng, mệt mỏi đếm những ngày qua đi, những cơn đau bụng và đau đầu. Ông bắt cuộc sống của mình đông đặc lại trong chiếc vòng xích cổ của những đêm mất ngủ và trong những đợt lóe sáng khó giải thích của hoài niệm về nàng. Cha của ông đã từng dạy ông điều đó, trong cái ngày đáng nguyền rủa mà các nhà Cách mạng đã ném ông ấy xuống nước: phải biết bám vào một cái gì đó, chẳng có cách nào khác để thoát khỏi vực thẳm. Ông đang sống giữa những cơn hiểm nghèo, thêm lý do nữa để trụ vững, và trụ vững hơn nữa. Đằng sau ông, những mưu kế không thành văn của triều đình và những đớn đau cho cuộc hành trình: những cú trượt ngã, những lần hôn mê, và cả ngàn lẻ một lần rắp rem đầu độc, vẻ đẹp choáng váng của đất nước độc ác và mê ly này. Trước mặt ông, là vực thẳm không đáy của điều không tưởng và của những giấc mơ. Chỉ một bước sảy chân nhỏ thôi và thế là chắc chắn có sự lệch dòng.

Khi thực tế trở nên nhớp nhúa và ngột ngạt nhường ấy, thì con người thông minh phải buộc mình coi thường nó và phải tỏ thái độ. Vậy là ông ẩn mình vào trong ánh mắt xoa dịu của Dalanda, trong mùi hương quả dại và khăng khăng chối từ những đòi hỏi từ bên ngoài. Ông đẩy đĩa ăn của Mâ-Yacine đưa vào cho ông và, để sống qua ngày, ông chỉ gặm những thanh sô-cô-la cuối cùng và uống trà nhạt, bởi ông chỉ còn một mẩu đường duy nhất. Ông lại nghĩ đến tự tử và đến tình yêu say đắm rồi tự nhủ rằng sau khi đã chịu đựng tất cả những gì ông đã chịu đựng, thì ông còn đủ sức chịu đựng nữa, những cơn đói cồn cào, những bệnh tật, những đau khổ của tình yêu và những vụ đe dọa lấy mạng.

 

Kết quả gì thì cũng chẳng quan trọng: chỉ có sự cố gắng mới đem lại ý nghĩa của sự tồn tại mà thôi! Không bao giờ được chĩa mắt mình vào khoảng cách, mà chỉ xuống bước chân ta đi. Bước này đã thắng, thì ngay lập tức phải nghĩ đến bước tiếp theo. Và giọng nói khảng khái bất biến của cha ông làm cuộc sống mới lên tám tuổi mong manh của ông rung lên: Từ xửa từ xưa ở Hy Lạp, có một ông tên là Sisyphe...vân vân. Mỗi người hiện diện ở đây, trên mặt đất là để làm điều mình phải làm. Phận sự của mỗi người là di chuyển phiến đá của mình mà không hề bận tâm để xem liệu nó sẽ lại rớt xuống một khi ta đã ẩy nó lên không.

Trước mắt, phiến đá của ông, chính là sự sống sót, phải sống sót bằng mọi giá, có nghĩa là phải giữ được tinh thần và thể xác, dù là nhỏ nhất, ngày mai, sẽ chẳng có gì là không thể. Ông sẽ cân nhắc sau về chuyến hồi hương giả định của ông, con đường xe lửa, những dự án điền trang và các thương điếm và những giấc mơ về đế chế và vinh quang. Để thực hiện điều đó, ông phải bơm hút nghị lực của mình từ trong âm sắc mượt mà của giọng nói của nàng mà ông cảm thấy hình như vẫn còn nghe thấy, trong những làn hơi cỏ thơm bốc lên, chúng xông hương cho cơ thể nàng và chúng còn xức thơm bàn tay ông như thể nàng chỉ vừa mới vừa rời đi. Quan trọng gì đâu, sau chuyện đó, những âm mưu phản loạn của các hoàng tử Peul gian thâm và tiền hậu bất nhất; ánh mắt ngờ vực của hàng xóm láng giếng, sự tò mò ác tâm của đám đông rỗi hơi, sự lúc nhúc của đám sinh vật nhỏ và sâu bọ tranh cãi nhau trong ngôi nhà của ông!

Chuyện đó có thể kéo dài một tháng nữa hay có thể là vĩnh viễn, đối với ông thì cũng vậy cả thôi.

 

Dẫu vậy, cô nàng Fouta ngớ ngẩn kia cũng chẳng chịu buông tha ông. Mệt mỏi vì ngồi đợi ông gần chiếc ghế gấp bên ngoài, bây giờ nó đến gặp ông hẳn trong nhà, lục lọi đám rương hòm của ông, lần lượt thử hết từ mũ cứng, đến găng tay và lại xỏ cả vào đôi bốt đinh của ông nữa, xong còn đi lang thang quanh giường ngủ trong lúc miệng lầm bầm những câu kỳ cục mà cũng không sao lôi được ông ra khỏi sự tê dại. Cô ả ở lại đó nhiều đêm liền để sưởi ấm, cuộn tròn gần lò sưởi của ông mà không lúc ngừng nói lẩm bẩm. Ả chỉ đành rời khỏi đấy khi Mâly và Mâ-Yacine, dưới những mệnh lệnh của chồng ả, quyết định đến đón ả về.

Thực ra, ông thậm chí còn chẳng nhìn thấy ả. Chính Dalanda mới là người ám ông. Dalanda và mái tóc đẹp như lụa của nàng! Dalanda và tấm thân mỹ miều thơm mát mùi đu đủ, thật mềm, thật tươi và nhuốm màu nâu ánh vàng mới đẹp tuyệt trần làm sao!

Giá mà chính nàng là người quấy rầy ông nhường ấy nhỉ!

 

Thế rồi, những tiếng còi của thực tế cuối cùng đã chiến thắng ông. Ông bước lê đến tận chiếc ghế gấp và viết điều này, sau đó giao trách nhiệm cho Mâly và Mâ-Yacine đem đến
triều đình:

"Rốt cục thì các ông muốn gì hả? Rằng tôi chết mòn âm ỉ hay tôi trở nên điên đây? Tôi thông báo cho các ông biết trước rằng nếu các ông không thuận cho tôi ngay những gì tôi đề nghị, thì con đường xe lửa sẽ khởi hành từ Saint-Louis để đi thẳng tới nhà kẻ thù của các người ở Dinguiraye và sau đó sẽ là đến Ségou, chỗ người Bambara!"

 

Ông hận mình vì ngay từ đầu đã không sử dụng chiến lược này, bởi Môdy Pâthé ngay lập tức đến thăm ông. Sau đó đến Bôcar-Biro và rất đông các đạo sĩ và các cố vấn, các hoàng tử và các ông lớn. Tất cả đều xin ông tha lỗi và kiên nhẫn.

- Diango, fab’i diango! Ngày mai, ngày kia thôi!... Almâmi đồng ý rồi... Các cố vấn của Người thì đều thuận... Tất cả các đạo sĩ đã nhóm họp... Diango, fab’i diango!

 

Diango, fab’i diango ... Thứ sáu sau đó, lần đầu tiên từ rất lâu rồi, tim ông lóe lên một luồng sáng hy vọng thực sự khi ông nhìn thấy Môdy Pâthé bước qua hàng rào:

- Đi nào, bạn ơi, đến đây đi!... Thôi, không cần tìm mũ cứng và găng tay làm gì đâu. Đến ngay lập tức trước khi Almâmi đổi ý! Rồi ông xem, sẽ nhanh thôi!

Và quả đúng như vậy, chuyện đã chẳng kéo dài. Almâmi cho đọc to tờ giấy trước mặt toàn thể quần thần và chính Người chìa nó ra cho ông:

"Bismillâhi!... Ta tạ ơn đấng Allah!...Chỉ mình Allah, salam!

Người trình diện cùng với văn bản này đến thay mặt cho thủ lĩnh các đạo sĩ, vua tên là Sory, con trai của Abdoul Kadiri. Tất cả mọi người nhìn thấy văn bản hiện hành hãy biết rằng: người đàn ông đến từ xứ sở Da Trắng này đã đến đây và ông ta đã nói với Almâmi: "Tôi là khách quý của Người... Điều mà tôi đề nghị Người, đó là Người cho tôi một con đường để cho xe hơi nước chạy đến tận nơi nào tôi chỉ định." Đó là điều ông ta đã nói với Almâmi. Almâmi đã trả lời ông ta: "Đồng ý, những lời nói dành cho ông, ta cho ông con đường để cỗ xe chạy qua... Mong sao sự bảo trợ của đáng Allah sẽ chiếu rọi vào ông!..."

 

Văn bản được viết vào ngày mùng 1 tháng Sáu năm 1880, đúng theo lời đọc của Almâmi Sory qua đạo sĩ của Người, thầy Salidou Doukayanké. Thông ngôn viên: tên là Mâly."

Người ta còn đưa cho ông một văn bản khác mà họ cho là không cần thiết phải tiết lộ trước triều thần: cho phép đi xuyên qua Fouta để đi đến tận Boké, theo lộ trình nào tùy ý, được mua lương thực và tuyển phu khuân vác.

Sau đó, nhà thông thái quay sang nói với ông:

- Ông không còn là một người Da Trắng giống người trước đây. Ông đã trở thành một trong chúng ta, một người anh em của Almâmi, một người bạn của Fouta... Chúng ta hy vọng rằng tất cả những gì ông nói đều là sự thật và rằng ông sẽ quay trở lại đây... Điều buồn phiền đó là các ông, những người da trắng, chúng tôi không bao giờ gặp lại các ông lần thứ hai. Cả Lambert cũng đã nói rằng ông ấy sẽ quay trở lại và Lambert đã chẳng bao giờ quay lại. Chúng ta xấu hổ vì đã không phải lúc nào cũng đối xử tốt với ông. Để tạ lỗi, Almâmi sẽ cho đem đến tặng ông vàng và da hổ cũng như một trăm phu khuân vác. Ông sẽ ra đi vào ngày mai, Almâmi đã quyết định rồi. Hãy đi đi, người bạn da trắng của chúng ta, hãy vui vẻ và nhất là hãy nghĩ đến chúng ta nhé!"

   Sau đó là những tiếng khóc nổi lên, những cái ôm hôn, những lời chúc tụng, những câu cáo lỗi không ngớt. Người ta cứ ngỡ là người cùng một gia đình. Chỉ có điều lại có lão Diogo Môdy Macka này. Con quỷ ấy đã tìm được cách lần đến tận chỗ ông và nói nhỏ vào tai ông, trong lúc làm ra vẻ như bối rối:

- Theo thỏa thuận, ta giữ lại da hổ và vàng cho mình. Ông sẽ chỉ cần đường xe lửa thôi. Người Anh và người Bồ Đào Nha đã khá ghen tỵ với điều đó rồi đấy.

 

 

 

 

 

 

Ngày mùng 2 tháng Sáu năm 1880, Olivier de Sanderval rời Timbo cùng với những người trung thành của mình, Mâly và Mâ-Yacine, chừng hai chục tay súng Sénégal và một trăm phu khuân vác. Dưới những mái hiên nhà, đằng sau các hàng giậu hay trên những ngọn cây xoài, cả thành phố náo động một cách thái quá nhìn ông ra đi. Một số đem đến các món quà tặng, một số khác lại vung tay quệt nước mắt. Một đoàn các nhà quý tộc, trong số đó có Pâthé và Bôcar-Biro, đi bộ tiễn ông cả nửa ngày đường. Ngoài ra còn có Saїdou, thư ký của Almâmi, đấng quân vương này còn thêm vào đoàn người ấy rất đông tù nhân và các nhà thông thái, cũng như viên đạo sĩ của triều đình. "Ngay cả đấng quân vương cũng chẳng được đối xử như vậy, ông hả hê ngắm cả giới quý tộc ấy cưỡi ngựa tụ tập chỉ vì mình. Ta cho rằng mình đã đặt được chút nền móng trong xứ sở toàn đạo đức giả và sương mù này. Cho hai ta đấy, Fouta thân
mến ạ!"

 

Sự vô công rồi nghề còn bào mòn ông hơn cả cơn đói cồn cào và bệnh tật. Đó là một người đàn ông lực lưỡng quen với bơi lội và những cuộc cuốc bộ dài. Ông cần hoạt động để giữ tinh thần. Vậy mà, hai tháng ở Timbo, ông không hề động đến mái chèo, lẫn một lần leo núi. Hoạt động thể thao của ông quy gọn lại trong vài cuộc dạo bộ trong các con hẻm và đi săn bắt bươm bướm, và luôn luôn bị những kẻ thiếu giáo dục và thám báo theo sát. Còn lúc này ông được tự do giữa không gian thoáng đãng. Ông có cả lộ trình cho mình đến tận vùng duyên hải và những kỳ quan bất tận của xứ sở Fouta.

Đây là những thác nước của Gongooré, những vách đá của Doubel, những khu rừng đầy khỉ của Poukou! Gió nhẹ và nắng vàng rực rỡ. Cánh rừng tỏa đậm hương nhài và ớt tươi... ông hít thở tốt hơn... Những con sông và các tầng dây leo thơm ngát... Và đây lại là một ngọn thác nữa, một trảng đất mênh mông và một thung lũng... Đây, dưới chân ông là cả vùng đồng bằng tuyệt diệu Bhouria và những cánh đồng cỏ cao đang mùa nở hoa, uốn mình trong gió. Ông lôi sổ ra và ghi nhanh trước khi tiến vào thành phố: "Nhìn từ đây, hàng loạt những thung lũng và những quả đồi của Timbo nhấp nhô thật dễ chịu. Nó khiến ta nhớ đến con đường chạy từ Paris dẫn đến Versailles. Một nhánh cỏ xanh dịu hiền trước mặt cũng thu phục được tất cả."

Dẫu vậy, ông cũng không nấn ná lâu. Ông được Tierno Cita, lãnh chúa khu vực đón tiếp lạnh lùng một cách khinh bỉ. "Họ kiêu ngạo một cách ngạc nhiên, lũ độc tài nhỏ mọn Da Đen này", ông hối hả ghi lại. Người ta dọn cho ông một bữa ăn dè sẻn. Ngôi nhà ông ở tối om. Ông cho thu dọn hành lý ngay lúc thức dậy.

 

Ở Fougoumba, ông được biết Aguibou đang có mặt tại đây. Ông không hề muốn gặp lại anh ta sau những gì xảy ra ở Timbo. Ông sẽ làm hệt như ở Bhouria, ông sẽ khởi hành ngay ngày hôm sau. Nhưng tối đó, sau một tô fonio đạm bạc nấu với sữa, một tên tù nhân đến thông báo cho ông hay rằng công nương Taïbou sẽ ghé qua thăm ông.

Vẫn cùng một dáng vẻ uyển chuyển tuyệt mỹ hệt như ông đã từng gặp ở Boubah và sau đó là ở Guidali: cùng cặp mắt to lóe sáng với cặp mí đầy vẻ ranh mãnh, kiêu kỳ và thanh thoát, cùng vẻ bình tĩnh bất biến của những người được ra đời để chọn lựa và để ra lệnh. Nàng chí ít thì cũng đẹp ngang Dalanda, nhưng đó là một vẻ đẹp khiến ta ngại ngùng và e sợ, lòng nhiệt tình bị giảm do thói quen của sức mạnh và thị hiếu uy quyền.

Nàng ngồi xuống chiếc giường đất nện. Còn ông lại thích một góc chiếc hòm của mình hơn.

Nàng ngước nhìn những dải dây leo quấn quýt nhau, những vành tre và những khoang mạng nhện trên mái nhà rồi lên tiếng:

- Người ta lẽ ra có thể tìm được một ngôi nhà khá hơn đấy.

- Điều đó không phải do tôi quyết định, công nương biết rõ rồi mà.

- Ở Labé, ta hẳn đã cho ngươi cư trú trong lâu đài.

- Công nương nói vậy bởi tôi không có ý định rẽ qua Labé!

Nàng chưng ra một nụ cười rạng rỡ và lạnh lùng, rồi lại tiếp tục chất giọng còn nhẹ nhàng hơn nữa:

- Ngươi đã gầy đi đấy, wallâhi! Ở Timbo, người ta không cho ngươi ăn hay sao?

- Vào ngày tôi là bạn của họ thì có, còn ngày tôi bị là tù nhân của họ thì không.

- Đúng thế, đúng thế, ta biết hết, cả những vụ thất tình não nề của ngươi nữa kia. Những tay đánh xe ở Labé đã chứng kiến trận ẩu đả ở chợ, hai người đàn bà cấu xé nhau vì cặp mắt đẹp của ngươi đấy.

- Về phần mình, tôi đã nghe rất nhiều điều về Alpha Yaya và công nương. Giữa hai người có chuyện gì đó à?

- Nếu ta mà nói ra thì có lẽ cả thành Fouta sẽ bắt đầu bốc cháy mất. Cỗ máy phù thủy của ngươi ấy mà, ngươi sẽ đem đến cho chúng ta thực ư?

- Chính vì để biết điều ấy mà công nương đến thăm tôi?

- Ê, đừng chơi trò ngốc đi, Da Trắng, - nàng đáp lại - và cởi áo chẽn ra, ta đến để qua đêm ở đây.

 

Ông không đợi bình minh đến. Ông để mặc công nương thưởng thức hơi ấm êm của giường ngủ và ra đi dưới ánh sáng lờ mờ của các vì tinh tú xô đẩy đoàn xe của ông. Họ đang ở giữa mùa mưa. Cả một tuần mưa đổ không ngớt chẳng có gì đặc biệt. Sét và mưa đá đổ xuống cũng thường xuyên như một trận mưa cam trong một ngày có bão. Nếu như không khí dịu mát
đi một cách dễ chịu, thì những con lộ lại nhơ nhớp bùn đất và các dòng sông với đôi bờ nhung nhúc cá sấu lại trở nên sôi sục vì lũ.

 

Ở Timbi-Touni, ông được tiếp đón với sự nồng nhiệt. Đức vua đi vắng, tham trận. Em trai Người, một vị có tên là Tierno, mời ông vào ngụ trong những ngôi nhà sang trọng nhất, hào phóng tặng ông ngũ cốc và chọc tiết hẳn một con bò tót. Lệnh cho các nhà thông thái ca tụng ông, tặng ông hẳn một buổi biểu diễn bắn súng trên mình ngựa hoành tráng, đưa ông băng qua con sông Kokoulo, mà lòng sông lúc này đã rộng gấp ba lần bình thường, rồi tiễn ông đến tận Ninguilandé với một đoàn tùy tùng cả năm chục người.

Tuy nhiên, sự vất vả lại nhanh chóng ập đến. Ở Télibôfin, - cách Boké hơn năm ngày đường! – ông đã ngã quỵ ngay trước cổng làng, lả người vì mệt và đói. Ông nằm liệt suốt hai ngày liền, nằm vật giữa đống nôn mửa mà chính ông oẹ ra. Đám lính của ông, dẫu vậy, vẫn quyết định đi tiếp bằng cách thay nhau rước ông, vì địa thế nơi này kém an toàn.

Ở Missidé-Téliko, mạch đập của ông quá yếu và nhiệt độ cơ thể ông quá cao đến nỗi thêm một lần nữa, ông lại trăng trối lời di chúc của mình: "Xác ta, sẽ phải cho hỏa táng và tro hài cốt của ta thì hãy ném xuống dòng sông nào đó tùy các người: dòng Cogon, dòng Konkouré hay dòng Kakrina cũng được. Còn gia tài của ta, các người hãy phân xử theo ý thích. Nhưng đám giấy tờ của ta thì... ơn Chúa, hãy chuyển bằng được chúng về nước Pháp nhé!" Không gì điên khùng hơn là phải chết quá gần Boké đến thế, một mình giữa bầy Da Đen, không tình thương cảm trìu mến của người thân và không được xức nước thánh! Lại càng ngán ngẩm hơn khi phải chết mà trước đó đã không được gặp một con người văn minh nào để trao lại cho anh ta toàn bộ những hình ảnh tràn trề và cảm xúc mà Fouta đã tặng cho ông trong suốt bốn tháng trời đầy say mê cũng như những rủi ro!

"Thôi nào, hãy cố thêm lần cuối cùng đi! - Ông tự nhủ. - Hãy mạnh hơn cả hư vô đi! Mi phải trụ bằng được đến tận Boké! Một khi đã ở Boké rồi, thì điều gì phải đến ắt sẽ đến! Một khi những cuốn sổ của mi đã được an toàn ở đó thì mi có thể thanh thản buông mình cho cái chết đang quá gần gũi và hết sức tốt lành ấy. Và, với một chút may mắn, Dehous có thể sẽ an táng mi gần tượng đài nhỏ mà mi đã dựng để tưởng niệm René Caillé. Vì không thể nắm được nó thì cũng đáng kề cận sự vinh quang ấy lắm chứ, nhất là sẽ bất tử."

Ở Tinguilinta, ông thuê một hướng dẫn viên để đưa đoàn băng qua rio Nunez và dẫn đoàn đến tận Boké. Nhưng những kẻ bạo gan ấy đã bỏ rơi họ giữa rừng. Họ lần mò, dò dẫm suốt hai ngày liền trước khi vô tình gặp một đoàn người đến từ Sarrakolé, trên đường đến vùng duyên hải.

Nước Pháp đã không còn ở quá xa nữa, chỉ còn chừng hai mươi ki-lô-mét nữa thôi. Boké hiện ra dưới ánh sáng le lói đầu đêm cùng với những ngôi nhà lá, cảng và chiến lũy phòng ngự xây bằng đá granit nổi lên sừng sững, vượt hơn cả là chòi gác màu trắng phấp phới lá cờ tam sắc lấp lánh. Ông trợn trừng mắt và lảo đảo. Chỉ còn vài bước thôi là đến những ngôi nhà đầu tiên, nhưng với ông thì tưởng chừng như dài bất tận.

Dehous đi vắng, đi sâu vào đất liền để thương thảo với các bộ tộc. May mắn thay, Bonnard đang có mặt trong thành phố. Ông ta đang đợi ông tại nhà một người có tên là Moustier.

- Tôi đang nhìn thấy gì đây hả?... Lạy Chúa lòng lành!... Mọi người cứ ngỡ là ông chết rồi, ông Olivier ạ!

Bonnard, con người cương nghị Bonnard này, đã không thể ngăn nổi hàng nước mắt khi đón ông trên bậc thềm nhà.

- Ôi đây rồi, người đồng loại của tôi! Cám ơn Bonnard tốt bụng của tôi, cám ơn đã đến với tôi!

Ông ta đỡ choàng lấy ông, hệt như ông ta có thể làm với một đứa trẻ hay với một quả bóng - ông chủ ngã quỵ xuống và ông ta, Bonnard, đang sống trong một cơn xúc động cứ trào dâng mãi khiến sức lực của ông ấy tăng gấp bội - để đưa Olivier lên tầng, sau giây lát suy nghĩ, ông ấy lên tiếng:

- Tôi sẽ để ông nằm nghỉ trong lúc chuẩn bị một bài thuốc. Ngài sẽ tốt hơn nhiều khi nằm trên giường. Nhưng trước hết, hãy thề với tôi là không được ngất xỉu nhé!

Olivier de Sanderval ho một cách đau đớn nhưng cũng thốt lên được:

- Ô không, trước tiên tôi phải được nếm lại nguồn thức ăn thực sự đã... những gì sẽ xảy ra sau đó, đối với tôi, chẳng có gì là quan trọng cả... Những cuốn sổ ghi của tôi nằm trong hòm số tám, tôi đã nói hết với Mâly rồi... - nhưng hơi thở của ông bỗng trở nên gấp gáp và nước mũi sổ ra át hẳn câu nói của ông.

Moustier đem đến cho ông một chai nước và chạy đi đôn dáo, bằng những cú roi ngựa, chừng chục gia nhân của mình để chúng chuẩn bị bồn tắm và đặt chảo lên bếp.

Họ ăn tối với tất cả đồ ngon vật lạ của nước Pháp mà trong suốt chuỗi ngày dài sống trong rừng hoang núi thẳm, là điều không tưởng đối với ông: gan béo, pa-tê terine thỏ, xúc xích hun khói rosette xứ Lyon, dưa chuột muối xứ Bretagne, hạt đậu lùn, hạt đậu đỏ, măng tây, đùi cừu non tẩm hành và chim cút nấu nho. Có rượu vang, sâm banh, rượu mạnh armagnac. Bữa tiệc kết thúc bằng chục loại pho-mát và một chiếc bánh táo tuyệt vời. Miệng đắng ngắt và run lập cập vì sốt cao, ông chỉ nếm mỗi món chừng một thìa, nhưng sau này khi phu nhân của ông hỏi thì chắc chắn ông sẽ đáp lại rằng chính nhờ bữa ăn đó mà ông đã thoát khỏi những đau đớn và bất hạnh của châu Phi. Sự sạch sẽ của bàn ăn và sắc màu đa dạng của thực phẩm đã thừa sức để ông tìm lại được sức mạnh của ý chí và ý nghĩa của vạn vật.

 

Ông vẫn còn đủ sức để lôi sổ ghi chép ra, trước khi chìm lút vào giấc ngủ trên chiếc giường êm ái: "Đây rồi, bánh mì, rượu vang và trứng được nấu chín!... Phải ăn đã, phải viết và phải trải qua cuộc sống cơ cực thì mới thấu hiểu được giá trị của những thứ này, chính chúng phân biệt rõ ràng con người bên bàn ăn và con vật trong máng gia súc."

 

Ông dẫu sao cũng rất ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn sống vào ngày hôm sau, ngạc nhiên nhưng cũng mang chút ngất ngây! Ông mở cửa sổ và háo hức hít thở mùi vị phảng phất của đu đủ và hương hoa dại. Ông lắng ghe tiếng hót của lũ chim hồng hoàng, cảm nhận sự mơn man của những tia nắng mặt trời khiến ta khỏe lại. Ông đã tự mình lần đến tận phòng khách, Moustier và Bonnard đang đợi ông ở đó, uống trà và bằng vẻ hào hứng của kẻ chiến thắng, ông đã kịp lấy lại chất giọng của một người ra lệnh:

- Tôi cần một con tàu để đi Gorée!

Tầm giữa trưa, sau khi đã húp vài thìa canh và một thứ nước sắc từ vỏ cây ký ninh, ông gượng dậy để đi "thăm hỏi" René Caillé, mặc cho sự ngăn cản nhiệt thành của Moustier và Bonnard.

- Uầy! - Bonnard thốt lên khi thấy ông bước xuống cầu thang.

- Uầy cái gì, hả Bonnard?

- Cái vùng Fouta-Djalon này ấy mà, nó ra sao hả ngài Olivier?

- Ông thấy rõ là tôi từ đó trở về đây rồi còn gì, hả ông bạn Bonnard tốt bụng của tôi ơi, ông thấy rõ rồi đấy thôi!

 

Rồi ông mất hút trong góc cầu thang. Ông vẫn còn chưa đi đến các bồn hoa hồng trong sân thì Bonnard đã nghe thấy ông kêu lên một tiếng "Ối" đau đớn và ngã gục xuống. Bonnard lại dìu ông lên tầng mặc cho ông phản đối và đặt ông vào giường, đốt ngay một chảo than khi bắt đầu thấy ông rét run lập cập một cách dữ dội.

 

Hôm đó là ngày mùng 8 tháng Bảy. Trong mười ngày, ông đã có thời gian bình phục và ăn đã thấy ngon miệng. Dehous, trở về sau chuyến thăm thú nơi rừng hoang trảng vắng, đã ngay lập tức đến thăm ông.

- Trông ông khỏe hơn nhiều so với tình trạng mà người ta đã kể cho tôi nghe đấy, thưa ngài Olivier.

Mười lăm ngày trước, Dehous đã được các đoàn xe thông báo, và ông đã nhẹ người trút đi được gánh nặng biết bao nhiêu, rằng ngài De Sanderval không những còn sống mà ông ấy đã gần về đến Boké. Nhưng ông đã phải bất ngờ đi ngược sông để xoa dịu các bộ tộc đúng ra là đang rất kích động trong thời gian này. Ở Balarandé, quân lính của ông và chính ông suýt nữa thì đã bỏ mạng ở đó. Họ đã sống sót được là chỉ nhờ chính tư cách tác phong của họ.

- Thưa đại úy Dehous, ngài đang ở chốn tiền đồn của cuộc chiến văn minh của nước Pháp đấy! A, giá mà những kẻ biếng lười ở Bộ Hải quân chịu rời phòng làm việc êm ái của họ giây lát để đến đây chứng kiến, mục sở thị công việc của ngài nhỉ.

Giọng nói của ông nhuốm âm sắc của những vị tướng khi họ gắn mề đay cho cấp dưới trong sân điện Invalides.

 

- Ngài đang đùa đấy chứ, hả ngài Olivier! Họ hả, ở đây ư, giữa đám Da Đen, muỗi mòng, báo và rắn rết ư!

- Tuy nhiên, điều đó sẽ có ích cho họ đấy, Phi châu sẽ là một bài học đáng giá cho họ về tính nhún nhường.

- Điều đó hả, thì ngài có lý đấy! Phi châu khiến cho tất cả những gì động chạm đến chúng đều trở nên nhún nhường, chỉ trừ sư tử và voi thôi.

- Ngài chờn gì nhất ở đây hả, thưa đại úy?

- Bệnh tật.

- Còn hơn cả đám Da Đen à?

- Đám Da Đen ư, ta có thể chiến đấu với chúng, còn bệnh tật thì không bao giờ... Những người Peul thì sao hả?

- Đúng là dân Anh quốc ở Phi châu đấy! Họ có tất cả các nhược điểm và ưu điểm trên trái đất này: keo kiệt, xảo trá, dễ nổi cáu, thông minh, tinh tế và quý tộc về bản chất!

- Thế họ tiếp đón ngài thế nào?

- Theo kiểu người Peul: bạn không bao giờ biết được liệu mình là khách sang hay là tù nhân chiến tranh của họ cả!

- Và ngài đã đạt được những gì?

- Tất cả những gì tôi muốn: quyền mở những thương điếm và vạch một con đường xe lửa.

- Theo ngài, Fouta vậy là có thể trở thành Pháp nhỉ!

- Không có bọn đần ở Saint-Louis, thì có lẽ nó đã là
Pháp rồi.

- Xứ sở ấy có đẹp thật như các đoàn xe kháo không?

Ông đáp lại Dehous rằng đúng như thế và hối hả miêu tả toàn cảnh rất đỗi choáng ngợp của một góc trời Phi châu này, nơi mà những ngọn núi lửa vùng Auvergne và những thửa ruộng có cây cối bao quanh của xứ Normandie hay những con suối róc rách của miền Jura và những thung lũng của đất nước Thụy Sĩ sẽ có thể tới thả hồn vào đó.

- Đúng là thế giới Aida đấy! Chúng ta phải chinh phục nó! Và phải thật nhanh, ngài hiểu chứ, hả Dehous?

- Thế thì, hãy cho qua đi, Olivier ạ! Fouta-Djalon như vậy đã là quá khó để tiếp cận rồi còn người Peul thì quá phức tạp.

- Không có Fouta-Djalon thì không thể có được Soudan.

- Các đồn bốt của chúng tôi đã tiến nhanh về phía Soudan rồi, nhờ tướng Faidherbe.

- Chúng ta sẽ mất chúng ngay sau khi người Anh chiếm được Fouta-Djalon, điều rất có thể xảy ra: người Peul rất mê loại vải cốt tông dày để chần ghế của thành phố Manchester và bắt đầu tính bằng đồng shiling.

- Cảm ơn ngài về bài học địa chính trị tuyệt vời này, thưa ngài Olivier. Nhưng hiện tại, nước Pháp có những người để soạn thảo chính sách với Phi châu rồi.

- Những con người chẳng có trí tưởng tượng nào ư?

- Gì hả?

- Chẳng cần đến tấm bản đồ của Bộ Tham mưu để biết lẽ ra phải bắt đầu bằng Fouta-Djalon. Nhưng chiểu theo những con số mà những kẻ ngu đần sống trong các Bộ của chúng ta...

- Người ta không thể nói thế với một sĩ quan Pháp về nước Pháp được! Đó là một sự thóa mạ.

- Một sự thóa mạ ư? Tôi chỉ...

- Ông im đi! Trước hết, ông là ai hả? Chẳng là cái gì sất! Ông đã đến đây chính vì những ảo ảnh của ông thúc đẩy. Và người ta vẫn chưa biết là vì lợi ích của ai: của ông, của nước Pháp hay của một thế lực thù địch nào?

Và ông ta đi lại bồn chồn trong phòng, giáng bốt một cách giận dữ lên sàn nhà. Rồi lại ngồi xuống tháo giày và thổ ra những câu chửi rủa bất bình, giận điên và tu cạn liên hồi nhiều ly rượu liền. Ông ta ợ hơi ầm ĩ và lầu bầu một lúc lâu trước khi giọng nói lại trở nên minh bạch:

- Tôi lẽ ra đã cho bắn ông ngay từ đầu... Đúng vậy, đó chính là điều lẽ ra tôi phải làm... Xử bắn ông... Bởi vì chúng tôi những người lính, chúng tôi có mặt ở đây không phải là để đùa tếu đâu, chúng tôi đang ở trong vùng có chiến tranh, ở đây này!... Lũ Da Đen, báo, muỗi mòng... Chúng tôi có mặt ở đây không phải là để chơi trò láu cá...

Ngạc nhiên trước sự chuyển hướng bất ngờ của cuộc nói chuyện, Olivier de Sanderval nhìn ông ta đang thốt ra từng tiếng chuỗi độc thoại bệnh hoạn của mình mà không biết nên phải thận trọng hay nên thương hại ông ta.

- Tôi nói nghiêm túc đấy, tốt hơn là ông nên đi đi!... Ô không, tôi không thích ông đâu, ông Olivier ạ!... Và nói một cách trung thực thì thậm chí là không hề có chút cảm tình nào với ông hết.

Sau câu đó, ông ta không hề phát ra một tiếng nào nữa. Ông ta chỉ ngồi nấc lên và ợ hơi cho đến tận lúc chai Pernod cuối cùng đã cạn sạch. Rồi cầm mũ lên, đeo súng và đi ủng:

- Ông lẽ ra nên ở lại trong nước thì tốt hơn, Olivier ạ! Ông sẽ chẳng bao giờ hiểu gì về châu Phi cả, và giả như có điều đó xảy ra thật thì châu Phi, về phía nó, nó chẳng bao giờ hiểu ông đâu! Vĩnh biệt, thưa ngài Olivier, vĩnh biệt lần cuối cùng!

 

Rồi ông ta mất hút trong bóng đêm đúng vào lúc tiếng rền vang của sấm và của những con linh cẩu bắt đầu khiến vùng rừng hoang trảng vắng rung lên.

 

Ngày 31 tháng Tám, vào tám giờ tối, sau một cơn bão dữ dội, thì ông cập bến Gorée. Các dịch vụ vệ sinh sức khỏe ngay lập tức tống ông vào phòng cách ly năm ngày liền.

Nhưng khi ông vẫn còn chưa giở hết hành lý rương hòm thì một người đến gõ cửa phòng ông. Ông mở cửa và thấy trước mặt mình một người đàn ông trẻ, mảnh mai và râu tóc nhẵn nhụi, dáng vẻ thể thao và quyến rũ, mặc dù làn da anh ta nhợt nhạt và cơ thể gầy guộc.

- Sao, ông vẫn chưa có chúng à, các vệt rạch trên mặt ấy, hả ông ngoại? Họ chưa cho ông một vương quốc ư? Sao cơ, ông không nhận ra tôi hay sao, hả ông ngoại?

- Souvignet! Ô, ngạc nhiên quá đấy! Nhưng cậu làm gì ở đây, hả chàng trai quả cảm của tôi?

- Con bệnh cùng danh tước như ông thôi, ông ngoại ạ! Chỉ có điều, ông đang trong thời kỳ quan sát còn tôi thì đã vướng rồi: bệnh sán xơ mít đấy, rồi sốt vàng và còn rất nhiều các bệnh khác mà người ta vẫn còn chưa tìm ra tên. Vào lúc mà tôi còn trụ được trên đôi chân mình thì tôi chẳng sợ cái đếch gì cả. Tôi tự nhủ mình cảm thấy còn khỏe hơn cả chúng nữa kia.

Anh chỉ tay về phía dãy tranh mà họ có thể nhìn thoáng thấy qua các khe cửa chớp. Ở đó có ba nghĩa địa nhỏ tách biệt, ngăn cách bằng những bức tường thấp, với những nấm mộ màu trắng và cây thập tự gỗ, đứng được là nhờ những sợi dây chão. Bên trái, bệnh kiết lỵ, bên phải bệnh sốt vàng, còn ở giữa là bệnh sán máng.

- Họ chắc sẽ tự hỏi sẽ đặt tôi vào khu nào, vào cái ngày sẽ đến lượt tôi ấy, rất có thể là trong cả ba, anh bắt đầu nhăn nhó. Nhưng ông chắc cũng lạc quan như tôi và ông cũng sẽ nói là tôi vẫn còn trẻ và rằng chẳng phải vài ba căn bệnh nhãi ranh của châu Phi sẽ bẻ gục được Jean-Marie Souvignet đâu, đúng không? Thế thì, ông hoàn toàn có lý, ông ngoại ạ... Chuyến đi trên biển quá nhanh đến nỗi mà tôi quên chưa hỏi tên của ông.

- Olivier! Aimé Olivier!

- Ông có thể thề với tôi rằng ông đã thực sự đặt chân đến chính Fouta-Djalon không, hả ông ngoại?... Hừm!...

- Ồ, tôi đã đoán được điều anh sẽ nói với tôi rằng chỉ có bốn người Pháp đã đặt chân đến đó. Mollien, René Caillé, Hecquard và Lambert. Kể từ đây, anh có thể thêm vào bản danh sách người thứ năm, là tôi, Aimé Olivier... Đừng cười nhé, chàng trai trẻ... Ngược lại là khác, nếu anh có một tấm mề đay cho tôi, hẳn sẽ không bị từ chối đâu.

- Ông thực sự không tồi lắm đối với một người từ Fouta-Djalon trở về. Tôi hả, tôi mới chỉ từ Rufisque trở về và đã bị tàn phá ghê gớm!

- Đó là vì anh chưa nhìn bộ ruột của tôi đấy thôi.

- Thế còn vương quốc thì thế nào?

- Tôi vẫn chưa có nó, nhưng đã có tên cho nó rồi!

- Tên là gì?

- Ô, không được đâu, chuyện này ấy mà, đó là bí mật quốc gia đầu tiên của tôi đấy... Giờ tôi chỉ còn mỗi việc tìm cho mình một quan đại thần thôi.

- Ông đã nghĩ đến ai chưa?

- Đến anh!

- Đến tôi hả? Thật thế chứ? Ôi, thế thì tuyệt quá!

 

- Gì hả, anh sẽ chấp nhận nó thật chứ?

- Sao lại không! Tôi không thể bỏ qua rừng hoang trảng vắng được nữa rồi.

- Anh sẽ xây cho tôi cung điện, đường sá và đền đài!

- Ôi, mọi chuyện coi như đã xong, thưa hoàng thượng!

- Cẩn thận nhé, tôi rất kỹ tính đấy, quan đại thần ạ!

- Tôi sẽ tuân lệnh ngài đến từng chi tiết, thưa hoàng thượng! Nhưng ngài cũng cần phải chú ý, thưa ông ngoại, tôi cũng có điều kiện của mình, và nó không nhỏ đâu.

- Điều kiện gì?

- Rằng trước khi xuống tàu, ông ghé qua cầm bức thư về cho gia đình tôi! Để họ biết rằng tôi sẽ qua Noel ở đây, như vậy tôi có thể thông báo tin vui cho gia đình: chính tôi, đứa con trai đẹp nhất của họ vừa được tiến cử quan đại thần Phi châu! Đó chẳng phải là một nơi để qua đêm Noel hay sao, ông đồng ý với tôi chứ!

Khi ra khỏi phòng cách ly, thì một trong đám nhân viên của ông đang đợi trong một cỗ xe ba bánh do lừa kéo: còn lâu lắm mới có tàu. Ông đành đi bộ, câu cá để giải khuây và dùng bữa với một cặp vợ chồng sinh thái người Đức, hai người này nói rằng đã tìm thấy một con sò không thể xếp hạng theo học thuyết của Limé. Cuối cùng, khi có tin thông báo con tàu Point-Noire-Bordeaux sắp khởi hành, ông liền rẽ qua như đã hứa để lấy thư của Souvignet. Nhưng, ở cửa, nhân viên phụ trách nhìn ông với dáng vẻ kỳ lạ:

- Gì cơ? Cậu Souvignet hả? Ông nói rõ là cậu Jean-Marie Souvignet phải không... Ôi, nhưng ông không biết gì sao, hả ngài đáng kính, chính cậu ấy đang ở đằng kia kìa!

Rồi bà chỉ một cỗ quan tài gỗ điều sơ sài mà một nhóm Da Đen đang khênh đi, ở phía bên kia con đường đi dạo.

 

Một dòng nước mắt chảy tràn trên má ông trong lúc các nhân viên mai táng lẳng xuống những xẻng đất đầu tiên. Ông lẩm nhẩm hát La Marseillaise và ném xuống một cành sơn trà đang nở hoa. Giọng ông tự thốt ra, run run và không còn là giọng của ông nữa:

- Vĩnh biệt, vị tướng Faidherbe tương lai của tôi!

Rồi quay lại chỗ người phụ trách, ông chìa cho bà chiếc đồng hồ vàng tuyệt vời mà Souvignet đã tặng ông lúc trên tàu:

- Bà hẳn sẽ gửi đồ đạc của cậu ấy về cho gia đình chứ?

- Đó là quy định chúng, thưa ông!

- Thế thì bà bỏ thêm cái này vào số đồ ấy!

- Nhưng mà...

- Làm ơn hãy thực hiện điều tôi nói đi, thưa bà, - ông cầu khẩn, một tiếng nấc tức tưởi át cả giọng nói của ông.

- Được thôi, thưa ông, được thôi! - Người phụ trách nhân nhượng trong lúc đảo tròn cặp mắt sững sờ nhìn ông đi xa dần.

 

Con tàu mang tên Le Congo, một con tàu chở khách mỹ miều của Công ty vận tải hàng hóa hệt như Marseille vẫn thường xuyên nhìn thấy chúng xuất xưởng khỏi những xưởng La Courronne của mình.

Ông nhìn Phi châu đang xa dần, và bằng một giọng thần bí, ông nói với những cái bóng của cây cối và những khoảng thời gian đang lùi xa dần: "Ô, không, Phi châu đáng thương của ta, giờ Người không còn là một kẻ xa lạ nữa rồi!"

Ông cập bến thành phố Bordeaux vào ngày 11 tháng Mười năm 1880. Chính xác là ông đã rời nước Pháp đúng mười tháng mười chín ngày.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/85237


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận