Đất Độc Chương 10

Chương 10
Câu chuyện thứ 17: CÁI GIẾNG

Hầu như làng quê nào ở miền Bắc cũng có một con sông của riêng mình. Cũng như vậy, dân làng Bắc Biên trăm đời nay sống chung với những đợt nước lên xuống đều đặn của sông Hồng. Con sông chở cho làng tôi nguồn sống, và cả những xác người chết trôi trương phềnh mỗi đợt lũ về. Cái khúc sông đấy, ngay bản thân nó cũng chứa đựng những thứ kỳ dị. Dù những con nước đấy có cướp đi bao mạng người làng tôi, nhưng họ cũng không hề vì thế mà oán trách, chỉ cố tránh xa nước sông vào những giờ nhất định trong ngày.

Nhà nào cũng có một cái giếng; phần vì để lấy nước cho tiện, phần cũng hạn chế ra sông vào những giờ bất khả kháng. Cái sản nghiệp bên ngoại tôi là do cụ xây. Cụ tôi làm cho chế độ cũ, nên cũng vì thế nhà xây theo kiểu phương Tây. Cụ bảo ăn nước giếng không sạch, bảo người xây một cái bể nước mưa to đùng trong vườn. Năm ông ngoại lấy bà tôi, nhờ bạn bè trong làng cùng đào cái giếng. Cái giếng ở mảnh sân nhỏ dưới chân cầu thang nhà cậu D, cạnh cái chuồng chó, đối diện cửa ra vườn sau.

Chẳng biết ông đào thế nào mà quanh năm, dù nước lên hay xuống, mưa to hay hạn hán thì mực nước trong giếng vẫn không thay đổi. Cứ lưng lửng ở giữa, chẳng đầy hơn mà cũng chẳng vơi đi bao giờ. Nước trong giếng cũng lạ, lấy nước ở sông mà múc lên gầu nào gầu nấy trong vắt, chẳng có tí gợn đỏ phù sa. Cả nhà lấy thế làm mừng lắm, chỉ có ông ngoại tôi thỉnh thoảng nén tiếng thở dài và chẳng tỏ ra vui thú gì cả.

Người chết luôn sống chung với người sống. Họ đi cùng, ngồi cùng, đôi khi là nhìn chằm chằm vào người sống gây ra cảm giác rùng mình hay đột nhiên nổi da gà. Bà tôi bảo, những nơi thê thảm, chứa đựng ít linh khí của đất trời thường là nơi hồn ma bóng quế tụ tập. Đối với làng tôi, chỗ đấy không phải bãi tha ma, mà là đoạn bờ sông nơi chôn những cái xác thối rữa trôi về làng mỗi đợt nước lên. "Đất có Thổ công, sông có Hà bá". Khu đất nào cũng có thần linh trấn yểm, và cả vía của những người sống trên đó nữa.

Ông tôi đào xong cái giếng trong vườn được 5 năm, năm 1962 bà ngoại sinh cậu C, trong làng có đứa chết đuối. Hồi đấy vườn rộng, trồng nhiều cây trái, lại rào thưa nên trẻ con hay sang nhà ông bà tôi bẻ trộm chuối, khế hay chơi trốn tìm ngoài bờ tre. Thằng bé cùng làng mò vào trốn, giữa trưa nắng, chẳng hiểu đi đứng thế nào mà lộn cổ xuống giếng nhà tôi. Đến tối mẹ nó đi tìm, khóc lóc thảm thiết, cả làng đổ ra sông mò. Mò đến trưa hôm sau vẫn không thấy. Lúc này mới vào nhà tôi múc nước rửa chân, cái gầu rơi xuống đập cộp vào đầu thằng bé. Xác nó vớt lên, làng giữ chặt không cho mẹ nó vào gần. Đấy là thông tục của dân chài lưới. Phàm người chết đường chết chợ, đặc biệt là chết trôi sông, thì phải táng ở ngoài đường, cấm không cho mẹ đến gần. Giữ được một lúc thì mẹ nó vùng ra được, chạy lại ôm xác con. Bất chợt thằng bé co giật mạnh, từ các lỗ trên mặt nó, miệng, tai, mũi, và hai hốc mắt, máu tươi chảy ra thành dòng, hòa với nước rơi lại vào giếng nhà tôi tong tỏng. Táng xong thằng bé, mấy đứa trẻ con cũng không mò sang vườn nhà ông bà ngoại tôi chơi nữa. Và cũng từ đấy sinh lắm chuyện quái dị. Đợt đấy nhà chẳng dám dùng nước giếng nữa, chuyển sang dùng nước mưa ở cái bể to. Cái bể to nằm ở gần sân sau nhà cậu D bây giờ, muốn ra phải đi qua cái giếng. Bà tôi bảo, vào những đêm sáng trăng, chỗ cái giếng hay có tiếng trẻ con than khóc, rồi tiếng kêu cứu thất thanh. Thế nhưng chẳng ai dám ra xem thế nào cả. Ba tháng sau, ông tôi nhờ thầy trong làng đến cúng, cúng ba hôm liền, từ đấy cái giếng không còn tiếng ai oán nữa. Ông tôi đem miếng gỗ to mà đậy lại. Bẵng đi một thời gian, con cháu chẳng để ý, ông bà cũng chẳng nhắc, chẳng hiểu ai bỏ cái nắp ra, cả nhà lại múc nước dùng bình thường.

Năm 2004, cái giếng đột nhiên trào nước xối xả, nước phù sa đỏ lòm như máu, loang khắp sân. Đến ngày hôm sau thì hết, nhưng mực nước cứ giữ xâm xấp ở miệng, dù trời nắng to. Trong quan niệm của nhiều người, động thổ nghĩa là động vào vong, và động vào thổ địa. Đất mang khí âm, nước sông mang khí âm. Đem khoét một lỗ sâu trên mặt đất mà cho âm quyện với âm, cái giếng chẳng khác nào đường đi tắt của vong vào đất người sống. Chuyện này vốn dĩ chẳng hay ho với bất cứ gia đình nào, đặc biệt là với những người mang nợ với Hà bá.

Có một điều bà tôi dặn đi dặn lại khi anh tôi tôi còn nhỏ: "Đi ra ngoài thì mở cửa phòng thật to, còn khi vào phòng phải đóng cửa thật kín”. Năm 2004 là năm con Linh bị ma dụ và theo về nhà, cũng là năm bà tôi bắt đầu đưa con chó đá vào để trong vườn. Hai hốc mắt nó phẳng lỳ, lạnh lẽo, chẳng hiểu do cố tình xoay đặt hay không mà hướng thẳng ra phía cái giếng cổ năm xưa.

Người ta bảo chết trẻ thiêng lắm, nhưng cũng dễ hóa giải. Cái vong thằng trẻ con năm xưa sau đợt cúng ba hôm đã không còn nữa. Thế nhưng chỗ cái giếng vẫn thỉnh thoảng vang lên tiếng u u, như tiếng gió đập vào hai bên thành, rợn tóc gáy. Từ hồi cậu D chuyển cái chuồng chó về gần đấy, hai con chó chẳng cắn đêm nữa. Mỗi tối xích nhốt vào chuồng chúng nó lại trở nên khó bảo, lồng lộn hay giãy đạp loạn xạ. Cái hôm con Linh bị ma theo về, chỗ cái giếng cổ vẫn im lặng như tờ.

Trở lại chuyện hai con chó bà tôi nuôi năm cậu mợ D đẻ con Linh. Cái đêm mợ L đẻ, trong làng có con chó mẹ cũng sinh ra một lứa chỉ hai con chó con. Bà tôi thích lắm, xin cả hai con về nuôi, đặt tên là Tin và Mic. Bà tôi bảo hai con này bằng tuổi con Linh, coi như là bạn nối khố. Càng sống lâu hai con càng tỏ ra trái tính trái nết. Con Tin vui vẻ, hoạt bát bao nhiêu thì con Mic lại tỏ ra lầm lỳ, lúc nào cũng gầm gừ trong cuống họng, mắt vằn đỏ liếc xung quanh.

Buổi sáng hôm mộ con Tin bị đào mất, bà tôi chết lặng. Bà tôi đứng rất lâu cạnh cái mộ chó trong vườn sau nhà cậu D, mặt bần thần tím tái. Đến trưa thì mời sư thầy đến nhà. Sư thầy đến nhà tôi, ra cái mộ chó, bất chợt tay lần tràng hạt mà như nói bâng quơ: "Nhà bà xưa nay chỉ nuôi một con chó, không có con thứ hai". Sư bảo giờ đem lấp cái hố đi, nhưng đừng lấy đất bờ sông ở khu này. Thế nhưng cậu D chẳng quan tâm. Đợi bà với sư vào nhà, cậu tôi đem đất hai bên mà lấp hố lại cho đỡ mất công. Cái khoanh đất ba năm sau vẫn còn nâu mới roi rói.

Ba ngày sau khi lấp, có chó lạ xuất hiện trong vườn nhà bà tôi. Bọn này chỉ đến lúc nửa đêm, gào lên ăng ẳng, chạy lạo xạo ngoài vườn nhưng tuyệt nhiên mấy con chó nhà cậu không sủa lại tiếng nào."Gấuuuuuuuuuuu". Ba đêm liền con chó lạ sủa ngoài vườn nhà bà, sát bờ bãi ra sông. Tiếng nó cứ to rồi nhỏ dần, như chó sói tru. Rồi tiếng rít và tiếng cắn hai hàm răng vào với nhau cồm cộp càng lúc càng sát vách nhà bà tôi. Đến hôm thứ ba thì người nhà tôi mới dám ra đoạn đấy ngó. Cái chỗ bờ tre gần đấy dày đặc dấu chân chó quấn lấy nhau. Cứ thế xa dần vườn mà ra đoạn bờ tre. Đến gốc tre thì dừng hẳn lại. Cậu D thấy lạ đem xẻng ra xúc. Được một quãng thì kinh hãi nhận ra, dưới gốc tre ngoài bờ sông là xác con Tin và con Mic. Con Mic đầu vẫn đội nón, nhưng mồm ngoạm chặt lấy cổ con Tin, trào máu đen sì chỗ kẽ răng.

Bà ngoại tôi bảo cậu mang xác hai con mà đốt đi, rồi lấy tro trộn vào đất sét đắp lại chỗ bờ tre như trước. Từ đấy tiếng con chó lạ cũng chẳng còn. Cái năm 2004, nước giếng phun lên đỏ lòm, con Linh hai lần bị ma dụ, cả nhà hoang mang lắm. Sau đợt đấy thấy bà tôi hay xách bị ra sông từ lúc sáng sớm. Mười ngày liên tục, rồi bà chẳng ra nữa, chỉ thấy đặt con chó đá ở góc vườn sau nhà cậu D, con chó đá không có hốc mắt. Bà lại mời sư sang trấn yểm. Nhìn thấy bãi đất nâu tươi chôn con Tin năm xưa, sư chỉ thẳng mặt cậu tôi mà mắng nhiều lắm. Ngày hôm đấy sư không về chùa, ở lì lại chỗ vườn sau mà tụng với bà tôi. Sáng hôm sau sư gọi cậu tôi ra, mặt rầu rĩ mà rằng: "Mẹ cháu xưa nay nuôi nhầm con chó độc, chỉ nuôi một con mà ngỡ như hai. Con chó độc này luôn tỏ ra hoạt bát, mạnh khỏe, nhưng lúc nào nó cũng muốn tìm cơ hội mà giết mẹ con cháu. Nhà cháu có cái tinh ngựa đánh trận khôn lắm, nhờ vía nó canh mà con kia chưa làm hại được ai”.

Nay bà ngoại tôi đem chỗ đất sét trộn tro 2 con lúc trước nhét vào khối đá, đúc thành hình con chó đem đặt yểm ở vườn nhà để tránh nó chạy trốn ra sông. Lại đem khoét mắt đi, để phòng cho nó không thấy đường mà làm trò càn nhiễu.

Cái chỗ vườn yên ổn một thời gian, cho đến năm khí âm xoay vần, bà tôi đau yếu đi hẳn.... Con chó đá chẳng hiểu do ai đem đi, tự nhiên chuyển vào trong vườn bà...

Nó vẫn im lìm, nhưng chỗ hốc mắt trống trơn chẳng còn hướng ra cái giếng cổ như trước nữa...


Câu chuyện thứ 18: HỒI KẾT

Từ sau cái ngày con chó đá bị đập nát đầu ở vườn bà, những chuyện kì dị quanh khu nhà tôi cũng nhiều phần giảm hẳn. Chẳng còn tiếng hú ban đêm ngoài bờ sông hay những tiếng gọi phía vườn sau nhà cậu D. Ngày hôm đấy cậu tôi mang cái xác chó đá và hai tròng mắt dính máu nhét vào bị và ném xuống sông.

Dòng nước đỏ quạnh nuốt chửng cái bao tải, sùi bọt trắng xóa rồi chìm nghỉm. Cách đây hơn một năm người ta bắt đầu làm dự án thành phố ven sông Hồng. Lúc này cái bãi gần bờ sông nhà tôi cũng đã mất gần hết, chỉ còn một chút bờ be bé thoải ra ngoài. Sông vào sát làng, lở luôn cả bụi tre và bãi đất năm nào; cuốn đi hết những cái xác người chết trôi vùi ở đấy. Những cái xác lại trôi xuống đáy sông và có lẽ chẳng bao giờ nổi lên được nữa.

Ngày đổ cái kè đá, cả làng nhộn nhịp hẳn. Dân bảo đợi dự án làm xong, giá đất lên tha hồ mà hưởng lợi. Người người nô nức ra ngắm từng đoàn thợ kéo về. Tiếng xe cẩu, xe ben chạy ì ì, đổ đá ầm ầm suốt cả ngày. Chỗ bãi tre ngày xưa giờ thay bằng cái kè toàn đá tảng, chạy dài tít tắp, trắng phớ hai bên bờ. Thợ dựng lán ở cạnh sông cho tiện làm.

Người làng tôi bảo cái kè đá cướp đất của những u linh ngoài bãi và cả của loài ma nam. Hàng đêm vẫn có tiếng nhảy ùm ùm ngoài sông, và cả những tiếng cười đùa í ới. Làng tôi ai cũng biết, nhưng cũng chẳng dám ra ngóng, chỉ thấy ít lâu sau thợ không còn làm đêm, tiếng máy ủi, xe ben cũng bặt tích.

Mọi chuyện cứ bình lặng trôi đi; chẳng còn hồn ma bóng quế và cũng chẳng còn những việc làm người nhà tôi hoang mang. Đêm đấy bà tôi ốm. Cái chân bà tôi lại trở chứng, đau hết hai bên đầu gối, mỗi lần đi ra đi vào lại gặp khó khăn. Thế nhưng bà cũng vui vẻ hơn và không còn cáu kỉnh như đợt trước nữa.

Người nhà tôi có thói quen đi ngủ muộn. Tối thường tụ tập chè nước ở sân nhà cậu D, đến quá 11 giờ mới ai về nhà nấy ngủ. Đêm đấy cũng vậy, gió sông thổi vào hiu hiu, lành lạnh, không khí thoáng đãng làm câu chuyện trở nên vui vẻ hơn. Đến 10 rưỡi bà tôi đau chân bỏ về phòng. Mọi người vẫn ngồi lại uống nước. Từ nhà cậu D xuống nhà bà khoảng 20 mét. Bà vừa bước vào phòng, chưa kịp bật điện thì đứng sững lại mà ú ớ không nói được câu nào. Người nhà tôi thấy thế chạy xuống. Bà đứng yên trước thềm run run chỉ vào cái khe cửa. Cửa mở hờ, đằng sau bóng tối chỗ cái khe cửa không khít đấy, hai con mắt đỏ lòm trừng trừng nhìn ra ngoài. Cậu D đạp cửa xông thẳng vào, thấy chỗ đấy có cái bóng đen lù lù nhảy qua cửa sổ, rồi biến mất chỗ bờ sông. Cậu toan đuổi theo thì bà giữ lại. Mặt bà trắng bệch, thở dốc mà bảo con cháu: “Vong này ở nhà mình lâu rồi”. Thế rồi bà chẳng nói gì nữa, mắt buồn mang mác nhìn ra sông. Cả nhà có gặng hỏi bà cũng chẳng trả lời.

Phía bờ sông nước vẫn cuộn đục ngầu, sóng va vào cái bờ kè ì oạp, ì oạp...


Nguồn: truyen8.mobi/t98721-dat-doc-chuong-10.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận