Đất Độc Chương 8

Chương 8
Câu chuyện thứ 13: MẢNH XƯƠNG

Chuyện này xảy ra cách đây hai năm, hồi tôi học năm thứ tư đại học. Nhà ngoại có cái vườn rất rộng, nằm cạnh bờ sông. Trong vườn trồng đủ thứ cây, sin sít nhau, vừa lấy bóng mát và cũng để ăn quả luôn. Hàng ngày cả nhà đi làm hết, chỉ có bà với mợ L, vợ cậu D ở nhà. Mợ tôi trước trồng ngô ngoài bãi, từ hồi bãi bị lở mất, mợ về trông nom cái vườn quả. Ban ngày khu nhà chẳng có ai ngoài hai mẹ con.

Mùa gió, lá rụng bay đầy vào sân, bà và mợ cứ tuần lại quét sân hai, ba lần rồi đem lá ra bờ sông đốt. Hôm ấy vừa gom xong đống lá thì con chó nhà cậu C ở đâu chạy về tha theo miếng xương như xương lợn. Nó chui vào cạnh bếp ngồi gặp rồn rột, nước dãi chảy ra bẩn cả sân. Thấy ngứa mắt bà tôi cầm chổi vụt cho nó một cái, nhặt cái miếng xương đem vứt ra sông cùng đống lá khô. Đến chiều con chó lại tha miếng xương về gặm.

Bà với mợ tôi tức lắm, lại đánh nó một trận rồi cầm miếng xương ném xuống nước. Sáng hôm sau gió to, lá cây bay từ vườn sau vào, phủ kín sân. Hai mẹ con lại cầm chổi ra quét. Gom lá thành một đống xong, lại thấy miếng xương với vết gặm nham nhở của con chó dưới đất, bà tôi quát nhặng lên. Mợ L cũng bực, ném luôn miếng xương vào bãi lá rồi đem đốt.

Chiều hôm ấy có người ở ủy ban xuống gõ cửa nhà tôi. Ông công an phường vào bảo, hôm qua có người tìm thấy một cái xác ở bụi chuối gần bờ sông, đoạn ngược dòng bên trên nhà tôi. Cái xác chết cũng ít lâu, giờ còn nham nhở. Người ta đang đợi pháp y, nhưng chẳng hiểu sao thiếu đâu mất một bên xương hông. Ông ấy đang đi quanh các nhà gần bãi hỏi thăm. Bà và mợ lúc đấy sợ quá, nhưng chẳng hiểu sao lại bảo không biết. Ông công an đi khuất ngõ, hai mẹ con chạy ra bờ sông thấy con chó nhà cậu C ngồi im, mắt mở trừng trừng nhìn vào đống tro lá. Mợ tôi vào bới, mảnh xương vẫn còn đấy, chỉ cháy mất một góc bé tí, vết gặm của con chó vẫn y nguyên. Bà sợ quá, cầm ném luôn xuống chỗ nước chảy xiết, chìm nghỉm. Sáng hôm sau ông công an quay lại, bảo tối qua người ta tìm thấy mảnh xương của người chết kẹt vào hòn đá dưới bờ sông cạnh bụi chuối, nhưng có vết chó gặm và bị xém mất một góc.

Sau cái buổi sáng ông công an vào thông báo, bà và mợ sợ lắm. Hai mẹ con lên ban thờ thắp hương cầu khấn liên tục. Bà kể, lúc vừa đốt nhang xong thì cái bát hương bùng cháy phừng phừng nhưng không có khói. Lúc sau lửa tắt, nhìn lại thấy chỗ đấy vẫn y nguyên. Mợ tôi đứng bên cạnh quỳ sụp xuống lạy. Đến tối về nhà kể, cả nhà bảo bà và mợ L làm thế là không phải với người chết, có khi mai ra ủy ban xem người ta nói thế nào rồi lễ lạt. Tối hôm đấy tôi về chơi, thấy bà có khách. Bà kéo rèm kín mít, chỉ có tiếng rì rầm to nhỏ trong buồng, cả nhà cũng chẳng hỏi han gì.

Khách ngồi đến nửa đêm vẫn chưa về. Nhà tôi ai cũng có chìa khóa cổng nên cậu mợ đi ngủ trước, tầm đấy chỉ còn tôi với thằng TA đứng trên tầng hóng mát như mọi khi. Trong buồng bà vẫn có tiếng to nhỏ rì rầm, nhưng toàn giọng một người, không thấy thay đổi. Một chốc sau nữa thì khách về. Trời tối thui, hai anh em tôi đứng trên ban công tầng hai, phòng thằng TA, cũng không bật điện đóm gì. Chẳng nghe tiếng mở cửa, cũng chẳng thấy bà tôi chào, hai người cứ thế bước ra ngoài sân, một nam, một nữ mặc áo thụng. Một người quay đầu bước ra bãi. Người nữ đi về phía vườn sau nhà cậu D khuất tầm nhìn của hai anh em tôi rồi mất dạng. Cửa nhà bà vẫn đóng im ỉm. Hai anh em tôi thấy sợ sợ, lủi luôn vào phòng chốt cửa chặt. Đêm đấy tôi đang ngủ thì thấy tiếng bà la khóc, nhưng không ầm ĩ, được một chập rồi chẳng thấy gì nữa. Chắc cậu mợ ngủ say, lại ở buồng sau nên không biết, chỉ có tôi với thằng TA nằm phòng nó, ngay sát nhà bà nghe thấy.

Sáng hôm sau tôi xuống sớm, thấy bà tóc tai rũ rượi ngồi trên bàn nước. Bà bảo tối qua vừa đi nằm, tự nhiên cái màn cứ rung rung. Có cái mảnh vải đen cứ đập đập vào mặt. Bà tỉnh, mở mắt ra thì chẳng thấy gì, ngoài cái đèn trên bàn thờ cứ leo lét. Thế rồi cửa sổ mở ra, một người trèo vào, chân đi cà nhắc về phía bà. Bà sợ quá quỳ xuống la khóc. Người ấy đứng một lúc rồi biến mất. Bà tôi thức từ đấy đến sáng. Lúc xuống ủy ban hỏi, thì người ta bảo người nhà đến nhận xác đưa đi rồi.


Câu chuyện thứ 14: ĐÒI NỢ

Người ta bảo, sống trên đời có những món nợ đòi rất dễ, nhưng có những món nợ chẳng thể nào dứt khoát được, và đặc biệt là những món nợ không phải giữa người sống với người sống. Sau cái ngày có người tập tễnh đi vào phòng, bà tôi trở nên lầm lì, chẳng nói, chẳng rằng với con cháu. Hỏi thì đáp, không bà cũng ở nguyên trong phòng khóa kín cửa, tự nấu ăn riêng, có khi hai, ba ngày không bước chân ra ngoài.

Nhà tôi đâm ra lo lắng. Mọi người lo bà bị ốm, hoặc suy nghĩ kiểu người già nhiều đâm ra lẩn thẩn. Thế nhưng bà tôi vẫn khỏe mạnh, chỉ có điều hơi xanh xao và ít giao tiếp hơn trước. Thời gian này bà hay ra mộ thắp hương cho ông. Có lúc cậu D đèo bà ra, nhưng bà bắt đứng đợi ở ngoài, tuyệt nhiên không cho vào. Ông tôi nằm ở nghĩa trang Ngọc Thụy. Từ bờ đê, rẽ phải xuống cái dốc, đi qua trường cấp hai Ngọc Thụy, đến gốc cây đa là nghĩa trang.

Tuần dăm ba hôm, nắng mưa thế nào bà cũng ra chỗ ông nằm. Cậu D bảo, thấy bà đi vào, đứng trước mộ ông khóc nhiều lắm, rồi bần thần lẩm bẩm một mình. Lần nào trở ra cũng mệt mỏi, nhưng tinh thần có vẻ đỡ đăm chiêu hơn trước. Cứ thế hơn hai tuần thì bà tôi bình thường lại. Có điều con chó đá không nằm ở góc vườn cậu D nữa, mà lại chuyển sang vườn khế của bà. Nó đứng giữa vườn, lạnh lẽo, cái chỗ phải có hốc mắt thấy tàn hương bắn vào đen đen nhờ nhờ.

Cậu C làm lái xe riêng cho giám đốc một công ty nước ngoài, đi sớm về hôm, tùy theo lịch của sếp. Giống với cậu D, cậu C không tin vào ma mãnh, cũng như chẳng sợ sệt cái gì cả. Cậu vốn là người cẩn thận và cực kỹ tính, hơn chục năm lái xe chẳng xảy ra cơ sự gì, cũng chẳng va quệt với ai. Thế mà cậu tôi lại bị tai nạn. Gãy một chân, bốn cái xương sườn và chệch đốt sống. Cậu bị lúc giữa trưa, trên bờ đê, chỗ rẽ vào làng tôi cách đường dốc ra mộ hơn trăm mét. Xe ô tô cậu mất lái lao vào cạnh đường. Lúc mọi người nhà tôi chạy ra, cậu C nằm cạnh vũng máu bê bết bên ngoài cửa xe, đầu hướng ra tim đê.

Vào viện, đến tối thì cậu C tỉnh. Mặt cậu trắng bệch. Cậu đột nhiên khóc, bảo cả nhà gọi bà vào cho cậu gặp, rồi đuổi hết mọi người ra ngoài. Cả nhà tôi lo lắm, nên đứng ngoài rình nghe trộm. Bà vừa vào, cậu nấc lên một tiếng: “Nhà mình có nợ nần gì ai không mẹ”. Bà tôi đứng chết trân, lặng người đi. Bà hỏi, tại sao đi ô tô bao năm, đi mòn cả cái đê đấy rồi mà giữa trưa lại đâm vào lề? Tại sao lái ô tô mà lại bị gãy chân, nằm lăn ra giữa đường như thế trong khi xung quanh không có vết phanh nào cả? Cậu tôi sợ lắm. Giọng cậu chùng xuống, bảo, lúc cậu lái xe trên đê, bỗng giữa đường có một người đánh xe ngựa chạy ngược lại, lao thẳng vào phía cậu. Cậu hoảng quá đánh lái đâm vào bờ đê. Lúc này vẫn tỉnh táo, nhưng không thấy đau chỗ nào cả. Tự nhiên người ấy thò tay vào lôi cậu ra giữa đường, chân tập tễnh, há ngoác mồm lè lưỡi đỏ lòm, bảo: “Tao lấy lại của thằng con mày một chân”. Cậu thấy cái xe ngựa nghiến qua người, rồi ngất đi không biết gì cả. Bà tôi khóc, chạy ra ngoài bảo các mợ chăm sóc cho cậu, rồi bắt xe ôm từ 108 đi thẳng về Gia Lâm. Mọi người đưa cậu đi mổ, lúc này cậu lại mê man.

Trở lại chuyện năm xưa ông tôi cứu cô N trên sông. Cứu người là làm phúc, nhưng những chuyện xảy ra sau này khiến ông hiểu đã mắc nợ với ba người, bà ăn xin, cô N và Hà bá! Hà bá không cho phép bắt người trên sông, cướp người thì phải đền mạng, đấy là quy tắc bất di bất dịch cho bất cứ sinh linh nào sống trên khúc sông của Hà bá. Ông tôi biết điều ấy, nhưng một phần vì là trai trẻ, sông nước quanh năm, một phần vì cái bản năng phải cứu người, ông cũng chẳng màng.

Năm mẹ tôi 12 tuổi, lũ lên cao, xác người chết dạt vào làng nhiều, dân cũng đem chôn cho bằng hết. Đêm đấy đi làm về, ông tôi gặp một xác người trôi dọc triền đê. Hô hoán to rồi ông nhảy xuống kéo cái xác vào bờ. Xác một người đàn ông chết đã lâu, trương phềnh, hôi thối, kẹt theo cái cây trôi lập lờ. Chật vật mãi ông cũng kéo được vào bờ. Vừa vào đến nơi, cái chân xác chết kẹt vào thân cây, đứt rời, rơi lại sông bặt tích. Lúc này dân cũng kéo ra. Ông nhìn theo chỗ cái chân người vừa rớt xuống, định nhảy xuống mò nhưng đột nhiên linh tính thế nào, vác áo lên vai trở về nhà. Đấy cũng là đêm năm mẹ con bà tôi gặp ông tướng người Tàu, và cũng là đêm ông tôi vác dao đuổi ra sông.

Người ta thường nói con gái 13 tuổi là tuổi trăng non, là thời điểm bắt đầu trở nên xinh đẹp và dậy thì thành thiếu nữ. Ở cái vùng đất này, con gái cả thường gánh vác nặng nề hơn con trai, chẳng hiểu vì lí do gì. Có một chuyện mà sau này người làng kể lại ông tôi mới biết. Khi ông bỏ đi, cái xác người đột nhiên rục rịch chuyển động rồi trôi thẳng ra sông, không sao níu lại. Có người khẳng định, thề sống thề chết rằng nó mở mắt nhìn theo hướng ông tôi đang trèo lên đê. Nhưng ông coi thế là vớ vẩn, chẳng tin.

Năm mẹ tôi tròn 13 tuổi, trong làng có điều quái dị. Đường ra sông đột nhiên mở rộng, sáng nào người làng đi qua cũng thấy có vết chân ngựa. Hàng đêm ngoài bãi có tiếng rậm rịch, ý ới, cả tiếng gầm gừ, nhưng tuyệt nhiên không ai dám bén mảng ra ngó nghiêng. Đây là đất độc. Cái chỗ mọi năm chôn người chết trôi, các ụ đất tự nhiên cứ phẳng dần rất nhanh, qua mấy đêm mà trở nên bằng phẳng, chẳng phân biệt được mộ ai với ai cả. Dân làng coi đó là điềm gở, ngày đêm lên chùa cầu khấn. Lại lập cái đàn ở bờ sông cúng bái trong suốt năm hôm. Người ta bảo, có điềm Hà bá đòi người. Cái tiếng gầm gừ và rậm rịch ngoài bãi cứ diễn ra liên tiếp đến tháng 8 năm đấy.

Trăng tròn, mẹ tôi cũng chớm 13 tuổi, và trung thu cũng là lúc âm khí trở nên nặng nền nhất. Đêm trung thu, ông tôi đi làm ca ba, vừa lúc đó có người gõ cửa. Bà tôi chạy ra mở, ngoài sân vắng tanh, chỉ thấy một cơn gió thổi vào tắt hết đèn nến. Mẹ chạy lại ôm ba đứa em, còn bà thì loay hoay chốt cừa và đi tìm lửa. Bỗng từ góc nhà có cái bóng to lù, mắt đỏ quạnh phát sáng, giọng ồm ồm bảo: “Chúng mày có thần yểm mãi được thì đời hai thằng này sẽ bị tuyệt tự”. Ông nói xong chỉ vào hai ông cậu tôi rồi biến mất. Bà sợ quá chạy lên ban thờ, thì chỗ thờ ông tướng Tàu hương đã lụi từ lúc nào. Ngoài trời mây kéo che mất ánh trăng.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t98716-dat-doc-chuong-8.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận