Ông Hoàng Xứ Kahel Chương 3


Chương 3
Hiện tại, tính vậy ít nhất đã là tám năm ông gánh vác vùng đất yêu ma Fouta-Djalon này,

 những sườn dốc dựng đứng của nó và lũ người Peul bí ẩn, tám năm ròng trên địa bàn; cả toàn bộ cuộc sống của ông, nếu ông tính những ngày trôi qua trong những câu chuyện của Mollien, của René Caillé, của Mungo Park hay của Lambert - tất cả máu của ông, nước của ông, nếu ông thêm vào những đêm dành cho việc sáng tạo những cánh rừng phủ đầy sương mù, lúc nhúc toàn dân Da Đen, những loài bò sát tồn tại từ thời tiền sử và quỷ quái nữa; và dưới tấm chăn đắp, sôi sục hình dung ra tiếng động rền rĩ âm u bất tận của các con suối và của các đàn trâu, tính cách tăm tối và làn da thái hóa của người Peul!

Hồi còn nhỏ, Phi châu đối với ông có vẻ như một vở ca kịch baroque đồ sộ: những nhân vật dị dạng, những màn lố lăng ngông cuồng, hàng loạt những tiếng động và sắc màu, một thứ âm nhạc chưa từng nghe; một màn diễn quá lố, để phân tán tâm trí, để đốt cháy các giác quan! Tất cả chỉ toàn là chuyện thần tiên, say sưa, màn ngoại lai thú vị - những tiếng sấm, những cơn bão xoáy, núi lửa và vực thẳm, chỉ là để cho những thú vui mang màu hài kịch, còn những cơn sốt, đinh nhọt, những nhát rắn cắn và những tình trạng hôn mê, chỉ là những thứ cần thiết của thẩm mỹ mà thôi! Ông chỉ cần một thứ đơn giản, một quan viên contre-ut để vượt qua những chướng ngại mà chúng hàng ngày thường gieo rắc trên con lộ của các người anh hùng: những thách đố, những mánh khóe, những trăn trở của tình yêu.

Chẳng mấy chốc sẽ có một vương quốc ló ra với cùng độ nhanh như trong các giấc mơ, nó sẽ có cùng một nét phong lưu mã thượng như trong vở Jules César ở Hy Lạp hay Lorenzaccio.

Đó sẽ là một đất nước hoàn toàn mới mẻ, hoàn toàn trinh nguyên, có hoa nở khắp nơi và toàn quả cây lạ; vô số động vật và các bộ tộc ở rải rác, vui vẻ và thái bình. Một đất nước phôi thai đang chỉ đợi chút sáng le lói của ông để soi rọi và bùng lên trong bóng đêm. Khi ấy công việc của ông chỉ còn là tạo hình nó theo thị hiếu của mình, với sự thỏa mái của một anh thợ đồ gốm trước đống đất sét. Thoạt đầu, cho những liều nhỏ, nhạc lý và chữ cái ABC, sau đó là Archimède, môn đại số học, rồi đến các đại văn hào Virgil và Ronsard, chỉ sau đó mới là Newton, những ngành xây dựng và kết cấu!

Cái đầu ngây thơ của đứa trẻ là ông ngày xưa không thể, đương nhiên rồi, tưởng tượng ra những cơn đói cồn cào và những ngày nóng gắt đến say nắng, những vết thương, những đận gần chết, lại càng không thể hình dung ra hai con chồn khủng khiếp hiện thời đang đứng dựng trước mặt ông: người Peul và Bayol, Bayol và người Peul, có thể là Charybde và Scylla chăng! Cuộc chiến sẽ khắc nghiệt, ác độc, rối rắm, ông chỉ có thể tưởng tượng ra nó mà thôi! Dẫu sao thì ông cũng sẽ chiến thắng, ông sẽ chiến thắng bằng mọi giá, ông sẽ chiến thắng chống lại lửa và đại dương, chống lại sét và gió mùa, chống lại con người và thần linh! Ông sẽ chứng minh cho thời thế thời kỳ ấy thế nào là một người gốc Lyon, hơn nữa lại là một thành viên gia đình Olivier!

 

Trên hết, ông chưa hoàn toàn bị cắt cụt hết! Hiện thời ông có hai chỗ dựa, hai điểm thiêng, hai pháo đài bất khả xâm phạm: Kahel và Conakry! Nơi đầu tiên sẽ được sử dụng để ru ngủ người Peul, để từ từ bắt chước họ, để hấp thụ sữa của họ, mánh khóe của họ, những ý tưởng ngông cuồng kiểu hoàng tử của họ, cách thức phú hào nông thôn của họ trước khi nhẹ nhàng thế chân đứng đầu vương quốc nhỏ bé kiều diễm của họ. Điểm thứ hai, chống lại Bayol và lũ sói hoang trong Bộ Hàng hải.

Không phải ngẫu nhiên mà ông chọn hai điểm này đâu. Bình nguyên Kahel, tự nó chứng minh là điều cần thiết: rất cao và lại nằm giữa trung tâm đất nước! Conakry tránh cho ông làm vướng chân những người bạn Bồ Đao Nha của ông ở Boulam hoặc rơi vào những thủ đoạn của Bộ Hàng hải ở Boké. Bãi bổi được bảo vệ bằng quần đảo Loos, còn những bộ tộc dữ dằn miền duyên hải thì bằng tính chất nửa đảo - nửa đất liền của nó, đó sẽ là nơi bắt đầu tuyệt vời cho tuyến xe lửa của ông. Ở Kahel, ông có Magoné Niang, để thành lập cung điện và nhà ga, dựng các thương điếm và cho hạt nảy mầm. Ở Conakry, ông cần một người nào đó để phác họa một hải cảng và dựng sơ đồ một thành phố. A, giá mà chàng trai dũng cảm Souvignet ấy còn sống nhỉ! A, giá mà có điều đó!

 

Sau hải quan và các bác sĩ, động tác đầu tiên mà ông phải hoàn thiện khi về Pháp sẽ là cho đúc đồng Kahel, loại tiền chính thức của vương quốc của ông! Mặt phải: một con sư tử Suze tiến về phía trái và nhô cao hơn hẳn một vầng trăng khuyết. Mặt trái: tên Sanderval được khắc hào nhoáng bằng tiếng adjami(1) , phía bên trong một các tút có diềm đăng ten mỏng. Đế chế của ông, ông tin điều đó hơn bao giờ hết, ông đã thoáng nhận ra trong đó những luống sáng lờ mờ xuyên qua lớp sương mù, chỉ cần phải chèo lái cho thật tốt, tóm lại là phải tránh bằng được Charybde và Scylla! Chắc chắn là, Kahel, hiện tại Kahel gợi nhớ đến Lilliput hơn là miền đất Eldorado hay Ấn Độ, nhưng bao giờ mà chẳng phải có điểm khởi đầu cho mọi việc cơ chứ. Thành phố Roma, với những thành lũy Éphèse của nó, những thửa ruộng nho của người Narbonne, những gác chứa Hispanie và Numidie của nó, thì cũng đã chẳng bắt đầu bằng cồn đất Palatin đó sao?

Được tính đếm và gói ghém cẩn thận, vật báu của Quốc gia này ngay lập tức được gửi cho Bonnard, với công lệnh chặt chẽ là cho lưu thông trong các thương điếm của ông và trong tất cả các khu chợ của Fouta và phân phát vũ khí cho các hoàng tử Peul điển trai, rất nhiều vũ khí, sao cho mỗi đứa con này đều có đồ trang sức xinh đẹp của chúng!

 

Kiện hàng cuối cùng đã được gửi đi, giờ thì ông có thể đến trình diện ở Bộ và, mặt trơ trán bóng, trao cho họ bản tổng kết chi tiết về Fouta-Djalon có kèm theo một tấm bản đồ, rất nhiều ảnh và một tấm chi tiết của thung lũng Konkouré. Ông nhắc đi lặp lại rất lâu cho các công chức mơ màng ngủ rằng không cần phải xâm lược Fouta-Djalon; rằng các hoàng tử của nước này đã chia rẽ, rằng dân chúng Peul đang ngày càng bộc lộ sự chán nản của mình trước các thói đỏng đảnh và quá đáng của các ông hoàng, rằng chỉ cần đối lập lại họ nhiều hơn nữa là cả tòa lâu đài sẽ sụp đổ.

 

- Theo hướng này, thì tôi đã hoàn thành một phần lớn công việc. Hãy để tôi thực hiện và, chẳng bao lâu nữa, Fouta-Djalon sẽ lọt vào hầu bao của chúng ta mà chúng ta không cần phải tốn một viên đạn nào hết. Để đổi lại, tôi đề nghị được là chủ nhân của vài héc-ta, làm nơi ở và trụ sở trung tâm cho doanh nghiệp của tôi.

Ông sẽ chẳng bao giờ đành lòng với vài héc-ta đâu! Giọng nói của ông đã để lộ điều ấy và cặp mắt ông đã phản lại ông. Ông cố gắng để ra vẻ thanh thản hơn, hợp lý hơn, có tính thuyết phục hơn là ông vốn thế trước mặt phó đô đốc Cloué. Điều ấy khiến ông lo lắng rất nhiều khi thấy rằng, mặc dù, mặc dù cố gắng hết mình, thì những ẩn ý nằm đằng sau những lời ông nói lại chẳng giấu được ai. Những tiếng thì thầm, những cái liếc xéo, những nụ cười thầm, những người đang nghe chuyện ông, chẳng ngây thơ gì, hình như đọc được tâm trạng ông như đọc một cuốn sách để ngỏ: "Ông sẽ chẳng bao giờ từ bỏ thói ngông cuồng về hoàng triều của ông đâu, chúng tôi biết rõ rồi! Có thể ông đang chờ đợi sử dụng nước Pháp làm bậc để tiến đến ngai vàng đấy, hi hi hi!"

Ông dẫu sao cũng ra khỏi cuộc gặp gỡ nhọc nhằn đó với tí chút cảm giác khích lệ: tầm quan trọng của Fouta-Djalon không còn là cái bóng của một sự nghi ngờ nữa. Kể từ đây, người ta tranh luận về nó không ngừng trong các phòng khách, phòng biên tập báo chí và các Bộ trong chính quyền. Gallieni, Archinard, Faidherbe, Brazza, tất cả những biểu tượng của thiên anh hùng ca thuộc địa chỉ còn nói về mỗi điều đó.

Là nhờ ai đây?

 

 

Ông quay lại Marseille, dù sao cũng lạc quan, để dành trọn cho nàng Rose, người tuy nhiên, đã rất thất vọng, khi thấy đồng Kahel bị từ chối trong các rạp kịch và các cửa hàng. Sau một năm, những đứa con ông đã thưởng thức và chơi với cha chúng khá đủ. Rose đã lấy lại được liều lượng ca kịch và những tiệc tối trong xã hội thượng lưu của nàng, thỏa mãn rộng rãi thói đỏng đảnh của nàng trong các tòa lâu đài của Pháp và những con phố cổ của Italia.

Như vậy, ông đã sống, mà điều này không phải đến với ông thường xuyên, những khoảng khắc dài và tuyệt vời trong không khí gia đình, dành những đêm dài mất ngủ làm việc với những cuốn sổ ghi chép và bản thảo tầm cỡ của cuốn Vô Cùng. Thế rồi, vào một ngày nọ, khi đang chuẩn bị dẫn phu nhân mình đến tiệm ăn, thì bạn ông, Jules Charles-Roux, với thói cố hữu của hắn chuyên mang đến tin xấu, xuất hiện trong phòng khách nhà ông, với một số báo mới tinh của tờ La Dépêche coloniale trên tay: nước Pháp vừa kiếm được một thuộc địa mới, thuộc địa của Những dòng sông phía Nam, với Conakry là thủ phủ và một ông tên Bayol làm thống đốc!

- Anh biết rõ tôi rồi đấy, Jules! - Ông đỏ mặt khi nhìn tờ báo bay qua chao lại. Tôi đến đó ngay lập tức để đánh bật gã Bayol này khỏi Conakry!

 

Một bức thông điệp của Thứ trưởng Bộ Thuộc địa (cuối cùng thì người ta cũng thành lập một Bộ, nhưng dưới ý tưởng của ai đây?) gửi đến làm đảo lộn những dự án của ông: ông được mời đến dự buổi Triển lãm về thuộc địa, sẽ diễn ra ở Paris. Liệu có phải cuối cùng thì trong các văn phòng Bộ, người ta đã lấy lại tinh thần chăng? Liệu có phải rốt cuộc thì người ta cũng sẽ công nhận những hiệp ước của ông, bảo lãnh các quyền của ông về Fouta-Djalon và bảo vệ ông, một công dân Pháp, chống lại những thèm muốn của người Anh chăng? Trong bất kỳ trường hợp nào, ông cũng không được để lỡ cơ hội này. Triển lãm thuộc địa, đó là địa điểm lý tưởng để gặp gỡ những ông cả bà lớn và diễn đạt những ý tưởng của mình, sẵn sàng quát tháo hay đập vỡ răng của vài thằng thộn!

Ông lên tàu, miệng huýt sáo gió, nhưng khi đến nơi thì tim ông suýt ngừng đập. Noirot, kẻ đã từng tháp tùng Bayol đến Timbo, đang có mặt tại đó, hắn hiện diện giữa các ông thầy của buổi lễ ngoại bang này! Cựu diễn viên hài của nhà hát kịch Folies Bergère đăng quan tiến chức kể từ cuộc phiêu lưu của hắn đến Timbo: người ta đã trút cho hắn chức quản lý thuộc địa trong thung lũng sông Sénégal. Và, với chức danh này, người ta đã đề nghị hắn lập một gian và rất mau chóng đã trở thành một nơi được viếng thăm nhiều nhất của Triển lãm: một ngôi làng đủ màu sắc ba chục người, bao gồm tất cả mười ngôi nhà, hai túp lều và sáu chảo lớn, một người rao hàng đứng đóng chốt trước cửa ra vào: Hãy đến thăm ngôi làng người Da Đen như thể bạn đang có mặt tại đó! Hãy nhìn dáng vẻ quỷ quái của họ và những trang phục méo mó. Hãy nhìn họ giã gạo, nấu nướng hay xe sợi! Với mười xu, hãy thực hiện một chuyến du lịch thần kỳ: bằng một cú nhảy bạn đi từ thời tàu chạy hơi đến thời kỳ đồ đá!"

Olivier de Sanderval rẽ đường xuyên qua đám đông để tiến gần lại vị đạo diễn của màn trình diễn tráng lệ này:

 

- Ông lẽ ra nên giữ lại công việc cũ của ông, Noirot ạ! Tôi đảm bảo với ông rằng câu chuyện khôi hài thô tục này hợp với ông hết sảy đấy, trong khi đó thì chức vụ người quản lý các khu thuộc địa lại khiến ông biến dạng một cách khủng khiếp.

Noirot thổ ra một tiếng chửi thề và bực bội quay lưng lại với những mái nhà tranh và đám dân Da Đen của ông ta:

- Đây rồi, vị tử tước Bồ Đào Nha của chúng tôi đây rồi! Tôi cũng chẳng yêu quý gì ông và ông biết rõ điều đó, nhưng dẫu sao ông có mặt ở đây thì cũng rất hay: có người kiếm ông đấy!

Ông ta kéo ông vào giữa hội chợ, nơi mà những quý ngài đáng kính đang huơ gậy huơ mũ cao thành trong lúc thì thầm trao đổi với nhau. Ông ta dừng lại trước một vị gây ấn tượng nhất và nói bằng một giọng của một sĩ quan tùy tùng:

- Thưa ngài Chủ tịch Tư pháp, đây ạ, người có tên Olivier de Sanderval! Ngài Sanderval, cho phép tôi giới thiệu với ngài tướng Faidherbe!

Tướng Faidherbe ư, với mũ kê-pi, bộ ria, cặp kính nhỏ xíu, dáng người cứng đanh thép, mũi cao và thẳng và những quân hàm quân hiệu nữa! Tướng Faidherbe đứng trước mặt ông, còn mang dáng quân sự hơn, còn khắc khổ hơn cả huyền thoại đã kể về ông ấy - và vị Napoléon của các nước thuộc địa muốn gặp ông! "Con người có bốn mắt và có chòm ria hình cánh dơi", người Peul đã gọi ông ấy như thế, ngay lập tức quay lưng lại phía những người đang nói chuyện với mình, chìa tay ra và


mỉm cười:

- Đây rồi, vị René Caillé mới của chúng ta đây rồi! Đáng phục lắm, mọi người chẳng còn nói gì khác ngoài những kỳ tích của ông đấy, bạn thân mến của tôi ạ!

 

Thật dễ chịu quá đỗi khi nghe những câu ấy đến nỗi mà Olivier de Sanderval quên mất cả sự trịnh trọng của nơi này và sự vĩ đại của nhân vật kia. Ông thả lỏng tinh thần với sự ngây thơ của một đứa trẻ đang cuống được đi bô: một mạch, ông trút ra hết, và lần này ông nói với vẻ tự nhiên hết sức, thật hết sức, có tính thuyết phục hết sức đến nỗi mà viên tướng tránh ngắt lời ông. Khi ông nói xong, Faidherbe lại bắt tay ông một lần nữa theo cách người ta thường làm với học trò đứng đầu lớp:

- Ờ được, Fouta, tôi sẽ tự mình để tâm đến! Với những gì liên quan đến các hiệp ước của ông, ông có thể tin tưởng nơi tôi! Và thảng như sẽ có thể thành lập một Đế chế Pháp tại Phi châu, thì thủ đô của nó sẽ là Timbo!

 

Khi ra khỏi đó, nhẹ nhõm như một màng bong bóng, ông khám phá ra một cảnh tượng tráng lệ khuấy động những đám đông của Paris. Báo chí được lợi trong vụ này; trên vỉa hè, các bà gác cổng đến nghẹt thở vì xúc động:

- Hãy hình dung nhé, bạn thân mến, rằng sáng nay khi tỉnh dậy, tôi đã thấy cả Paris toàn đen là đen. Người ta đã mời một ông vua Da Đen cùng với các phù thủy và đàn voi của ông ta đến đây. Và người ta đã cho thế giới đẹp đẽ này ở đâu, bà có biết không hả? Tại nhà của một nam tước hay một bá tước cơ đấy! Rừng rậm sẽ mọc lên trong các phòng khách sang trọng của Paris đấy!

Ông tìm hỏi thông tin và biết được điều này: Noirot, với tài năng hài kịch không thể chối cãi của mình, đã mời vua xứ Nalous, Dinah Salifou và phu nhân, hoàng hậu Philis đến Paris. Những hoàng tử của các bộ tộc khác đi tháp tùng họ. Đám khách lạ lùng này được mời ở một cách rất tiện nghi gần điện Invalides, phố Fabert, tại nhà bá tước De Maubois. Những bà gác cổng đã không nói dối. Và Nhà nước đã không hề bủn xỉn để khiến cho kỳ lưu trú của họ được dễ chịu. Chính phủ đã mời họ đi thăm những tượng đài tráng lệ và mời họ đi ăn tiệc ga la mà họ vừa mới mời vua Perse(1) tham dự.

Ông quyết định đến thăm họ vào buổi tối sau bữa ăn để hưởng chút không khí châu Phi, và nhất là để thử lòng vị vua trẻ Nalou này. Hàng chục kẻ tò mò, các phóng viên, các nhà vẽ tranh châm biếm, các chuyên gia dân tộc học, tầng lớp thượng lưu không mệt mỏi, những người say mê xiếc và ca kịch chen lấn nhau trong các hành lang để sờ tay vào giống kỳ lạ của loài người này. Ông rẽ đường, nhờ khổ người to khỏe và dáng vẻ xác đáng của hầu tước xứ Bourgogne của mình trợ giúp.

Dinah Salifou, người nhận ra ông ngay lập tức, đón tiếp ông với sự hồ hởi thân thiện: "Anh không biết tôi, Yémé ạ, tôi còn rất nhỏ khi anh đến triều đình của chú Lawrence tôi!" Ông ta giới thiệu với ông hoàng hậu Philis và hối hả trấn an ông: Bayol đang ở Conakry, điều đó chẳng thay đổi gì hết, các hiệp ước của ông với người Nalous vẫn có giá trị, không một biến cố bất kỳ nào có thể xảy đến nói ngược lại sự thật đó. Kế đến, ông ta bào mòn sự tế nhị không thể bắt chước được của thủ lĩnh bộ tộc để nói nhỏ vào tai ông thông tin nóng bỏng đang đốt cháy môi ông:

- Ở Fouta, nhiều chuyện xảy ra lắm, Yémé ạ: Alpha Yaya đã giết Aguibou, anh ta bỏ trốn cùng với Taïbou rồi!

 

Tin đó rơi xuống như một lưỡi máy chém, đột ngột, sững sờ, không thể tránh! Ông cần một chỗ khác để đồng hóa nó, và cố gắng đo lường các hướng và những hậu quả khủng khiếp do nó gây lên.

Ông hối hả chào giã biệt hội chợ, nhưng dẫu sao cũng ném một ánh mắt cuối cùng lên gã hề Noirot, đang hướng dẫn các khách thăm:

- Môdy Cissé và Môdy Dian, các hoàng tử của Labé! Nabi Yalane Fodé, hoàng tử của xứ Mellancoré!... Mansour Kane, hoàng tử của Matam!... Sérigne Guèye, hoàng tử của Rufisque, M’Bar Sène, hoàng tử của Sine-Saloum!...

Bất lương, điều ấy là chắc chắn, nhưng dẫu sao cũng phải công nhận hắn có tài, gã Noirot này! Hắn lẽ ra nên đặt một cái giỏ đựng tiền ở cửa ra vào, tất cả mọi người hẳn sẽ ngỡ rằng đang ở trong một buổi trình diễn cabaret.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông chạy đi tắm ào dưới vòi hoa sen trong phòng mình tại khách sạn Terminus và ngồi một mình cạnh ly rượu bách xù pha cà phê của quán Paix. Ngay khi đến xứ sở của người Peul, ông đã hiểu ngay rằng mọi chuyện sẽ kết thúc tồi tệ giữa hai anh em trai nhà ấy. Quá nhiều thứ quan trọng kết nối họ nhưng cùng lúc lại chia rẽ họ: hai bà mẹ, chung chồng và là kình địch của nhau, một ngai vàng, béo bở nhất của Fouta, vả lại, bất diệt hơn và cám dỗ hơn tất cả, là người đàn bà liêm sỉ và đáng thèm muốn kia, người mà chỉ bằng một ánh mắt, hút về mình: nào vàng, nào ngựa, nào nô lệ và các hoàng tử. Ông đã biết rằng chuyện ấy sẽ kết thúc tồi, và rằng Taïbou sẽ là trọng tâm của kết cục bi thương, trong xứ sở Fouta-Djalon này, nơi rất thường xuyên, con đường dẫn đến ngai vàng phải xuyên qua một dòng sông máu, chỉ có điều, ông hình dung điều đó sẽ được tiến hành theo cách Peul, có nghĩa là theo cách nhẹ nhàng, lịch lãm, tinh tế, mang tính hiệp sĩ. Một cuộc phục kích ở cổng nhà thờ Hồi giáo vào buổi cầu nguyện lúc hoàng hôn, trước các cụ già và trẻ nhỏ. Tất cả các điều này không được Peul cho lắm: không kín đáo, không tiểu xảo, không học thức cho lắm. Một tác phẩm thực sự của kẻ thông thái rởm! Bọn bất lương ở Sicile chắc cũng hành xử như thế trong các hang hốc ở Etna: giết kẻ thù, tịch thu đĩa ăn và lấy vợ của hắn! Tác phẩm cỏn con, tác phẩm của kẻ vô danh tiểu tốt! Ông không thể tin được đó là của Alpha Yaya! Sau khi nghĩ suy chín chắn, ông cuối cùng đã đặt tiền cọc vào hắn. Aguibou và Pâthé, ông thấy có vẻ như quá phức hợp, quá lý trí, quá kiêu ngạo, tóm lại, quá Peul, thao túng họ sẽ chẳng bao giờ dễ dàng; còn Bôcar, chắc chắn là đầu óc đơn giản hơn nhưng quá bản năng, quá yêu nước, quá nhiều ngờ vực đối với dân Da Trắng! Ông thích Alpha Yaya hơn, mưu mẹo kiêu hãnh như mọi người Peul biết tự trọng, nhưng cởi mở, còn tốt hơn nữa, cùng lúc vừa là một chính trị gia có tài và một chiến binh dũng cảm. Chỉ cần giữ anh ta và vung vẩy chiếc khăn đỏ của quyền lực và vàng ròng là xong! Đó là con người thực tế, dễ hiểu: trước tiên là lợi nhuận, sau đó mới là tâm trạng, ngược hẳn với con thú dễ xúc động Bôcar-Biro. Ông đã biết rằng đó là một người Peul, một người Peul chính hiệu mà ông hẳn sẽ không bao giờ chắc chắn về tình cảm của anh ta, nhưng ông lại có thể tin tưởng nơi hắn chừng nào mà họ còn cùng chung một điểm đích.

Vi phạm một tội ác và bỏ trốn hệt như một tên cướp đường thô tục! Và hiện giờ hắn đang lẩn trốn ở đâu mới được chứ?

Và lại chính trong một cuộc trò chuyện ngẫu nhiên mà ông đã biết được một thông tin - có lẽ còn quan trọng hơn cả sự bổ nhiệm của Bayol! Bonnard đã làm gì? Mangoné Niang đang ở đâu? Còn những đại diện của ông ở Boulam và ở Gorée và những thám báo của ông có mặt trong tất cả các hang cùng ngõ hẻm của Fouta đã biến đi đâu hết chứ? Thế thì tại sao ông lại trả tiền lương cho chúng? Mẹ kiếp!

Ông hối hả thanh toán tiền và ra ngoài để không sát hại một người nào đó.

 

Lần này, ông không thể để mất một hút nào nữa. Ngay lập tức khi vừa đến Marseille, ông liền bắt tay vào đóng các kiện hàng ngay và đọc lại hành trình. Ở cảng, người ta thông báo cho ông hay rằng con tàu sắp tới sẽ nhổ neo vào cuối tháng... Hơn nữa, bầu trời lại bắt đầu rối loạn, số phận đảo lộn những dự định của ông: ông sẽ không đi con tàu ấy lẫn con tàu tiếp theo. Chỉ còn hai ngày nữa là ông lên đường, thì ông nhận được một lá thư từ Paris gửi đến khiến ông bùng nổ niềm vui sướng. Vị tân Bộ trưởng Thuộc địa (người ta vừa bổ nhiệm một người, một người thực sự và ông ta tên là De Laporte), người đã nghe ông cả ngàn lần kể chuyện về những kỳ tích của ông ở Fouta-Djalon, bày tỏ với ông sự ngưỡng mộ và mời ông đến gặp trực tiếp để kiểm tra những đề nghị của ông.

Vị De Laporte này là một trong những chính trị gia của nền Cộng hòa III, có tài hùng biện và tinh tế, được tiến cử đến chức vụ này do các cách phối hợp chính trị hiện thời hơn là sự hiểu biết sự kiện đang diễn ra. Phi châu, ông chỉ biết qua loa nó nằm ở đâu, còn những thuộc địa, thì ông hơi hình dung chúng phức tạp hơn vùng Camargue với đàn khỉ thay chỗ những con ngựa mà thôi.

Một Bộ trưởng a-ma-tơ, đúng là một cơ hội tốt! Olivier de Sanderval cười khẩy sau khi đã tìm hiểu kỹ thông tin. Ông huy động tất cả nguồn gốc Lyon của mình (sự bạo dạn, tính tế nhị trong ngoại giao và hướng lập luận, sức quyến rũ) trước khi lên tàu. Ông thích màn diễn lần này. Buổi thuyết trình vượt xa một giờ mọn như đã dự kiến, và Bộ trưởng tiễn ông ra tận sân, siết chặt tay rất lâu trước khi nhắc lại quyết định của mình mà ông vừa thực hiện và điều ấy thắp lên trong ông một niềm vui tốt lành và bất tận:

- Tôi gửi một bức thông điệp ủng hộ tất cả những đề nghị của ông cho bác sĩ Bayol ngay ngày hôm nay.

Tất cả những đề nghị đấy nhé! Ông đã nghe rõ thế, đó không phải là một chuyện đùa đâu! Đó sẽ vĩnh viễn đóng đinh miệng gã Bayol bất nhân chuyên kiếm lợi trên lưng người khác kia! Chính phủ ở Conakry là hắn, còn Olivier de Sanderval là ở Fouta-Djlalon và nước Pháp thì chỗ nào cũng là nhà mình! Tìm thấy thỏa thuận tốt nhất ở chỗ nào đây nhỉ? Mặc kệ, rút cục lại, ông sẽ tặng Rose một bữa tiệc trưa nữa tại đỉnh đồi La Verryère, đó là cách tốt nhất để ăn mừng sự kiện này!

 

Ông bắt gặp Rose đang nằm bẹp trên giường, thói đời lúc nào cũng phải có một hạt cát để làm nghẽn cỗ máy hạnh phúc:

- Chẳng có gì là nghiêm trọng đâu! - Bác sĩ trấn an ông - Một bệnh viêm phế quản nhẹ, bị nhiễm do một cuộc đi dạo buổi sáng trong công viên thôi mà. Mùa thu này mang những cơn gió lạ lùng của mùa đông, tử tước ạ. Ngài thì chẳng sợ gì đâu, bởi ngài lúc nào cũng mặc ấm.

Nàng gượng dậy khá nhanh, nhưng trong một tình trạng lo ngại đến nỗi mà Olivier de Sanderval hoãn chuyến đi lại vài tuần liền để cùng nàng chia sẻ quãng thời gian dưỡng bệnh
của nàng.

Chính thời điểm đó mà cuối cùng ông đã nhận được tin tức từ Phi châu gửi về. Vị Bonnard tận tâm đáng thương kia đã không thể viết cho ông sớm hơn vì một lý do quan trọng sau đây. Bộ tộc Béafada, những kẻ đáng gờm ấy, chúng khiến cả hổ báo và các bộ tộc thù địch trong các cánh rừng Boulam phải hãi hùng, đã bỏ tù ông ta hai tháng liền - ông ta đã, giống như thường xuyên xảy đến với người Da Trắng, vô tình báng bổ lên thần linh bề trên của họ, một bức tượng đất ngây thơ treo trước cổng làng. Những kẻ cuồng nhiệt nhất đã đòi xử trảm ông ta, nhưng vua, người có cánh mũi hàng hóa hơn, sau nhiều tuần thương thảo dông dài, đã thành công chuyển đổi lời phán quyết thánh thần này thành ki-lô-gam những hạt cườm bằng thủy
tinh màu.

Chỉ khi ra khỏi địa ngục này thì ông ta mới có thể gặp gỡ những thám báo được Mangoné Niang phái đến. Đúng vậy, Alpha Yaya và Taïbou đúng là đã cho ám sát Aguibou: một trăm nhát dao ở ngay cửa nhà thờ Hồi giáo, ngay sau buổi lễ cầu nguyện lúc hoàng hôn, buổi linh thiêng nhất, tụ tập được nhiều người đi lễ nhất! Cách thức và lượng máu chảy tràn đã khiến cho các nhà quý tộc nổi loạn dữ dội đến nỗi mà chính thủ phạm cũng đã hiểu điều đó. Sau khi đã phạm trọng tội, anh ta đã bỏ trốn thay bằng việc chiếm lấy ngai vàng, mang theo mình ngựa và vàng bạc của anh trai. "Vào lúc tôi đang viết cho ngài đây thì không ai biết bọn nhân tình nhân ngãi đáng nguyền rủa ấy đã trốn chui trốn lủi ở chỗ nào." Rồi ông ta thông báo cho ông biết những tin tức đáng mừng về tình trạng các thương điếm và công trường xây dựng ở Kahel.

"Hãy an tâm đi, thưa tử tước, - ông ta tiếp tục viết, - ở đây mọi chuyện diễn ra đúng như dự kiến. Hiện tại, những người Da Đen tính bằng đồng Kahel cũng thường xuyên như bằng đồng shilling trong các thương điếm ở vùng ven cũng như trong các chợ ở Fouta. Mangoné Niang vừa hiệu quả vừa đáng nể hệt như một vị quan tổng trấn La Mã, còn các hệ thống của chúng ta làm việc quá tốt đến nỗi mà một số các ông hoàng hàng tỉnh không còn dám quyết định điều gì mà không tham khảo ý kiến chúng ta.

Thực sự là gã Alpha Yaya này là một quân bài khó thay thế. Trước mắt, chúng ta quay về phía thủ đô. Almâmi bị ốm và đã nằm liệt giường. Athé và Bôcar-Biro không nói chuyện với nhau nữa. Cả Fouta biết rằng chẳng mấy chốc máu sẽ chảy ở Timbo cũng hệt như nó đã chảy ở Labé. Vấn đề duy nhất để xem đó là ai sẽ giết ai và khi nào?

Tôi để tâm quan sát, ngày cũng như đêm, tôi sẽ thông báo tin tức cho ngài ngay.

Kẻ tận tậm của ngài, Bonnard."

 

Rose sau đó lại ốm tiếp. Bệnh viêm phế quản của nàng đã không hoàn toàn dứt hẳn, nàng phải nằm liệt giường cho đến tận cuối mùa đông. Nhưng chẳng có gì phải lo lắng đâu, viên bác sĩ lại trấn an ông, chỉ phải đợi chút xíu cho bệnh ho nhẹ tồi tệ ấy qua đi.

Ở Paris, hàng loạt xung đột náo loạn làm rung chuyển Nghị viện và những cuộc khủng hoảng nội các kế tiếp nhau theo nhịp độ ngày cuối tuần. Con người quả cảm De Laporte sắp bị gạt ra. Olivier de Sanderval biết được tin ấy trước khi lên tàu đi Conakry, sắc lệnh của De Laporte trước tiên phải qua Quai d’Orsay(1) kiểm soát - và phải qua các Bộ khác, các văn phòng khác, và các bộ phận linh tinh không tên khác. Không còn có chuyện để cho ông Fouta-Djalon nữa, mà chỉ thuận cho ông đất đai và một khu cho tuyến đường xe lửa, với điều kiện ông phải liên doanh với những nguồn vốn khác, các đối tác khác. Lại qua hai ba kỳ thay đổi chính phủ và sắc lệnh của De Laporte đã được chuyển thành một đề nghị đạo luật có thể áp dụng cho tất cả mọi trường hợp tương tự sẽ xảy ra trong các khu thuộc địa.

- Chuyện sẽ không diễn ra như vậy đâu! - Ông công kích, khi đến gặp người bạn Jules Charles-Roux. - Tôi có một ý, tôi sẽ nói chuyện với Faidherbe và nhắc cho ông ấy nhớ những lời đã hứa với tôi.

- Sao hả, anh không biết gì ư? - Người này hỏi ông, mang tính Cassandre hơn bao giờ hết. - Faidherbe qua đời rồi, tôi vừa đọc được tin ấy trong báo xong.

- Khốn nạn cho tôi quá, khốn nạn cho Timbo! - Ông thốt lên trong lúc đổ sụp xuống một chiếc phô tơi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đầu năm 1890, cuối cùng thì ông cũng được tin rằng chính phủ đã chỉ định các ban kiểm tra đặc biệt để chuẩn bị dự luật. Vài tháng sau, cái này, đấy là dùng theo tiếng lóng của các nghị sĩ, được giữ lại. Năm 1891, rốt cuộc thì người ta cũng trình nó lên Thượng viện. Kéo theo nó là những cuộc thảo luận hết sức sống động đến nỗi mà báo chí và dư luận quần chúng nhảy vào cuộc. Phi châu thôi không còn là một chủ đề ngoài lề dành cho các sĩ quan hăng hái và những nhà phiêu lưu hâm hấp nữa. Nó tràn ngập đường phố và các cột báo, đốt lên những niềm say mê tệ hại trong các phòng khách và trong các nhà chứa, sòng bạc. Một làn sóng theo chủ nghĩa thực dân trồi ra khỏi sự vô thức tập thể của nước Pháp, tạo thành hình trong tiềm thức và lan tràn hết thảy vào cuộc tranh luận chính trị và trí thức. Trong những quán cà phê và trên những cột báo, người ta không còn bàn gì khác ngoài việc nói về Congo, về Dahomey, về Fouta-Djalon, về Soudan hay còn về Madagacar. Người ta tổ chức các buổi tuần hành, người ta ký đơn kiến nghị. Người ta đòi một quân đội thuộc địa, một tiền tệ thuộc địa, những huy hiệu thuộc địa, những đạo luật, những phong tục tập quán, những khuynh hướng thuộc địa.

Ông đã chẳng hy vọng những ngần ấy! Đó như thể những giấc mơ của ông bước ra khỏi đầu ông, để thấm vào toàn bộ quốc gia.

 

Người ta liên kết tên ông với tên của Dupuis, của Brazza, của Faidherbe hay còn cả với Gallieni. Người ta công nhận ông như là một trong những nhà thám hiểm lớn của thời đại mình, điều ấy không phải đã khiến ông mếch lòng. Chỉ có điều - ông thường xuyên nói điều này - kỷ nguyên của những nhà thám hiểm đã qua rồi. Hiện tại, phải xây dựng: những thể chế là chắc chắn, nhưng trên hết là hệ thống đường sá, nhà cửa, các ngành công nghiệp, đường xe lửa. Và những chuyện đó hả, không phải việc của chính phủ đâu mà là công việc của những người như ông đây, tự do trước mọi khuynh hướng phục tùng, có trí tưởng tượng và nhiều tham vọng. Và để thực hiện điều đó, không cần phải phức tạp hóa cuộc sống nhàn rỗi của các chức sắc văn phòng và các ông nghị sĩ làm gì. Không cần một bộ luật mà một sắc lệnh hẳn đã thừa thãi lắm rồi.

Ai đã tạo ra châu Mỹ? Những nhà tiên phong, đương nhiên rồi, chứ không phải những kẻ cạo giấy ở Washington đâu!

 

Thế rồi bộ luật đã được hy vọng biết bao nhiêu cuối cùng đã bị sa lầy và mất hút trong những đầm lầy của các cuộc tranh luận và các bước tiến hành. Người ta mất cả hơn năm ròng để đe dọa kiến nghị, bãi chức và đấu tay đôi với nhau, để rồi cuối cùng chán ngấy nhau và chuyển sang đề tài khác. Chính ông cũng dần dần quay lưng lại với nó để chăm sóc vợ ông, đang càng ngày càng ốm yếu hơn.

Vào năm 1891, qua thời báo La Dépêche colonial, ông biết rằng ở Conakry thuộc địa đã được thay tên cũng như đã thay Thống đốc: Những dòng sông phía nam đã trở thành Guinée thuộc Pháp và một người có tên Ballay đã đến thế chỗ Bayol.

 

Mùa xuân cùng năm ấy, sức khỏe Rose bỗng nhiên yếu đi rõ rệt, và lần này là rất nghiêm trọng. Mặc dù thể tạng bà vốn mảnh mai, nhưng bà luôn luôn năng động và vui vẻ, ờ thì... cho đến lúc ấy. Những trận đau nửa đầu thường xuyên, bệnh viêm phế quản lặp đi lặp lại, những đợt khó thở của bà, đã chưa bao giờ gây lo lắng thực sự cả. Lần này thì khác. Bệnh ho của bà không khỏi hẳn được nữa và còn kéo theo sốt cao, rồi đến tê cứng, sau đó là những trận hôn mê ngày một dài hơn. Mùa hè, bà bắt đầu thổ ra máu, mùa thu, bà nằm liệt giường. Tình trạng của bà càng tồi tệ hơn khi đông đến. Người ta phải kêu bác sĩ nhiều lần trong ngày. Nhưng, theo tốc độ mà ông đã quen - im lặng và với một sự chậm chạp quá đáng -, thì Olivier de Sanderval hiểu rằng đã đến đoạn cuối rồi. Ông quên hẳn những ván cờ và Fouta-Djalon, và thậm chí quên cả bản thảo cuốn Vô Cùng bất ly thân của ông mà, từ mười hai năm nay, nó đã nghiến ngấu phần lớn các đêm của ông. Lần đầu tiên,
ông cám ơn trời đã ban cho ông căn bệnh mất ngủ. Ông
giám sát nàng Rose của ông, chia sẻ với nàng những cơn đau như tra tấn, lau mồ hôi và hình dung ra những giấc mơ và ác mộng của nàng, theo dõi những tiếng ran và những đợt lịm đi của nàng.

Vào ngày 15 tháng giêng năm 1892, khi bà qua đời, suýt nữa thì ông đã từ bỏ tất cả: Rose, Bayol, Noirot, các Bộ hành chính, người Peul..., thật quá tải đối với một người! Ông bước sang tuổi năm mươi hai, góa vợ, tinh thần suy sụp, già trước tuổi do những con đường băng rừng vượt trảng và bệnh tật. Ông khép mình lại cả nhiều tháng liền mà không sao chôn vùi được nỗi buồn và sự đau đớn của mình. Tang tóc, những ân hận, những tiếc nuối, cả hàng ngàn lẻ một phiễn nhiễu trong cuộc sống, vào cuối năm ấy, mọi chuyện này đã đánh dấu sức nặng tuổi tác của ông một cách khủng khiếp.

Như vậy là Rose đã chết, nhưng ông có cảm giác mình vừa mới làm quen với nàng hôm qua. Ra đi vĩnh viễn nhưng để lại nguyên vẹn trong ông âm thanh giọng nói và dáng vẻ quý phái nhẹ nhàng của cơ thể mình! Ông gặp lại nàng, ông nghe tiếng nàng, còn thật hơn cả thật, đang ngây ngất, trong vô vàn những cuộc dã ngoại của họ, trước mùi hương của một đóa hoa hay mái vòm của một nhà thờ, và, với toàn bộ sự ngây thơ mà nàng từng có, bộc lộ thói đỏng đảnh hiếm gặp của mình: "Hay chúng mình chuyển nhà đến Vatican nhỉ?... Mình không nghĩ rằng, ngôi nhà của chúng ta ở Avignon ấy, nó sẽ đẹp hơn khi được đặt ở đây à, tại Amsterdam này?... Và nếu chúng mình tậu kênh đào Bourgogne thì sao nhỉ?..."

Những thói đỏng đảnh của nàng, những điều thú vị của nàng, những hờn dỗi nho nhỏ khó quên của nàng ấy, chính chúng đã tạo nên tính cách của nàng. Sự ngây thơ, vẻ ung dung mê hoặc của nàng, chính nàng đã ràng buộc tình yêu của họ. Họ quen nhau trong một buổi khiêu vũ ở Avignon. Chàng vừa ra khỏi Trường Trung tâm, nàng tốt nghiệp Mỹ thuật. Nàng khi ấy đã diện những bộ váy sặc sỡ và cài hoa trên tóc. Nàng mang vẻ đài các của Émilie, hương vị của Émilie, cặp mắt của Émilie. Chàng đã cầm tay nàng và cho nàng đằm mình vào những bức họa về người Peul, những câu chuyện của Mollien và của René Caillé. Nàng đã may cho chàng những bộ trang phục của vở Méphistohélès để, ngày hôm nay chàng là nhân vật Faust, hôm khác lại là quỷ quái, còn nàng là trinh nữ Marguerite và cũng người đóng thế của mình, cô bé Gretchen tinh nghịch. Tất cả chuyện đó, đương nhiên diễn ra mà không ai biết, trong khu vườn bí mật, nơi chỉ có tình yêu và những giấc mơ của họ mới có thể tiếp cận.

Ông đã không dành cho bà toàn bộ thời gian, tất cả sự quan tâm mà bà đáng được hưởng, nhưng bà không bao giờ than phiền về chuyện đó. Bà biết rằng, dẫu có chuyện gì, thì ông vẫn yêu bà biết bao nhiêu, bà đã thường xuyên nói điều đó với ông, như thể bà muốn cám ơn ông vì tình yêu ấy. Luôn luôn có cái gì đó xen vào giữa họ: công việc, thể thao, những chuyến du lịch, những hội bạn bè, những cuộc họp các nhà bác học ở Hội Địa lý và cuối cùng là xứ sở Fouta-Djalon này, nó đã chiếm đoạt ông của bà bằng vẻ quyến rũ và sự ghanh ghét kiểu phù thủy của một tình địch thật sự.

Những đứa con ông đã lớn, chỉ bây giờ ông mới nhận ra điều đó. Ông cũng đã chẳng chăm sóc chúng được bao nhiêu. Giờ chính là lúc hoặc sẽ mãi mãi không bao giờ lấy lại được, đem lại cho chúng tình phụ tử yêu thương trìu mến mà chúng có quyền được hưởng và bù đắp nhiều đến chừng nào có thể, tình mẫu tử, mà chúng vừa vĩnh viễn mất đi. Ông xích lại gần chúng, theo sõi sát sao hơn việc học hành và vui chơi của chúng. Ông thuê hẳn một giáo sư nhạc để bồi dưỡng thiên hướng nghệ thuật cho con gái và dẫn con trai đi theo trong những buổi dã ngoại nguy hiểm trên miền núi cao hay ở biển.

Kín đáo và chăm chú, Jules Charles-Roux đã giúp ông vượt qua giai đoạn tồi tệ này. Làm như không có vẻ động đến nó, Jules dần dần đưa bạn về với những ghi chép của mình và với những dự án viễn chinh mới.

 

Năm 1893, ông cho xuất bản tác phẩm du lịch thứ hai của mình tại nhà xuất bản Félix Alcan, có tựa đề Soudan, Kahel, sổ du lịch, và đã nghĩ đến việc lên tàu. Cuộc sống đã trở lại bình thường, niềm say mê Fouta-Djalon một lần nữa lại sôi sục
trong ông.

 

Ông hoàng Kahel sống xa con dân của mình, nhưng từ lâu đài Montredon, quyền lực của ông được thực thi trên từng mẩu đất nhỏ nhất của Kahel và ảnh hưởng của ông, chắc chắn là lên tất cả mọi sân sau của Fouta. Ông tiếp xúc đều đặn với tất cả những người có máu mặt ở Timbo và trong các tỉnh. Người ta hỏi ý kiến ông về mọi chuyện.

Tàu hỏa và các đoàn xe của ông đều đặn tung ngập các khu chợ những trang sức rẻ tiền và đồ vô giá trị. Người Anh không còn là ông chủ nữa: vải bố của ông đã hất cẳng khỉ đầu chó của Manchester, và tỷ giá đồng Kahel đã nhanh chóng vượt xa
đồng shilling.

Mangoné Niang, những đại diện ở vùng ven biển, những thám báo của ông ở rải rác đây đó đã thực thi những công lệnh rất chặt chẽ: phải cô lập Timbo, lấy được lòng tin của Labé và Timbi-Touni, trang bị vũ khí cho kẻ này chống lại người kia, tạo cho họ chống đối nhau. Nhất là không được xâm chiếm, để cho đất nước tự rạn nứt bằng cách nhấn mạnh sự chia rẽ. Còn nước Pháp, các sự kiện cuối cùng sẽ kết thúc bằng cách đặt nó vào tình trạng đã rồi. Nó sẽ phải công nhận sớm hay muộn rằng một trong những đứa con của mình, bậc thầy của những người dân châu Phi cao ngạo này, chỉ có thể nâng sự quyến rũ của nó lên cao thêm mà thôi. Bernadotte chẳng đã từng là vua của Thụy Điển, còn Baudoin là vua của Antioche và của Jérusalem đó sao?

Mùa hè sau đó, từ Paris trở về, nơi cậu theo học, con trai Georges của ông, lảo đảo trong nước mắt, đẩy cánh cửa gác xép và khiến ông, đang lúi húi với đống rương hòm thám hiểm của mình, liền quay lại:

- Điều gì đã khiến con khóc vậy, hả con trai?

- Cha à, con đã thi trượt rồi!

- Ờ thì..., người ta có thể thi trượt vào trường Bách khoa nhưng không vì thế mà lỡ dở cuộc đời đâu! Con có muốn đi cùng cha không?

- Nhưng đi đâu hả cha?

- Đi Fouta-Djalon! Đó là một trường học tốt nhất đấy.

- Ôi, thế thì tuyệt quá! Cha cho phép con tận dụng dịp này để thăm Tombouctou chứ?

- Đồng ý! Con sẽ đi Tombouctou trong lúc cha thương lượng dự án đường xe lửa với các ông hoàng Dinguiraye. Những lão vua Peul ngu độn này cuối cùng cũng sẽ phải để cho cha đi đến Dinguiraye thôi!

- Ôi, cám ơn cha! - Chàng trai thốt lên, đã thay đổi hẳn trước một niềm vui tràn ngập và quá đỗi bất ngờ.

- Này, do con đã đồng ý đi theo cha rồi thì cầm lấy này, hãy đọc kỹ cho cha tấm bản đồ này và tìm ra phương tiện nhanh nhất để băng qua những thác ghềnh của vùng Konkouré với chừng trăm nhân lực, và mỗi người vác khoảng hai mươi lăm ki-lô-gam.

Hai tháng sau, ông nhận được một lá thư từ Boulam:

 

"Cám ơn, thưa tử tước, đã thông báo cho chúng tôi biết rằng ngài sẽ lại sắp có mặt trên các vùng đất nóng Phi châu và lần này là đi cùng con trai của ngài!

Đến đi, hãy đến nhanh đi, nhưng trước khi xuống tàu, hãy thưởng thức thông tin kì diệu này đã: Bôcar-Biro đã giết Pâthé. Chưa hết đâu: tân Almâmi của Fouta đã không cam lòng ân xá cho bạn mình, Alpha Yaya, ông ta đã ẩy hắn lên ngai vàng của Labé. Ngài thấy rõ là ngài nên đến chưa!

PS: dẫu sao thì cũng có một tin xấu, tôi muốn cho ngài biết trước khi ngài lên tàu cái điều mà tôi đã đắn đo từ rất lâu để thông báo với ngài. Chính trên lãnh địa của ngài ở mũi tây của Conakry mà Bayol đã cho xây dựng dinh Thống đốc. Phải là Bayol mới có thể tưởng tượng ra một sự phản trắc nhường ấy! May mắn thay là hắn không còn ở đây nữa để gây rắc rối cho chúng ta!

Kẻ rất tận tâm của ngài, Bonnard."

"Thêm một lý do nữa! - Ông gầm lên. - Chẳng còn gì giữ ta ở đây cả, cuộc sống của ta kể từ đây là ở nơi ấy."

Ông gửi con gái vào trường học nội trú và cải trang con trai Georges ăn vận thành chủ đồn điền thực dân.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vào tháng Hai năm 1895 ấy, nguồn gốc của Conakry mất hút trong rừng rậm ấy khiến ta nghĩ đến cảnh trứng chí nở trên tóc người ở ẩn. Thành phố hiện giờ đếm được hơn trăm ngôi nhà xây, điện Thống đốc, trại lính, nhà cách ly và Sở Điện tín được xây dựng tách biệt.

Một đại lộ chừng ba ki-lô-mét, có những hàng xoài bao quanh nối liền điện Thống đốc mới toanh và cực đông của đảo. Người ta nhìn thấy rất nhiều xe đạp và xe ba bánh, và không dưới ba chiến hạm đậu dưới cảng. Nhiều biệt thự lợp ngói đỏ lấp lánh màu trắng và những đóa hoa dưới hàng cây keo. Những ngôi nhà của Da Đen bắt đầu chấp nhận sơn và xi măng. Scoa, Paterson-Zochonis, biển hiệu thương mại với màu sắc sống động đánh dấu mặt tiền các cửa hàng cao tầng bằng gỗ được chạm trổ tinh tế. Ba ngàn, có thể là bốn ngàn sinh linh chen chúc nhau dưới những cây dừa trong thành phố, trong đó có vài trăm Da Trắng.

Olivier de Sanderval đã để lại một khu rừng rậm, giờ ông bắt gặp một thành phố nhỏ tráng lệ. Ballay, tân Thống đốc, mời ông vào ở trong dinh của mình và làm mọi điều có thể để khiến ông quên đi những thất vọng của mình với Bayol:

- Và nhất là, thưa ngài Olivier de Sanderva, đừng thù hận tôi nhé nếu như cung điện của tôi nằm trên mảnh đất của ngài, tôi chẳng có lỗi gì trong chuyện này, đúng vậy, tuyệt đối
không có!...

 

- Ô không, tôi chẳng hận ngài vì vài arpent(1)rừng rậm chứ, thưa Thống đốc! Với Bayol, tôi chắc chắn đã la tướng lên, chỉ bởi vì đó là Bayol...

- Ngài thích săn bắn chứ?

- Tôi thích đi bộ hơn, nhưng mà thôi...

- Đáng tiếc thật, đó là một chủ đề nói chuyện tuyệt vời đấy, đi săn, điều đó tránh được những mâu thuẫn vô bổ.

Ballay đã tặng ông một dạ tiệc linh đình, có mặt tất cả đoàn người chủ thuộc địa và chú tâm sát sao để ông không thiếu một thứ gì: rượu ngon cũng như bia lạnh, đùi linh dương cũng như đậu mang từ Pháp; vỉ ruồi và đuốc, giường có tán che và màn. Ông ta còn cho ông mượn đám Da Đen để dẫn ông đi thăm thành phố và tàu chiến để đi dạo trên biển. Dẫu vậy, mối quan hệ của họ nổ bùng nhanh chóng. Ngài Thống đốc cứ uổng công muốn tránh điều mà ngài gọi là "những xung đột vô bổ", sớm hay muộn gì thì ngài cũng phải đề cập đến những chủ đề éo le.

- Hãy tin là tôi rất lấy làm tiếc cho những hiểu lầm của người tiền nhiệm tôi. Tôi chẳng chống đối gì ngài, ngài biết đấy! Tôi sẵn sàng làm việc với ngài. Tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp nếu như ngài vẫn thẳng thắn trung thực đối với chính tôi và tôn trọng luật pháp.

- Chúng ta có mặt ở đây với cùng một sự nghiệp, thưa Thống đốc, sự nghiệp của nước Pháp. Ngài nói đúng, ngược hẳn với Bayol, chẳng có gì khác nhau đối lập chúng ta cả. Tôi sẽ làm hết sức mình để giữ tình bạn với ngài và tôn trọng pháp luật. Và đương nhiên tôi cũng hy vọng về phần mình luật pháp cũng tôn trọng những quyền của tôi.

 

- Chúng ta rất hợp ý nhau, Olivier de Sanderval ạ! Nếu ngài nói về những hiệp ước của ngài thì mọi thứ rất rõ ràng: với chúng tôi, các hiệp ước ấy là không tồn tại.

- Ngài De Laporte, Thứ trưởng, đã đảm bảo với tôi...

- Sự đảm bảo miệng là chưa đủ, Sanderval ạ, phải có văn bản.

- Những văn bản ư? Chúng bằng cái gì hả, những hiệp ước của tôi ấy?

- Tôi đang nói về văn bản giữa chúng ta kìa, văn bản của những người Da Đen là không còn giá trị nữa: Fouta-Djalon giờ đã thuộc Pháp!

- Ngài đi hơi quá xa đấy, thưa Thống đốc! Chẳng có gì cho cho chúng ta quyền để mắt đến Fouta-Djalon cả. Ngoài những hiệp ước của tôi, chính thế đấy!

- Nếu như hiện thời nó chưa thuộc Pháp, thì chẳng mấy chốc nữa nó sẽ trở thành thôi. Tôi đã mời Almâmi đến để ký văn bản chư hầu thề trung thành với Đại Pháp, nếu không tôi ra lệnh cho lính chiến Soudan phá cửa nhà ông ta. Ngay chính lúc này đây, Beckmann, cộng sự dưới quyền của tôi, đang ở Timbo.

- Ông ta sẽ chẳng đạt được gì đâu!

Với chất giọng thông thái cố ý, Olivier de Sanderval giải thích rằng Almâmi chỉ rời Timbo vì ba lý do: chiến tranh, hành hương tới La Mecque và sự đăng quang của mình ở Fougoumba mà thôi! Nếu không ông ta sẽ bị truất ngôi!

- Những người này, tốt nhất là chúng ta nên cố gắng hiểu họ hơn là đánh nhau với họ!

- Cám ơn vì lời khuyên, nhưng tôi đã biến Congo thành Pháp rồi đấy thôi!

- Nhưng rắc rối là ở Congo không phải là người Peul, thưa Thống đốc!

 

Không trí trở nên căng thẳng, mặc dù cả hai đều có ý nghĩ rất tốt về nhau, cung điện, đã bốc mùi xi, thì bây giờ bốc lên mùi khét. Một sự đối mặt lịch lãm nhưng khủng khiếp và nó được lặp lại nhiều lần trong ngày, có nghĩa là mỗi khi họ đến bàn ăn hay cùng nhau uống bia trên sân! Cùng một kịch bản bất biến kéo theo những lời cãi cọ dữ dội: Ballay, người có cái tật là luôn luôn cầm một thanh thước kẻ trên tay, bẻ gãy nó bằng một cú khô khốc mỗi khi cơn tức giận bắt đầu khiến ông ta ngạt thở.

 

Conakry phấp phới lá cờ Pháp, sống dưới luật pháp của Pháp, dân Da Đen bắt đầu nếm pho mát và nói merde(1) nhưng người Đức Collin vẫn có mặt tại đó, trở nên đần thộn vì khí hậu ẩm thấp, người đỏ rực vì nắng và nổi đầy mụn do muỗi đốt ở giữa đống đồ tạp hóa và những cây nến của mình. Olivier de Sanderval hối hả đến thăm ông ta. Maillard vừa tự vẫn, Boche(2) vừa thông tin cho ông hay. Bị rắn cắn, ông ta đã không đủ sức leo lên tận đỉnh cầu thang, thế là liền nã một phát đạn vào đầu đúng như ông ta đã hứa.

- Với khẩu súng nào vậy? - De Sanderval hỏi.

- Dominique! Hôm đó trời mưa.

 

Để quên những tức tối của Ballay, Olivier de Sanderval đưa con trai mình ra bờ biển, hưởng đầy gió mang mùi i-ốt và ngỡ ngàng trước vẻ kỳ quái của các cây thân mềm và kích cỡ khổng lồ của những con rùa.

Một hôm, trong lúc họ đang tản bộ trên cát, nói chuyện về Dinguiraye và Tombouctou, một gã xa lạ từ những cây cọ ló ra và gọi họ: một gã Da Trắng trong trang phục thợ đốt lò, với những móng chân móng tay bẩn thỉu và một chòm râu dài kiểu tông đồ. Người ta đã từng nói với họ về nhân vật này. Một ngày nọ, bước xuống từ một con tàu, từ Saint-Louis đến, anh ta kể oang oang cho tất cả mọi người nghe một câu chuyện, mà cho đến giờ vẫn chẳng ai hiểu được đó là gì. Anh ta câu cá để ăn và ngủ giữa đám cây cối, trên một chiếc võng tạm bợ, không một thành viên nào của đoàn thuộc địa muốn cho một người đồn 10000 g hương, một người chẳng phải sĩ quan, chẳng phải buôn bán, lẫn cha cố hay nhà thám hiếm này, ở nhờ.

- Các ông cũng có mặt ở đây à, để tìm kiếm gia tài chứ gì, tôi đoán thế? Thế thì, hãy nghe tôi này, tôi có một hướng cho các ông...

- Đừng mất công làm gì, cụ khốt ạ, chúng tôi đã nghe nói về anh rồi! - Georges cắt ngang lời anh ta.

- Cả các ông nữa, các ông sẽ không làm vậy với tôi chứ hả! Chí ít thì hãy nghe tôi nói hết đã nào và các ông sẽ biết rằng tôi đâu có điên.

Và con người ý nhị kia bắt đầu giải thích cho họ hay rằng anh ta đang tìm kiếm một gia sản khổng lồ mà những người Tenguélas đã để lại trong các hang hốc ở Guémé-Sangan, trước khi những vị vua Peul này xuống chinh phục thung lũng Sénégal ở thế kỷ thứ XVI.

- Kho báu này, tất cả mọi người đều biết nó tồn tại thực sự. Dân Da Đen cho rằng nó có vòm và rằng ai mà động vào nó sẽ mất đầu. Đương nhiên, đó là những chuyện nhảm nhí... Thế nào hả, các ông ủng hộ tôi chứ? Sẽ là năm mươi - năm mươi: năm mươi cho tôi và năm mươi cho hai ông! Ờ đúng vậy đấy, dù gì thì cũng là do tôi đã đem lại mối lợi bất ngờ này!...

 

Họ cười và bỏ đi mà không thèm để ý đến những lời phản đối nghiêm túc và chân thành mà kẻ xa lạ kia đang gióng lên
sau lưng.

Khi trở về cung điện, Ballay cho họ hay rằng ông ta vừa nhận được một lá thư từ Saint-Louis liên quan đến Bôcar-Biro: phải giải quyết vấn đề Fouta trước cuối năm nay, không thể chần chừ được nữa!

"Fouta-Djalon phải phục tùng lệnh bảo hộ của Pháp: Bôcar-Biro phải ký văn bản hoặc nếu không ta sẽ tuyên chiến với họ", lá thư viết rõ ràng như thế.

- Và ngài nghĩ rằng con lừa Bôcar-Biro sẽ ký ngay ư, thưa Thống đốc?

- Nếu như Beckmann không thuyết phục được ông ta, tôi sẽ gửi một biệt phái viên cuối cùng, và sau đó sẽ là đại bác. Hắn ngạo nghễ thật, tên Bôcar-Biro này và ngoài chuyện ấy ra thì chúng tôi vừa phát hiện điều này, hắn trang bị vũ khí cho kẻ thù của chúng ta, Samory.

- Đại bác ư!... Vậy hãy để tôi thực thi vụ này đi, Thống đốc!

- Để ngài làm ư! Mọi người hãy nghe này! Chừng nào thì ngài mới hiểu được là ngài chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng tôi cả. Ngài chỉ là một công dân quyết ăn chơi phóng túng thôi. Còn các hiệp ước của ngài...

Ông ta lại bẻ gãy thước kẻ vì tức tối và tiếng nói lạc hẳn trong tiếng động lạ lùng của cơn ho và hơi thở rít lên.

Dẫu sao họ cũng sống cùng nhau trong hơn ba tuần liền, cố gắng một cách khó khăn để tìm lại nụ cười khi cùng nhau chơi cờ hay uống bia lạnh, sau năm sáu vụ cãi cọ nảy lửa.

 

Trong những tình huống khác, họ có lẽ sẽ trở thành những người bạn thân thiết. Ballay ngưỡng mộ sự dũng cảm của Olivier de Sanderval, sự thông minh nhanh nhạy của ông và dáng vẻ thống thiết kiểu hiệp sĩ Bayard của ông. Sanderval tôn trọng vị sĩ quan hải quân này, người đã được thưởng những mề đay ở Congo khi hoạt động cùng Brazza và người, ngược hẳn với Bayol, bằng sự thẳng thắn và ý thức tuyệt hảo về nghĩa vụ, làm rạng danh nước Pháp và bộ quân phục mà ông ta mang trên mình.

Than ôi, họ cứ uổng công xoay xở, tình trạng thực tế biến họ thành những kẻ thù đáng gờm của nhau. Người này chiến đấu vì một thuộc địa cho các nhà quản lý chính quyền, người kia vì một thuộc địa của những nhà tiên phong và những nhà cầm quân ngành công nghiệp. Người này quyết định đứng đằng sau vũ lực, người kia nấp sau mưu lược. Dẫu vậy, một điều duy nhất kết nối họ: Fouta-Djalon phải đổ, càng nhanh càng tốt! Đất nước Peul phải thuộc Pháp. Nhưng dưới thể thức nào đây? Ballay là một sĩ quan hải quân với dáng vẻ cứng nhắc, rất thẳng thắn khi liên quan đến sự tôn trọng cấp trên; Olivier de Sanderval, đơn phương, chỉ tin vào tài năng và tự do của mỗi cá nhân, để không nói về những huyễn tưởng của ông. Ông đã đặt cả tuổi trẻ và gia sản của mình vào một ước mơ hoàn toàn quá sức: sự chinh phục Fouta-Djalon và cấy tại đó một thuộc địa đông người thuộc ngành công nghiệp của mình, dựng biểu tượng của ông và được quản lý dưới luật pháp của ông, nó sẽ chỉ thuộc Pháp là bởi ông và vì ông mà thôi. Một vương quốc của một mình ông và nó sẽ lần lượt xuyên khắp từng phần một của châu Phi.

 

Ba tháng cãi cọ nhau, giận dỗi nhau rồi lại làm lành, nhưng khi họ chia tay nhau thì một khu rừng dày đặc nghi ngờ và hiểu lầm chia rẽ họ mãi mãi. Cả hai đều chúc nhau sao cho Fouta sụp đổ ở mức nhanh nhất, nhưng đằng sau ý tưởng đơn giản và giống nhau này, thì không một ai trong hai người sẽ đau khổ nếu như kẻ kia, cùng dịp ấy, sẽ suy yếu cả người và của.

 

Trên đường đến Timbo, ông chạm mặt một đoàn xe ở chặng Correya. Trong đó có một người đưa tin của Bôcar-Biro cũng như nhà thần tài Beckmann mà ông vẫn còn chưa biết mặt. Biệt phái viên của Thống đốc hình như rất kiệt sức và rất bất bình với Almâmi. Olivier de Sanderval mời ông ta đến bàn ăn mà ông vừa cho dựng lên ngay trước lều của mình. Nhưng Beckmann vẫn rất căng thẳng, mặc dù có món vịt hầm và rượu vang Bordeaux. Ông ta khoác một thái độ lạ lùng trong suốt bữa ăn: ánh mắt ông ta cố tình tránh ánh mắt của Sanderval và hai chân không ngừng rậm rịch. Ông ta nhai rau ráu ầm ĩ và cấm cẳn trả lời các câu hỏi.

- Đã có thể có chuyện gì xảy xa để đặt ông vào tình trạng này thế, do gã Bôcar-Biro đó à?

- Đó là một gã cao ngạo và cứng đầu! Hắn đã tiếp tôi như tiếp một kẻ bẩn thỉu. Hắn đã cho xử bắn hết tất cả những người trong cung điện ủng hộ nước Pháp. Đã đến lúc phải kết thúc với hắn thôi.

- Ô, tôi chắc chắn sẽ thành công đưa hắn về với lý trí!

- Gì cơ, ông sẽ đi Timbo sau tất cả những gì tôi vừa nói với ông à?

 

- Tại sao tôi lại phải cảnh giác nhỉ, dẫu gì thì tôi cũng đang ở đây đấy thôi!

- Ông không thận trọng!...

- Tôi là người Peul giống như họ, tôi chẳng có lý do gì để sợ họ cả.

Ông đã thốt ra câu ấy trong sự ngây thơ trong trắng nhất trên đời, không chú tâm đến giọng nói và không đo lường trọng lượng của những từ mình phát ra. Beckmann mất cả hơn một phút trước khi phản ứng. Ông ta trợn tròn cặp mắt đỏ ngầu và cúi hẳn về phía Olivier de Sanderval như thể ông ta vừa nhìn thấy ông lần đầu tiên:

- Ờ mà đúng rồi! - Ông ta thốt lên với điệu bộ hệt như ta vừa thấu ra điều gì... Đúng rồi, ông là một người Peul, tôi đã không nhận ra điều ấy! Ông thậm chí còn tồi tệ hơn cả tất cả bọn người Peul trên thế gian này tập hợp lại: còn gian giảo hơn, hám của hơn và khó kiểm soát hơn cả bọn quý tộc rách rưới tồi tàn này! Người ta không biết được ông là ai, người ta không biết ông ủng hộ ai. Ông làm việc cho chính mình hay, hệt như lời đồn đại lan truyền, ông là một thám báo của Timbo chống lại những lợi ích của nước Pháp hả?

Ông ta đứng phắt dậy và bắt đầu thắng yên ngựa:

-Tôi đi đây, Olivier de Sanderval ạ, và ông chỉ cần nhìn tôi để đoán ra bản báo cáo nào tôi sẽ trình lên Thống đốc.

Sau vài mét, ông ta quay lại:

- Tính trung thực buộc tôi phải thông báo trước cho ông rõ, Olivier de Sanderval ạ, rằng vào ngày mà tôi được lệnh thi hành thì tôi sẽ rất vui khi bắn ông đấy!

- Tôi biết rồi, ông Beckmann ạ, tôi biết điều ấy rồi.

 

Và, ngay tức thì, ông viết một bức thư cho Bôcar-Biro để đảm bảo... tình bạn của ông và thông báo trước việc ông sắp tới Timbo, rồi viết tiếp một lá khác gửi cho Ballay:

"Kính thưa Thống đốc,

Ở Correay, tôi đã chạm mặt viên sứ giả mà ngài phái đến Timbo. Tôi thấy ông ta là một kỵ sĩ đúng hơn là một nhà ngoại giao. Nhưng hãy cho qua chuyện đó đi, tôi sẽ hận mình khi thốt ra một lời nhận xét trên những luồng ánh sáng của chính quyền tốt đẹp của chúng ta. Tôi viết thư này để nói với ngài về Bôcar-Biro và nhân thể thông tin đến ngài rằng tôi khỏe mạnh mặc dù những ác hiểm của rừng hoang và những tàn phá của chứng đau bụng kinh niên của tôi, dẫu tôi nghi ngờ rằng tình trạng sức khỏe tốt của tôi có thể khiến ngài hoan hỉ.

Qua các đoàn xe đây đó, tôi được biết đây là lần thứ năm, ngài gửi biệt phái đến gặp Bôcar-Biro. Tôi muốn cầu khẩn ngài đừng nên làm gì có thể đánh thức những ngờ vực của ông ta. Tôi không cần phải nói với một thợ săn tinh tế như ngài rằng để tóm được con vật thì phải ru ngủ nó... Xứ sở Fouta này trượt khỏi tay ngài và sẽ trượt khỏi mãi mãi... Vậy hãy để tôi làm đi! Công việc tôi đã thực hiện từ chừng ấy năm bắt đầu đơm trái. Vũ khí đã sẵn sàng, các bạn của tôi đã được thông báo... Thế nên chúng ta hãy hợp tác trước khi phải kéo dài thời hạn. Tất cả chúng ta đều làm việc cho nước Pháp, nhưng sự thâm nhập của quốc gia chúng ta vào vùng này không được tiến hành chống đối lại tài năng của những cá nhân. Tất cả sẽ rất đơn giản nếu ngài công nhận những quyền của tôi. Lợi ích của nước Pháp sẽ được bảo vệ rất tốt, ngài ở Conakry và tôi sẽ ở Fouta."

 

 

Ở chặng Talé, trong lúc ông đang ngâm chân để xoa dịu những vết chai chân và nốt sùi giữa các ngón, nhưng cũng vẫn chăm chú xem những chặng lộ trình đi của mình, thì bỗng giật mình trước những tiếng kêu hãi hùng của dân làng:

- Có kẻ cắp! Có kẻ cắp! Chúng tôi đã bắt được một tên
ăn cắp!

Gã Da Trắng trong trang phục thợ đốt lò, kẻ tìm kiếm báu vật lạ lùng! Người ta vừa bắt quả tang hắn đang ăn trộm một con cừu và ai nấy đều chạy đuổi theo hắn để ném đá. Những móng tay móng chân hắn vẫn rất bẩn và bộ râu dài lấm lem bụi đường và các mảnh vỏ cây. Trên tay cầm một cây gậy dài, ở đầu gậy hắn đã buộc một con dao để tự vệ. Tên hầu mà hắn không còn đủ tiền trả lương nữa đã bỏ rơi hắn và cuỗm luôn chiếc nồi nấu và khẩu súng để thanh toán nợ. Olivier de Sanderval huơ súng lên để cứu hắn khỏi bị chết nát vì đá.

- Cám ơn, cám ơn, người đồng bào yêu mến của tôi! Lũ hoang dã này sẽ ăn sống tôi mất!

- Chớ có hả hê quá sớm nhé! Nếu như tôi đã cứu anh khỏi cái chết, chính là để ném anh vào tù đấy.

- Gì cơ?

- Tôi khinh bỉ cùng kiệt những kẻ dối trá, nhất là khi đó lại là những đồng bào của tôi!

- Chúa ơi, nhưng mà ông đang dúi sâu tôi hơn nữa thay bằng bảo vệ tôi! Ông là một kiểu đồng bào kỳ cục, ông ấy mà!

- Nếu tôi mà là Thống đốc, tôi hẳn sẽ cho bắn anh ngay lập tức rồi. Nhưng tôi sẽ đề nghị trưởng thôn lôi anh đến Dubréka và gửi đơn kiện anh đến nhà chức trách Beckmann.

 

- Đó là điều mà người ta gọi là phản bội. Trong thời chiến, ông có lẽ đã bị xử bắn rồi!... Dù gì thì hãy cho tôi một chút rượu vang đi!

Olivier lưỡng lự một chút, rồi mở một chai rượu và rót nửa chai vào một cái cốc nhựa.

- Ô, hãy cho tôi cả chai đi. Ông đúng là đồ keo kiệt!

- Anh là kẻ quá đớn hèn để có thể xứng đáng được hưởng cả chai! - Sanderval dằn giọng trong lúc từ từ đổ hết chai này trước cặp mắt tức tối của kẻ vô giáo dục ấy.

Ông khó khăn lắm mới kìm chế được để khỏi lau gót giày lên mặt kẻ khốn nạn kia, kiểu thực dân hệt như ông vốn khinh bỉ: ngu tối, bần tiện, hám của, một con chuột cống đến các nước thuộc địa chỉ là để hít hà những đồ gia vị và màu chàm!

Từ cảnh tượng trắc ẩn thương hại này, ông rút ra một bài học tổng thể: khi ông là vua, ông sẽ cấm, tại Phi châu, những kẻ thô lỗ, vô đạo, những kẻ hành khất, những kẻ lười biếng, tù khổ sai và lũ lừa đảo.

Đấy, dân Da Trắng trở thành như vậy đấy! Vậy thì ai đây, sẽ tiếp tục tác phẩm của Platon và của Archimède, của Euclide và của Parménide chứ?

A, một giai đoạn hỗn mang! A, thật hỗn mang!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kahel lôi ra các đồ trang trí, những thợ nhào lộn, các kỵ sĩ và những cô nàng chăn gia súc xinh đẹp để chào đón vị quân vương của mình. Người ta cắt tiết vô số cừu và gà, mở một lễ hội bắn súng và cho quân đội duyệt binh. Các vũ công chơi sáo và các nhà thông thái, các nhạc công gõ quả bầu khô và trống tam-tam cho đến tận rất khuya trong đêm. Georges rất hoan hỉ. Cậu chẳng cần phải cố gắng, những thú vui của châu Phi truyền thống tạo cho cậu cùng niềm say sưa giống hệt như cho chính người cha đáng kính của cậu vậy.

Ở Diongassi, địa điểm của nhà ga tương lai giờ đã hình thành rõ rệt, với hàng giậu sắt đẹp đẽ và những đống gạch, những đống khung dựng, những xe cút kít và cuốc xẻng. Ở Fello-Dembi, một thương điếm nhiều tầng và một ngôi nhà rộng hình chữ nhật, đồ đạc bày trí kiểu châu Âu, điểm trang những bông hồng đang đón đợi ông.

Thay bằng cỏ gai, ông gặp lại những thửa ruộng vuông vắn và những cánh đồng chăn thả tuyệt vời, một vương quốc, một sự khởi đầu của một vương quốc, thì dẫu sao cũng là một vương quốc, với đồng tiền và quân đội ba ngàn lính được đào tạo và tập luyện tốt.

Cùng với Georges, ông đi ngược lên những con đường đi dạo rợp bóng xoài và các loại cây ăn quả, thanh tra những đồn điền cà phê và dứa, cao su và cây thùa.

 

Đó quả đã là một phần lớn của thuộc địa rồi đó! Vậy sẽ thế nào khi mà, chẳng bao lâu nữa đến đây, sẽ là những nhà đô thị hóa của Paris, những người làm vườn của Versailles, những thợ gốm sành sỏi của Limogne, những thợ dệt thảm của Aubusson và những kiến trúc gia của Italia chứ!

"Cám ơn cha, cám ơn cha nhiều lắm! - Georges thả hồn chìm đắm ngất ngây, bất ngờ thay đổi bởi hạnh phúc và sự quyến rũ trữ tình. - Kahel, địa điểm tốt nhất trên đời để săn bắn, hít thở không khí của các cánh đồng cỏ đậm mùi hương nhài và mật ong, nhấm nháp rượu khai vị trong sự mát mẻ cuối ngày và để lóa mắt bởi thứ ánh sáng tỏa ra từ một bầu trời luôn luôn đông đặc những vì tinh tú nhỏ!"

Ông để con trai chạy đuổi theo đám con thỏ hoang và đùa giỡn cạnh lũ khỉ những hơn mười ngày liền, mặc những thông điệp ngày càng cấp bách của Bôcar-Biro. Hôm trước chuyến khởi hành đi Timbo, thì một thám báo của Alpha Yaya khiến ông thay đổi lộ trình: Vua Labé cầu khẩn ông đến gặp anh ta ngay lập tức và vào ban đêm, hắn nhấn mạnh, con cừu thám báo ấy, vào ban đêm kia! Ông được dẫn vào vùng lân cận thành hố, trong một ngôi nhà biệt lập, xung quanh loáng thoáng bóng người trang bị vũ khí thì thầm với nhau. Alpha Yaya không chỉ có một mình: bên trái ông ta có Tierno và bên phải, ô hay, đúng là một sự bất ngờ không tưởng, là Ibrahima, kẻ thù lâu năm dù đã có những lúc giảng hòa của ông, đích thân lão già cáu bẳn của Fougoumba ấy! Tierno và Alpha Yaya, điều đó có thể dự đoán được, nhưng Ibrahima và lại vào ban đêm như thế này! Có điều gì xảy ra vậy, lão già mưu mô này có thể muốn điều gì ở ông đây? Đúng là ta đang ở Fouta, nơi mà chẳng bao giờ có gì là chắc chắn hết, nhất là với những người anh em cùng huyết thống và cùng cánh liên minh này. Ông chẳng cần đến thông ngôn để đoán ra điều gì đang được thêu dệt ở đây.

Đất nước này, kể từ đây, ông phát triển, tiến lên với sự thoải mái dễ chịu hệt như khi ở tại lâu đài Montredon của mình. Ông nhận ra ở đó mỗi con sông, mỗi thung lũng, mỗi quả đồi. Hiện tại, ông có thể nhận biết mỗi một khu làng nhờ mùi vị của nó, mỗi một người dân dựa theo cơn ho của người ấy. Thế giới Peul này kể từ đây, ông đã hoàn toàn đắm mình vào nó: ông hiểu được mỗi cái nháy mắt, mỗi cái cúi đầu, mỗi cái hắng giọng muốn diễn đạt điều gì. Người của ông hiện giờ được coi là những đồng cư dân, còn những hoàng tử của xứ sở này thì, nói thật đấy, được coi là những người anh em, những anh em thân mật và kình địch hệt như điều ấy vẫn tồn tại ở mọi chỗ mọi nơi mà vàng, quyền lực và đàn bà là trọng tâm của vấn đề.

Ông đã thành công thiết lập với mỗi người trong bọn họ những mối quan hệ phù hợp với tính cách và hoàn cảnh của từng người. Với Tierno, ông nuôi dưỡng một tình bạn chân thành, mặc dầu làn không khí đã bị biến thoái do những sắp xếp và những trò chơi lợi nhuận mà Lịch sử đã kéo chúng vào. Đó là một con người thông minh, có học vấn, lịch lãm và dễ chịu, người đã thu hút ông bằng tư tưởng tinh tế, khả năng đối lập với bạn, mà không để bạn cảm nhận được điều ấy. Ibrahima, đó là một người Peul mà ông vẫn rất gờm: mặt đỏ, khô nhỏng, có nhiều mấu, kiêu hãnh, cuồng nhiệt và cáu kỉnh. Ông ta thường thích thú truyền tính bẳn gắt của mình sang những người sẵn sàng tiếp chuyện mình nhất, trong lúc vẫn sốt sắng lần chuỗi tràng hạt khổng lồ phát sáng chất lân tinh.

 

Alpha Yaya, con người bí ẩn Alpha Yaya này, ít thân thiện với ông hơn là Tierno, nhưng mối quan hệ của họ còn lâu mới là dễ dàng nhất. Ngay ngày đầu tiên, ông đã bị mê ly trước chàng trai khắc khổ và ủ dột ấy, anh ta ăn ít, nói ít, rất ít chường mặt ra trước công chúng, hiếm khi xuống khỏi ngựa và hài lòng với một bữa ăn bằng một nắm fonio hoặc ba trái cam. Một chàng trai tuấn tú mảnh mai, dong dỏng cao, cương quyết, mang phong cách điền kinh, thông minh, thực dụng và gắn bó với những tham vọng hữu ích! Liên minh lý tưởng đấy, cương quyết, khó sống cùng nhưng dễ chịu trong đàm luận công việc! Nhưng cũng là kiểu kẻ thù phải cảnh giác! Cô độc và giữ khoảng cách, anh ta ghét sự dào dạt tình cảm và tình gia đình. Tóm lại là một kiểu ông hoàng từ trong trứng: liêm sỉ và tính toán, không để bị rầy rà bởi những đắn đo và tình cảm bi lụy. Ông ta nhìn cuộc đời đúng hệt như Olivier de Sanderval nhìn trò chơi cờ: không tha thứ cho sự sai lầm; khi một quân cờ làm vướng chân bạn, thì bạn ăn nó ngay mà không cần đặt câu hỏi gì hết. Có nghị lực và lắm mưu kế, thần kinh luôn hoạt động, anh ta biết rằng trong cuộc chiến tranh dành quyền lực thì những cú đánh hiểm có thể xảy đến bất kỳ lúc nào. Anh ta đã thực thi tập luyện từ rất lâu rồi để tránh được những cú đòn đau ấy và, nếu như phải làm, thì hãy đánh trả lại vào đúng thời điểm và đúng chỗ nhất. Anh ta có một tư tưởng khá sâu rộng và một cơ thể khá nhanh nhẹn để làm điều ấy. Và tối đó, anh ta có vẻ còn u tối hơn nữa, giữ khoảng cách hơn nữa và còn dữ tợn hơn cả các ngày khác:

- Giữa Timbo và Labé đã bốc mùi xấu lắm, Yémé ạ!
Bôcar-Biro đang chuẩn bị xóa sổ các tỉnh, hắn ta muốn một mình ngự trị đấy!

 

- Vậy, chính vì điều ấy mà các anh có mặt ở đây! Tierno và anh thì tôi hiểu được, nhưng còn Ibrahima thì sao?

- Ông ấy đã trang bị vũ khí cho Bôcar-Biro chống lại em trai Pâthé của mình và đã được trả công không xứng đáng: Bôcar-Biro tự quyết định một mình mà không thèm hỏi ý ông ấy. Tuy nhiên, Timbo trị vì còn Fougoumba bỏ phiếu bầu, điều đó chính là truyền thống của chúng ta. Tên Bôcar-Biro này là một kẻ vô giáo dục, hắn không tôn trọng những tập tục của người Peul!

- Bôcar-Biro, người bạn Bôcar-Biro của anh ư?

- Bạn của tôi, người vừa hủy diệt Labé hả? Ô không, Yémé, ô không đâu!

- Fouta là một liên bang, Da Trắng ạ! - Giọng nói khản đặc của Ibrahima gầm lên. Kẻ nào muốn xóa bỏ quy luật này của tổ tiên chúng ta thì không thể là bạn của ai hết!

- Theo nhưng thông tin của chúng tôi, hắn ta chờ phiên họp hội đồng sắp tới để tuyên bố mình là vua duy nhất của Fouta đấy! - Tierno than vãn.

- Chúng tôi đã gửi đến hắn một đoàn đạo sĩ, hắn đã xua đuổi họ bằng những cú đá đít! - Ibrahime lậu bậu.

- Bây giờ, các anh tính làm gì?

Alpha Yaya để làn không khí im lặng nặng nề phảng phất một lúc lâu trước khi đáp lại:

- Nói ra thì buồn lắm, Yémé ạ, nhưng kể từ đây, sẽ là hoặc tôi, hoặc anh ta!

- Hãy cho tôi thời gian để dò ý anh ta xem sao. Sự hòa giải vẫn còn có thể, ơn Chúa! A, đám người Peul các anh đúng là...!

 

- Chúc mừng ý nguyện của anh, chúc mừng ý nguyện của anh nhé, nhưng nếu anh thất bại, lạy thánh Allah, những con dao sẽ lên tiếng.

- Nếu vậy, các anh hãy để tôi quay lại Kahel, đánh thức con trai tôi dậy, tôi sẽ đến Timbo ngay lập tức.

Ông nấn ná viết lại điều này trước khi lên đường: "Nếu giống như mọi học thuyết giả thiết điều đó, chất liệu được tạo lên bởi sự tích tụ hành động của Vô Cùng được hợp thành bởi sự rung mà sự lắc qua lắc lại của nó ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, thì ta chắc phải có thể, trong hàng loạt các cơ thể, cho trồi lên một cơ thể từ hàng của mình lên hàng trước đó bằng cách đối lập với những rung động cấu thành, những rung động ngược lại."

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ở Timbo, vừa đến nơi, ông đã nhận ngay thấy những vết loang lổ để lại do cuộc chiến giữa Pâthé và Bôcar-Biro. Các bức tường đều mang vết thủng lỗ chỗ, các mái nhà và khu lougan đều có vết tích hỏa hoạn. Quần thể nhà ở tuyệt vời của Pâthé đã hoàn toàn bị xóa sổ và gia đình anh ta buộc phải đi biệt xứ.

Bôcar-Biro tiếp ông với nụ cười rạng rỡ và những câu chào hỏi dài lượt thượt. "Đó là dấu hiệu chứng tỏ chuyến đi của mình đến Labé đã chưa bị tiết lộ, - ông nhủ thầm, tâm hồn tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm lâng lâng. - Anh ta vẫn chưa nhét mình vào cùng rọ với Ballay và vẫn coi mình là một thành trì sẽ cứu anh ta khỏi những âm mưu của Fougoumba và của Labé."

Anh ta xếp ông ngồi cạnh mình, đưa mắt quét một lượt xung quanh và khua tay:

- Mọi thứ đã thay đổi, đúng không?

Anh ta đã xây dựng lại hoàn toàn cung điện đã bị sụp đổ do chiến tranh, nhân đôi tường thành, nâng cao hàng rào, củng cố an ninh. Vào thời Almâmi Sory, những vòm cây chỉ giới hạn ở cửa nhà thờ Hồi giáo và các vùng phụ cận cung điện. Hiện tại, chúng tràn lan trong tất cả các con hẻm và mỗi cửa ra vào thành phố. Nhưng Timbo đã không chỉ thay đổi có điều đó. Triều đình đã mất đi vẻ tráng lệ huy hoàng xưa kia của mình. Các hoàng tử, các đạo sĩ và các nhà thông thái, tất cả những gì đã tạo nên sự quyến rũ của Timbo đều đã biến mất để thay vào đó là một đoàn người không có gì nổi bật, chủ yếu bao gồm những thanh niên, tù nhân và những nhà thông thái chẳng tiếng tăm gì.

- Ơ đúng vậy, - Olivier thừa nhận dưới một giọng nhạo báng trong lúc cười lại với anh ta, - tôi chỉ hơi nhận ra Timbo mà tôi đã biết trước đây thôi. Những đạo sĩ và các nhà thông thái của anh đi đâu hết rồi?

- Đó toàn là những kẻ đạo đức giả, thường giấu dao và thuốc độc dưới những nụ cười, và làm việc cho những kẻ thù tồi tệ nhất của Fouta, tôi chẳng cần họ làm gì cả!

- Một triều đình Peul không đạo sĩ và không có các nhà thông thái Mandingue thì chẳng phải là một triều đình, anh đã biết rõ điều ấy, Bôcar-Biro.

- Sự quyến rũ ư! Sự quyến rũ à! Chẳng bao giờ có sự quyến rũ nào đáng giá bằng đoản kiếm hết!

Rồi ánh mắt của Da Trắng rời khỏi Almâmi để xem xét xung quanh mình và mặt ông bỗng trở nên đăm chiêu:

"Bôcar-Biro không phải là một Almâmi của Fouta, trước mặt ta hiện giờ chỉ là một tên lính chiến mà thôi. Fouta, Fouta thực sự, đã rời khỏi Timbo rồi. Đó không phải là một dấu hiệu tồi cho chúng ta đâu."

Giọng nói của Almâmi rung lên khiến ông giật nảy mình.

- Anh đã có thời gian ghé qua Labé chưa?

- Qua Labé à? Nhưng để làm gì?

- Đồng ý, anh chưa gặp Alpha Yaya, nhưng chắc chắn đã gặp Ballay. Ông ta có đưa cho anh một lá thư nào không?

Ông chìa cho anh ta lá thư của Saint-Louis:

- Đọc đi, được viết bằng tiếng Peul đấy!

 

Bôcar-Biro đọc ngay, chẳng mấy chốc nổi đóa và xé ngay tức thì:

- Đồ Da Trắng thối thây! Các người không muốn thương mại, các người không muốn tình bạn, các người muốn Fouta kìa! (Anh ta giận dữ cúi xuống và lấy tay đập mạnh xuống đất.) Đây hả, đây là đất đai của cha ông ta, Da Trắng ạ! Kẻ nào muốn lấy nó thì trước hết, sẽ phải cắt được cổ ta đã và nếu hắn cắt trượt thì ta, ta sẽ không chém hụt đâu, dẫu hắn có là Ballay
hay Yémé!

Chính vào thời điểm đó mà thảm họa xảy đến, và thêm một lần nữa, người bạn Yémé có nguy cơ mất đầu ở Timbo. Đội gác dẫn vào một người đàn ông đầm đìa mồ hôi, người rõ ràng là từ rất xa đến. Gã mới đến này phủ phục chào rất nhanh rồi cúi sát tai Almâmi để thì thầm điều gì đó.

Vị quân vương quay về phía Da Trắng, và đó không còn là giận dữ nữa, mà là sự bình tĩnh, sự bình tĩnh hiền từ, sự thanh thản khủng khiếp của sự thù hằn hiện rõ đầy mặt anh ta:

- Bây giờ, Da Trắng, hãy nhìn thẳng vào mắt ta và trả lời mà không được chớp mắt: có hay không có chuyện anh đã gặp Alpha Yaya, hả?

- Tôi chưa gặp Alpha Yaya! Tại sao tôi lại phải nói dối anh?

- Tôi có ý định cho anh tuyến xe lửa ở Dinguiraye... Thế thì, anh sẽ không đi Dinguiraye nữa... Người đâu, dẫn anh ta đi! Đêm nay ta xem xét những gì sẽ dành cho anh ta!

 

Một cảm giác xa lạ chưa từng có nơi các thành viên gia đình Olivier bắt đầu xâm chiếm con người ông và khiến bụng ông quặn lên: Sự sợ hãi, một nỗi sợ hãi mãnh liệt và không kiểm soát nổi đến nỗi mà ông thậm chí không thèm giấu con trai. Đây không phải là lần đầu tiên Timbo bỏ tù ông, nhưng hoàn cảnh không còn giống nhau nữa. Năm 1880, ông là người mới đến Fouta, ông đã không vướng tội gì, còn cung điện được trị vì bởi một Almâmi thực sự, hiểu biết và tôn trọng các phong tục tập quán. Kể từ khi trở thành một người Peul và là công dân của Fouta, ông đã quá thâm nhập vào công việc của đất nước, nhúng tay quá nhiều vào bầu không khí bí mật đáng gờm và đầy mưu phản của nó, và trước mặt ông, đang trị vì xứ sở là một gã thô bạo, không truyền thống và không hợp pháp, người chỉ tạo ra quyền lực cho mình bằng bản năng chiến binh và bằng những cơn xung năng không thể kiểm soát nổi. Và thêm vào các chuyện đó nữa là lần này, ông không chỉ có một mình, ông đi cùng con trai.

"Mặc kệ, - ông tự nhủ giữa cơn mất ngủ, trong lúc nhìn con đang ngáy khò khò, - ta có thể sẽ buộc phải giết con, con trai ạ, và nuốt lọ cyanure. Con sẽ tha thứ cho cha chứ, hả Georges, nhưng như thế còn tốt hơn là bị tra tấn và sỉ nhục!"

Nhưng ngày hôm sau, một kỵ sĩ đến lôi ông ra khỏi những hoảng loạn hãi hùng để dẫn ông đến cung điện, ở đó, ông bất ngờ trước cái bắt tay nồng hậu của Saїdou và khuôn mặt tươi tỉnh của Almâmi:

- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, Yémé ạ! Anh là một người Peul như tôi, tôi lẽ ra không nên đối xử với anh như thế. Hãy tha lỗi cho tôi vì đã quá tàn bạo. Để chuộc lại sai lầm, tôi những muốn tặng anh một món quà. Thế mà, tôi cứ uổng công nghĩ suy mãi, nhưng chỉ nhìn thấy mỗi Dinguiraye mà thôi. Đó là món duy nhất có thể bù lại cách xử sự tồi tàn của tôi. Anh thấy thế nào?

 

- Gì cơ? Anh cho phép tôi tiếp tục lộ trình đến tận Dinguiraye hả?

- Đúng thế.

- Và khi nào?

- Theo ý anh thôi, Yémé ạ!

- Thế thì ngay bây giờ, trước khi anh đổi ý.

Olivier de Sanderval chào giã biệt và vào lúc đứng lên, Almâmi chìa cho ông một gói đồ:

- Cầm lấy này, khi ghé qua Sokotoro, anh đưa gói này cho Hâdy, em họ tôi, hắn là ông hoàng ở đó. Tôi đã ra chỉ thị để hắn đón tiếp anh đúng lễ bộ mà anh xứng đáng được hưởng và sẽ chỉ cho anh đường đến Dinguiraye. Mong sao sự bình an sẽ tỏa bóng trên lộ trình của anh, Yémé!

 

Dẫn đầu đoàn kỵ sĩ của mình, Hâdy thân chinh đến đón ông để đưa ông vào Sokotoro. Anh ta cho hâm nước nóng để ông tắm, cho kê những bộ giường gỗ thực sự được trải ga thêu còn đống gối thì nhồi đầy kapok và huy động tất cả đàn bà đẹp trong địa hạt mình để tặng ông một bữa ăn xứng đáng với cái danh của ông: mười chín bình đầy những món ăn hảo hạng nhất của Fouta! Cha con ông chè chén no say, được những nhạc công thổi sáo và các nhà thông thái ru ngủ. Mãi sau họ mới hiểu ra, khi mà vào giữa đêm, những cơn nôn oẹ và đau đầu bắt đầu hành hạ họ. Họ thổ ra máu và quằn quại vì đau đến tận sáng. Những phu khuân vác ở tận đầu kia ngôi làng, đã không thể nghe thấy những tiếng nấc và rên ầm ĩ của họ. Chẳng gì ngăn nổi cái chết từ từ mà họ cảm thấy đang dâng dần lên trong họ. Người cha, sau một cố gắng siêu phàm, đã chống được khuỷu tay và gượng dậy để nhìn con trai mình đang chìm trong hôn mê: "Ta hy vọng nó đã chết và lượt ta cũng sẽ không chậm trễ nữa. Chúa ơi, hãy ra tay cho mọi chuyện diễn ra như thế, con van xin Người!"

Ô điều kỳ diệu, ngày hôm sau, vào lúc mặt trời mọc, họ vẫn còn sống, khi chủ nhà nhẹ chân lẻn vào nhà họ và thì thầm những câu khó hiểu với ba người đi sau hắn ta. Nhìn thấy trò con quay bệnh tật của hắn, Olivier de Sanderval cố gắng gom nốt chút lực tàn và sự minh mẫn còn sót lại, lắp bắp thốt lên thành tiếng:

- Rất cám ơn vì bữa ăn!

Người đàn ông giật nảy mình và, miễn cưỡng, ký nhận những lời thú tội của mình bằng hơi thở hổn hển và những câu nói ngắt quãng:

- Các ông vậy là... Ơ, không... vâng, vậy thì... Ơ...

Họ ra đi ngay mặc dù tình trạng rất thảm hại của họ. Người đàn ông đi bộ theo họ cả nửa buổi sáng, mắt liếc săm soi dò xét dáng điệu đờ đẫn và bước đi lảo đảo của họ.

- Hắn muốn nhìn chúng ta chết đấy, con khỉ độc này. Làm ơn đi Georges, con trai của cha, đừng tặng cho hắn niềm vui thú đó! Chúng ta sẽ chết sau. Hãy sống đi Georges, cho dù con có phải trả đến giá nào! Hãy nghĩ đến cuốn Vô Cùng đi! Hãy nghĩ đến con sói của Vigny! Nhất là, hãy tránh để bị ngất xỉu nhé, điều ấy sẽ chỉ khiến hắn hoan hỉ thôi.

Thấy họ vẫn chưa chết, Hâdy chán nản, quay ngược đường bỏ về:

- Allahou akbar! Đấng tối cao đã đứng về phía Yémé rồi! Chẳng ai có thể làm gì chống lại ông ta cả!

 

Georges đổ sụp xuống ngay khi hắn biến mất phía sau những lùm cây.

 

Ba ngày sau, họ vẫn còn sống, thật ra mà nói, ngạc nhiên vì còn tồn tại hơn là sống! Vàng võ, đúng vậy, đờ đẫn, chắc chắn, da bọc xương nhưng còn sống! Nếu như người ta đã không thể lấy được cuộc sống của họ thì chuyến đi, ngược lại, lại hoàn toàn gặp tổn hại: Không thể có chuyện đến Dinguiraye hay Tombouctou được nữa! Trong tình trạng của họ, họ phải khẩn cấp dạt đến một trạm gần nhất nào đó của người Pháp. Họ phải mất cả tuần liền để đến được Tinkisso, những cơn hôn mê xen kẽ sự co giật, những trận mê sảng xen với những cơn nghẹt thở. Với thời gian, Georges cuối cùng đã lại sức, ngược lại, tình trạng của cha cậu tồi tệ đi từng phút. Người ta đã phải di chuyển ngài Sanderval khốn khổ đang bất động, thoạt đầu là bằng xuồng chạy dọc theo bờ sông, sau đó là trên lưng người cho đến tận vùng nước khoáng của Niger.

Ở Siguiri, sau khi đã tiêm và đưa cha cậu lên giường, bác sĩ Durand, thầy thuốc của trạm Pháp, gọi Georges ra một chỗ và buồn bã thì thầm với cậu:

- Cha cậu khó mà trụ nổi quá ba chặng đường. Dẫu sao, tôi khuyên cậu cũng nên tiếp tục lộ trình, điều đó sẽ đưa ông ấy tiến gần lại con đường xe lửa và trạm đóng quân của chúng tôi ở Kayes. Trừ phi nếu cậu muốn án táng ông ấy ở đây.

Georges cám ơn ông ta mà giọng nói không hề run rẩy. Cậu cảm thấy như có chút gì đó hoan hỉ trong giọng nói của bác sĩ, nhưng cậu cũng công nhận rằng, chung quy lại, ông ta có mọi lý do để nói những điều ấy và rằng tốt hơn là nên xích lại gần sự văn minh trước khi chuyện tệ hại nhất xảy đến: trong tiềm thức cậu, điều hết sức tự nhiên là ngôi mộ cha mình phải nằm ở Marseille chứ không phải ở bất kỳ nơi nào khác, bên cạnh mộ của mẹ.

 

Một tuần sau, mạch của bệnh nhân vẫn rất báo động nhưng nhiệt độ đã giảm, và ông đỡ lập cập hơn. Tuy vậy, tin chắc ông sẽ chết trước khi đến trạm sắp tới của người Pháp, Georges cho nhân đôi chặng đường đi, giả điếc trước cơn buồn ngủ và cái đói, trước đàn muỗi, đinh nhọt và những lời ta thán của phu khuân vác. Cậu đã dồn tất cả sinh lực, mọi lý do tồn tại của mình vào một ý tưởng đơn giản và không thể này: xích lại gần Kayes càng nhanh càng tốt, đến được tuyến đường xe lửa trước khi điều không thể sửa chữa xảy đến. Cậu hát những ca khúc chiến binh và tự đọc to những đoạn trong cuốn Vô Cùng để tạo thêm can đảm cho mình. Nhưng phải có trí tuệ bằng đồng để không khỏi gục ngã trước hằng hà sa số những ngôi mộ, nổi lên trên đó là một cây thập tự và một lá cờ Pháp. Chiến tranh đã càn quét góc nhỏ này của quả địa cầu. Bị kìm kẹp giữa những đoàn quân của Gallieni và đám chiến binh não luyện của Samory, đất nước Mandingue này, với những ngôi làng bị đốt cháy và các đoàn người đói lả của nó, vẫn còn chưa hết bị chảy máu. Thi thoảng, cậu ngẫu hứng dừng lại trước một ngôi mộ, phủ lên đó một lớp cành cây và hoa rồi hát vang La Marseillaise trong lúc lia mắt về phía cơ thể cha mình đang ngất đi trên kiệu. Những thuộc địa là thế đấy, luôn có một kẻ thù ở nơi nào đó: trước mặt là những mũi tên tẩm độc của dân Da Đen, sau lưng là những viên đạn phản bội của các căn bệnh... Mặt phải hay mặt trái, cái chết luôn rình rập người Da Trắng!

 

Hai tuần sau lời chẩn đoán u tối của bác sĩ Durand, cha cậu vẫn sống, mặc dù bộ dạng gầy guộc khủng khiếp và những giai đoạn hôn mê dài của ông. Nhưng với tất cả những ngôi mộ nằm bên đường, tất cả những ngôi nhà cháy sém, tất cả những ngôi làng trong cảnh trầm uất, thì không thể thoát khỏi những cám dỗ của số phận ngặt ngèo. Chính vì thế, Georges suýt nữa thì ngất xỉu đi khi vào một buổi sáng, cậu nhìn thấy một trong những phu khuân vác chạy về phía mình và la tướng lên:

- Đến nhanh đi, Georges! Đến nhanh đi!

Cậu bám chặt vào một cành cây keo và đau đớn lắp bắp:

- Ông đã... ông đã đi rồi, đúng không?

- Ba giọt, Georges ạ! Ông đã uống được ba giọt sữa rồi!

 

Được cổ vũ bởi điều kỳ diệu này, cậu cho nhổ trại ngay lập tức, lòng tự nhủ: "Hiện tại, tốt hơn là chơi trò được ăn cả ngã về không và xích lại gần Kayes. Nếu đến đó mà cha còn sống thì cha sẽ có thể được chăm sóc tử tế, nếu không thì Chúa đã muốn như vậy thì sẽ như vậy thôi, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng dễ dàng chuyển cha về nước hơn." Ngày hôm sau, bệnh nhân của chúng ta rời khỏi kiệu và tiếp tục lộ trình trên lưng ngựa, bám chặt lưng con trai. Hôm sau nữa, ông chập chững trên đôi chân mình, dựa vào một trong đám quân của ông. Rồi dần dần, ông bỏ qua nước hãm, bánh bích quy và sữa để đòi một bữa ăn thực sự.

Ở Niagassola, họ xếp hành lý của mình trong trạm của người Pháp: một trung úy trẻ hai mươi lăm tuổi, một trung sĩ, một hạ sĩ, và chừng một trăm tay súng! Thấy cha mình đã khá hơn, Georges đi theo viên trung úy ra chợ để mua đàn lừa mới và lương thực dự trữ. Nhưng những tiếng thì thào không thiện chí và những ánh mắt thù nghịch dõi theo sự xuất hiện của họ. Một gã to con với chòm râu dài, vận một áo chùng lụng thụng của thợ săn xứ Mandingue và một cây đoản kiếm đeo lủng lẳng trước ngực, tỏ ra hùng hổ hơn những người khác. Hắn tiến lại gần viên trung úy trẻ trong lúc tung xoay tròn thanh đoản kiếm của hắn và, bằng một tia phụt dữ dội, nhổ thẳng vào mặt trung úy. Viên trung úy để cho vài giây qua đi rồi bằng một sự bình tĩnh khiến Georges phải ngạc nhiên, giáng thẳng vào mặt hắn một cái tát nảy lửa mà tiếng vang của nó vẳng tới tận các bụi cây xung quanh đó. Hai người đàn ông lườm nhau một cách hằn thù, trong một khoảnh khắc ngắn, không một con ruồi nào dám bay lên. Cả khu chợ rùng lên dưới sự căng thẳng mãnh liệt, đúng là không thể biện hộ nổi đối với đám Da Đen cũng như người Da Trắng. Thế rồi một thằng lỏi con phá lên cười trong lúc chỉ vào gã to con kia:

- Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn! Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn!

Đám đông nhìn nó, đắn đo giây lát rồi đồng thanh lặp lại

- Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn! Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn!

Người đàn ông giơ đoản kiếm của mình lên rồi chạy đuổi theo thằng nhỏ, chẳng mấy chốc kéo theo cả đám đông rền vang trong tiếng gào thét mạnh mẽ:

- Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn! Người Da Trắng đã tát Tiékoro Kélèn!

Buổi tối, vào bữa ăn, Georges thuật lại vụ va chạm cho cha nghe. Xúc động trước hành động mạnh mẽ dũng cảm ấy, Olivier de Sanderval đã đứng dậy để ôm hôn trung úy. Ông không nhận thấy rằng khuôn mặt của chàng trai trẻ đã tái nhợt đi dưới hậu quả của một cơn sợ hãi bị kìm nén quá lâu và bung ra bất ngờ với sự điên cuồng của một cơn sóng thần nuốt trọn cả những bờ kè đê:

- Ngài có thấu chứ, thưa ngài Olivier de Sanderval, ngài hiểu chứ ạ! Hắn ta hẳn đã có thể giết chết tôi, con người thô bạo ấy, và...

Anh ngất xỉu đi trước khi nói hết câu.

Buổi tối, Olivier de Sanderval ghi lại điều này trong những cuốn sổ của mình trong lúc bên cạnh ông, những con người hạnh phúc đang hoan hỉ trong vòng tay bảo vệ của Morphée: "Không cần phải chinh phục xứ Gaule để trở thành Jules César, đôi khi chỉ cần một cái tát là đủ."

 

Ở Kayes, sửng sốt khi thấy ông đến nơi bằng chính đôi chân của ông, Thống đốc Trininian đã đón ông bằng những câu sau:

- Olivier de Sanderval thần tài! Tôi đã đợi ngài với một ly bia, thì bây giờ tôi phải đón ngài bằng một chai sâm banh mới được!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông quay lại Kahel ngay khi hậu quả thuốc độc ngừng khiến máu ông sôi lên và thôi không làm chân ông tê cứng nữa. Kể từ giờ, khó mà thoát được lâu khỏi những điệu nhạc đàn lia của Fouta! Ông vui thú gặp lại âm điệu êm dịu của những nguồn nước chảy, của tiếng sáo, ông hối hả hít thở hương vị của fonio và của cây sả, nếm bơ hoi và khoai sọ nóng. Đất nước này ư, ông không còn nhìn bằng mắt nữa mà ông cảm nhận nó đập trong mình, cùng lúc với mạch máu của ông.

Từ đám sương mờ của giấc mơ đến những hòn sỏi rắn của thực tế, thật là một chặng đường dài! Ông, Olivier de Sanderval, nói tiếng Peul, hít thở không khí Peul, cảm nhận kiểu Peul, đi và đến trong đất nước Peul. Chính xác hơn, ông ở Fouta, Fouta ở trong ông. Còn hơn cả một sự đồng lõa, đó là một sự hòa nhập; còn hơn cả một mối liên hệ, đó là một sự thống nhất kỳ bí! Đúng vậy, thật là một chặng đường dài kể từ trò chơi nhảy lò cò và vận quần xà lỏn, từ khi còn ở kiếp trước, nếu như điều đó có thật! Một trực cảm thuần nhất, hồi đầu, rồi đến một giấc mơ, rồi đến một dự án. Ông hiện giờ đang thực hiện nó, đang hoàn thiện công trình, chỉ còn hai ba động tác quan trọng cuối cùng và chẳng mấy nữa...

Đã hết rồi, giai đọan tiền sử của cha cố Garnier và người đóng thế của ông ấy, Guénolé! Zaratoutsanie đã thôi là một con chimère. Hiện tại, ông bước đi trên những hòn sỏi của ông, giải khát bằng nước của ông, vui thú trong phong cảnh và ăn hoa trái của mình. Và vùng đất hoang dã này, xứ sở thất lạc trong quả địa cầu này, ông đã trở thành thổ dân tại đó, một người bản xứ tinh khiết, thủ lĩnh của một bộ tộc. Tiền tệ của ông tràn ngập các chợ, binh lính của ông thao diễn trên các bình nguyên cao của ông. Ông là người Peul, ông là lãnh chúa và ông chủ của Kahel, hiện tại là đại diện cho một mắt xích không thể thiếu của Fouta. Ông chỉ cần nhích ngón tay lên cũng đủ cho số phận của cả vùng bị lật nhào. Ngón tay ấy, ông sắp sửa thò ra, số phận của Fouta chẳng mấy nữa sẽ bị xô đổ.

Mọi thứ đã tự chúng gạn lọc kể từ chuyến du lịch đầu tiên của ông đến Timbo! Vị thần Tối cao của người Peul đã vui thú ủng hộ ông một cách ranh mãnh. Ông đã thấy Aguibou và Pâthé quá nguy hiểm, thế thì... số phận đã thủ tiêu họ mà chẳng đòi hỏi ông trả công điều gì. Là Alpha Yaya hay Bôcar-Biro đây? Bữa ăn quỷ quái ở Sokotoro đã làm nổ tung những đắn đo ngờ vực: phải thủ tiêu Bôcar-Biro và phải thật nhanh! Con quái vật ở Timbo, đấng Almâmi với khuôn mặt lỗ chỗ do di chứng của bệnh đậu mùa trở thành thanh chặn cửa cuối cùng và duy nhất. Chỉ cần khiến cho nó nổ tung và tất cả sẽ trở thành hiện thực, tất cả: những câu chuyện kể, những bức tranh, những tập bản đồ và Guénolé, hòn đảo san hô của Thái Bình Dương và của Zaratoutsanie.

 

Sau vài ngày trên lãnh thổ của mình, để xem xét các nền móng và kết cấu xây dựng đã được tiến hành đến đoạn nào, lô chuồng gà và các đồn điền, các cánh đồng và chuồng ngựa, ông rời Georges và Mangoné Niang để đến Labé trong đêm tối. Ông gặp lại ba anh em đồng minh của mình trong căn nhà kỳ lạ biệt lập, một bếp lửa gỗ nhỏ đang bốc cháy ở giữa nhà.

- Bôcar-Biro đã phái đám sát sinh đến gặp Ibrahima, anh nghe rõ chưa hả Yémé? Anh ấy đến trú trong nhà tôi.

Có, ông nghe thấy và mới thật an tâm làm sao khi tận tai nghe điều ấy, nhất là Alpha Yaya có vẻ như một con thú khi thốt những từ này: cặp mắt nhỏ khủng khiếp của anh ta phản chiếu những luồng sáng ác độc, môi dưới anh ta run lên, khuôn mặt sưng mọng do tức giận trở thành đỏ tía hiểm ác trong tiếng lách tách của củi lửa.

Giữa Timbo và Labé, giữa hai người bạn thiết xưa kia, vậy là có điều gì đó thật khủng khiếp, điều gì đó không thể sửa đã xảy ra trong lúc ông vắng mặt và chuyện đó đương nhiên không hề khiến ông bất bình tẹo nào.

- Những kẻ sát sinh à, những tại sao thế, hả Chúa ơi? - Ông thốt lên với giọng đạo đức giả nhất mà ông có thể.

- Anh còn hỏi tôi tại sao! Theo anh thì tại sao hắn đã muốn anh chết ở Sokotoro hả, hả?

- Người đàn ông này là một con quỷ! - Ibrahima nói thêm, còn dữ tợn hơn. - Hắn muốn phá bỏ các tỉnh, chỉ để đứng đầu Fouta là bàn tay sắt của hắn ta mà thôi. Đúng là điên khùng!

Tierno, người có thiên tư giữ được bộ dạng bất biến ở giữa biển nước hay biển lửa, giải thích với sự thông tỏ và điềm đạm cái ngu xuẩn, điều phi lý, cái tại sao điên tiết này. Thứ sáu trước, thủ lĩnh tôn giáo và lính gác của luật pháp, Ibrahima, trong nhà thờ Hồi giáo của mình ở Fougoumba, linh thiêng nhất Fouta! - đã tuyên giảng một bài thuyết pháp và bài ấy đã khiến Timbo rất phật ý. Ibrahima đã vướng tội ác nào ở đây? Tội ác kêu gọi lương tri và nhắc cho cho người Peul nhớ vài điều hiển nhiên quý báu. Nên biết rằng chỉ một ngón tay không thể xe sợi vải lẫn ném đá, lẫn gieo hạt, rằng một cành lá duy nhất không thể làm lên cây lớn. Sau thân cây, là các nhánh, sau các nhánh là có các cành, rồi đến các chồi, đến lá... Đến đây, vâng, sẽ có nhựa cây, trái cây và bóng râm. Tại sao chứ, tổ tiên chúng ta với những kiến thức này, đã lập nên Fouta như vậy với một Almâmi, những vua, những hoàng tử, các nhà quý tộc, nông nô... vân vân? Là để cho Fouta luôn luôn có nhựa cậy, có hoa trái và bóng râm, cho ngày hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Than ôi, ngàn lần than ôi, ánh sáng của tổ tiên bắt đầu tàn đi, thời kỳ tồi tệ này đếm được nhiều đêm hơn là ngày, nhiều bọn bất lương hơn là những con người quả cảm! Ông, Ibrahima, đã biết được - và ông hận mình đã biết điều ấy - rằng ai đó đang chuẩn bị chặt đi những cành nhánh của Fouta, thu ngắn sự nở hoa đẹp đẽ này thành một mẩu gỗ duy nhất. Mong thánh Allah, đấng toàn năng, trừng phạt kẻ truyền đi một cái tin như vậy và rằng Người ban cho Almâmi sức mạnh để dự phòng đất nước khỏi một cơn tai biến nhường ấy!

Những lời bóng gió nham hiểm này đã rơi toàn bộ vào tai người nào thì bạn biết rồi đấy!

Lần đầu tiên, Bôcar-Biro đã gửi, nhưng chẳng kết quả gì, những phái viên đến gặp vua xứ Fougoumba để đề nghị ông thu mình lại, thế rồi lần thứ hai, gửi tới bọn sát sinh. Thế đấy, chúng ta đang ở đoạn ấy đấy và đó cũng là lý do tại sao có cuộc họp trong ngôi nhà nhớp nhúa đầy muỗi và chuột, nhưng lại tránh được những nhát dao và những cặp mắt của Timbo. Lúc này, không thèm những cuộc tranh luận rỗi hơi nữa, phải giết Bôcar-Biro hoặc bị chết thảm dưới những đòn của hắn. Ba anh em liên minh kia bàn bạc mưu lược hàng đêm để thảo những kế hoạch. Chết hay sống, Bôcar-Biro phải rời khỏi ngai vàng trong tháng tới đây. Phương thức hành động không quan trọng: đảo chính, hay mai phục, bằng dao hay thuốc độc.

Họ chia tay nhau dưới ý tưởng đó và, do bình minh đã rạng, nên Sanderval được xếp trọ ở cánh trái cung điện. Tốt hơn là nên đợi đêm xuống để ra đi trong bí mật hoàn toàn.

Tầm trưa, một cậu bé xuất hiện trước mặt ông với thịt nướng và trái cây:

- Là một cô gái sùng đạo gửi biếu ông.

- Một cô gái sùng đạo à?

Nhưng cậu bé đã biến mất đằng sau những bức tường. Ông nhìn nó biến đi và tâm trí uể oải suy nhược, bị đè bẹp dưới làn sóng những nghi ngờ và linh cảm xấu. Tất cả những chuyện này rồi sẽ kết thúc như thế nào đây? Nên tin tưởng ai và không nên tin tưởng ai đây? Lão Ibrahima của Fougoumba này, còn ghét ông hơn cả ghét Bôcar-Biro, ông sẽ là đồng minh của lão cho đến tận khi nào? Còn Tierno, chắc chắn là luôn luôn dễ mến và dễ chịu nhưng không bao giờ có thể an tâm tuyệt đối được cả, với những nụ cười bí ẩn và sự cẩn trọng thái quá của anh ta nữa? Alpha Yaya, người tinh tế nhất và cương quyết nhất hơn cả, có một tư tưởng lạnh lùng, nhẫn tâm và tính toán: anh ta luôn thích lợi ích của mình hơn bạn bè và thích quyền lực hơn những lời cam kết. Không ai có thể dự báo trước được phản ứng của anh ta nếu như mọi chuyện sẽ xoay theo hướng xấu. "Quả đúng là, - ông nhủ thầm, - mệt mỏi vì suy nghĩ, ta đang ở trong xứ sở của những người Peul!"

 

Vào buổi hoàng hôn, trong lúc ông đang sửa soạn để lên đường về Kahel, thì ba tiếng gõ nhẹ vang lên ngoài cửa. Một phụ nữ trùm khăn, vận toàn màu trắng và cầm trên tay một cỗ tràng hạt tỏa lờ mờ chất lân tinh, xuất hiện trong khung cửa.

- Taïbou! - Ông kêu lên sau một lúc lâu ngờ ngợ.

- Ngạc nhiên đấy, anh đã nhận ra tôi được ư?

- Hãy giải thích cho tôi đi, tôi van em đấy!

- Tôi đã tuyên thệ từ bỏ tất cả, 1e23b Yémé ạ. Tôi đã quyết định dâng hiến mình cho đấng Tối cao. Tôi đã quay lưng lại với đàn ông, với những đồ trang sức và ngựa trong niềm hy vọng, mà không quá ảo tưởng, rằng Người sẽ tha thứ cho tôi, mặc dù nếu tôi ở địa vị Người thì tôi cũng chẳng tha thứ đâu.

Câu trả lời của nàng khiến miệng ông há hốc, ông đứng chết trân hệt như một pho tượng sáp, ngắm nàng mà không sao thốt ra được dù chỉ một tiếng.

- Tôi đã làm anh sợ ư?

- Ơ không... em... em khiến tôi lúng túng.

- Tôi chỉ đến để chào anh thôi. Vĩnh biệt, Yémé!

Ông chìa tay cho nàng, nàng từ chối. Nàng tiến ra cửa và quay về phía ông, lần cuối cùng:

- Anh ta rồi sẽ giết tôi, Yémé ạ!

- Ai vậy?

- Anh còn muốn là ai vào đây chứ?

- Tại sao, Chúa ơi?

- Anh ta sợ rằng tôi sẽ làm với anh ta như tôi đã làm với anh trai mình.

- Im đi, Taïbou!

- Anh ta sẽ giết tôi và như thế là tốt hơn cả.

 

Nàng hòa vào bóng đêm, để lại âm vang những câu cuối cùng của nàng tràn đầy không gian với sự khắc khoải của mùi hương me mà những thiếu nữ thường xức vào cổ trước khi đến nhập hội đi khiêu vũ.

Ông quay lại các cửa hàng và những trang trại của mình, mà không mảy may nghi ngờ rằng chẳng bao lâu nữa ông sẽ tham dự vào một cảnh tượng mà nó sẽ xáo trộn vĩnh viễn cuộc sống của ông. Điều đó xảy ra vào một buổi chiều trong lúc ông cưỡi ngựa trong trảng vắng để làm hài lòng George, cậu vốn rất say mê môn cưỡi ngựa. Ở chỗ ngoặt một con đường, ông là nhân chứng của một ảo ảnh, một ảo ảnh thực sự, cái gì đó giống như những màn kỳ diệu trong kinh Cựu ước: giữa một cánh đồng bao la, cả ngàn người ngồi bệt ngay trên nền đất, đầu cạo trọc, và tất cả đều vận trang phục thụng trắng, sôi sục lần tràng hạt. Những người này nhắm mắt, những người khác lại ngẩng mặt lên trời. Chìm đắm trong những tiết thánh vịnh hãi hùng của mình, họ không nhìn thấy những người Da Trắng đến nơi. Và thậm chí nếu có nhìn thấy đi nữa, thì họ cũng chẳng để tâm đến. Họ chẳng còn để tâm đến gì hết, những người hành hương này, họ chẳng chú ý gì đến cánh đồng lẫn dòng sông phía dưới, cả khỉ lẫn cây bông gòn, cả chim trời lẫn người. Chẳng có gì dưới gầm trời này còn quan trọng đối với họ. Họ đang chờ đợi ngày tận thế. Ông nhìn thấy cha tinh thần của họ, mà ta nhận ngay ra giữa đám đông với chiếc mũ mục đồng khổng lồ và cây gậy lão trưởng của mình, nghe nói đã có thiên khải từ vài ngày trước đó. Và họ đã tập hợp tại đây, bởi họ nghĩ rằng chính điểm này là nơi tốt nhất để đón ngày tận thế.

 

Với những gì mà ông còn nhớ được, thì ông chưa bao giờ thực sự chú ý đến tôn giáo cả. Đúng ra, ông thậm chí còn không biết liệu mình là Công giáo hay vô thần nữa. Chỉ có điều, cảnh tượng của đám đông toàn màu trắng này, tất cả đều thanh thản và tịnh tâm trước sự kết thúc của số phận thì có điều gì đó khiến cho bức tượng đá cũng phải rùng mình.

Ông xuống ngựa, nhún nhường cởi bỏ giày và ngồi cả hai ngày liền giữa những người đang cầu kinh ấy, không ăn cũng chẳng uống gì. Con trai ông hiểu rằng có điều gì đó nghiêm trọng vừa xảy ra. Cậu không muốn quấy rầy ông, nhưng cũng chẳng muốn để mặc cha mình chết vì đói hay còn có thể phát điên. Sau vô số lần qua lại không thể đếm giữa cánh đồng
và Fello-Dembi, cuối cùng thì, với sự trợ giúp của Mangoné Niang, cậu đã bứt được ông ra khỏi đó và thuyết phục cha mình ăn uống:

- Con chưa bao giờ thấy cha trong tình trạng như vậy,
cha ạ. Có điều gì xảy đến với cha thế? Ơn Chúa, hãy nói cho con nghe đi!

- Thiên khải đó, Georges ạ, đó là sự thiên khải! Những người này không tin, mà họ tỏ rõ niềm tin. Sự tồn tại của đấng Tối cao là chắc chắn nơi họ. Thú vị đấy chứ, đúng không? Rõ ràng đây là lần đầu tiên con người có hẹn với Vô Cùng. Hãy nhớ điều đó nhé, con trai, Phi châu đáng giá hơn bất kỳ cuốn sách nào. Cuối cùng cha hiểu tại sao mà nó lại thu hút cha nhường ấy, cô nàng vô lại này: chỉ hai chúng ta là những người duy nhất chắc chắn rằng Vô Cùng không những tồn tại, mà nó còn ở trong tầm tay.

- Vâng, họ đúng là ngạc nhiên thật, chạ ạ!

 

- Ngạc nhiên, không, được cảm tạ đấy, được ban thưởng đấy Georges ạ! Những người này đã đạt đến sự thiên duyên! Hãy nhìn kỹ họ đi, họ đã sẵn sàng: Đấng Tối cao đến!... Họ đã ở đó trong khi cha, cha vẫn còn đang đi tìm con đường của mình. Con có thấu được không, hả con trai, cả một chương cuốn sách của ta được chú giải ở đây, trên cánh đồng này.

Rồi ông chìm vào một sự im lặng thần bí nhiều ngày liền trước khi trở lại với cuộc sống bình thường. Nhưng từ giai đoạn này cho đến tận lúc chết, ông sẽ có nhiều lúc chìm đi như thế, và những lúc ấy, con trai ông cháy ruột vì lo lắng khi nghe ông độc thoại một cách huyền bí mà không bao giờ biết rõ liệu ông đang sắp xếp lại những suy nghĩ của mình hay đang mê sảng do ảnh hưởng của những cơn sốt.

 

"Sự vô hạn không phải là sự có giới hạn bao la chuyên biệt của Vô Cùng, trọng lượng nguyên tử của Vô Cùng... Hiện giờ cần phải có một sự thật mới chỉ cho chúng ta thấy phần tiếp theo của lộ trình và sử dụng sự cương quyết của tinh thần mà những sự thật trước đó đã làm nảy sinh và tăng sức mạnh trong chúng ta."

Ông chỉ vừa mới viết xong câu này thì những tiếng đập cửa vang lên trong một đêm tối bão giông cuồng nộ. Một bóng người đội ô, nhưng áo quần ướt sũng và dính đầy bùn đất, đến thì thầm với ông điều này trước khi lại biến vào sự hỗn loạn của chớp nhập nhoàng và sấm sét:

- Hãy nghe rõ này, Yémé, Almâmi đã rời Timbo! Ông ta đi về hướng Labé. Một cuộc mai phục đã được dự kiến ở Bantigel.

 

Ngày hôm sau, ông lệnh cho Mangoné Niang tuyển chọn những tay súng tốt nhất và giấu họ dưới những bụi cây ở Bantigel, nơi quân của Tierno và Alpha Yaya đã đợi sẵn, tất cả đều được trang bị vũ khí đến tận răng.

Theo những thám báo, Almâmi chỉ có vài trăm quân. Nhưng ông ta đi đâu như thế: đánh nhau với quân vô thần dị giáo, như ông ta hẳn đã tung tin, hay đến đánh úp bạn mình, Alpha Yaya và vị khách quý cồng kềnh tới từ Fougoumba?

Những lính nỏ và lính súng được tập trung bày trận theo kiểu mà họ không được để bất kỳ cái gì sống sót: cả Almâmi lẫn quân binh của ông ta, cả cỏ cây lẫn ngựa.

Cuộc đọ súng khiến những vực thẳm và vách đá rung lên cho đến tận khi màn đêm buông xuống. Rồi người ta ngoan ngoãn chờ đợi đến sáng để đếm và xác nhận danh tánh những chiến binh tử trận. Ít nhất là một ngàn xác nhưng không một thi thể nào, bạn nghe rõ chứ, không một thi thể nào gợi lên khuôn mặt hay thân thể của Almâmi.

Người ta đếm đi rồi đếm lại: vâng, đúng thế, một ngàn tử thi và không một... Ông ta chắc bị thối rữa ở một nơi nào đó trong rừng rậm rồi, trong một con vực, nếu không thì dưới những rặng tre và những cây leo. Ông ta cũng có thể đã bị lũ sói hay đàn linh cẩu xâu xé; đơn giản hơn, giống như mươi người khác, đã bị suối cuốn đi. Kiểu gì đi nữa, ông ta đã chết, chẳng ai có thể ra khỏi địa ngục đó mà còn sống cả.

Mệt mỏi vì dự đoán, những kẻ chiến thắng hối hả quay về Fougoumba để đăng quang một người hiền lành, một kẻ bù nhìn, một hoàng tử tăm tối và còn trẻ có tên Môdy Abdoulaye.

 

Nhưng vài tuần sau, một đoàn xe từ Sarakolés đến lẳng ra một thông tin huyễn hoặc, nó khiến toàn thể Fouta sợ run lên: Bôcar-Biro đã không bỏ mạng ở Bantignel. Ông ta còn sống, con quái vật ấy, ông ta còn sống từ đầu đến chân kia đấy! Dân Sarakolé đã nhận ra ông ta trong các khu chợ ở Kébou và trong các ngôi làng ở vùng ven biển! Đúng thế, còn sống mà không mang thương tật gì quan trọng và không một vết xước!

Sao lại thế, còn sống sau một buổi chiều bị nã nỏ và súng ư? Chắc là do linh vật rồi, chắc chắn thế Đấng tối cao lòng lành và đấng Tiên tri hẳn sẽ chẳng bao giờ có thể lôi được ông ta ra khỏi một bước đi tồi như vậy. Huyền thoại về Almâmi bất chiến bại, vô hại trước ma thuật và kim loại, được thổi phồng lên như một trận cuồng phong dạt từ đầu này đến đầu kia của Fouta.

Sanderval, người mà lũ ma quỷ Phi châu đã không thể khiến cho lý trí bị suy thoái, thì gặp rất khó khăn để thuyết phục các đồng liên minh của ông điều ngược lại. "Chẳng có gì là kỳ diệu cả, thoát khỏi cái chết hả, tôi đã chẳng làm cả bốn lần trong cùng một tuần ở Sedan. Tốt nhất, trước tiên ta nên kiểm tra và sau đó là phái bọn giết người đến gặp hắn nếu như điều ấy được xác nhận."

Sự thật được xác minh rất nhanh, đó không phải là một huyền thoại: Almâmi, người thật sự, người mà cặp mông đã được tạo ra để ngự trên ngai vàng, vẫn nói và thở hệt như bất kỳ người sống nào. Và đó không phải là một người giống hệt đâu: các thám báo đã nhận ra những nốt rỗ đậu mùa và giọng nói sấm sét không thể bắt chước của ông ta.

Ngay lập tức người ta phái những kẻ đâm dao và thả thuốc độc, những kẻ bóp cổ và thuần ong đến gặp ông ta. Điều đó chỉ làm bất bình người duy nhất theo thuyết Descartes của đất nước Peul, những kẻ sát sinh này làm hết mình nhưng cũng chỉ thu về, nhiều nhất là vài thiệt hại cho các vệ sĩ và những kẻ nếm thức ăn, nhưng không hề chạm được vào Almâmi.

- Anh nói gì về chuyến này hả, Da Trắng? - Alpha Yaya độc ác giáng mạnh lên ông.

- Thì hắn cứ sống ở nơi nào hắn muốn miễn sao đừng bao giờ quay về Timbo nữa - Ibrahima miễn cưỡng nói.

Vài tuần trôi qua sau sự kiện này thì lại có một thông tin mới còn huyễn hoặc hơn gieo rắc hoảng loạn lên tất cả dân chúng Peul: Bôcar-Biro đang tiến về phía Timbo, dẫn đầu một quân đội hùng mạnh gồm người Peul, người Dialonké, Sousous và Nalous.

Lần này thì không thể hành động được nữa, cả mưu phản lẫn mai phục. Chiến tranh, cuộc chiến thực sự, trở nên không thể tránh nổi. Nó diễn ra không xa những nguồn của dòng sông Sénégal, dưới một tảng đá lớn mà, cho đến tận hôm ấy, vẫn không có tên. Bôcar-Biro thắng trận một cách dễ dàng và khải hoàn trở về Timbo. Nhưng ông ta đã gây quá nhiều chết chóc đến nỗi mà người ta kể rằng những con kền kền che kín cả
bầu trời.

Người Peul đặt tên cho nơi ấy là Pétel-Djiga, Hòn đá
kền kền!

 

Pétel-Djiga là điểm mấu chốt, thời khắc ghê rợn mà bắt đầu từ đó Fouta dần tuột khỏi tay người Peul, cho đến tận lúc sụp đổ và rơi vào quên lãng hoàn toàn. Nó tạo ra một biển máu mênh mông không thể vượt qua giữa các hoàng tử và gieo rắc trong tâm trí con dân một cảm giác buồn ảo não và bấn loạn. Những vì tinh tú, những con sông, chó; đêm tối, bình minh, cách cư xử, chẳng còn gì là bình thường sau sự kiện đó nữa.

Alpha Yaya về ngay Labé để tuyên bố độc lập cho tỉnh mình, rồi anh ta cho gọi các đồng minh đến cung điện để dự thảo kế hoạch xâm chiêm Timbo.

Vua Labé muốn bao vây thủ đô và quyết tử một trận tranh hùng. Olivier de Sanderval muốn một điều gì đó kém mạo hiểm hơn, tinh tế hơn, một vụ mưu hại, một vụ đầu độc, một cái bẫy, tất cả những gì có thể mà không đánh thức sự thận trọng của con vật. Nhưng trước vẻ mặt tối sầm của Alpha Yaya, trước cặp môi anh ta rung lên vì giận dữ, thì ông hiểu rằng chẳng nên phản đối mạnh ý kiến anh ta làm gì:

- Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự việc, Alpha Yaya ạ! Theo những thông tin tôi thu thập được thì Timbo, sau Pétel-Djiga giống như một trại lính có thành lũy bảo vệ hơn là một thành phố. Và tôi còn không nói đến quân đội bí mật của hắn ở Nafaya và những đội quân của người bạn Samory của hắn, sẵn sàng bay đến cứu trợ hắn trong trường hợp nguy biến.

Alpha Yaya chỉ nghe loáng thoáng. Anh ta muốn đánh nhau, muốn trả thù cho trận Pétel-Djiga. Anh ta chỉ còn nhìn thấy mỗi điều ấy, chỉ còn hiểu mỗi điều ấy. Anh ta không nói nữa, mà gầm lên, giọng anh ta chính vì thế mà không còn nhận ra nữa.

- Hoặc anh ta hoặc tôi, Yémé ạ, và người đầu tiên trong hai kẻ sẽ nã súng trước, kẻ đó sẽ thắng!

Hai ba ngày trôi đi kể từ lúc diễn ra cuộc trò chuyện nhọc nhằn đó thì người ta chuyển tới họ những thông tin từ Timbo. Môdy-Abdoulaye, hoàng tử bù nhìn đã bỏ trốn ấy, vừa mới quay về thủ đô. Trong một hành động bất ngờ và khó hiểu, Almâmi mà ta không thể tiên liệu nổi này đã xá tội cho người tiếm quyền trẻ tuổi; còn hơn thế, ông ta đã mở hội triều đình để ban bố cho người này một vị trí cố vấn lợi lộc hơn. Chưa hết: trong buổi cầu nguyện trọng thể ngày thứ sáu, ông ta vừa tung ra một lời kêu gọi xin tạ lỗi và hòa giải trước khi thông báo ở Fouta - nơi mà thật sự sẽ không còn gì bình thường nữa - rằng ông ta sẵn sàng tiếp đón Ballay, đương nhiên là có lễ duyệt binh, những lời tán tụng, vàng và kola mà Timbo đã luôn dành tặng cho những nhà thông thái và các thủ lĩnh tên tuổi.

- Tôi không thích thế, Yémé ạ, tôi chẳng thích thế tẹo nào hết! - Alpha Yaya nổi đóa, hai tay ôm đầu. Trong cuộc sống, điều tốt hơn cả là một khi đã là thiên thần thì mãi vẫn cứ là thiên thần, còn lũ quỷ thì muôn đời vẫn là quỷ ghê tởm.

- Lần đầu tiên, chúng ta đồng quan điểm. Tất cả những chuyện này có điều gì đó không ổn, nhất là ở Fouta!

- Tôi nhìn thấy những trận cuồng phong và tang tóc! Thánh Allah nguyền rủa thời kỳ này! - Giọng nói than vãn của một Ibrahima đã hoàn toàn bị giận dữ và tuyệt vọng gặm nhấm, bỗng bùng lên.

- Anh tin vào lòng ăn năn của một Bôcar-Biro không, hả Yémé? - Tierno hỏi.

- Con vật đang cần thư giãn, thế thôi. Nó bị rượt đuổi. Fouta đối với hắn đã trở nên không thể kiểm soát nổi, còn Saint-Louis thì càng ngày càng tỏ ra đe dọa.

- Nghỉ ngơi ư? Chúng ta phải tấn công ngay lập tức. Mỗi một thời khắc để mất sẽ là một thời khắc chiến thắng cho hắn.

 

- Chớ nóng vội như vậy, hãy suy nghĩ kỹ đi! Hãy chấp nhận bàn tay anh ta chìa ra, trước mắt hãy hôn nó, và chúng ta sẽ cắn chúng vào thời điểm thích hợp...

- Lại nữa ư? Bantignel chưa đủ cho anh sao?

- Sẽ không có Bantignel thứ hai đâu. Lần này, tôi sẽ đổ hết cả quân đội của mình vào đó! Thôi nào, chúng ta hãy gửi bò, vàng bạc, các đạo sĩ và các nhà thông thái đến hắn để tỏ dấu hiệu tạ lỗi và làm lành. Anh là người anh em của hắn, bạn của hắn, thần dân nhún nhường của hắn! Anh từ chối cuộc chiến tranh ly khai, anh đã thực hiện cuộc chiến ấy trong một khắc khùng điên! Ông ta hãy đến Labé và anh sẽ bày tỏ lòng trung thành đối với hắn ngay trên mảnh đất của cha ông của anh, trước chính đám con dân của anh, điều này sẽ đáng tin tưởng hơn, có tính biểu hiện hơn, và viễn cảnh hơn.

- Phải tấn công thôi!

- Trong lúc Ballay đang có mặt ở Timbo ư? Chúng ta hãy chờ để xem họ đang mưu toan điều gì đã. Hai kẻ bất lương này ở chung một bang. A không được đâu, điều đó chẳng khiến ta an tâm chút nào hết!

- Tôi nói với anh là phải tấn công trước khi Ballay cung cấp vũ khí cho hắn!

Vào tầm nửa đêm, Alpha Yaya cuối cùng đã nhân nhượng:

- Theo ý nguyện của anh, Yémé ạ, theo ý nguyện của anh nhé! Tôi đồng ý gửi tới anh ta các biệt phái, nhưng cẩn thận đấy, nếu tôi mà còn bị hụt lần này nữa, thì anh, tôi sẽ không để bị hụt đâu.

- Gì hả, anh không còn tin tưởng nơi tôi nữa hay sao?

- Giờ thì tôi chẳng tin tưởng ai nữa hết, Yémé ạ!

 

Ngày hôm sau, Olivier de Sanderval chụp ảnh trước khi quay về Kahel. Ông lia ống kính lên cung điện, những chuồng ngựa, những ngôi nhà biến dạng, những con phố bao đầy những cây dương sỉ và cây me. Trời hôm đó rất đẹp, thứ ánh sáng trắng ấy mơn man trên lớp đất sét trắng trát tường và rắc trên những cây xoài đầy hoa, những bức ảnh đẹp phải biết! Không khí phảng phất một mùi hương tuyệt vời của sả và hoa chanh. Điều ấy khiến tâm trạng ông vui vẻ, ông bắt đầu huýt sáo gió. Bỗng ông bất ngờ thấy khu chợ vắng tanh, khu vui chơi giải trí vắng tanh, chỗ tụ họp để nói chuyện phiếm vắng tanh. Ông thôi không huýt sáo gió nữa. Có điều gì đó lạ lùng, đáng lo ngại đang lẩn quất đâu đây, trong gió. Những lối mòn hình như cũng vắng tanh vắng ngắt và thật ảm đạm. Ông chỉ gặp gỡ một vài khách bộ hành hiếm hoi đi ngang qua, miệng thì thầm trong nhóm hai ba người rồi lại biến mất đằng sau những hàng giậu mà chẳng thèm đáp lại lời chào của ông. Trước cửa nhà thờ Hồi giáo không một bóng người, chỉ có một gã hành khất tiến lại gần ông:

- Da Trắng phải đến tận khu đất hoang Bôwoun-Loko mới thấy cơ.

Ông chẳng để tâm đến điều ấy, nhưng gã hành khất cố năn nỉ trước khi biến mất sau khi đã bỏ túi đồng năm Kahel của ông.

Một mùi thối khẳn nồng nặc xộc lên mũi khi ông đến gần Bôwoun-Loko. Ông ngước mắt nhìn lên bầu trời: một đàn kền kền xẻ ngang dọc bầu trời trong một điệu hòa âm u tối của tiếng vỗ cánh và tiếng kêu inh ỏi. Nằm dài trên cỏ, cái gì đó thu hút sự chú ý của ông: chính vì vật bí ẩn đó mà lũ chim hám mồi kia quần tụ về đây đây mà! Ông nhận ra một cái khố, rồi đến chân và tay, những dải tóc tết thành sam điểm những đồng tiền và đồng caurie. Ông cúi về phía khuôn mặt, săm soi rất lâu cặp mắt bị rỉa và lỗ mũi nham nhở vì dòi và ruồi, chút nữa thì ngất xỉu đi.

- Taïbou! - Cuối cùng ông cũng thốt ra được mấy tiếng kêu ấy, trong lúc ném chiếc ô nhỏ và bộ máy ảnh của mình ra xa.

Khi đã lấy lại được tinh thần, một cách máy móc, ông chạy về phía nhà Alpha Yaya và bắt gặp anh ta đang đọc kinh Coran giữa đám đạo sĩ. Người này ném cho ông ánh mắt như luồng sét và khạc nhổ ầm ĩ, hàm ý nói cho ông hay rằng ông không được tiếp đón nồng nhiệt ở chốn này:

- Điều gì dẫn anh đến đây thế, hả Da Trắng?

- Tôi... tôi đến để nói chuyện với anh!

- Thế thì, hãy ngồi xuống chiếc chiếu kia và phải cẩn thận trước những từ sắp lọt khỏi miệng anh đấy nhé. Nào, anh muốn nói với ta về chuyện gì vậy?

- Về... về... về... Bôcar-Biro!

- A à, tôi biết rõ anh là một người bạn tốt, Yémé ạ! Hãy hình dung là khi đã suy nghĩ chín chắn thì cuối cùng tôi tin là anh có lý, hoàn toàn có lý, ngay khi bắt đầu mùa gieo hạt, tôi sẽ gửi đám biệt phái đến Timbo. Tôi sẵn sàng xin tạ lỗi với Bôcar-Biro với điều kiện rằng anh, anh phải nhân đôi số đạn cho lính của tôi.

- Đồng ý!

- Hãy đem đến cho anh bạn Yémé của ta một con ngựa, và những nhà thông thái của ta hãy tháp tùng ông ấy đến tận Kahel!

Vài ngày sau, vuaz Labé hếch mũi khịt khịt trong không khí và biểu thị một cái bĩu môi ghê tởm:

 

- Ê, dân Peul, các người không thấy có cái gì đó thối khẳn đang bốc lên trong thành phố của chúng ta hay sao?

Khi ấy, và chỉ đến khi ấy, Labé mới dám chôn cất người đàn bà xấu số, và trong một nơi bí mật, nơi mà sẽ chẳng ai đến cúi đầu tưởng niệm bên nấm mồ của nàng, đương nhiên là trừ các thiên thần và lũ chuột chũi, đàn sói và những con linh cẩu.

 

Tuần sau đó, lính gác của ông bỗng bật báo động. Một đoàn lính đang tiến về phía Fello-Dembi.

- Các người đợi gì mà không nổ súng hả?

- Họ không đông lắm và đó là những người hệt như ông, những Da Trắng, Yémé ạ, cùng vài lính dã chiến Da Đen!

- Gì hả, Saint-Louis đã xâm chiếm Fouta rồi sao?

Ông vớ vội ống nhòm, quan sát đoàn người đang leo về phía ông và hết sức sửng sốt khi nhận ra, đi đầu đoàn, là chiếc mũ kê-pi của Thống đốc. Điều ấy khiến ông hết sức sững sờ đến nỗi mà ông đợi đến tận lúc đứng trước mặt ông ta thì mới có thể động đậy mi mắt. Ballay với cây thước kẻ vĩnh cửu trên tay, nhưng nụ cười của ông ta quá rạng rỡ đến nỗi, mặc dù bộ ria và giọng nói, thì ông cũng khó bắt mình tin được đó chính là ông ta.

- Đáng ngạc nhiên đấy, Ballay, có thể nói là ngài rất vui khi gặp lại tôi nhỉ!

- Tại sao lại không, hả Sanderval! Fouta-Djalon hiện giờ đã thuộc Pháp rồi, Bôcar-Biro đã ký giấy rồi! Ngài sẽ phải dưới quyền chỉ huy của tôi, thưa tử tước! Điều đó chẳng khiến ngài vui đâu, tôi ngờ thế. Chỉ có điều Lịch sử là vậy, nó không thể làm hài lòng tất cả mọi người.

 

Ông cho dựng một chiếc bàn lớn ngay giữa sân để đón tiếp các vị khách, dẫu rằng trên thực tế, chính ông đang cần một chiếc ghế và một ly cô-nhắc đầy thì đúng hơn. Ông vừa nghe thấy, đương nhiên rồi, một thông tin khủng khiếp nhất trong đời mình. Số phận của Fouta vậy là vừa mới được phê chuẩn mà không có ông, sau tất cả những năm tháng ấy, sau tất cả tất cả những chi phí, tất cả những lần đau bụng, những trận ỉa chảy, tất cả những lối mòn trong rừng hoang, tất cả những... ấy.
Ông tu liền ba ly và lần nào cũng nốc cạn, rồi cả nửa mình trên cứng đơ lại theo cách mà một tử tội đang sẵn sàng nhận những viên đạn.

Nhưng Ballay, người luôn biết thưởng thức chiến thắng, lại chẳng vội vàng gì. Ông ta bỏ mũ kê-pi, tháo ghệt và bốt, lau trán và sai người xoa bóp chân trong lúc cười cợt thả giàn. Không hề có chút ân hận trong giọng nói! Vấn đề về Fouta-Djalon đã được giải quyết, và được giải quyết một cách vĩnh viễn, thì Olivier de Sanderval lại trở thành một người bạn, một bạn chơi cờ tầm thường, một khách mời dễ mến và trên hết chính điều đó mới là không thể chịu đựng nổi đối với ông hoàng Kahel. Vị Thống đốc chờ rượu hồi, đùi linh dương, rượu vang hảo hạng và cô-nhắc - đương nhiên là phải ăn mừng chuyện đó chứ! - trước khi lục tìm túi xắc cốt của mình:

- Đây, hãy đọc đi mà xem, Sanderval, được viết bằng tiếng Pháp và tiếng Peul đấy!

Sanderval đã dồn hết nghị lực để thề sẽ không run rẩy trong lúc cầm tờ giấy. Khi đọc xong, thì không phải là một tiếng khóc nấc lên mà là một lời nhạo báng thoát ra khỏi miệng ông; cái gì đó ngoài ý muốn và như thuộc giống ăn thịt mà tiếng
vang của nó văng vẳng rất lâu trong các thung lũng và các
ngách sông:

- Điều đó chứng tỏ một cách hiển nhiên, Ballay ạ, rằng ngài sẽ chẳng bao giờ hiểu gì về người Peul hết! Bôcar-Biro đã không hề ký, thay vào đó, ông ta đã chỉ viết "Bis-millâhi" thôi.

Rượu cô-nhắc, hương đồng gió núi, hạnh phúc được thấy Fouta của ông đã không lọt khỏi các kẽ tay ông... vậy thì cuộc gặp gỡ này sẽ kết thúc ra sao đây? Một hình ảnh đơn giản đã khảm vào tâm trí ông: hình ảnh Ballay thúc ngựa leo lên các sườn đồi đầy cỏ của Fouta và nguyền rủa đến mức có thể nhất tất cả người Peul, tất cả các ông hoàng của Kahel, những Almâmi của Timbo, những tử tước của Bồ Đào Nha, tất cả những kẻ quấy rối trên hành tinh này.

 

Mùa đông năm ấy sôi sục vì mưa gió, sấm chớp và sét. Những kẻ cuồng nhiệt và những người mê tín dị đoan tuôn ra rằng đó là bằng chứng chứng tỏ thánh Allah, người phân phối chi cấp những lời nguyển rủa và ân huệ, rốt cuộc đã quyết định trút cơn tức giận của mình xuống mảnh đất Fouta đạo đức giả và toàn kẻ nghịch đạo để trừng phạt nó một lần về tất cả những tội ác và tội lỗi mà nó đã vi phạm.

Ba tháng mưa ròng và tiếng sấm không ngừng rền vang cô lập các làng khỏi các tỉnh, các tỉnh khỏi Timbo, và Timbo khỏi phần còn lại của trái đất. Những biệt phái của Alpha Yaya đã mất cả ba tuần liền để quay về, và phần lớn là bằng thuyền hơn là đi bộ, các con sông và ao hồ đã bị chìm ngậm, thậm chí cả những vùng đất cao. Mặc dù đã hết sức thận trọng, nhưng họ vẫn bị mất một người trong dòng sông Téné đang có lũ, nhưng ngoài chuyện đó ra thì họ đem về những thông tin tuyệt vời: Bôcar-Biro đã chấp nhận lời tạ lỗi của chư hầu thuộc quyền mình. Ông ta sẽ đến Labé ngay khi các con đường trở nên khô ráo. Đã đến lúc đưa con dân Peul ra khỏi bản năng của những kẻ du cư và những trận cãi cọ đồng đảng. Đã đến lúc thích hợp để biến Fouta thành một ngôi nhà hòa bình, nơi mãi mãi chỉ có tình yêu và tình hữu nghị, niềm tin và sự chia sẻ.

Chỉ có điều, trong lúc chờ đợi điều ấy xảy đến, thì lũ lụt đã không chỉ khiến cho những người chăn cừu án binh bất động việc di chuyển súc vật của họ lên miền núi cao, hay khiến các đoàn xe đến Sarrakolés giậm chân tại chỗ mà chúng cũng khiến lịch sử của Fouta dừng lại. Những cây cầu bị sụp đổ và những con đường đầy bùn đất chỉ làm hoãn lại những ngờ vực và những thù hẵn cũ, những lời hứa đường mật và những ý định xấu xa. Ở Labé cũng như ở Timbo, họ đều là những người Peul thận trọng và tính toán. Bằng cặp mắt mình, ai nấy đều nhìn con dao dài mà người kia đang giấu lăm lăm đằng sau những nụ cười và những lời hay ý đẹp.

Hạt fonio được cứu khỏi thảm họa đã nảy mầm và chín, hạt bo bo được dàn ra; khoai sọ cuối cùng đã mọc lên, ngô đã trĩu bắp, vầng dương vui vẻ tháng Mười đã lấy lại quyền hạn tối thượng của mình và dân chúng Peul lấy lại thói quen dệt vải và xe sợi, gặt hái và buôn bán, nguyền rủa và chuyển cừu lên núi cao chăn thả.

Rồi, vào một buổi chiều đẹp trời, một trong những thám báo của Sanderval đã đến tìm ông trên cánh đồng, nơi ông đang giám sát mùa thu hoạch lạc cùng với Georges và Méngoné Niang.

 

- Tôi có hai thông tin mới cho ông, Yémé ạ: một xấu và một tốt.

- Hãy bắt đầu bằng tin xấu đi!

- Bọn Béafada!

- Gì cơ, bọn Béafada đã làm gì?

- Bọn chúng đã ám hại người đại diện của ông, Bonnard!

- Chúa ơi!

- Hiện giờ, hãy nghe thông tin tốt đây, nó chắc chắn sẽ khiến ông vui lên: Bôcar-Biro đã cắn câu. Ngay tại lúc này đây, ông ta đang tiến về phía Labé.

Ông liền viết một lá thư dài chia buồn đến gia đình Bonnard, rồi lên đường đến Labé ngay lập tức.

 

Con cáo già Ibrahima đã có mặt ở đó, các cánh quân của lão tập trung ở cửa đông thành phố. Ông ta có lý, lần này, không được cẩu thả ở bất kỳ điểm nào hết. Với quân đội của Kahel, phải thêm vào các quân của đồng minh, mà không được quên bất kỳ tên lính nào, không được quên một tên phu khuân vác nào, không một tên trinh sát nào, không một viên đạn, không một mũi tên nào hết.

Xung quanh bình nguyên Kahel, người ta giăng ra cái bẫy khổng lồ nhất trong lịch sử của Fouta.

Người ta thông báo đoàn rồng rắn ầm ĩ của Almâmi đến Bhourria, kế đến là Porrédaka, đến Dankaréla, đến Fougoumba... Cuối cùng là Mâci, chỉ còn cách Kahel một ngày đường!

Ngôi làng cuối cùng này, thì Almâmi đã giẫm chân lên điều không may, nói như người Peul vẫn nói thế. Trên thực tế, rất nhanh, cả thế giới bị trật đường ray, các sự kiện bị xô đẩy - với một vận tốc và trong một sự hỗn độn mà không ai đã dự trù trước. Ngày hôm sau, trước lễ cầu nguyện tối, thì số phận của Fouta đã vĩnh viễn bị lật nhào.

Những thám báo của ông ta, đang chờ đợi ở cổng làng, ngay lập tức thông báo cho đấng quân vương về những gì đang thêu dệt ở Kahel. Ông ta đã dự tính một chặng đường hai ngày, đủ thời gian để dò xét các nhà quý tộc và huy động thêm quân, thì ông ta sẽ lên đường ngay khi bình minh hé rạng. Là một chiến binh sorya lọc lõi, chỉ cần một tia sáng lóe trong đầu cũng đủ để ông ta nghiên cứu tình hình và quyết định sự đập trả của mình. Quân của ông ít hơn đám quân trước mặt đến mười lần. Có hề chi, ông đã tham trận hệt thế ở Bantigel và ở Pétel-Djiga: ông dẫu sao cũng đã thoát được trận đầu tiên và đã giã cho họ một trận tơi bời trong trận thứ hai đó thôi! Đây là những gì mà ông sẽ làm: tách quân đội của mình thành ba phần không đồng đều -  đội nhỏ nhất sẽ được sử dụng làm con mồi, hai đội kia sẽ đi vòng sang phía đông và phía tây để đánh úp kẻ thù từ phía sau. Kế hoạch rất tỉ mỉ này được giữ bí mật trong một góc não của ông, ông đi về nơi nghỉ của mình hệt như chẳng có chuyện gì xảy ra và ăn tối một chiếc đùi dê với hạt fonio và hạt kê. Xong đâu đấy, ông cầu nguyện và đi nằm ngay lập tức.

Ông ta không hề biết rằng mình sẽ chẳng yên thân được bao lâu nữa và rằng hoàng triều của tổ tiên ông đang chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng.

Vào giữa đêm, một người đưa tin của thân mẫu ông đến thông báo cho ông một hung tin hãi hùng nhất chưa từng rơi vào tai một đấng Almâmi: quân đội Pháp vừa mới xâm lược Timbo.

 

Ba đoàn quân dã chiến vừa mới tập trung trong thủ đô của ông: một từ Dubréka, cánh thứ hai từ Siguiri, còn cánh thứ ba đến từ Kayes. Thân mẫu ông bỏ trốn, tất cả các nhà quý tộc bị bắt, cờ tam sắc phấp phới một cách tự nhiên nhất trên mặt tiền cung điện của ông. Ông ngay lập tức nhảy phốc lên ngựa và chạy thẳng về Timbo. Ông không biết rằng những người Da Trắng, điên cuồng vì đã không bắt được ông tại nhà, đã lên đường tiến thẳng về Mâci, và rằng, sau lưng ông, những đồng minh Kahel, được thông báo rất nhanh, đã kín đáo theo sau.

Fouta khi ấy tham dự một trò đu quay kỳ lạ: hoạt động của ba quân đội kẻ thù và ai nấy trong ba thủ lĩnh đều sẵn sàng ký hiệp ước với quỷ để khiến cho hai kẻ kia bị thất bại.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong vùng đồng bằng Porédaka: Bôcar-Biro và quân Pháp nằm ở phía cạnh sông; Olivier de Sanderval và toàn bộ quân đội của Fouta ẩn mình trong khu rừng nổi lên trên quả đồi, tham dự trận chiến đấu mà không hề can thiệp.

 

Chuyện kết thúc nhanh chóng: đạn pháo và súng quyết định tất cả trong vài phút. Bị thương, Almâmi đã bỏ lại đó con trai mình, ngựa cũng như phần lớn quân lính. Dẫu sao ông ta cũng thoát đi được và biến mất trong khu rừng rậm.

Tiếng vang của trận đấu vẫn còn chưaa tắt hẳn, thì người ta nghe rõ tiếng ai đó kêu lên:

- Hãy tóm người đàn ông kia lại! Ông ta muốn đến gặp đội quân dự bị của mình ở Nafaya, và kêu gọi viện trợ nơi người bạn Samory của mình đấy! Hãy bắt lấy hắn, tôi nói rồi mà!

 

Tuy nhiên ông đã lỉnh trốn được và chỉ hai hôm sau mới bị phát hiện, nằm bẹp trong ngôi nhà của một thợ lò rèn. Đích thân Becmann đã có vinh hạnh trưng đầu ông ta lên trước bàn dân thiên hạ của Timbo, với khuôn mặt rỗ do bệnh đậu mùa:

- Đây, khuôn mặt khủng khiếp đã khiến cả Fouta sợ run lên đây! Và sẽ là như vậy đối với tất cả mọi người, những ai muốn phản đối lệnh của Thống đốc!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vậy là hết sức đơn giản!

Năm phút chiến tranh và thế là Fouta bị sụp đổ! Trên con đường trở về Kahel, Olivier de Sanderval buồn bã nhìn xung quanh. Ông có cảm giác chính nỗi cay đắng ác độc đè nặng tâm hồn ông đây, cũng đang nghiền nát những quả đồi và cây cối. Cùng lúc với những niềm hy vọng của ông, vẻ tráng lệ của xứ sở này có vẻ như đã tan biến: những màu sắc của các thung lũng kém đi phần huyền ảo, còn những tiếng gầm gào của các con suối thì đã mất đi vẻ trữ tình của chúng! Fouta của ông vừa mới tuột khỏi tay ông, Fouta của ông sẽ mãi mãi không còn như xưa nữa. Cô độc và bâng khuâng trước một sự đổ nát hãi hùng, ông tiến lên, đầu cúi gục, không hề vội vã đề về Kahel.

 

"Các người đã nghe rõ chưa, hả các ông cả bà lớn? Họ đã chém đầu Almâmi. Vầng dương vẫn ở trên đầu chúng ta ấy thế mà Fouta không còn tồn tại nữa!"

Hiện tại, ông đang có mặt trong vùng lân cận của Fougoumba và lơ đãng nghe những bài đồng ca hòa trộn những tiếng khóc than và tiếng rít hí của lũ gia súc. Ông còn phải băng qua dòng sông Téné, xuyên suốt miền đồng bằng Kébali và những khu đất lở của Diembouria...

Ở Porrédaka, họ chia tay nhau mà không nói lời giã biệt: ai nấy rẽ về ngả mình hệt như sau một buổi đi săn bị lỡ dở hay gặp tai nạn.

 

Ông đã ngoan ngoãn chờ đợi cho cuộc chiến đấu kết thúc trước khi ra khỏi cánh rừng. Khi nhìn thấy ông đi tới, một sĩ quan đã ngay lập tức ra lệnh nã súng. Lệnh phản lệnh của Beckmann đã cứu sống ông trong gang tấc. Khi ấy, ông chỉ còn việc rời khỏi chiến trường, dưới những lời chế nhạo của kẻ thù tâm huyết của mình: Beckmann đã chiến thắng, nhưng còn khó chịu đựng hơn nữa, chính hắn đã cứu sống ông. Ông tiến về phía Sankaréla mà không hề bận tâm đến con đường của những người khác.

Ông đi mà lòng trĩu nặng, cương ngựa trong tay và đằng sau ông, chỉ có ba thằng hầu để khuân quần áo, thuốc thang và lương thực cho ông. Đã hai ba ngày trôi qua và ông mãi vẫn chưa về đến Kahel - phải tin rằng nhịp độ bước đi của ông đã bị ngắt quãng hoặc những đỉnh đồi của Kahel đã bắt đầu lùi xa do thảm họa của Porrédaka, chắc chắn là thế.

"Hỡi các bạn của tôi, Fouta đã vỗ cánh bay đi rồi! Một đống bụi đã bị gió cuốn đi! La i lâ i lallâhou! Họ đã giết Almâmi và kho báu của ông ấy đã biến mất!

Có mặt trước cổng những ngôi làng, dân chúng nhìn ông lê bước nặng nề, mà không hề ngỏ với ông một lời. Những ai mà ông chạm mặt ở mỗi đoạn rẽ và trên các bờ sông thì quay mặt đi và biến mất trong đám thực vật um tùm hệt như những cái bóng. Rõ ràng là họ không đồng hài lòng về ông. Ngay chính cả ông cũng không hài lòng về ông. Vả lại, ông chẳng hài lòng về người nào hết. Bôcar-Biro đã chết. Đó chính là điều mà tất cả mọi người mong muốn và bây giờ ai nấy lại đều có vẻ như tiếc nuối điều gì đó, bắt đầu là ông, Olivier de Sanderval... Họ đã tìm ra được một lối thoát, nhưng lối thoát ấy lại trổ xuống một vực thẳm! Hôm qua, mọi thứ còn rất đơn giản, ngày hôm nay, chẳng còn gì là chắc chắn nữa: những công ước, những ý tưởng và cả bạn bè.

Một thứ cảm giác bệnh tật đầy bất ổn và ngờ vực đè nén ông trên suốt dọc chặng đường.

"Và các người có biết gì không, hả các ông cả bà lớn kia? Kho báu của Almâmi đã biến mất. Người ta giết chết Almâmi và kho báu của ông ta đã biến mất!"

Con đường ông đang đi lúc nhúc những hồn ma bóng quế, những câu mà ông nghe thấy thì thực ra lại chẳng nói với ai cụ thể cả.

 

Ông nấn ná vài ngày ở Kahel để thanh toán cho quân lính và những người nông dân, thúc tiến những công trường và giám sát kỳ bắt đầu thu hoạch. Nhất là ông tận dụng dịp đó để rửa sạch đầu mình và sắp xếp lại những ý tưởng. Nỗi lo sợ cho tương lai đã trở nên khó chịu đựng nổi đối với ông hơn cả chứng mất ngủ. Tất cả đã rời xa, tất cả đã trở nên thù địch hoặc xa lạ. Chẳng còn ai để mà gửi gắm, trong đầu không có ý tưởng nào hết! Những cuộc dạo bộ dài trên các trảng vắng và cuộc đi săn gà gô cũng chẳng thay đổi được gì.

Georges và Mangoné Niang lần này khó khăn biết bao nhiêu để lôi ông ra khỏi những khoảng khắc bơ vơ dài chất đầy những đoạn độc thoại dữ dội và huyền bí.

"Họ đã chém đầu Almâmi! Họ đã làm gì với số vàng của Bôcar-Biro chứ?"

Ông vốn không phải là người dễ bị đánh gục, ờ thì chí ít cũng là trước đây! Đó là một con trâu mộng, về thân thể cũng như về tính khí, người không ngần ngại chạy loăng quăng khi có nguy biến: ông lẽ ra phải được ra đời ở Labé hay ở Timbo, chính phải với con vật đó mà các đấng thần linh lẽ ra phải ban cho tâm hồn. Tuy vậy lần này, tất cả đã đổ sụp trong ông. Có những lúc cái chết đến mời chào dụ dỗ ông, ý tưởng đến bảo ông buông mình cho sự say sưa của hư vô, đáp lại lời kêu gọi của những con sóng gầm gào trong các vực sâu.

"Ai mà biết được họ đã làm gì với vàng của Bôcar-Biro? Vậy kho báu của Almâmi đang nằm ở đâu?"

Một hoàng tử danh phận u mờ có tên Oumarou Bademba đã được đẩy lên ngai vàng. Nhiệt thành, Thống đốc, đã đặc biệt rời Saint-Louis đến đây để chứng duyệt sự kiện này...

Những tiếng ồn của các sự kiện dồn đến tai ông cũng vô nghĩa thảm thê hệt như tiếng ríu rít của đám chim hồng hoàng hay tiếng bay vù vù của đàn ong.

Duy sự thật thì lại không bao dung khi người ta quên nó quá lâu. Một buổi sáng thứ hai, ba kỵ sĩ trẻ của Labé đến, một cách bất ngờ, lôi ông ra khỏi sự ủ ê nhu nhược của mình.

- Yémé, Alpha Yaya, Tierno và Ibrahima đã tập họp ở Labé! Họ cho tôi đến kiếm ông.

Ông rũ người ra khỏi tình trạng của mình hơi giống như người ta ra khỏi giường sau một ngày dài biếng lười.

Ông đứng dậy, gọi con trai và đi theo ba người đưa tin trẻ, mà không hề nghi ngờ rằng ông sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại Kahel nữa.

 

Ở Labé, tất cả đều mang miệng lưỡi kẻ thù. Khi ông tới nơi, Tierno quay mặt đi, Ibrahima giả bộ niệm kinh và ánh mắt của Alpha Yaya chẳng biểu thị tí tình người nào hết:

 

- Tôi vừa được biết là một gã có tên Bonnassiès đến để đảm nhận chức chỉ huy của đồn Labé. Đồn Labé đấy! Tôi sẽ đón hắn bằng súng, Yémé ạ! Không có chuyện tôi lôi đất đai của mình ra khỏi móng vuốt của Timbo để tặng nó cho dân Da Trắng đâu! Nhưng các người coi mình là ai mới được chứ, hả trời cao đất dày?

Tierno cũng vậy, và điều đó quả là rất hiếm, khó giữ nổi bình tĩnh:

- Tôi cũng sẽ làm y hệt thế ở Timbi-Touni!

- Quá muộn rồi, đã quá muộn rồi, các người anh em ạ! Tôi đã báo trước cho các anh biết rồi mà! - Giọng nói ghê sợ của Ibrahima nghiến kèn kẹt. - Allahou akbar, cú sét mà tôi lo sợ, thì chính nó đã giáng xuống rồi! Đáng nguyền rủa, đáng nguyền rủa, thời kỳ đáng nguyền rủa!

- Lính các anh băng qua đất của tôi mà không thèm hỏi ý kiến tôi! - Tierno tiếp tục nói.

- Các anh à? Tại sao, tại sao lại là các anh hả? - Sanderval nổi đóa.

Và chính giọng nói tàn nhẫn của Alpha Yaya đáp lại ông:

- Đó là các người anh em của anh, Yémé ạ! Những kẻ Da Trắng giống hệt anh đấy!

Trận tra tấn kéo dài gần một giờ đồng hồ trước khi đến lượt ông cũng nổi khùng lên:

- Vậy các người đi mà nói chuyện với Ballay, lũ chăn gia súc xấu xa và không thể sống cùng này! Chính ông ta, chính vị Thống đốc ấy! Chính ông ta mới là Da Trắng! Còn tôi, tôi là một người Peul, một người Peul hệt như các anh!

 

- A thế hả? Khi trời mưa, anh mang màu trắng, khi trời hanh khô, anh mang màu đen và khi trời có gió, anh chẳng là ai nữa hết. Tôi biết loài vật này, nó tên là tắc kè hoa. Tôi lẽ ra đã phải nghiến nát anh dưới bàn chân mình vào chính cái ngày chúng ta gặp nhau, - Alpha Yaya gầm lên.

Nhận thấy mọi chuyện bị kích động một cách nguy hiểm, Tierno khoác lại bộ mặt mà Da Trắng đã từng biết:

- Kiên nhẫn nào, các người anh em, kiên nhẫn! Quát tháo nhau dẫn chúng ta đến được điều gì nào? Chúng ta sống trong ủ ê thê thảm khá đủ để không nên đóng cửa lại với nhau nữa. Điều chúng ta cần lúc này, đó là một giải pháp và giải pháp đó đang nằm trong tay anh, Yémé ạ. Hãy đến Conakry đi, hãy đến nói chuyện với Ballay!

- Với Ballay ư? Anh muốn tôi nói gì với ông ta chứ?

- Hãy nói với ông ta, hãy nói với những người cùng chủng tộc với anh phải tôn trọng những cam kết của họ: hữu nghị, thương mại, không gì hết ngoài những chuyện đó!

- Nếu không, chúng tôi sẽ nâng súng lên đấy! Hãy nói với ông ta, vị Thống đốc ấy, điều này: ông ta hãy chăm nom công việc của ông ta ở Conakry, còn chúng tôi, những công việc ở Fouta! Ông ta hãy gửi vải vóc và ngọc trai của mình và ông ta sẽ đổi được da bò và sáp ong! Anh sẽ khiến ông ta hiểu được điều đó chứ?

- Tôi sẽ cố gắng, Alpha Yaya ạ, chỉ có điều, với họ tôi là người Peul rồi!

- Và anh là Peul thực sự chứ?

- Các anh sẽ chẳng bao giờ tin tôi, ấy thế mà, do cứ chạy sạt cả sườn đồi của các anh, nhồi tọng toàn những fonio và sữa đông, dùng tiểu xảo và nói dối, do cứ đắm mình vào những phong tục xấu xí kiểu trưởng giả khiến người khác hoảng sợ của các anh!... Nhưng mà thôi, chuyện đó chỉ liên quan đến một mình tôi thôi! Các anh không bị buộc phải tin tôi đâu, ấy vậy mà, tôi cũng thế, tôi là một người Peul đấy! Và tồi tệ hơn cả, tôi thấy điều đó đúng ra là rất thú vị đấy!

Tierno quay đi hướng khác. Ibrahima ngừng hỉ mũi. Alpha Yaya thở dài lão lượt, rồi hắng giọng như để rũ bỏ khỏi giọng nói của mình chất đờm của giận dữ và oán hờn, rồi anh ta chìa tay cho Da Trắng:

- Anh còn nhớ những gì mà tôi đã nói với anh gần dòng sông không, hả Yémé?

- Anh đã nói với tôi rằng: "Buổi sáng này thật kỳ diệu, hãy là bạn của tôi nhé, người xa lạ ơi!"

- Thế thì,... Yémé ạ, mong sao những sự kiện ấy cứ diễn ra, những từ này sẽ vẫn giữ nguyên giá trị!

Sau đó họ chia tay nhau. Người ta giết thịt một con cừu để tiễn hai Da Trắng, họ được mời ở trong một khu phụ của lâu đài. Ngày hôm sau, người ta tháp tùng họ đến tận dòng sông Kokoulo. Nhưng vào lúc nói lời giã biệt, thì Alpha Yaya khoác lại vẻ mặt ông hoàng hãi hùng của anh ta:

- Hãy nghe này, Yémé, nếu những người Da Trắng xâm chiếm Fouta, thì tôi sẽ chiến đấu với họ! Đừng bao giờ quên điều ấy nhé, Yémé!

 

Ông đi thẳng một mạch đến Conakry mà không rẽ qua Kahel. Tierno có lý, ông phải nói chuyện với Ballay, và phải thực hiện điều đó nhanh nhất. Chính ý tưởng đó lẽ ra phải nảy sinh trong đầu ông ngay sau cuộc đấu ở Porrédoka. Chỉ có điều, trong khoảng thời gian ấy, tâm tưởng ông bị đờ đẫn nên khổng thể nhận ra điều hiển nhiên này. Điều đã gây ra quá nhiều chuyện đến nỗi mà cái chết của Bôcar-Biro để lại nhiều nghi vấn! Fouta sẽ trở thành một chế độ bảo hộ? Một thộc địa? Liệu nó có được tự trị không, hay bị thâm nhập vào Guinée thuộc Pháp, thậm chí là với Sénéral hay với Soudan đây? Còn những hiệp ước của ông, trong tất cả các chuyện này là thế nào? Ông phải rảo bước lên. Phải đến được Conakry trước khi Ballay được gọi đến Saint-Louis hay đến một tỉnh xa xôi nào đó. Phải thuyết phục ông ta đối xử khéo léo với các hoàng tử Peul để tránh thảm họa, nhất là hiện giờ những trò bất cẩn của tên đần Beckmann đã báo động con báo Alpha Yaya.

"Nếu dân Da Trắng xâm chiếm Fouta, tôi sẽ chiến đấu với họ!"

Một sự đe dọa của Alpha Yaya, thì ta không bao giờ được xem nhẹ nó!

 

Sự kinh hoàng bao trùm ở Tianguel, chặng đường đầu tiên của ông sau những vách đá ở Guémé-Sangan. Không còn ai dám ra ngoài vào ban đêm nữa: "Một mụ phù thủy đang ám ảnh nơi đây", trưởng làng nói với ông với vẻ nghiêm túc nhất.

- A, người Peul các ông, với những câu chuyện ngủ đứng chứ gì!

- Đây không phải là chuyện dối trá đâu, Yémé ạ! Chính mắt tôi đã nhìn thấy, với mái tóc bù xù và cặp mắt rịn máu của nó. Anh có thể kiểm tra điều này gần nguồn-cây-sậy, người ta nhìn thấy nó lẩn quất tại đó đấy.

 

- Tôi có chuyện khác cần làm hơn, tôi phải xem xét lộ trình và để đôi chân già nua của tôi nghỉ ngơi chút đã để chuẩn bị tấn công đoạn đường ghê gớm ngày mai. Người ta nói rằng dòng sông Konkouré đang vào lũ mà chúng tôi thì phải băng qua nó.

Nhưng ngày hôm sau, lúc đi ngang gần nguồn-cây-sậy cùng với đoàn người ít ỏi của mình, cảnh tượng mà ông tham dự khiến ông nổi loạn vô cùng và quá đỗi đến nỗi mà ông bỏ rơi cả chiếc ô nhỏ của mình. Một đám trẻ con bị kích động cuồng nhiệt đang ném đá vào một người đàn bà thảm thương, ăn mặc rách rưới, người đầy vết lở loét hai lỗ mũi tắc lại bởi gỉ mũi.

- Biến khỏi đây đi, phù thủy già!

Ông giằng một một cái roi trên trảng cỏ và xua đuổi lũ trẻ, rồi quay về phía người đàn bà đáng thương để nâng bà ta dậy. Chính lúc đó, một luồng điện nhanh như sét xuyên qua cột xương sống ông và khiến ông bất động, cứng nhắc như một bức tượng. Ông hít một hơi dài rồi cuối cùng cũng thốt lên được một tiếng kêu:

- Dalanda!

- Yémé!

Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là nàng! Nàng vẫn mang màu da đồng hun, ánh mắt nàng vẫn rạng rỡ và dáng vẻ thiên thần.

- Hãy đưa em đi với anh, Yémé! Dion-Koїn đã chết. Người anh em cùng cha khác mẹ của anh ấy đã thừa hưởng tất cả; ngai vàng, đàn gia súc, và những người đàn bà.

- Hắn đã xua đuổi em ư?

- Hắn nói rằng em đã quá già, hắn nói rằng em đã chưa bao giờ có con. Hãy đưa em đi cùng anh, Yémé!

 

Ông ngắm nhìn bộ dạng rách rưới của nàng, hai lỗ mũi lấm lem máu và cái bướu khổng lồ giữa trán nàng.

- Hãy đưa em đi đi, Yémé!

Ông quay nhìn đám phu khuân vác, mở vội hai ba két hàng, lôi ra những san hô và nhựa thơm rồi đeo đầy lên tay nàng.

- Em xin anh, Yémé, hãy đem em theo anh!

Ông càng bối rối hơn, lại quay về những kiện hàng và đưa cho nàng sô-cô-la:

- Của hãng Marquis đấy, - ông nói rõ, bị lây những cơn rùng mình và run lẩy bẩy của người đàn bà khốn khổ. - Em vẫn thích Marquis chứ?

Nhưng ông chợt nhận ra sự có mặt của Georges và điều ấy khiến ông rối loạn bội phần.

- Người đàn bà điên này là ai vậy cha?

- Đó là... như con nói, một người điên! Một người đàn bà điên mà cha đã quen biết xưa kia và bây giờ lại càng ngày càng điên dữ hơn... Đi nào! - Ông gào lên và đi lên phía trước dẫn đầu đoàn mà không dám ném ánh mắt sau chót lên Dalanda, người vẫn tiếp tục gào lên sau lưng ông:

- Hãy đưa em đi cùng anh, Yémé! Hãy đưa em đi với!

 

Suốt ngày ông bước đi mà không hề mở miệng, cố tránh ánh mắt con trai và xua đuổi tiếng vỗ dồn dập phát ra những nghĩ suy tăm tối đang quấy nhiễu tâm trí ông và đe dọa sẽ nuốt chửng ông. Những thanh chắn của ông bị đổ gục trên mọi hướng; Ông cứ uổng công bấu víu vào những kỷ niệm vui vẻ nhất trong sự tồn tại kỳ dị của mình, nhưng ông cũng không ngăn được ý chí mình cứ suy yếu dần đi. Sự suy tàn của Dalanda không chỉ đơn giản nói lên sự không thể của một chuyện tình, mà nó cũng thông báo đoạn cuối của một ước mơ - những giới hạn của sự vô cùng, nói như ông vẫn nói.

Hoàng hôn đã đuổi kịp trước khi họ băng qua sông. Dòng Konkouré vẫn chưa dứt lũ dẫu đã vào đầu mùa khô: không thể vượt sông được, đêm đã đến rồi. Họ cắm trại trong một khu rừng thưa mà một vách đá la-tơ-rít dựng lên bảo vệ họ khỏi khối bùn rác rưởi nằm đầy trên bờ sông.

Hậu quả gián tiếp, như bữa ăn bị ngộ độc ở Sokotoro chăng? Ông chìm vào giấc ngủ sâu ngay khi tháo bốt ra. Nhưng ông lại tỉnh giấc vào hồi giữa đêm, hoảng loạn bởi những cơn ác mộng và thở hổn hển như một con vật thiếu khí. Ông ra khỏi lều, tay đặt trên ngực và hét lên như thể ông sẽ nhổ ra cả khoang phổi:

- Không... khí! Georges à... làm ơn đi... cho không khí đi!

Con trai ông đã thành công, một cách khó khăn, làm ông dịu đi và dẫn ông quay về giường ngủ. Cậu thấm mồ hôi trán cho cha, xoa bóp ngực và lẩy bẩy vật lộn với hộp thuốc để tìm những viên thuốc và sữa xoa bóp. Tất cả đã trở nên bình thường. Đó là ngày của những điều kỳ diệu, bởi chẳng mấy chốc ông cất tiếng ngáy. Phần còn lại của chuyến đi diễn ra mà chẳng có trở ngại vụn vặt nào, ngoài những cú ngã thường nhật, chứng cứng khớp và những cơn đau bụng không tránh khỏi. Ông lao thẳng đến điện Thống đốc ngay khi cập bến Conakry. Ông bắt gặp Ballay trong văn phòng đang bồn chồn tra cứu đống hồ sơ, cây thước kẻ bất biến trên tay. Những lời chào hỏi xa giao diễn ra chóng vánh, không mặn nồng, và những câu chuyện ngay lập tức đi thẳng vào đề:

 

- A, cụ khốt Sanderval! Sự có mặt cạnh ông chẳng khiến tôi thích thú cho lắm, nhưng tôi thích ông có mặt ở đây, bên cạnh tôi hơn là ở đó trong vùng không thể nắm bắt của ông, Fouta!

- Ô, đó gần như một dấu hiệu của sự ngưỡng mộ, thưa Thống đốc!

- Rồi, điều gì đưa ông đến đây thế?

- Câu hỏi hay thật đấy! Có thể nói tôi chờ đợi ngài mời đến để thảo luận.

- Về tương lai của Fouta hả? Nó không còn can hệ gì đến ông nữa, tương lai của Fouta ấy.

Tất cả những sự kiện này diễn ra chẳng để làm gì: hai người đàn ông này vẫn hoàn toàn đối lập nhau. Cuộc nói chuyện nhanh chóng lấy lại độ nặng luận chiến của nó và âm lượng giọng nói bốc lên. Olivier de Sanderval cố gắng khiến cho đối phương của minh hiểu rằng Fouta phải giữ được quyền tự trị và rằng, khi liên minh với những người như Alpha Yaya, nước Pháp có thể trụ lại ở đó lâu dài. Vua Labé, nước Pháp phải giúp ông ta ra khỏi sự bảo mẫu của Timbo chứ không phải dựng ông ta lên chống lại Timbo. Còn Ballay thì ngược lại, muốn hòa nhập đất nước Peul vào trong thuộc địa của ông ta. Ông ta tính giảm quyền lực của Timbo. Sẽ không chỉ có một Almâmi mà sẽ có hai: một ở Timbo và một người khác ở Dabola. Còn về tỉnh Labé, ông ta tính xé nhỏ thành năm mẩu.

- Mỗi một trong số những người Peul này sẽ có cho mình một hoàng triều, như vậy, ai nấy đều hài lòng.

Còn về những hiệp ước của Sanderval, sẽ không bao giờ được đưa ra bàn nữa. Nước Pháp nồng hậu và vĩnh cửu sẽ nhượng cho ông năm ngàn hec-ta đất trong thung lũng xứ Kolenté, trong đất nước Soussou.

- Đổi lại, ông phải quên hẳn Fouta-Djalon. Tôi cấm ông quay lại đó!

- Fouta-Djalon, đó là nhà tôi!

- Fouta-Djalon không còn tồn tại nữa, Olivier de Sanderval ạ. Chúng ta đang ở nước Pháp, và ở đây, nước Pháp là tôi!

Ông để mặc cho người đàn ông khốn khổ kia bẻ gãy thanh thước kẻ của mình và thở hổn hển vì tức tối trước khi đi ra cửa.

 

Trong sân, Georges, đang đợi ông giữa đống hành lý, vừa khóc vừa báo tin cho ông hay rằng người ta vừa tàn phá trang viên của họ ở Kadê. Dẫu vậy, họ lại chất đồ đạc và, theo sau là những phu khuân vác và đám hầu, ngay lập tức quay lại những con đường hiểm trở để về Fouta. Nhưng, đến tầm khu Gongon, họ vấp phải một toán lính dã chiến, dẫn đầu là một trung úy trẻ Pháp, cũng bảnh chọe hệt như thói ngạo nghễ:

- Tôi được lệnh không để cho các ông qua! Và đừng cố làm gì, tôi sẽ buộc phải nổ súng.

- Nhân danh Beckmann hay Ballay hả?

- Nhân danh nước Pháp, thưa ông!

Ông nhìn con trai như muốn nói với nó: "Chúng ta là những thành viên gia đình Olivier! Chúng ta hãy sử dụng vũ khí của mình đi! Hãy vượt qua!" Nhưng người này lắc đầu buồn bã thuyết phục cha bỏ ý định:

- Cho qua đi cha! Chúng ta sẽ quay lại đó vào một lần khác.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quay lại Conakry, ông thích ở tại nhà mình hơn. Hiện giờ, ông có thể thực hiện điều đó, trong lãnh địa trên mũi đất nhô ra biển của ông. Ở giữa những cây cọ và xoài, kể từ đó ngự sừng sững một ngôi nhà xinh xắn lợp ngói(1), bốn phòng và một cầu thang xi măng dẫn lên một mặt bằng dùng làm sân thượng, có các bức tường thấp bao quanh. Được sử dụng làm bếp, một phòng nhỏ nhô cao hẳn một vòm khiến ta cùng lúc nhớ đến một ngôi nhà của người Peul và ngôi nhà hình lập phương của người Ả-rập; một đại lộ chừng một ki-lô-mét có hàng phượng và xoài bao quanh dẫn thẳng từ nhà ông đến điện Thống đốc. Ông cho san bằng mũi đất để biến thành một khu đất trống phủ đầy rơm, nơi mà tất cả các tối, ông rộng rãi mời những ông chủ thực dân đến thưởng thức rượu, chơi cờ và chơi nhạc ác-mô-ni-ca.

Conakry trở thành một thị trấn nhỏ bé xinh đẹp phân biệt hẳn với rừng hoang, những ngôi nhà hai tầng có thành vịn bằng sắt gò, xếp dãy thẳng thớm chạy dọc những đại lộ mới xây dựng. Có một nhà bưu điện và một nhà dành cho các buổi lễ tết ở Boulbinet, một nhà tù ở Corothie, một trại lính ở Tombo. Sở thuế và sở lao động công cộng vừa mới xây xong. Người ta đang chuẩn bị khánh thành nghĩa địa và văn phòng hộ tịch.

Giữa các xóm nhỏ của Téméné và Baga, thành phố châu Âu sáng lấp lánh một cách tự hào, với những lối mòn được chỉnh chu, nơi các ông chủ thực dân dạo bộ tới lui, bằng xe đẩy hay những cỗ xe ba bánh. Hiện giờ người châu Âu đã lên tới bốn hay năm trăm, trong đó có rất nhiều phụ nữ và vài trẻ em. Thế giới nhỏ bé này giải trí bằng câu cá và săn bắn, chơi bi, uống khai vị trong các trạm du khách và tiếp tục mời nhau ăn tối. Conakry hay cuộc sống vương giả buồn chán của thế giới nhỏ bé khép kín! Người ta chạm mặt nhau đến mười lần mỗi ngày. Kẻ này gièm pha người kia và ngủ với vợ của người nọ. Họ đốt cháy nỗi buồn chán trong các ván bài bơ-lốt, giết chết bệnh sốt rét trong rượu Pernod. Họ đang ở nước thuộc địa, họ chẳng yêu quý nhau lắm, nhưng cần phải xích lại nhau để sống sót khỏi những thù nghịch bên ngoài: đám Da Đen và rừng rậm, đám ký sinh trùng và buồn chán. Cha con nhà Sanderval sống trong cuộc sống tỉnh lẻ Pháp được đem tới dưới bầu trời nhiệt đới; mọi thứ gian giảo và sự phức tạp của hàng xóm láng giềng, nơi tất cả đều được biết, đều bị nhìn thấy, đều bị nghe thấy. Những phong tục của cuộc sống nơi lâu đài biệt lập và những thói quen của con người rừng hoang lọc lõi của họ không được chuẩn bị chu đáo cho họ để sống cuộc sống tù túng này, nhưng họ lại rất vui khi gặp lại những đồng bào mình để chơi cờ, nhấm nháp rượu, thưởng thức một bữa ăn thực sự và nói về ca nhạc kịch hoặc triết học.

Để giết thời gian, họ trồng chuối và dứa trên thửa đất mà người ta đã nhượng cho họ, trong lúc chờ đợi người ta trả lại cho mình những gì họ được hưởng: Fouta-Djalon. Nhưng Ballay chứng tỏ là con người bất biến, mặc dù họ có điểm tựa tại Paris và hằng hà sa số những chuyến thăm viếng của họ tại văn phòng ông ta.

 

Ba tháng sau, Beckmann tới Conakry, từ Timbo trở về, nơi Ballay đã bổ nhiệm ông ta chức quản lý. Ông ta trình lên Thống đốc một lượng lớn báo cáo, chúng khiến người này sôi sùng sục vì giận dữ. Olivier de Sanderval bị triệu tập đến ngay lập tức.

- Một đoàn xe đã bị càn quét ở Boulléré! - Ông chủ xứ Guinée thuộc Pháp gầm lên. - Các nhân chứng tin tưởng kết tội quân của ông. Theo chính những nhân chứng này, ông có lẽ đã lén lút gửi tiền bạc và súng đạn cho người bạn Alpha Yaya. Ông nói gì để bào chữa cho mình đây hả?

- Chẳng nói gì cả, thưa Thống đốc! Chẳng ai có thể tự vệ chống lại một âm mưu hết.

- Cẩn thận đấy, Sanderval! Ông đang muốn coi Nhà tổng quản lý của nước Pháp tại Timbo là người nói dối ư?

- Vị Beckmann của ngài không chỉ là một kẻ nói dối, mà còn là một kẻ cắp nữa kia.

Ông tiến lại gần Ballay để thì thào vào tai ông ta điều gì đó và ra về ngay lập tức. Một giờ sau, một tên lính bản xứ đã thấy ông tóc tai gọn ghẽ và đi giày đàng hoàng như thể ông biết trước rằng anh ta sẽ dến:

- Thống đốc lệnh cho tôi mời ông đến gặp ông ấy.

Ballay đã đang đợi ông trên sân với một bàn cờ và bia lạnh:

- Ngồi đi, Sanderval! Ở đây, chúng ta có thể nói chuyện mà không gây ngờ vực gì.

 

- Ông ta vẫn còn ở đây à?

- Đang ngủ trưa.

Ngài Thống đốc đẩy vài quân cờ trong lúc ném lên Sanderval khốn khổ những ánh mắt đa nghi, trước khi tiếp tục nói:

- Rồi. Giờ ông có thể nhắc lại cho tôi nghe những gì ông đã nói ban nãy không? Và cố gắng sao cho đừng nhầm đấy nhé!

- Tôi nhắc lại cho ngài hay rằng chính cộng sự dưới quyền ngài, Beckmann, đã ăn cắp vàng của Bôcar-Biro. Và rằng chắc chắn để tuồn số vàng ấy về Pháp mà ông ta đã bất ngờ từ Timbo trở về đây.

- Cẩn thận đấy, Olivier de Sanderval, nếu những lời kết tội của ông là sai, thì ông sẽ kết thúc đời mình trong nhà tù khổ
sai đấy.

- Bởi cũng giống tôi, ngài thích chơi cờ, thưa Thống đốc, tôi đề nghị một ván chơi nhỏ thế này: hãy cho lục các va li của người đàn ông này. Nếu ngài tìm thấy vàng của Bôcar-Biro trong đó, thì tất cả những lời buộc tội chống lại tôi sẽ tự chúng tan rã, nếu không, tôi sẽ tự mình xích chân xích tay lại để ngài dẫn tôi đến nhà tù khổ sai.

- Tôi có hai lý do chính đáng để không tin ông: trước tiên, chuyện đó đúng là huyễn hoặc, sau đó là bởi chính ông đấy!

- Tôi chỉ đề nghị một ván chơi thôi, thưa Thống đốc, một ván chơi đơn giản chẳng mất gì và nó sẽ chỉ có lợi để giải quyết tất cả những hiểu lầm giữa chúng ta.

- Tốt thôi, Sanderval, tốt thôi! Điều đó cho phép tôi đối chứng, không phải với Beckmann đáng thương kia, mà với chính ông! Bởi nếu những lời buộc tội của ông là sai, và tôi đã biết rõ chúng là sai rồi, thì Sanderval ơi, cuối cùng tôi sẽ tìm ra phương tiện để rũ bỏ ông. Và lần này thì mãi mãi!

 

Bị kích động trước ý tưởng chẳng mấy nữa sẽ chẳng còn ai quấy nhiễu trong mảnh đất thuộc địa nhỏ bé xinh đẹp này của mình, nên ngay tối đó, Ballay cho lục một cách kín đáo những hành trang của người cộng sự dưới quyền. Trong mười chiếc rương của người này, thì tám cái sáng lóa những hòn vàng. Đó không phải là điều ông mong muốn, vị Thống đốc khốn khổ ấy, nhưng bằng chứng quá lớn, ông không có sự lựa chọn: ông cho bắt ngay vị Beckmann trung thành của mình, xích chân xích tay và tống về nước, trên con tàu khởi hành đầu tiên.

 

Mối quan hệ giữa hai người đàn ông được cải thiện rõ rệt. Họ lại bắt đầu ăn tối cùng nhau và tổ chức những buổi đi săn. Trên mảnh sân chồng chất cánh côn trùng chết, họ dùng một ly bia lạnh và nói về tương lai của các nước thuộc địa hệt như hai người lính già, những người đã từng chăn lợn hay đánh trận cùng nhau. Thi thoảng, bầu không khí trở nên quá thân thiện đến nỗi mà Sanderval buông thả hồn mình: ông ngâm những bài thơ của Sully Prudhomme hay đọc những đoạn dài trong bản thảo cuốn Vô Cùng. Họ cười bả lả, nói về Paris và những phát minh mới, người ta hẳn ngỡ họ là những người bạn thân thiết. Thế rồi, như một sợi tóc vương trong đĩa súp, Fouta-Djalon, cái câu đáng nguyền rủa ấy, vô ý tuột ra khỏi miệng một trong hai người, và thế là lại bắt đầu những câu cà khịa và những lời qua tiếng lại kéo theo hàng tuần dài giận dỗi.

Sự ra đi của Beckmann đã chẳng dàn xếp được gì, về mặt cơ bản, nhưng kể từ đó họ chịu đựng nhau đúng ra là khá tốt: Chính là thế, những con người chịu được nhau vì những điểm chung ngay khi họ có cùng một kẻ thù phải hạ gục! Và điều đó kéo dài ít nhất là một năm trước khi một hố lại được đào ngăn cách họ, cái hố đó quá sâu, quá rộng đến nỗi mà nó sẽ chẳng bao giờ khép lại được, chuyện đó diễn ra sau một vụ rắc rối mà không ai trong hai người có thể dự kiến trước.

Năm 1898, Samory thua trận, Ballay tận dụng dịp ấy để hủy vị thế chế độ bảo hộ của Fouta-Djalon và nhập đất nước này vào thuộc địa của ông ta, cùng lúc với đất đai của thủ lĩnh xứ Mandingue. Ông giằng được một mẩu rừng rậm ở Liberia để làm đầy vùng bán nguyệt kỳ lạ, mà nó sẽ làm lên bộ mặt vĩnh viễn của quốc gia Guinée hiện tại. Ông ta tổ chức lại vị trí các nhà thờ Hồi giáo và các khu chợ cũng như những con lộ của các đoàn xe, tin tưởng một cách chính đáng rằng sẽ không có lịch sử thực dân nếu như, trước hết, đã không có một địa lý thực dân. Ông hủy bỏ các tỉnh và thiết lập thay vào đó những Tổng mà trong đó tất cả các Chánh tổng, kể từ đây là bằng vai phải lứa nhau, sẽ phụ thuộc trực tiếp vào ông ta. Ông hoàng Labé lúc này chiếm cùng một vị trí với những kẻ giữ ngựa mà ông ta vừa chỉ định để làm đại diện của mình trong các quận huyện khó tiếp cận nhất.

Hài lòng về công việc của mình, ông ta ra một sắc lệnh truyền xuống các cộng sự dưới quyền để họ hiểu điều đó:

"Thống đốc xứ Guinée thuộc Pháp, người rất cao cấp, rất có quyền thế, bác sĩ Noel Ballay thông báo cho những người quản lý thuộc địa của mình ý kiến sau đây: tất cả các ông hoàng và hoàng tử được mời đến trình diện ở Conakry...

Ký tên: Thống đốc rất cao cấp và rất có quyền lực, người hiện thân của nước Pháp tại phần đất này của trái đất."

 

Các mõ làng chạy khắp các chợ và khắp phố, tung ra lời nói của vị rất cao cấp, rất có quyền lực, kèm âm thanh của trống và sáo. Tân César của người Peul, của người Nalous, Sousou và Mandingue chuẩn bị tiếp đón lòng trung thành của đám con dân của mình. Alpha Yaya, mà danh tiếng đã lan tới tận những người Ả-rập vì sở thích tráng lệ của mình, đã đến cùng với một đoàn tùy tùng ba trăm kỵ sĩ và năm chục nhà thông thái Mandingue, hát tướng bài ca của mình trong tiếng nhạc của đàn ba-la-fon và tù và. Đoàn người lộng lẫy hoành tráng ấy thu hút tất cả mọi ánh mắt ngay tại cổng vào thành phố cho đến tận khu vườn của cung điện Thống đốc. Ballay, tím người vì giận dữ, chạy biến khóa mình trong phòng làm việc và ra lệnh cho lính gác đến triệu tập Sanderval:

- Là một vố có sắp đặt trước phải không hả?

- Ô, thưa Thống đốc, tôi thậm chí còn không biết Alpha Yaya sẽ đáp lại lời triệu tập của ngài nữa kia.

- Tôi biết giờ mình phải làm gì rồi, Olivier de Sanderval ạ: án binh bất động các người, ông và lũ bạn bè gian giảo Peul của ông. Sẽ chỉ cần bắt cóc đám tù nhân của họ, làm xáo trộn các vòng tuần hoàn thương mại của họ và xây dựng khu ở của chúng ta tại các bộ tộc thù địch với họ để cho băng đảng quý tộc Peul này tan rã hệt như khói khi ta mở tung những cánh cửa. Đúng là một lũ ngạo ghễ! Nhất là tên Alpha Yaya kia! Nhưng hắn coi mình là ai mới được chứ, gã Da Đen này?

- Là vua của Labé. Còn ngài, ngài là ai hả?

- Ra khỏi đây ngay! Hãy ra khỏi đây trước khi tôi cắn ông chết!

Và ông ta bắt đầu bẻ gãy, từng chiếc một, tất cả những thanh thước kẻ nằm trong tầm với của ông ta.

 

Từ hôm đó, một nỗi hận thù không thể băng qua nổi chia rẽ họ và ai nấy trong hai người đều không chịu cố gắng để khiến điều đó tan biến đi. Họ thôi không đi săn cùng nhau, không chơi cờ, thậm chí còn chẳng thèm chào hỏi nhau. Người này có mặt ở trạm du khách ư? Vậy thì người kia ngay lập tức bỏ về. Họ càu nhàu giữa hai hàm răng và quay lưng đi trong những lần mà, do rủi ro, họ chạm mặt nhau trong phố.

Thế rồi vào một tối nọ, trên mảnh sân của mũi đất, các quý bà bắt đầu thì thào với nhau trong lúc nhìn về phía cửa chính. Các quý ông lần lượt đứng lên, tay đưa lên để hạ mũ.

"Thưa các quý bà quý ông, hãy hình dung xem ai có mặt ở đây này? ... Đích thân Thống đốc... Ballay đến nhà Sanderval, và vì lý do gì? Lạy Chúa tôi! Và giờ sẽ có chuyện gì xảy ra đây?"

Thống đốc chậm rãi băng qua cổng chính, lòng bàn tay đập đập lên thanh thước kẻ bất ly thân của mình và đáp lại những động tác cúi chào cung kính bằng cái gật đầu. Một hàng rào danh dự được dựng lên một cách tự nhiên, theo mức độ ông ta tiến lên: những tư thế nghiêm trang, những ánh mắt lo lắng! Lúc này, Thống đốc chỉ còn cách kẻ thù của mình chừng mười mét, rồi tám, rồi năm, rồi ba. Ông ta dừng lại và khiến cho đôi bốt đinh của mình rít lên và bằng một động tác khô khốc đỡ ly rượu sâm banh mà một thằng hầu bưng ra mời ông:

- Tôi có một tin vui cho ông, Olivier de Sanderval ạ! Tôi đã tìm được cho ông năm ngàn héc-ta nho ở Meknès! Tôi đảm bảo với ông rằng Ma-rốc sẽ rất hợp với ông.

- Tôi rất mê châu Phi, thưa Thống đốc, nhưng không thích những vành khăn và cồn cát. Với tôi, châu Phi là đây: những vầng mây hình cự thạch, những cánh rừng không thể tiến vào, những khu đầm lầy bốc khói, những sinh linh nguyên thủy, nhiều thứ nữa, những vị thần đang ngủ vùi này chỉ đợi một dấu hiệu để phát sinh ra một thành Roma mới.

- Tôi không đến đây để nghe một bản hòa tấu hoang tưởng đâu, Sanderval ạ, mà là để giải quyết một vụ việc về tất cả những gì là gọi thực hành hành chính và chúng ta đã nấn ná chờ đợi quá lâu...

- Ngài muốn nói rằng ngài đến để trả lại tôi những hiệp ước ư? Tôi đã biết rõ ngài sẽ quay lại với những mối thiện cảm hơn.

- Tôi không đến để trả ông những hiệp ước, tôi đến để yêu cầu ông phải ra đi.

- Tôi phải ra đi ư? Tôi đã có mặt ở đây trước ngài. Và chính nhờ tôi mà ngài có mặt ở đây, thưa ngài Ballay.

- Một trong hai chúng ta là người thừa ở đây.

- Chính ngài là người thừa, Ballay ạ: đất đai thuộc về người đầu tiên sở hữu nó, hãy đọc kinh Cựu ước đi là rõ!

- Ông là một kẻ vướng chứng nói dối lại còn đội lốt một kẻ quấy nhiễu, Sanderval ạ! Chừng nào mà ông còn có mặt ở đây, thì tôi sẽ không thành công xây dựng thuộc địa được. Dù muốn hay không, ông sẽ phải ra đi!

Ông ta bẻ gãy thanh thước kẻ và đi ra cổng, để lại sau lưng mình một sự im lặng căng thẳng, không thể chịu nổi. Ông ta quay lại lần cuối cùng trước khi leo lên xe kéo và nói, bằng một giọng khản đặc vì tức giận:

- Nhất là, chớ có bao giờ đặt chân đến cung điện nữa, Ai-mé O-li-vi-er nhé!

 

Đám khách mời lưỡng lự, hết nhìn Sanderval lại quay sang Thống đốc, rồi tiến ra cổng theo từng nhóm nhỏ trong lúc lầu bầu và ném lại sau lưng họ những cái nhìn đầy trách móc. Chỉ còn mỗi Pénelet, nhân viên hãng TSF, một ông già độc thân lúc nào cũng hơi chuếnh choáng say nhưng là một người tử tế, đầu óc tự chủ và trung thành với bạn bè.

Trong cả cộng đồng ở Guinée thuộc Pháp, gia đình Sanderval chỉ còn mỗi một người để nói chuyện mà thôi.

Khi đó bắt đầu một thời kỳ dài cô độc và thống khổ. Georges, tuy đã hơn một lần chứng tỏ cậu đúng là dòng dõi gia đình Olivier, một thành viên thực sự, thì đã suy sụp ngay từ những tháng đầu tiên:

- Cha nghĩ rằng chúng ta sẽ trụ được chứ?

- Hãy cho những con người khốn khổ đó một chút thời gian đi! Chắc chắn họ sẽ quay lại thôi. Họ đợi xem Ballay sẽ tiến triển ra sao. Chẳng nên hận họ nhiều làm gì. Họ chỉ bộc lộ đúng những bản chất thật của con người thôi: hèn nhát trước hiểm nguy và hèn hạ trước các bậc vua chúa!

Nhưng các mùa trôi đi và ngoài Pénelet, muỗi và lũ Da Đen, thì chẳng còn ai đến nhà họ nữa. Người ta không còn mời họ đến chơi cờ lẫn các buổi đi câu hay dự các yến tiệc. Các buổi diễu binh và đêm khiêu vũ mừng ngày 14 tháng Bảy diễn ra mà không có họ và những lời đồn đại nổi loạn nhất bắt đầu tràn đi trong phố:

"Tử tước ư! Ô, bạn thân mến ơi, hắn đã đánh cắp nó đấy, danh phẩm quý tộc ấy mà!... Con trai nhà công nghiệp xứ Lyon ư! Bạn tin chuyện đó hả? Hắn đến từ một gia đình thợ đóng thùng gỗ ở Auvergne thì có, chính thế đấy, đấy mới là sự thật!... Và bạn còn biết gì nữa không hả? Đó là một tên trùm cướp bị tất cả các sở cảnh sát châu Âu tìm kiếm đấy... Rốt cục thì ta hiểu tại sao hắn đã không muốn đi khỏi đây!"

Người ta xua đuổi họ khỏi các sân bi, cánh cửa hàng thực phẩm khép lại trước mặt họ. Ở trạm du khách, chỉ còn đám
Da Đen là còn thèm mở lời nói chuyện với họ. Họ phải thông qua Pénelet thì mới có được cá sác-đin và dầu, mới có nến và rượu mạnh.

 

Thay bằng việc dịu đi theo thời gian trôi, thì cơn gió harmattan(1) của những nỗi bất hạnh lại thổi càng ngày càng mạnh lên ở nơi ở khốn khổ của họ, cho đến tận lúc giằng khỏi họ mối liên hệ duy nhất vẫn còn kết nối họ với thế giới loài người.

Vào một buổi chiều, sau giấc ngủ trưa hàng ngày, trong lúc ông ấy đang thưởng thức một ly bia lạnh ngay dưới mái hiên nhà, trong lúc phe phẩy quạt để xua đuổi cái nóng và lũ ruồi,
thì một con báo từ đâu bất thần nhảy xổ vào Pénelet và cắn đứt họng ông.

- Buồn quá cha à, chúng ta chẳng còn ai nữa!

- Rồi con xem, Georges thân mến của cha, họ sẽ quay lại thôi! Không thể giữ mãi niềm oán thù sau một thảm cảnh như vậy được!

"Cái chết đem theo nỗi buồn và tang tóc, nhưng nó cũng được sử dụng để trút bỏ hận thù và khiến cho tâm tưởng con người thanh bình trở lại, - ông thầm nghĩ. - Con người tận dụng dịp ấy để chọc thủng những vết mưng mủ, trút bỏ, trong một khoảnh khắc, những cơn tức tối và những thói bủn xỉn, quên đi những xúc phạm, thấm khô những thù hằn và các món nợ, để lại mở ra một chu kỳ mới cho những điều thú vị và đớn đau."

Nhưng trong trường hợp này thì không!

Cái chết của Pénelet đáng thương chẳng dàn xếp được gì, ôi, chẳng dàn xếp được gì hết! Khi đào huyệt mộ cho ông ấy, đội an táng đã cùng lúc đào thêm một hố sâu không thể lấp đầy giữa gia đình Sanderval và số còn lại của thành phố. Sự thù nghịch chung càng lớn rộng thêm, những người hàng xóm càng nhân rộng sự tàn độc.

Trên đường tới nhà thờ, cha con Sanderval đứng bên trái quan tài còn những người khác đứng hẳn sang phải. Khi những người này mở miệng để hát thánh ca, thì những người kia
bặt tiếng.

 Ngược lại, tấn bi thảm mà số phận đã xô đẩy nháo nhào gia đình Sanderval một cách dữ dội trên tận đỉnh cao của nó, thì đã bắt đầu tan rã một cách khắc nghiệt. Mỗi ngày đến lại trút thêm cho họ sự hỗn loạn, hay lấy đi của họ cái gì đó.

Ngày hôm sau lễ an táng, Georges bị rắn cắn. Một cơn hỏa hoạn đốt cháy trụi đồn điền ở Kolenté của họ... Sáu tháng sau, một ông già gầy guộc, bụng trương tướng, bước qua ngưỡng cổng nhà họ, tay ôm hai sườn một cách đau đớn. Ông ấy băng qua sân và, không đắn đo, bước vào, kéo ghế và ngồi xuống:

- Xin chào Yémé!

- Ông già này muốn gì ở tôi đây hả? Nếu như muốn một đồng, thì nói ông ta hãy xuống bếp đi, bọn hầu sẽ đưa cho, còn nếu vì xin việc làm thì, đã quá muộn rồi, người ta đã đốt cháy đồn điền của tôi! Và chiểu theo tình trạng của ông ấy thì...!

- Tôi biết rõ mà, cả anh nữa, anh sẽ không nhận ra tôi đâu.

- Thế thì hãy nói nhanh cho ta biết đi, anh là ai và anh muốn gì ở ta rồi sau đó, hãy để cho chúng ta được yên! Đã có quá nhiều bất hạnh xảy ra trong ngôi nhà này rồi.

- Tôi là thằng già Mangoné Niang của anh đây và đây là những gì cuộc sống đã nhào nặn tôi đấy.

- Mangoné ư? Mangoné đáng thương của ta, đừng có chỉ nói với ta ngần ấy thôi nhé, chính là anh ư?

- Tôi bị bệnh đã hai năm nay, Yémé ạ. Những người này nói là do dạ dày, một số khác thì nói là do quỷ dữ.

- Ôi, Mangoné đáng mến của ta (một cơn ho đau đớn ngăn ông nói hết câu)... Thế Fouta thân yêu của chúng ta thế nào?

- Cũng chẳng khá hơn anh đâu, Yémé ạ! Alpha Yaya(1) đã giữ lời hứa của mình, ông ta đã gia nhập quân phiến loạn.

Da Trắng lầu bầu điều gì đó, và chìm vào trong cơn sững sờ. Georges phải cố tình húng hắng ho hai lần liền để đánh thức ông. Mangoné lục lọi trong chiếc túi con của mình.

- Đây, đó là những quả xoài cuối cùng trong vườn nhà anh đấy, những quả mà tôi đã giằng khỏi tay lũ khỉ! Ăn đi, Yémé, chúng sẽ khiến anh nhớ đến Kahel!

- Lẽ ra anh phải đến gặp tôi chứ, hả Mangoné khốn khổ ơi! Nhưng vẫn còn chưa muộn đâu, tôi sẽ có thể chữa trị cho anh!

- Không cần đâu, Yémé, tôi sẽ về Rufisque, để chết.

- Thế thì anh phải đi chữa bệnh ở đó nhé. Tôi sẽ thanh toán cho anh, tôi còn nợ anh ít nhất là hai năm lương kia mà.

- Không cần đâu, Yémé, hãy cho tôi tiền vé tàu thôi!

"Đâu là hàng ghế dành cho con người trong vũ trụ này?" Ông đọc lại nhiều lần câu đó và cứ lẩm bẩm độc thoại một mình suốt đêm.

 

Mangoné Niang ra đi để chết ở Rufisque và ngôi nhà của Sanderval bắt đầu giống như một nấm mồ. Sau những Da Trắng, giờ đến lũ Da Đen! Từng người một, những đầu bếp của ông bỏ đi sang làm cho các nhà hàng xóm, những người làm vườn thì đến điện Thống đốc. Ông già Nalou, người duy nhất, đã nhất nhất từ chối bỏ rơi họ cũng đã thành công thổi được lửa dưới chiếc chảo lớn và khai quang lối ra vào với một nghị lực siêu phàm, do mắt của cụ đã mờ và những chứng thấp khớp khiến chân cẳng cụ biến dạng đi.

Đó không còn là một cuộc sống nữa, mà là một chu kỳ dài những khổ ải và nhục nhã.

Những lá thư nặc danh và những đe dọa giết bắt đầu rơi xuống với cùng sự dữ dội và đều đặn hệt như những cơn mưa.

Buổi tối, người ta ném vào nhà ông, người ta phỉ báng bằng những lời thóa mạ và những tiếng kêu thù hằn qua những khe cửa chớp. Người ta ném phân khỉ vào hiên, mèo chết vào vườn nhà họ. Pénelet không còn ở đây để đi mua đồ cho họ tại cửa hàng thực phẩm nữa. Họ sống hệt như thời cổ xưa bằng tất cả những gì, rễ cây, hay các loại củ, vật săn được hay các quả dại, mà thiên nhiên muốn đem đến cho họ.

 

Không chịu nổi nữa, Olivier de Sanderval phải sử dụng cây súng của mình để mang ra được vài thùng lương thực tại cửa hàng thực phẩm. Và chúng đã cho phép họ trụ được thêm hai mùa đông nữa, tiếp đến lại là chế độ nghiệt ngã của rừng rậm: quả dại, rau củ và, thi thoảng là thứ thịt lạt lẽo của lợn bờm(1) hoặc nhím.

Tuổi tác, những thử thách nghiệt ngã bị kéo dài quá lâu... Tình trạng sức khỏe của Olivier de Sanderval suy sụp một cách trầm trọng.

Cơn đau kỳ lạ mà ông là nạn nhân vào năm 1896, bên bờ sông Konkouré, đốt cháy lồng ngực khốn khổ của ông bằng tất cả nguồn lửa dữ dội của nó: thoạt đầu là tháng một lần, rồi đến tuần một lần, rồi đến một lần mỗi ngày trước khi trở lại cùng một nhịp điệu theo hàng giờ. Bắt đầu bằng một cảm giác nghẹt thở, như thể ông đã bị nghẹn một cái gì đó. Ông há to miệng và đưa tay lên ôm ngực, người vẹo đi vì đau đớn: "Không khí! Không khí nào! Cửa... cửa...s...ổ! Mở ra đi! Mở..." Nhưng cửa sổ chẳng bao giờ mở hết đối với ông, lẫn cả hiên nhà cũng không đủ rộng, ngay cả bãi biển cũng không đủ thoáng khí... Đôi khi ông nằm vật trên nền nhà cả hơn nửa giờ liền, đắm mình trong mồ hôi và thở hổn hển hệt như một con vật trút hơi thở
cuối cùng.

Chuyện đó còn kéo dài chừng một hai mùa rồi, đến cùng sức chịu đựng, Georges đã phải cố gắng bằng một sức mạnh siêu phàm để thốt ra những từ đã vật lộn nhau từ lâu trong thanh quản cậu mà miệng cậu không dám để lọt ra:

- Con cho rằng đã đến lúc phải ra đi, cha ạ.

- Con nghĩ thế ư? - Olivier de Sanderval hỏi với ánh mắt nhiệt huyết nhưng cũng chất chứa tuyệt vọng của những chiến binh đã kiệt cùng sức chịu đựng.

- Vâng. Cuộc chiến đấu trở nên mất cần bằng, chiểu theo tình trạng của cha.

- Con, rồi con sẽ quay trở lại đây nhé!

- Con hứa, thưa cha, con sẽ quay lại!

- Con sẽ tiếp tục cuộc chiến cho dù nó có kéo dài cả trăm năm.

- Dù nó có kéo dài cả trăm năm, thưa cha!

- Hãy thề với cha đi, Georges!

- Con xin thề với cha, cha ạ!

 

Ngày 29 tháng mười một năm 1900, chính xác là hai mươi mốt năm kể từ ngày đầu tiên ông xuống tàu đi châu Phi, Olivier de Sanderval nghe thấy ai đó gọi ông trong lúc ông bước qua cánh cửa vào cảng:

- Ta dám đánh cuộc rằng Da Trắng đang đi trước ta đây tên là Yémé!

Ông quay lại và nhận ra người em họ của Bôcar-Biro, chính gã đã suýt đầu độc ông ở Sokotoro.

- Ô, là anh ư, Hâdy? Anh đến đây làm gì vậy?

- Tôi đợi tàu đi Tunis. Tôi đã quyết định làm một chuyến hành hương lớn ở La Mecque. Thế giới đổ sập dưới các tội lỗi kể từ khi các người có mặt ở đây. Còn anh, ta cá là anh đi nghỉ phải không?

- Ơ... Đúng, đúng thế... Đúng thế nhưng... không lâu đâu!

 

- Khi quay lại, đừng có ở lại Conakry làm gì, hãy quay lại Fouta, nơi đó mới là nhà của anh. Anh là một người Peul, đừng bao giờ quên điều đó nhé!

- Anh không còn là vua của Sokotoro nữa, hình như thế nhỉ!

- Tôi là vua ở trong tâm khảm, Yémé ạ! - Người đàn ông đáp lại trong lúc tay đập liên hồi trên ngực.

Sau động tác ấy, anh ta bật ô và quay lưng lại phía ông, với bước đi uể oải và uy nghi chỉ tồn tại ở tộc Peul.

Trong lúc hai cha con tiến gần đến cây cầu bắc để lên tàu, một nhóm chủ thực dân ló ra từ sau cây bao báp đại thụ:

- Vĩnh biệt, tử tước!... Và hãy mặc ấm vào nhé!... Do hiện tượng đóng băng!

Olivier de Sanderval bỏ ngoài tai những lời chế nhạo của họ một cách kiên cường và tiến đến boong tàu trong lúc hai tay ôm ngực, được con trai dìu đi.

Chẳng mấy chốc, trước mặt ông, phong cảnh bắt đầu mờ đi. Conakry khiến ông nghĩ đến một chiếc bảng đen học trò chất đầy hình ảnh mà một bàn tay nhỏ bé của đứa trẻ tỉ mỉ xóa dần đi từng nét một. Những đỉnh ngọn cây và những mái nhà lấp lóa từng lúc ngắn ngủi rồi tắt lịm hệt như những con đom đóm.

Trước tiên là dãy tre và rừng sú vẹt bao quanh phía sau đảo, rồi đến mái nhà bệ vệ của điện Thống đốc, rồi đến các trục cần cẩu trên cảng và cành lá xoài...

Các hòn đảo của quần đảo Loos: Kassa, Fotoba, Tamara... đảo Trắng, đảo San hô, đảo Gà, đảo Fousset...

Lá theo lá, cây cọ nối tiếp cây cọ, Phi châu, dần dần, khép lại những bí mật của nó.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ñoaïn cuoái

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ ngày 16 tháng Giêng năm 1901 đến ngày mùng 3 tháng Ba năm 1910, Olivier de Sanderval có mặt tại Bộ Thuộc địa cả thảy là một trăm bốn mươi bảy lần. Mặc dù tuổi già và bệnh tật, một tối, ông đến Paris để cố thử thêm lần thứ một trăm bốn mươi tám. Ngày hôm sau, ông quyết định đi bộ đến sở để tận hưởng ánh nắng tuyệt vời của mùa xuân mới đến.

Lúc ấy, ông có mặt ngang tầm đền Invalides và không hề ngờ rằng vụ va chạm rất vu vơ, sẽ xảy ra vài phút sau đó, sẽ vĩnh viễn bẻ gãy những giấc mơ về hoàng triều và Fouta-Djalon của ông.

Trước cánh cửa lớn của Bộ, ông bất ngờ bị một cú mạnh giáng vào đầu. Ông quay nhanh lại: chẳng có gì cả, chẳng có gì ngoài một trái bóng bị tuột khỏi tay một thằng bé. Đứa trẻ để mặc bà cụ già đi cùng nó, rồi chạy vội về phía ông để lấy lại
đồ chơi.

- Hãy cẩn thận đi nào, chàng chiến binh nhỏ bé ạ, cháu đã chút nữa thì khiến ta ngất xỉu đấy, - Olivier de Sanderval nói với nó... - Cháu rất xinh giai, hừm, cháu biết chứ!... Cháu muốn ăn kẹo không, đây, cầm lấy này, là sô-cô-la đấy, hãng Marquis!

Đúng lúc đó, giọng nói khó chịu của bà già bắt đầu rền lên:

- Đến đây ngay, Jean-René! Hãy để quý ông đó được yên đi!

Thằng bé nhặt trái bóng rồi quay về phía người đàn bà:

- Ông ấy là ai vậy, hả bà?

- Thôi nào, đến đây đi, ta nói với cháu rồi cơ mà! Đi nào, chúng ta không nên nấn ná ở đây... Đó là... Đó là ông đóng băng đấy! - Bà ta tiếp tục nói, giọng nhỏ xuống.

 

Ông nhìn họ đi xa dần, lòng tràn ngập nỗi buồn. Hai chân ông nhủn đi, tất cả rối bời trong đầu ông. Ông bám vào hàng cửa sắt và để ánh mắt ủ rũ của mình lang thang trong tiền sảnh và sân của sở. Nhưng rất nhanh, hình ảnh đi lại không ngừng của các sĩ quan và đám công chức nhường chỗ cho những hình ảnh, già nua và lẫn lộn, của cuộc đời đầy xáo trộn của ông. Một cảm giác ghê tởm sâu xa ứa lên họng ông. Ông khạc nhổ qua cánh cửa sắt và rời khỏi chốn đó với một vận tốc của những kẻ sùng đạo trốn khỏi nơi sa đọa. Ông về tới khách sạn và ngay lập tức yêu cầu thanh toán. Rồi ông cho gọi xe taxi và nhảy lên chuyến tàu đầu tiên.

Ông không bao giờ đặt chân lên Paris nữa.

 

Già nua và bị phá sản, ông dần dần ẩn mình trong việc viết tiếp tác phẩm Vô Cùng. Nhưng Vô Cùng, ông không hài lòng viết nghị luận về nó nữa, hiện giờ ông muốn tiến hành công việc thực hiện nó. Tinh thần của con người bị hao mòn đi, ông tự nhủ, thế giới cảm thấy bị chẹn lại, nó cần một tôn giáo mới. Vì mục đích ấy, ông liền thành lập một hội tôn giáo hoàn toàn mới mẻ: Những tông đồ của Vô Cùng mà chính ông là người thuyết giảng, lưng khoác tấm khăn choàng dài đỏ rực, với sự trịnh trọng kiểu cách của đại giáo sĩ và sự thông tuệ của nhà bác học. Tìm đến lánh mình trong Giáo đoàn kỳ lạ này là tất cả những ai mà Marseille cho là thần bí và có thần cảm: những kẻ say mê thuyết thông linh, những người thất vọng về học thuyết vô thần và giáo lý Công giáo, những môn đồ của Thiền tông và của pháp thuật, những người theo chủ nghĩa duy lý thâm căn cố đế và những người yêu say mê triết học Hindou. Vấn đề không còn là tin bằng cách chất thêm những nghi thức điên rồ kỳ cục và thói mê tín dị đoan. Kể từ đây, phải chứng minh nó. Khoa học đã khá tiến bộ trong thời kỳ đầu của thế kỷ XX này để có thể minh họa bằng A + B sự tồn tại của Chúa. Vô Cùng, không cần phải tưởng tượng ra nó nữa, mà hiện giờ ta phải thực hiện nó!

Cả thế giới nhỏ bé đó náo nức bận rộn trong khu nhà biệt lập Clary. Họ pha trộn những thể béo, họ nấu sôi các hợp chất a-xít, họ đo sự biến đổi nồng độ đậm đặc của thiếc tùy theo một con số không thể tính theo bảng thông số. Sau công việc thực hành, đại giáo sĩ khoác khăn choàng dài đỏ rực tập hợp thế giới nhỏ bé của ông tại thư viện, nơi mà, thay bằng câu châm ngôn ông đã trương lên những dòng chữ này:

"Vũ trụ không nằm trong Vô Cùng như một cơ thể nằm trong không gian, nó thuộc về Vô Cùng. Sự Tương Đối không nằm trong không gian, nó nằm trong Vô Cùng; nó tồn tại, nó sống, nó tự chết bắt đầu từ Vô Cùng và do nó; hoạt động của nó là bản chất bắt đầu và kết thúc trong Vô Cùng. Vô Cùng tiếp tục, bị biến đổi trong Tương Đối, trong Bản Chất mà nó tạo nên. Không có thời kỳ nào có thể không có Vô Cùng lẫn là một cái gì đó khác ngoài Vô Cùng, được ổn định như vậy sẽ thấp hơn điều cần thiết cho tinh thần của chúng ta, nhờ Vô Cùng mà chúng ta đã có khả năng dự kiến, còn cao hơn cả Vô Cùng, một..."

Những tông đồ của Vô Cùng ùn ùn kéo đến chừng mươi người trong những tháng đầu tiên. Nhưng rất nhanh, quân số bắt đầu loãng dần. Những người này bỏ cuộc, là do ngán ngẩm trước sự khó hiểu của những khái niệm và dáng vẻ của ông thầy, những người khác thì bị chiến tranh cuốn đi. Vào năm 1918, chỉ còn lại mỗi hai người: ông Louvet, một nhà buôn bánh kẹo, say mê triết học phương Đông, người mong muốn, bằng lý trí, đưa ra ánh sáng sự phức cảm siêu hình trong cách xử thế tài tình của các nhà hiền triết Trung Hoa và Phật giáo; và bà Naxara, góa phụ của một thuyền trưởng hải quân, bà chẳng biết làm gì trong suốt cả ngày dài đơn côi. Thế rồi, ông Louvet cuối cùng cũng nản.

Điều đó vẫn chưa khiến ông nản chí:

- Bà sẽ đồng ý với tôi chứ, hả bà Naxara, rằng tất cả mọi người đều không thể hiểu sự Vô Cùng!

- Đương nhiên rồi, thưa ông De Sanderval, đương nhiên.

- Tốt! Hôm qua chúng ta đang nói về gì nhỉ?... Vâng, về phương pháp tư duy giữa Tương Đối và Vô Cùng... Bà thấy không, Vô Cùng đã không có định lượng, không có thể lượng lẫn trọng lượng... Tuy vậy, nếu chúng ta thừa nhận rằng, Tương Đối xuất phát từ Vô Cùng, rồi lại quay lại đó, thì chúng ta sẽ có thể giả thiết rằng những tính chất đo được vẫn còn đang tồn tại trong Vô Cùng, chúng ta nói rằng chúng rất mạnh trong đó. Bà đã hiểu rồi chứ, hả bà Naxara?

- Tôi hiểu rõ lắm, thưa ông De Sanderval, - bà cụ già khốn khổ đáp lại một cách ngoan ngoãn, sịt mũi một cách khó nhọc và người ướt đẫm mồ hôi.

Chống tay bên bậu cửa sổ thư viện, ngày nào ông cũng ngóng người học trò duy nhất của mình đến học. Buổi sáng hôm đó, ông ngóng đến tận gần trưa mà chẳng có ai bước qua ngưỡng cổng ngoài những người đến đưa báo và giao sữa tươi.

 

Những cơn đau ngực và khó thở của ông trở nên hết sức trầm trọng trong những tháng sau đó. Cả toàn vũ trụ này cũng chẳng đủ không khí đáp ứng cho nhu cầu thở của ông. "Cho không khí đi! Không khí đi nào, làm ơn đi! Mở... mở các cửa sổ!..." Người ta mở toang những cánh cửa sổ, nhưng còn tồi tệ hơn cả khi họ cứ đóng chúng lại. "Tại lâu đài đấy, những bức tường của nó quá dày... Tại phòng khách đấy, nó quá chật..." Ông cho nới rộng phòng khách đến tận chân những cây phong đầu tiên, cho đến tận cái giếng cổ, đến tận hàng giậu của công viên. Chẳng làm gì được, không khí của Chúa lòng lành cũng đã bỏ những nơi này mà đi rồi.

Ngày cuối cùng ông thò đầu ra ngoài, ông cúi xuống cửa sổ, nhìn đàn chim vỗ cánh trong các cây phong và, giữa hai cơn đau đớn, ông lầu bầu những câu sau:

"Sự tiến bộ đã có mặt tại đây, nó tất yếu sẽ tạo được con đường cho mình, chẳng gì có thể chặn nó lại được nữa. Đáng tiếc là tất cả điều đó có thể tiếp tục mà không có ta!"

 

Ngày 24 tháng Ba năm 1919, giữa một mục nhỏ thông báo vụ tự tử của một kẻ tuyệt vọng và một mục khác diễn tả cảm xúc của cha cố Lutoslavski trước cuộc nhóm họp Diète, đề nghị chính phủ Ba Lan một hành động có hệ thống chống lại chủ nghĩa Bolchévic, nhật báo Le Petit Marseillaise đăng tin dưới đây: "Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin sự qua đời tại lâu đài Montredon của Quý ông Aimé Olivier, bá tước de Sanderval. Ông là con rể của ngài Jean-Baptiste Passtré và, mặc dù tuổi tác cao đã lôi ông ra khỏi cuộc sống thời sự để về ở ẩn từ vài năm nay, nhưng ông vẫn là một nhân vật nổi tiếng hiển nhiên của xã hội thượng lưu Marseille. Đó là một nhà bác học, một thiên tài ECP nổi tiếng nhất. Những cuộc thám hiểm của ông đã đặt ông lên hàng đầu trong số những nhà tiên phong tạo điều kiện cho ảnh hưởng của nước Pháp và người ta phải mang ơn ông trong cuộc chinh phục thái bình Fouta-Djalon, sáng kiến về những hiệp ước với các thủ lĩnh bản xứ và phôi thai của quân đội Da Đen đầu tiên..."

 


1. Adjami: chữ tiếng Peul nhưng cách viết của tiếng Ả-rập (TG).

1. Nước Iran hiện nay (ND).

1. Trụ sở của Bộ Ngoại giao Pháp. Ở đây, ý nói là phải qua Bộ Ngoại giao kiểm soát (ND).

1. Đơn vị đo đất ngày xưa. Một arpent xấp xỉ 20-50 héc-ta (ND).

1. Tiếng chửi thề của người Pháp: Mẹ kiếp (ND).

2. Người Đức (tiếng lóng của người Pháp) (ND).

1. Bị phá hủy và sau nhiều lần xây dựng lại, hiện giờ, nơi đây được xây dựng thành nhà bảo tàng Conakry. Còn ngôi nhà, vẫn còn nguyên vẹn và khu phố vẫn luôn được gọi là Sandervalia (Nhà của Sanderval, trong tiếng Sousou) (TG).

1. Tên một cơn gió nóng và khô ở miền Tây Phi, thường thổi vào mùa đông (ND).

1. Ông vua Labé sẽ bị bắt vài năm sau đó và bị đi đày ở Dahomey, rồi ở Mauritanie và ông đã chết ở đó vào năm 1912 (TG).

1. Một loại lợn lòi châu Phi (ND).

 

The end!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/85239


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận