Đông Dương Hấp Hối Chương 10-End

Những bài học của cuộc chiến Đông Dương
Dịch giả: Phan Thanh Toàn
Nguồn: NXB CAND



        
    Để rút ra được các bài học của sự thất bại này, chúng ta phải phân tích lý do thật sự của nó. Thế nhưng, rất ít thấy được một sự phân tích toàn diện hay những bản phân tích không đưa vào các chứng cứ ngụy tạo. Nhất là khi chính các nhà lãnh đạo chính trị là người có lỗi - và đây là một tính chất thường thấy những tranh chấp hiện nay - Họ thường né tránh trách nhiệm và trút lên đầu các nhà chỉ huy quân sự. Đây là phương cách né tránh trách nhiệm kinh điển của các chính phủ không biết chuẩn bị, cũng như không biết điều hành một cuộc chiến tranh.

Sự đùn đẩy trách nhiệm sẽ không có gì đáng nói, nếu nó chỉ dừng lại ở hậu quả là khoác cho giới quân sự vai trò của những con dê tế thần, tạo điều kiện cho các nhà chính trị tiếp tục múa may trên sân khấu chính trị. Việc đùn đẩy trách nhiệm có những hậu quả nghiêm trọng vì nó làm nguy hại đến tương lai đất nước, bằng cách cản trở việc rút ra từ thất bại các bài học có thể giúp tránh được các thảm họa trong tương lai.



Một chiến dịch bưng bít như vậy được thực hiện khi xảy ra sự thất bại của cuộc chiến tranh Đông Dương. Các nhà lãnh đạo chính trị, những người đã không điều hành tốt cuộc chiến cũng như đã kết thúc cuộc chiến một cách sai lầm, đã làm tất cả những gì có thể làm được để đánh lừa dư luận quần chúng, bằng cách làm cho quần chúng nghĩ rằng nguyên do chính, nếu không nói là duy nhất, của thảm họa mà nước Pháp phải chịu đựng là thất bại của quân đội.

Tôi cho rằng, tôi đã chứng minh đủ trong các chương vừa qua là thất bại trên không thể tránh được do đường lối sai lầm của nước Pháp, rồi sau đó thất bại này đã bị thổi phồng lên một cách quá đáng, và được các nhà chính trị sử dụng như một cái cớ để ngưng chiến trong những điều kiện mà tình hình quân sự trên chiến trường không đến nỗi quá tồi tệ như vậy.

***

Khi hậu quả của thất bại Điện Biên Phủ đã được trả về đúng vị trí của nó, thì chúng ta còn gì thêm để giải thích cho thất bại của nước Pháp?

Tại Đông Dương, các vị chỉ huy quân sự nối tiếp nhau ít nhiều đã coi thường đối phương. Cụ thể là họ đã không hiểu được sự thay đổi về chất của việc thành lập lực lượng chính quy Việt Minh, có khả năng tiến hành các cuộc hành quân thách thức bộ máy quân sự của ta. Họ đã để cho đối phương qua mặt một khoảng cách mà gần như chúng ta không thể bắt kịp.

Họ không biết tạo ra một sức bật đúng lúc cần thiết để thành lập các Quân đội Liên hiệp, và đã vuột mất phương cách duy nhất có thể cung cấp đủ các lực lượng cần thiết trong việc giữ vững lãnh thổ, rút ra được một số những đơn vị cần thiết để thành lập một Binh đoàn Tác chiến hùng mạnh, đảm bảo khả năng hành động theo ý muốn.

Họ cũng không biết cách làm cho tính cách các đơn vị chúng ta thích ứng với bản chất các hoạt động của đối phương và địa hình chiến trường. Họ dựa quá nhiều vào sức mạnh của hỏa lực, mà không quan tâm đủ đến tính linh hoạt, sự cơ động, mưu mẹo và thông tin tình báo.

Cuối cùng, họ không hiểu được sự cần thiết phải có một kế hoạch tổng thể lâu dài được sự chấp thuận của chính phủ, được trang bị những phương tiện cần thiết, được thực hiện một cách có phương pháp và kiên cường.

Đây là những trách nhiệm chính có thể quy cho Bộ Chỉ huy quân đội Pháp tại Sài Gòn. Nhưng sai lầm này có thể được tha thứ bởi nhiều lý do.

Trừ trường hợp của thống chế De Lattre de Tassigny, tất cả các tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Dông Dương đều phải trực thuộc một công chức cao cấp dân sự: Toàn quyền, Cao ủy hay Tổng ủy. Vị tổng tư lệnh này không phải là một người được toàn quyền quyết định, bắt buộc phải rút ra các quyết định trong khuôn khổ của một chính sách mà người vạch ra là một người khác. Người này có một cách nhìn khác với người chỉ huy quân sự, những vấn đề quân sự đã không được xem xét đúng với những yêu cầu của chúng. Khác với Việt Minh luôn lồng chiến lược quân sự của họ vào quan điểm chính trị, chiến lược quân sự của chúng ta đã luôn luôn bị đường lối chính trị bỏ quên, thậm chí đối kháng với đường lối chính trị.

Viện trợ của Mỹ cũng là một sự việc mà người chỉ huy phải chấp nhận không theo ý muốn của mình. Các loại trang thiết bị Mỹ tặng không cho chúng ta - được dành cho một loài chiến tranh hoàn toàn khác - tạo ra cho quân đội ta có những dấu ấn không thể tránh được: nếu chúng giúp cho chúng ta có một hỏa lực mạnh, nhưng chúng lại làm cho quân đội ta rất nặng nề. Một khi đã đi vào con đường đó, thì không thể nào thoát ra được.

Việc các Quốc gia Liên kết không có đủ khả năng hình thành các quân đội bản xứ có thực lực cũng có nguyên nhân không thể dựa vào ý chí của các vị chỉ huy quân đội. Nó giải thích sự không tin tưởng của các vị chỉ huy này khi đi vào một con đường không phải không có sự rủi ro, mà kết quả có vẻ như rất xa vời và bấp bênh.

Việc thiếu một kế hoạch quân sự có thể được giải thích ở việc thiếu một chính sách chính trị làm nền móng cho nó.

Do đó, cho dù chúng là sự thực hiển nhiên, các sai lầm về mặt quân sự ở Đông Dương không phải là những sai lầm có tính cách quyết định đến cuộc chiến, và nhất là chúng có thể được giải thích ở những nguyên do có tính chất chính trị.

Một lọại trách nhiệrn khác về mặt quân sự nằm ở Paris.

Chưa bao giờ Đông Dương là một mối bận tâm chính của các Bộ Quân lực ở Pháp. Chưa bao giờ Đông Dương được xem như một cái gì khác hơn là một trách nhiệm khó chịu, mà họ phải có đóng góp - nhưng là một đóng góp càng nhỏ càng tốt.

Cuộc chiến tranh Đông Dương luôn luôn được tiến hành với chi phí thấp và bằng phương pháp nhỏ giọt. Chi phí luôn luôn không đủ, khung chỉ huy, quân số của các đơn vị trên bộ quá ít, quân lính được huấn luyện kém, trang thiết bị hạn chế và không phù hợp, không quân không được trang bị đủ về máy bay, nhân sự và cơ sở hạ tầng.

Do đó, ta có thể cho rằng những vị tham mưu trưởng kế tiếp nhau của Bộ Quốc phòng, của các Bộ Không quân và Lục quân đều có trách nhiệm lớn.

Nhưng chúng ta cũng đừng quên họ chỉ là cấp dưới của các ngài bộ trưởng. Tuy họ chuẩn bị và thực hiện quyết định của các vị bộ trưởng, song trách nhiệm cuối cùng là ở cấp chính phủ.

Tất nhiên, các tham mưu trưởng vẫn có thể chứng tỏ được bản lĩnh của họ trong vai trò là những cố vấn quân sự cấp cao của chính phủ. Trên thực tế, họ chỉ tham mưu các giải pháp dễ dàng, và không bao giờ đề xuất các giải pháp táo bạo mà chỉ các giải pháp táo bạo này mới có thể, nếu không mang lại được những chiến thắng toàn diện, thì ít nhất cũng tạo điều kiện cho một giải pháp chính trị thuận lợi cho cuộc chiến tranh. Nếu họ đã làm như thế, thì chắc chắn họ sẽ được tôn vinh, nhưng ít khả năng là tiếng nói của họ sẽ được người có trách nhiệm lắng nghe. Thậm chí, họ có thể bị mất chức nếu họ thể hiện ý muốn độc lập bất thường này, và sẽ được thay thế bởi những người dễ bảo hơn. Trong hệ thống chính trị của chúng ta, người ta thường chọn các nhà lãnh đạo lớn, cho dù đó là dân sự hay quân sự, chủ yếu dựa trên tính cách mềm mỏng của họ. Một chế độ luôn có những người phục vụ xứng đáng với nó.

Cho dù những người trách nhiệm về quân sự ở Paris có trách nhiệm rất lớn, nhưng đó vẫn là trách nhiệm có tính cách thứ yếu.

Các nguyên nhân thật sự của thất bại ở Đông Dương là các nguyên nhân có tính chất chính trị. Trong cuốn sách này, tôi đã trình bày khá đủ về sự thật này, cho nên ở đây, ta chỉ cần tóm lược lại một cách ngắn gọn.

Nguyên do thứ nhất và là nguyên do chủ yếu xuất phát điểm cho các nguyên do khác là chúng ta thiếu một đường lối chính trị: từ đầu đến cuối, các nhà lãnh đạo của chúng ta chưa bao giờ biết họ muốn gì, và nếu có biết thì họ cũng không biết khẳng định nó.

Họ không bao giờ dám nói với đất nước là có chiến tranh ở Đông Dương.

Họ cũng không biết huy động đất nước vào cuộc chiến và cũng không biết cách tìm kiếm hòa bình.

Họ không có khả năng vạch ra cách ứng xử với các Quốc gia Liên kết, để dựa vào đấy và làm chỉ kim nam hành động cho những người đại diện của nước Pháp ở Đông Dương. Họ chỉ đưa ra những quyết định có tính cách đối phó và luôn luôn không bắt kịp với sự diễn biến của tình hình. Họ không bao giờ có sự can đảm để lựa chọn giữa một bên là một giải pháp theo chế độ thuộc địa mà họ đã tuyên bố hủy bỏ nhưng họ lại tìm cách giữ những quyền lợi về kinh tế dưới một chế độ nghe xuôi tai hơn; và bên kia là một hiệp hội của những dân tộc tự do mà họ tuyên bố muốn xây dựng nhưng lại luôn trì hoãn những hành động phù hợp.

Họ cũng không có khả năng xác định lập trường của nước Pháp đối với nước Mỹ, cũng không thể thúc đẩy nước Mỹ xác định được lập trường của họ đối với chúng ta. Họ chỉ cầu xin nước Mỹ cung cấp cho ta sự viện trợ, mà nói cho cùng lại tạo cho ta nhiều sự phiền toái hơn là lợi ích và tạo điều kiện cho các đồng minh của ta theo đuổi một chính sách ích kỷ phá hoại quyền lợi của chúng ta.

Với một cuộc tranh chấp mà họ không thể đưa ra được mục đích rõ ràng, các nhà lãnh đạo đã không thể đưa lên được tầm cỡ quốc gia. Do không biết cách nào chứng minh cho đất nước thấy lý do tiến hành chiến tranh, các nhà lãnh đạo ngăn cản chúng ta yêu cầu có những sự hy sinh để có thể mang thắng lợi về cho cuộc chiến. Do đó những việc họ làm được chỉ là ru ngủ quốc gia bằng các bài diễn văn mang tính chất lạc quan. Vì lo sợ cử tri nên họ đã cho giảm đến mức tối đa việc yêu cầu đóng góp các nỗ lực của họ, làm ngơ để cho tư tưởng chủ bại hoành hành, và cuối cùng để cho quân đội nhà nghề của mình chiến đấu một cách lẻ loi, không một sự hỗ trợ về mặt tinh thần và có những phương tiện mà lẽ ra quân đội này được quyền đòi hỏi.

Tệ hơn nữa, họ còn để cho quân đội của chúng ta bị đâm sau lưng. Họ đã dung dưỡng cho sự phản bội thường xuyên của Đảng Cộng sản (Pháp) và các tổ chức trực thuộc họ ở mọi cấp. Họ đã không trừng phạt báo chí trong việc làm hại đến tinh thần chiến đấu của quân đội, phá hoại tinh thần quốc gia và làm lộ các bí mật quân sự.

Các sự thoái thác trách nhiệm, các sai phạm, những sự hèn hạ dồn dập trong vòng tám năm đã quá nhiều và liên tục nên chỉ có thể được quy trách nhiệm cho những người cầm đầu và thậm chí những chính phủ đã nối tiếp nhau cầm quyền ở Pháp.

Đó là kết quả của những gì mà chế độ đã tạo ra. Nó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống chính trị của nước Pháp.

Một chế độ đã làm rối bời quyền lực Nhà nước, tinh thần vì cái chung gần như đã biến mất, tạo ra một sự không ổn định trong chính phủ, thay thế những kế hoạch tổng thể lâu dài bằng một thứ chủ nghĩa thực dụng không phù hợp, mà quy luật chủ đạo là làm thế nào có ít sự cố gắng nhất. Các đảng phái chính trị không còn là những hệ tư tưởng nữa mà chỉ là sự thể hiện của ham muốn. Những mâu thuẫn do tranh giành quyền lợi, những vấn đề được đặt ra vì các cuộc tranh cử, những thủ đoạn vì quyền lợi cá nhân của những người lãnh đạo vô trách nhiệm luôn được đặt lên trên hết. Một chế độ như thế là một chế độ hoàn toàn bất lực. Chế độ này không thể nào có được một đường lối chính trị chủ đạo được. Về mặt quan hệ đối ngoại, nó chỉ có thể nhượng bộ đối phương và là cái rờ-moọc của các nước đồng minh.

Một chế độ đã hủy hoại tinh thần quốc gia, đã cô lập Quân đội ra khỏi Quốc gia, trong khi Quân đội lại chính là biểu tượng và người bảo vệ cho tinh thần Quốc gia; một chế độ đã không tạo cho Quân đội có chỗ đứng về tinh thần và những phương tiện vất chất để nó có thể tồn tại được; một chế độ đã dung dưỡng, nếu không muốn nói là khuyến khích việc quân đội của nó bị người ta khinh miệt, làm nhục và nói xấu một cách không bị trừng phạt; một chế độ đã để cho một đảng mà ai cũng biết đã hành động theo lệnh của ngoại bang, được tự do phản bội, và một bộ phận của báo chí đã trở thành một doanh nghiệp làm băng hoại tinh thần quốc gia và cung cấp thông tin cho đối phương; một chế độ như thế không thể làm gì trước một cuộc xâm lược của kẻ thù, cho dù nó ở bất cứ nơi nào của Đế quốc hoặc là ngay tại biên giới Chính quốc.

Một hệ thống chính trị mà chỉ trong vòng không tới bốn thập niên, biến đất nước từ một nước lớn, chiến thắng vào năm 1918, trở thành một kẻ bệnh hoạn của châu Âu, chỉ có thể đưa đất nước rơi vào tình trạng già yếu bất lực vĩnh viễn trong thập niên sau.

Đó là bài học lớn về cuộc chiến tranh Đông Dương, có thể rút ra bài học này trong tất cả các lĩnh vực. Bất cứ một người Pháp biết suy nghĩ và nếu không vì một mối quan hệ nào với chế độ này về quyền lợi hoặc vì lý do một sự sùng bái nào đó, sẽ cảm thấy có sự mâu thuẫn giữa việc duy trì chế độ hiện tại và việc duy trì nước Pháp hùng mạnh như một cường quốc. Rất nhiều người còn đi xa đến việc nhận định rằng, nếu kết luận này đúng với tất cả các nước phương Tây đang đối đầu với Chủ nghĩa Cộng sản và những người quốc gia đang bị chủ nghĩa này lôi kéo, thì chế độ Dân chủ phương Tây cũng sẽ bị tước khí giới như Rome và Byzance đã từng bị các đối thủ man rợ của họ tiêu diệt.

***

Chúng ta không thể có một ảo tưởng nào về nước Pháp ngày nay. Nếu như chế độ vẫn tồn tại như hiện nay trong một thời gian nữa, thì chính những lý do hôm qua đã làm cho chúng ta mất Đông Dương, tất yếu ngày mai sẽ làm cho chúng ta mất Bắc Phi và tất cả những gì còn lại của Đế quốc Pháp.

Hầu hết những nguyên do đã làm cho chúng ta thất bại ở Đông Dương trên thực tế sẽ tiếp tục quay lại với một hình thức ít nhiều dữ dội hơn trong cả Đế quốc này và nhất là ở Bắc Phi.

Cũng như ở Đông Dương, chúng ta sẽ phải đối phó với những người theo chủ nghĩa quốc gia mà ta không thể nào dự kiến được khả năng vùng lên tất yếu của họ, ta không biết cách điều hòa bằng những sự cải cách kịp thời và thỏa đáng. Chúng ta để cho các phong trào này được lãnh đạo bởi một tầng lớp xuất sắc do chính chúng ta đào tạo, nhưng lại không muốn cho họ nắm giữ những vị trí có thể liên kết chặt chẽ họ với ta.

Cũng như ở Đông Dương, những chủ nghĩa quốc gia này được mài dũa sắc bén thêm bởi một tinh thần dân tộc gay gắt được nuôi dưỡng từ bên ngoài, chịu tác động bí mật của Chủ nghĩa Cộng sản và được sự khuyến khích của các chính sách của Mỹ.

Tuy nhiên vấn đề ở Bắc Phi dễ dàng hơn ở Đông Dương rất nhiều.

Cự ly ngắn hơn rất nhiều. Nó chỉ được tính bằng đơn vị trăm km chứ không phải bằng đơn vị ngàn km như ở Đông Dương.

Khoảng cách về tinh thần cũng ngắn hơn. Người Pháp cảm thấy châu Phi gần với họ hơn Đông Dương rất nhiều trên tất cả các lĩnh vực. Thời tiết không quá xa lạ và cảnh vật thì ít có sự khác biệt với những cảnh vật quen thuộc của chúng ta.

Vùng đất sỏi đá của châu Phi, cho dù có gây nhiều khó khăn cách mấy, vẫn có thể là một địa hình dễ cho không quân của ta hoạt động, cho lực lượng trên bộ mở các cuộc hành quân hơn là trên các cánh đồng và rừng già Đông Dương.

Không bao giờ các địch thủ châu Phi của ta có thể có được một nguồn dự trữ to lớn như Việt Minh dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc. Không bao giờ họ có thể nhận được từ Ai Cập Lybie, hay từ Maroc thuộc Tây Ban Nha một sự giúp đỡ ồ ạt như Mao Trạch Đông đã giúp đỡ Hồ Chí Minh trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương. Không bao giờ họ có thể thành lập được những đoàn quân chính quy có thể đối đầu được với chúng ta trong các cuộc hành quân lớn. Việc này chỉ có thể xảy ra khi nào chính chúng ta giúp họ thành lập những đội quân, mà không có được sự đảm bảo cần thiết - thế nhưng hình như đây là con đường mà chúng ta đang đi. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc () Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Tỷ lệ người châu Âu so với người bản xứ ở vùng Bắc Phi cao hơn ở Đông Dương rất nhiều: một tỷ lệ đáng kể dân chúng sẽ luôn luôn đi với chứng ta, với điều kiện là ta không bỏ rơi họ.

Dân cư tại vùng Bắc Phi gần gũi chúng ta về mặt tâm lý hơn là các dân tộc ở Đông Dương. Nếu như đạo Hồi dễ tạo ra những tư tưởng cực đoan và tệ bài ngoại, nhưng mặt khác nó làm cho tín đồ của mình khó bị Chủ nghĩa Cộng sản gây ảnh hưởng hơn. Nếu một phần của tầng lớp ưu tú - hoặc là tầng lớp tương tự như thế - do ta đào tạo nhưng vì ta không biết cách buộc chặt họ với chúng ta, nên trở thành thù địch, thì đại đa số quần chúng có thể được giữ lại hoặc quay về với ta.

Và cuối cùng, điều quan trọng nhất là ý thức quốc gia của người Pháp, rất ít bị ru ngủ trong các vấn đề về châu Phi hơn là các vấn đề về Đông Dương; dễ chấp nhận sự hy sinh cần thiết - nếu như chúng ta thật sự có yêu cầu - để giữ châu Phi hơn là để cứu Đông Dương.

Những điều kiện về vật chất và tinh thần để bảo vệ quyền lợi của chúng ta ở châu Phi tốt hơn việc phòng thủ Đông Dương rất nhiều. Chúng sẽ còn thuận lợi hơn rất nhiều nếu chúng ta biết sử dụng những bài học mà ta nhận được với giá đắt ở Đông Dương.

***

Trên lĩnh vực quân sự, bài học đầu tiên là không được coi thường khả năng của địch quân. Chắc là sẽ không bao giờ có một “Điện Biên Phủ” ở Bắc Phi, nhưng lúc nào cũng có khả năng một cuộc chiến tranh du kích sẽ phát triển ngày càng mạnh hơn và đều khắp, được tiến hành bởi các băng nhóm ngày càng đông hơn và được trang bị tốt. Một số lượng từ 400 đến 500 tấn vũ khí và đạn dược đủ để các lực lượng Việt Minh sử dụng cho cuộc chiến tranh đến năm 1953. Những người nổi loạn Bắc Phi có thể có được một số lượng tương tự dễ dàng từ nguồn buôn lậu, nếu chúng ta không có những biện pháp ngăn ngừa.

Một bài học khác, quan trọng hơn, là không thể chiến đấu chống lại chiến tranh du kích bằng các phương pháp và phương tiện của chiến tranh hiện đại. Chỉ có chiến tranh phản du kích, tức là sự linh hoạt, cơ động và mưu mẹo được yểm trợ bởi các hoạt đông chính trị và tình báo. Những trở ngại lớn mà chúng ta cần phải tránh là sự thụ động, sự nặng nề hóa về phương tiện và tinh thần của binh lính cùng các Bộ Tham mưu.

Có số quân đông đảo cũng là một bài học cơ bản được rút ra. Để đối phó với một địch thủ chỉ có thể hoạt động được nhờ vào sự che chở của quần chúng, vấn đề cơ bản là làm sao giữ được quần chúng về phía mình, bằng công tác giám sát, trấn an và bảo vệ họ. Chỉ có sự có mặt thường xuyên của các đơn vị quân đội có quan hệ thường xuyên với người dân và được người dân tin tưởng mới có thể giúp đạt được kết quả này.

Cuối cùng, sự thống nhất chỉ huy là cần thiết ở tất cả các cấp. Người chỉ huy hành quân và người chịu trách nhiệm về công việc địa phương không thể là những nhân vật tách rời nhau. Cơ cấu tổ chức chỉ huy hành quân phải được lồng vào cơ cấu quan chức địa phương. Đây là cơ cấu duy nhất có sự hiểu biết về các vấn đề địa phương, để có thể có được các quyết định sáng suốt và thực hiện những cuộc hành quân cần thiết trong những điều kiện tốt nhất.

Các bài học thuần túy quân sự bắt đầu được nhận thức, và một nỗ lực đáng khen đã được tiến hành để ứng dụng. Sự chi viện, cho dù chỉ vài ngàn người cũng đã bị từ chối tại Đông Dương, thì nay người ta đã gởi đến Bắc Phi hàng trăm ngàn người.

Các trang thiết bị nặng và không phù hợp, từng được đẩy cho quân đội Pháp tại Đông Dương, nay may mắn được giữ lại trong kho. Người ta ý thức được rằng, chỉ có lực lượng bộ binh được trang bị nhẹ mới có thể đối đầu một cách có hiệu quả với các nhóm quân nổi loạn. Chúng ta tìm cách trang bị cho quân đội các trang thiết bị thích ứng. Các máy bay nhẹ và nhất là máy bay trực thăng - mà khi còn ở Sài Gòn, tôi đã yêu cầu chừng vài chục chiếc, nhưng đã không được thỏa mãn - nay đã được đưa đến Algérie với số lượng ngày càng quan trọng.

Không quân và hải quân đã đóng góp với số lượng lớn hơn rất nhiều so với những việc họ đã làm được trên chiến trường Đông Dương.

Cuối cùng là đã có nỗ lực mang lại cho cuộc chiến có được một tầm cỡ quốc gia bằng cách đưa lính quân dịch và các lực lượng dự bị tham gia chiến tranh.

Nỗ lực về mặt quân sự đó đã đủ chưa? Chính phủ xác nhận là đủ. Ta muốn cùng chia sẻ quan điểm này, nhưng gần như tất cả những người thừa hành lại có ý kiến tranh cãi, khi họ được tự do nói hay viết. Có một điều chắc chắn là: các hành động quân sự đã không có được tính chất ồ ạt để có thể tạo được - bằng cách giới hạn sự thiệt hại - những kết quả mau chóng và có tính cách quyết định. Cũng như ở Đông Dương, chúng ta không tránh được sự “mục ruỗng” không thể tránh được.

Các trang thiết bị, vũ khí và các khung chỉ huy có rất nhiều lỗ hổng, chỉ có thể được khỏa lấp bằng sự huy động lực lương cấp quốc gia.

Quân số - cho dù được nhận xét như thế nào ở những nơi chính thức - vẫn còn quá thiếu. Lực lượng này được tính toán không phải trên cơ sở các yêu cầu thật sự của các giới chức quân sự địa phương, mà do chính phủ dựa trên những đánh giá gây nhiều tranh cãi về chính trị và kinh tế, coi là “khả năng tối đa”. Đây là một phương pháp luôn luôn mang lại các kết quả không tốt.

Giải pháp duy nhất có thể tạo điều kiện cho phép duy trì một cách ổn định và lâu dài các lực lượng thật sự cần thiết là sự kéo dài vào thời điểm và trong thời gian cần thiết chế độ quân dịch. Giải pháp này bị gạt qua một bên vì các lý do chủ yếu là chính trị nội bộ. Chính sách này đã được thay thế bằng những biện pháp tạm thời làm hỏng cơ cấu tổ chức của quân đội chúng ta, làm cho quân đội chúng ta không thích ứng được với các nhiệm vụ khác, như là phòng thủ châu Âu, bảo vệ an ninh bên trong chính quốc, can thiệp nhanh ở nước ngoài - vụ can thiệp ở Suez đã cho thấy rõ điều này - nhưng vẫn không tạo điều kiện trang bị cho châu Phi những phương tiện cần thiết, và nhất là đã đánh lừa dư luận về cường độ và thời gian của những sự hy sinh mà chúng ta phải chấp nhận.

Cũng như ở Đông Dương, chỉ các hành động quân sự không đủ để mang lại kết quả. Hành động quân sự phải được kết hợp với hoạt động chính trị tức là cùng với các biện pháp trong tất cả các lĩnh vực - tâm lý, hành chính, kinh tế, xã hội,... hoạt động chính trị này phải thể hiện ở cấp địa phương. Vì vậy, phải yêu cầu có một sự thống nhất giữa các hành động chính trị và quân sự. Thế nhưng còn tệ hơn ở Đông Dương, chúng ta không thực hiện được nó ở Bắc Phi.

Những sự từ bỏ sớm của chúng ta ở Maroc và Tunisie đang ngày càng lan rộng khiến cho sự thống nhất hành động này không thực hiện được nếu không có sự tham gia, ngày càng khó yêu cầu hơn, của chính phủ các nước ngày nay đã có chủ quyền và mối quan hệ với nước Pháp cho tới nay vẫn là lời nói xuông.

Tại Algérie, sự ban hành “tình trạng khẩn cấp”, việc thành lập một số “ban chỉ huy dân sự và quân sự” địa phương hoặc là việc giao cho một vài cấp quân sự một số “quyền hành đặc biệt”, cho dù rất rộng rãi, chỉ là các biện pháp không đầy đủ và cục bộ nhằm mục đích né tránh vấn đề thực sự. Trước kia cũng như hiện nay, chắc chắn chỉ có thiết quân luật mới có thể giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng hỗn độn như đang xảy ra trong thực tế. Đây là giải pháp duy nhất có hiệu quả1, vì chỉ có biện pháp này mới giao quyền hạn đầy đủ cho người có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm của họ. Hơn nữa, trong khi chờ đợi các giải pháp chính trị lâu dài, còn đang được soạn thảo trong một thời gian lâu nữa, chế độ thiết quân luật có thể tạo điều kiện làm im đi những tiếng nói chính trị với ý nghĩa xấu của nó - nhưng có lẽ đây chính là một trong những lý do khiến nó bị gạt bỏ.
______________________________________
1. Chúng ta có thể nhận xét rằng ở Algérie, những kết quả tốt nhất đã đạt được ở vùng Aurès và Kabylie mà quyền lực tập trung được giao cho giới thẩm quyền quân sự.

***

Chính những sự cân nhắc về mặt chính trị đã làm khựng lại các nỗ lực về quân sự của chúng ta và đã khiến chúng ta chỉ mới chớm làm những gì đáng lẽ phải được tiến hành đến nơi đến chốn. Nếu các bài học về quân sự của cuộc chiến tranh Đông Dương đã mang lại ít nhiều kết quả, thì các bài học về mặt chính trị của nó vẫn còn nằm chết yên một chỗ. Cũng là những sự do dự, cùng nhưng sai lầm và phương cách làm việc thảm hại được tái diễn lại. Những cái xấu bẩm sinh của chế độ tạo ra khó khăn cho ta ở Đông Dương cũng được lập lại ở châu Phi, và cũng dẫn đến những kết quả tương tự.

Cũng như ở Đông Dương, chúng ta không có khả năng vạch ra một đường lối chính trị toàn diện ở châu Phi. Những giải pháp tạm thời mà ta đạt được không mỹ mãn lắm ở Tunisie và Maroc đã không giúp đạt được một kế hoạch hành động. Ở Maroc, chỉ là một giải pháp tình thế gây ấn tượng. Ở Tunisie, chúng ta bị áp đặt bởi một loạt những điều kiện mà ta không thể dự kiến cũng như không thể kiểm soát được. Những giải pháp này đã áp đặt ảnh hưởng rất nặng nề lên những gì ta có thể áp dụng ở Algérie, ở Sahara và thậm chí ở lục địa châu Phi đen.

Vẫn còn thời gian để cứu vãn tình hình. Vụ kênh đào Suez đã đến đúng lúc để thuyết phục chúng ta và những đồng minh rằng chúng ta đang phải đối phó với một chiến dịch rộng lớn nhằm mục đích không chỉ gạt nước Pháp ra khỏi Bắc Phi mà còn làm xáo trộn những vị trí của NATO ở châu Âu. Bắt đầu từ Le Caire, chiến dịch này kéo dài ngang qua Bắc Phi đi về Tây Phi và Trung Phi. Chiến dịch này do Mátxcơva điều khiển, mà công cụ là những người theo Chủ nghĩa Quốc gia Ả Rập thực hiện một cách có ý thức hoặc vô tình.

Chúng ta chỉ có thể đối phó với một kế hoạch to lớn như vậy bằng một đường lối chính trị bao quát, áp dụng cho toàn châu Phi. Chỉ trong khuôn khổ chung đó mới có thể tìm ra những giải pháp gắn bó chặt chẽ với nhau cho các nước Algérie, Maroc, Tunisie, vùng Sahara và những vùng lãnh thổ của Đế quốc chúng ta tại châu Phi.

Trao đổi về vấn đề này không nằm trong chủ đề cũng như khả năng của tôi. Cái quan trọng là một sự lựa chọn như thế nào để chấm dứt những sự lưỡng lự và những sự thoả thuận què quặt, để vạch ra rõ ràng những mục đích, những phương tiện để đạt đến, những giai đoạn và những giới hạn không thể vượt qua - và khi những sự lựa chọn này được thông qua, thì chúng phải là những giải pháp lâu dài. Địch thủ lớn nhất của chúng ta ở châu Phi, trên thực tế, cũng là địch thủ của chúng ta ở Đông Dương. Đó là sự không dứt khoát và không liên tục của những chính sách ở Paris. Với những chính phủ không ổn định và thiếu nghị lực thì, tất cả mọi chủ trương chính sách đều không tốt. Một chính phủ có ý chí kiên định và ổn định, thì hầu như bất cứ đường lối chính sách nào cũng tốt hơn.

***


Không hơn gì ở Đông Dương, một chính sách không thể có được sự thành công ở châu Phi nếu nó bị những sự can thiệp từ nước ngoài cản trở một cách vô tội vạ, từ những địch thủ ra mặt cho đến những nước tự cho là đồng minh. Thế nhưng, nền ngoại giao của chúng ta đã không biết ngăn chặn họ. Nó đã để sự căng thẳng giữa ta với Ai Cập và Liên minh các nước Ả Rập phát triển mà không có sự đối phó hữu hiệu. Nó giả vờ không biết trước những âm mưu của người Mỹ, hoặc nghe những lời đảm bảo mơ hồ mà thực tế đã hoàn toàn bác bỏ. Nó luôn luôn hành động chậm trễ so với diễn biến của tình hình.

Một sự hăm dọa có hành động quân sự đối với Libye đáng lẽ đã có thể, ngay lúc đầu bóp chết từ trong trứng và với giá rẻ, cuộc nổi loạn ở Tunisie, làm nản chí cuộc nổi loạn ở Algérie. Chúng ta đã đồng ý rút ra khỏi vùng Fezzan để đổi lấy những lời hứa láng giềng thân thiện một cách hết sức mơ hồ và không được giữ đúng. Đã phải mất nhiều tháng chúng ta mới quyết định liên kết những cam kết của ta với những điều kiện đã được đặt ra lúc ban đầu và đã không bao giờ được thực hiện. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Ai Cập là nơi quy tụ những hành động chống lại chúng ta. Thế nhưng đối với Le Caire, trong vòng nhiều tháng, chúng ta đã sắm vai kẻ bịp bợm, bằng lòng với những nhân nhượng nửa vời và vô hiệu, những lời ngọt ngào với một ngài bộ trưởng ngây ngô hoặc tạm thời giảm bớt những sự mắng chửi hằng ngày mà chúng ta phải chịu đựng cho đến khi vụ việc kênh đào Suez làm cho Bộ Ngoại giao bừng tỉnh. Chúng ta đã đi từ thái cực này sang thái cực khác. Những sự khoác lác những đường kiếm mà đối phương biết rõ đó chỉ là một cây kiếm bằng gỗ, một cuộc can thiệp vừa trễ vừa thiếu suy nghĩ của chúng ta, được tiếp nối bằng một sự rút lui không chút vinh quang đã làm cho ta mất “mặt” tại các nước Hồi giáo cũng như tại vùng Viễn Đông.

Tuy vậy, vụ kênh đào Suez có thể là một cơ hội để chúng ta lấy lại sức mạnh, nếu chúng ta duyệt lại các mối quan hệ của ta với các đồng minh.

Với nước Anh, chúng ta phải làm thế nào có được một sự đoàn kết lâu dài, mà họ có lúc đã thể hiện với chúng ta; chính sách của họ đối với vùng Trung Đông, Ai Cập, Lybie từ đây trở đi không được qua mặt chính sách của chúng ta.

Đối với nước Mỹ, thái độ của họ đã làm cho những người mù quáng nhất phải mở mắt ra; chúng ta phải có sự giải thích thẳng thừng, một sự giải thích lẽ ra ta phải làm trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương nhưng đã luôn luôn tìm cách né tránh nó. Thực tế, chính họ mới là người nắm chìa khóa cho mọi vấn đề ở châu Phi, cũng như ở Viễn Đông ngày trước.

Sự biến đổi cần thiết của Đế quốc thực dân cũ của chúng ta thành một hệ thống mới - mà chúng ta gọi là khối Liên hiệp Pháp hay một cái gì đó - chỉ có thể thực hiện được nếu Hoa Kỳ không có một thái độ ngăn trở nó ngay từ đầu.

Để thảo luận với người Mỹ, điều quan trọng là phải nói cho họ rõ không phải là ta không biết bộ mặt thật của họ và chúng ta không chấp nhận sự lừa phỉnh của những vẻ bề ngoài bịp bợm của họ

Chắc chắn trong cái gọi là tư tưởng chống Chủ nghĩa Thực dân của người Mỹ có một phần quan trọng của sự thành thực về tư tưởng cùng với những hào hiệp. Một số công dân của nước Mỹ ngây thơ tin vào những hiệu lực đương nhiên của nền độc lập và quyền của các dân tộc được tự quyết - ngay cả khi rõ ràng là họ không có khả năng cho việc này. Cho dù trong quá khứ, người Mỹ đã bằng lòng với những vụ thảm sát người da đỏ, đánh chiếm các vùng lãnh thổ của người da đỏ, và ngày nay họ cũng rất bằng lòng với tệ kỳ thị người da đen, nhưng họ lại rất không thiện cảm với việc khống chế về mặt chính trị của một quốc gia tiên tiến đối với những quốc gia nhược tiểu. Họ tưởng rằng khi hét chống “Chủ nghĩa Đế quốc” của các nước khác to hơn Chủ nghĩa Cộng sản, thì họ sẽ tập hợp về phía họ các lực lượng chống Cộng mà không thấy rằng việc làm của họ chủ yếu kích động đối thủ của những người cùng sắc tộc với họ. Tuy nhiên cả những ảo tưởng lẫn những quan điểm chính trị ngây thơ vẫn không ngăn cản được việc làm ăn kinh doanh và người Mỹ trước hết vẫn quan tâm đến áp-phe của họ. Có những khách hàng nào tốt hơn là những quốc gia “kém phát triển” không có khả năng tự túc về kinh tế? Kế hoạch lớn của họ là giúp những quốc gia này được giải phóng về mặt chính trị khỏi chủ nghĩa thực dân của những quốc gia khác và sau đó nhốt những nước vừa độc lập trở lại trong những tấm lưới bằng vàng, nhưng rất chắc của chủ nghĩa thực dân bằng đồng đô-la.

Do đó cái được gọi là “chống Chủ nghĩa Thực dân” của người Mỹ là một đường lối chính trị rất thực tiễn, với những động cơ phức tạp và không phải tất cả đều hoàn toàn vụ lợi, nhưng dưới vỏ bọc của một chương trình hết sức khả kính là giải phóng các dân tộc bị những dân tộc khác đô hộ, nhắm trước hết vào việc xây dựng trên sự đổ nát của các Đế quốc châu Âu, một Đế quốc Mỹ đối đầu với Đế quốc Nga.

Chúng ta không phải là những nạn nhân đầu tiên của Chủ nghĩa Đế quốc Mỹ. Là con cháu của những người di cư được giải phóng, chứ không phải như họ thường tuyên truyền hay tự cho là những người dân thuộc địa được tự do - người Mỹ đã chinh phục các vùng lãnh thổ của họ bằng vũ lực chống các sắc tộc bản xứ mà họ đánh đuổi, trấn lột và thảm sát. Lịch sử của việc chinh phục này là một trong những cuộc chinh phục thực dân lớn nhất và tàn bạo nhất - và cũng là thành công nhất, vì khi đã tiêu diệt tận gốc các sắc dân bản xứ, nó cũng đã giải quyết dứt điểm các vấn đề có thể phát sinh về sau. Sau đó, là việc sáp nhập thô bạo các lãnh địa của Mêhicô, rồi những phần còn lại của Đế quốc Tây Ban Nha. Gần đây hơn là sự đổ vỡ của Đế quốc Thực dân Hà Lan có lợi cho các quyền lợi của Mỹ.

Và bây giờ thì đến lượt Đế quốc Anh và nhất là Đế quốc của chúng ta bị người Mỹ nhắm đến - nhưng các biện pháp tiến hành đã được thay đổi. Người ta đến “giúp đỡ” các dân tộc bị “thuộc địa hóa”. Tại đây, người ta đặt các căn cứ chiến lược. Vô số phái bộ quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, tôn giáo, với các khoản ngân sách rất lớn được gửi đến. Người ta chứng tỏ cho thấy cuộc sống sẽ đẹp đẽ và to lớn hơn như thế nào - ít nhất là cũng cho những lãnh đạo bản xứ - trong một khối liên kết tự do với nước Mỹ hơn hẳn dưới sự “thống trị” của chúng ta. Người ta tranh thủ mọi thời cơ để biểu thị thiện cảm của dân tộc Hoa Kỳ với những khát vọng của những người dân sống dưới “chế độ thuộc địa”, với sự phản đối của các dân tộc đối với chúng ta. Người ta động viên một cách có hệ thống tất cả những địch thủ của ta. Khi cần thì người ta kêu gọi sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc. Và từ từ, người ta đẩy ta ra khỏi cửa. Người ta đã chiếm vị trí của chúng ta, nhưng với một hình thức gần như vô hình mà chỉ sức mạnh đồng đôla mới tạo được. Không có toàn quyền, không có khâm sứ, không có cao ủy Mỹ, nhưng có một vị Đại sứ Hoa Kỳ. Người ta sẽ không làm gì được nếu không có sự chấp thuận của ông ấy. Các dân tộc này tưởng rằng mình được tự do vì đất nước của họ được lãnh đạo bởi những người cùng chung một chủng tộc, nhưng không biết rằng những người này đã bị giữ chặt một cách hết sức tàn nhẫn bằng tiền bạc, và chỉ là những con rối của người Mỹ.

Đây là chính sách mà chúng ta đã để cho phát triển ở Đông Dương, và nó đã tống cổ chúng ta đi. Và đây là những gì đang xảy ra ở châu Phi - cho dù nó được tiến hành kín đáo hơn rất nhiều - nó cũng sẽ tống cổ ta ra khỏi đấy nếu ta không đặt ra một giới hạn cho nó. Chúng ta phải nói với người Mỹ rằng họ không thể vừa là người bạn đồng minh của chúng ta ở châu Âu vừa là người phá hoại các vị trí của chúng ta trên khắp thế giới. Chúng ta, hoặc là làm thế nào thuyết phục họ chấp nhận chính sách Đế quốc của ta và ủng hộ nó một cách trung thực, hoặc là thoả hiệp với ý thức hệ và những tham vọng của họ - nhưng phải bao gồm sự cam kết chính thức của cả hai bên. Chúng ta phải là đồng minh bình đẳng, không phải chư hầu. Nếu không thì sẽ tái diễn trò lừa phỉnh mà chúng ta đã bị áp đặt tại Đông Dương, cho đến khi nào có một sự “xét lại đau đớn” của đường lối chính trị nước ta.

***

Cũng như ở Đông Dương, chúng ta cũng sẽ không có cơ hội giành thắng lợi ở châu Phi, nếu không chấm dứt được một cách vĩnh viễn sự phản bội và đồng minh của nó: tinh thần chủ bại. Thế nhưng về mặt này, chúng ta đã không làm gì cả, và tình hình còn tệ hơn khi có chiến tranh Đông Dương. Những kẻ điên cuồng luôn lớn tiếng đòi hỏi rút ra khỏi Bắc Phi trong các phiên họp quốc hội và ngay trong những buổi họp của chính phủ. Báo chí chủ bại còn hoành hành một cách công khai hơn nữa và cũng bằng những phương pháp như vậy đã tiến hành việc làm băng hoại tinh thần của quốc gia và quân đội. Đảng Cộng sản, hiện nay đang được tham gia trở lại vào chính phủ đa số đã phản bội một cách không kiềm chế hơn nữa. Ở Algérie, họ tham gia trực tiếp vào sự nổi loạn. Trong vụ Ai Cập, họ đã cùng quan điểm với đối phương.

Không thể có một kết quả lâu dài nào cho đến khi vẫn còn những vụ việc như vậy. Một tương lai tốt đẹp của châu Phi thuộc Pháp đòi hỏi phải loại khỏi vòng chiến không những các đảng phái hay phe nhóm bị ảnh hưởng của nước ngoài, mà cả những nhân vật dù cao cấp thế nào đã cộng tác với những thế lực này một cách công khai, hoặc bí mật qua báo chí, tại quốc hội, cũng như trong chính phủ.



***

Cho dù có được trình bày vắn tắt như thế nào, sự so sánh vừa rồi giữa cuộc chiến đã qua ở Đông Dương cùng với cuộc chiến mà chúng ta đang tiến hành ở châu Phi đã cho thấy có những sự tương đồng bi thảm.

Một nhận xét nổi cộm nhất mà chúng ta có thể có là: Tuy có một vài biểu hiện trên hình thức nhưng thực ra đất nước không được huy động vào cuộc chiến ở châu Phi cũng như ở Đông Dương trước đây. Chúng ta đã tiến hành những cuộc hành quân trong không khí của thời bình. Chúng ta không muốn làm hỏng đến không khí yên bình của đất nước. Chúng ta chỉ thực hiện những biện pháp cục bộ và giới hạn về mặt thời gian, đã lùi bước trước những biện pháp thể hiện ý chí quyết thắng của ta vì những hệ quả tinh thần của chúng hơn là vì những hậu quả vật chất. Thế nhưng chúng ta sẽ không đạt được một thắng lợi nào nếu không thắng trên tất cả mọi phương diện.

Rồi sẽ mất tất cả - Tunisie, Maroc, Sahara, lục địa châu Phi đen - nếu chúng ta không thắng ở Algérie. Có thể chúng ta đạt được một kết quả tốt về mặt quân sự - cho dù không có đủ các phương tiện chiến tranh, sau thất bại tại kênh đào Suez. Nhưng nếu nó không mang lại một giải pháp chính trị thỏa đáng, thì những nỗ lực của ta là vô ích. Thắng lợi ở Algérie cũng sẽ vô nghĩa nếu thắng lợi này không chấm dứt ở Maroc và Tunisie những nhượng bộ không có sự đổi lại tương ứng. Ta giành thắng lợi ở Bắc Phi sẽ không ích gì nếu những địch thủ ở vùng Trung Đông hay bên kia bức màn sắt được tự do tiến hành những cuộc chiến tranh phá hoại của họ, nếu các đồng minh phương Tây của chúng ta tiếp tục hứa hẹn và nhất là nếu ngay nước Pháp, vẫn còn một đảng phái được điều khiển từ xa từ Mátxcơva, bất cứ lúc nào có thể đòi xét lại tất cả.

Những nỗ lực mà nước Pháp phải thực hiện là toàn diện và kéo dài. Yêu cầu của nó là phải huy động tất cả các tiềm lực quân sự, kinh tế, chính trị, và nhất là tinh thần. Nhưng không may là chúng ta còn lâu lắm mới làm được như thế. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()


***

Nước Pháp có còn khả năng đứng dậy một cách mạnh mẽ theo yêu cầu chăng?

Nếu nghĩ về một nước Pháp “thực tại” của nó - tôi xin dùng một cách nói trước khi chiến tranh xảy ra, mà hiện nay càng có tính thời sự hơn bao giờ hết - thì quả thực là vẫn còn một sự lạc quan rất lớn. Cho dù có những chấn động tới mức đã làm rung chuyển nền tảng của nước Pháp, nhưng nó vẫn còn vững chắc một cách lạ lùng. Đất nước, cho dù có những biểu hiện bên ngoài như thế nào về bản chất vẫn hết sức lành mạnh. Nước Pháp biết rằng việc mất châu Phi sẽ là một thảm họa không thể cứu vãn được. Dù các nhà lãnh đạo Pháp đã có thái độ khoan nhượng đối với những thái độ khiêu khích, nước Pháp vẫn chấp nhận một cách bình tĩnh và kiên quyết việc gọi quân dự bị, và kéo dài chế độ quân dịch trên thực tế. Trong chiến đấu cũng như trong quan hệ với người bản xứ, các binh sĩ tại ngũ và tái ngũ lúc nào cũng chứng tỏ cho thấy chúng ta vẫn có thể tin tưởng hoàn toàn vào họ. Hành động can đảm của chúng ta chống lại Ai Cập đã được đất nước đón nhận bằng ngạc nhiên và hãnh diện. Đất nước chắc chắn sẽ chấp nhận tất cả những nỗ lực cũng như những sự hy sinh nếu chúng ta thành thực yêu cầu họ, thay vì tìm cách lừa bịp họ. Dân chúng rất có khả năng đứng dậy nếu chúng ta biết cách kêu gọi họ.

Nhưng không may là chính cái nước Pháp “Pháp lý” - với những tập đoàn cầm quyền tranh giành nhau quyền lực và những lợi lộc của chế độ ố lại là cái mà chúng ta phải dựa vào. Cái nước Pháp này không những không có khả năng khơi dậy những hành động cứu nguy trong dân chúng, mà còn ngăn cản việc hình thành và phát triển tự nhiên những hành động này. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc () Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Cho dù họ thuộc phe nhóm nào, những kẻ nắm quyền và hưởng lợi của chế độ này, cũng không phải là không có lo lắng. Họ nghĩ nó sẽ không tồn tại lâu nếu chúng ta mất châu Phi và trong tình hình bi kịch hiện nay, chế độ này phải đánh lá bài cuối cùng. Do đó họ cũng tìm cách cựa quậy để tìm kiếm các giải pháp tạm thời nhưng không làm hại đến chế độ của họ.

Có một nhà chính trị, trong năm cuối cùng của cuộc chiến tranh Đông Dương đã giữ một chức vụ mà chỉ có ông mới có khả năng đưa cuộc chiến tranh này đến một giải pháp trong danh dự - nhưng ông đã chẳng làm gì cả - nay lại đề nghị trong các bài báo cũng như diễn văn của mình những giải pháp mà nếu như ông đã làm thì đã giúp chúng ta giữ được Đông Dương.

Một nhà chính trị khác, khi còn nắm trong tay quyền lực chính phủ trong thời gian chiến tranh Đông Dương và có điều kiện tận lực chống phái chủ bại và bọn phản động, nay lại đòi “bắn sáu viên đạn” vào những kẻ mà khi có thể làm được như vậy ông lại không làm gì hết.

Một người khác, đã từng công khai phê phán cuộc chiến tranh Đông Dương là “tồi tệ và đáng kinh tởm”, đã dùng tất cả những lý lẽ mị dân để bênh vực nền hòa bình với bất cứ giá nào, lại đứng đầu một liên minh đòi cứu nguy cho Algérie và khẳng định sẽ chiến đấu chống lại tư tưởng đầu hàng dưới bất cứ hình thức nào, cho dù được trá hình dưới hình thức những cuộc thương thuyết, những sự trung gian, chia xẻ lãnh thổ hay chủ quyền.

Những đảng phái và cá nhân từng đi đầu trong việc làm lan truyền tư tưởng chủ bại trong cuộc chiến tranh Đông Dương, và trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, đã cổ vũ cho việc rút ra khỏi vùng đất này, nay lại ủng hộ thậm chí tham gia một Chính phủ tỏ ra muốn khơi lại chủ nghĩa quốc gia - muộn màng, rời rạc nhưng có thật - và yêu cầu nước Pháp phải thực hiện một nỗ lực mà nếu trước đó, chỉ cần một phần của nỗ lực này cũng đủ để giải cứu Đông Dương. Nỗ lực này cùng với tất cả các biện pháp khác - cho dù chưa đầy đủ - có lẽ là tất cả những gì mà chế độ này cho phép làm.

Những sự chuyển đổi muộn màng đó, đã cho thấy rằng ngay trong cái nước Pháp “Pháp lý” đó, đã có một sự giật mình. Sự giật mình đó có kéo dài không? Đó có phải là hồi chuông chấm dứt những tiếng kêu rên chủ bại, những điều sỉ nhục và những sự đầu hàng không? Chúng có đủ sức đánh bại hoàn toàn sự bất lực của chế độ không, sự “mất cường tráng” mà các đối thủ của chúng ta rất muốn thấy? Tất cả những cái này đã tạo điều kiện cho kẻ thù coi thường chúng ta qua câu nói của Abd el-Krim, một kẻ thù lâu dài: “Các ông không còn khả năng tự bảo vệ nữa, các ông không còn là đàn ông”. Chúng ta có quyền nghi ngờ đúng như thế thật.

Một con bệnh, để có thể phục hồi lại, có đủ các lý do để lo lắng khi không còn cách nào khác là trông trờ sự chăm sóc của những ông thầy lang băm, đã dẫn đến tình trạng hết sức tội nghiệp của anh ta hiện nay. Các liều thuốc của những vị này không tạo ra được một sự phục hồi chỉ có thể đến từ một nhà phẫu thuật giỏi.

PHỤ LỤC

Phúc đáp Ngài Thủ tướng J.Laniel

Ông J.Laniel là người giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào thời điểm xảy ra thất bại Điện Biên Phủ, cho phổ biến vào tháng 11 năm 1957, một cuốn có tựa là Bi kịch Đông Dương (từ Điện Biên Phủ đến cuộc “đánh cược” Genève), qua đó ông cố gắng biện minh cho các hành động của chính phủ và cá nhân ông. Sẽ không có một vấn đề gì cả, nếu như tác giả đã viết: cuốn sách là “một tài liệu” được thúc đẩy từ “một sự quan tâm đơn giản đến sự thực”.

Nhưng không may là, hình như ngài nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ tìm cách đẩy trách nhiệm, một phần về phía các cấp chỉ huy quân đội, một phần khác về phía người kế nhiệm mình. Cuốn sách của ông đầy rẫy các thiếu sót sai lầm, mâu thuẫn, các sự luồn lách ít nhiều có tính chất dụng ý, chưa kể việc bẻ cong sự thật. Tôi chỉ muốn chỉ ra những sự xuyên tạc rõ ràng nhất.


***

Tác giả đã không ngần ngại khẳng định rằng: về những gì liên hệ tới nhiệm vụ tôi đã thực hiện ở Đông Dương, chính phủ của ông đã cho tôi “những chỉ thị chính xác nhất có thể có được cho một tư lệnh quân đội”. Chúng ta có quyền hỏi rằng, nếu đã làm như vậy, thì ông Laniel sẽ không ngần ngại phổ biến những chỉ thị đó. Thế nhưng, ông đã không làm, vì thực tế là không có một chỉ thị nào cả. Nhiệm vụ của tôi chưa bao giờ được quy định. Tôi đã phải tự quy định nó và chính phủ chỉ thông qua nó một cách ngấm ngầm, mà không tỏ rõ thái độ bằng một văn bản nào cả1.

Sự né tránh trách nhiệm đã đạt đến đỉnh cao của nó về những việc liên hệ đến việc phòng thủ vùng Thượng Lào, một vấn đề cốt lõi đã xuyên suốt đường lối chính trị và chiến lược quân sự tại Đông Dương. Ông Laniel, đã biết rõ sự nghiêm trọng của việc thiếu trách nhiệm của chính phủ trong việc này, nên trong khi bênh vực thái độ của mình ông không ngần ngại đưa ra nhưng khẳng định không chính xác và những lập luận mâu thuẫn.

Sự trình bày này có thể làm cho độc giả nghĩ rằng “Kế hoạch Navarre” là sự hoạch định của Chính phủ, hay là ít nhất nó đã được chính phủ chính thức thông qua và là mục đích của những chỉ thị đã được giao cho Tổng tư lệnh quân đội ở Đông Dương.

Ông đã nói bóng nói gió rằng Ủy ban Quốc phòng, ngày 4 tháng 7 năm 1953, đã có những chỉ thị cho tôi “về việc rút bỏ một phần việc phòng thủ nước Lào”. Nhưng để xác nhận luận điểm này, ông chỉ có thể trích được một đoạn câu rời rạc tối nghĩa, tách khỏi ngữ cảnh của nó, và hình như được trích từ biên bản của buổi họp. Thế nhưng, biên bản này - mà cho đến ngày nay tôi mới biết có sự hiện hữu của nó - không những chưa bao giờ được phổ biến đến tôi mà hình như đã được viết một cách không đúng sự thật. Không có chút gì của cái mà ông Laniel phịa ra thành kết quả của cuộc trao đổi phức tạp và hoàn toàn không có một kết luận nào được rút ra từ buổi họp này. Ngược lại, tôi còn tin chắc rằng, Chính phủ cho dù có biết những sự hiểm nguy cho việc phòng thủ nước Lào, nhưng vẫn không muốn từ bỏ nó.
_____________________________________
1. Ông Laniel đã viết: “Vấn đề còn lại là định nghĩa đường lối quân sự của chúng ta. Đường lối này đã được xác định vào cuối tháng 7 năm 1953, trong một tài liệu được biết với cái tên là kế hoạch Navarre”, và xa hơn một chút, ông đã kể ra những đoạn của tài liệu “định nghĩa” nhiệm vụ của Tư lệnh quân đội tại Đông Dương.

Nhận định của tôi còn được củng cố thêm qua những cuộc trao đổi giữa tôi với ngài Tổng trưởng các Quốc gia Liên kết. Và nó đã trở thành một điều chắc chắn, khi ba tháng sau đó - ngày 28 tháng 10 - tôi đã thấy Chính phủ ký với nước Lào một hiệp định liên kết chính thức, qua đó thì nước Pháp bắt buộc phải bảo vệ nước này. Nếu một quyết định trái ngược đã được quyết cách đây ba tháng thì đó là một trọng tội thật sự đối với danh dự của nước Pháp và là một sự phản bội đối với một nước mà chính ông Laniel đã viết, như là “một mẫu mực về sự trung thành”. Có lẽ ông nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã thấy có một mâu thuẫn quá rõ ràng giữa cái gọi là quyết định của Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 7 và việc ký hiệp định ngày 28 tháng 10 sau đó, vì ông đã bỏ qua việc nhắc đến sự kiện thứ hai này.

Ông còn tự mâu thuẫn ở những chỗ khác. Ông đã tiết lộ là vào ngày 6 tháng 1 năm 1954, trong một buổi họp của Ủy ban Quốc phòng, ông René Pleven đã đặt ra “vấn đề muốn biết việc bảo vệ nước Lào có còn là một trong mục tiêu của chính sách của Chính phủ không”. Làm thế nào mà ngài Bộ trưởng Quốc phòng có thể đặt một câu hỏi như vậy, nếu sự từ bỏ bảo vệ nước Lào đã được quyết định trước đó sáu tháng?

Ông Laniel còn viết, mặt khác đúng là Chính phủ của ông “rất mong sự độc lập của nước Lào được bảo toàn” nhưng vì biết rằng rủi ro mà Binh đoàn Viễn chinh phải đối phó rất lớn, nên ông đã để cho người chỉ huy quyền quyết định. Ở đây ông đã đến gần với sự thật hơn, tuy vậy sự thật là một việc trao quyền rộng rãi cho tôi chỉ là một sự im lặng giữ kẽ của Chính phủ đối với những câu hỏi do tôi đặt ra chứ không phải là một quyết định của ông ấy. Vả lại, tôi không thể chấp nhận một quyết định như thế, vì vấn đề có bảo vệ nước Lào hay không, trước hết là một vấn đề chính trị và là trách nhiệm của Chính phủ, chứ không phải trách nhiệm của tôi.

Sự thật là ông Laniel và Chính phủ của ông đã thường xuyên né tránh trách nhiệm. Đây có phải là một sự tính toán không? Phải chăng người ta muốn để cho tôi tự mình có một quyết định, mà nếu thành công, thì sẽ ghi vào thành tích của Chính phủ, và sẽ đổ hết trách nhiệm cho tôi nếu nó thất bại? Và mọi chuyện đã diễn biến đúng như sự tính toán như vậy.

Tuy vậy, tôi không có ý tố cáo ông Laniel có ý đồ đen tối. Tôi chỉ nghĩ ông ấy đã không biết cách hoặc không muốn làm trọng tài cho những khuynh hướng mâu thuẫn nhau giữa các bộ trưởng liên quan đến vấn đề, và thẩm quyền của họ lại dẫm đạp lên nhau một cách không gỡ rối được.

Tôi chủ yếu nghĩ là ông Laniel đã không bao giờ nắm rõ được vai trò của một người cầm đầu Chính phủ trong việc điều hành chiến tranh. Những quan điểm ông đã thể hiện đối với các bản báo cáo của Chính phủ cũng như của người chỉ huy quân đội là những chứng cứ thể hiện sự không biết gì của ông ấy về vấn đề này. Có vẻ như ông đã lầm, việc điều hành các cuộc hành quân là thẩm quyền của người chỉ huy quân sự với việc điều hành cuộc chiến tranh là công việc của Chính phủ1. Việc điều hành này bao gồm việc bắt buộc phải quy định nhiệm vụ cho người chỉ huy quân sự và cung cấp những phương tiện cần thiết cho người này hoàn tất nhiệm vụ: ông Laniel lại nghĩ là việc một cấp chỉ huy quân sự xin ý kiến của Chính phủ và yêu cầu gửi các sự chi viện - đây không những là quyền hạn, mà còn là nhiệm vụ của người chỉ huy quân đội - chỉ có thể diễn ra khi nào người chỉ huy này đang trong tình trạng lo “gỡ lại một sự thất bại nào đó”. Đối với ông, một nhà chỉ huy quân sự lý tưởng phải là người biết tránh, trong bất cứ tình huống nào, đặt chính phủ trước những trách nhiệm của nó.

Việc rút lui của thống chế Joffre, trên lãnh thổ quốc gia, từ vùng biên giới đến sông Marne đã diễn ra sau khi ta thua trong một trận đánh. Việc rút lui có chủ đích này của thống chế Joffre giúp ông tạo được sức mạnh để tập hợp lại và điều chỉnh các lực lượng của ông. Ông đã thực hiện một mưu lược quân sự hết sức tuyệt vời - nhưng những quyết định mà ông đi đến, cho dù chúng nặng nề đến mức độ nào vẫn là những quyết định hoàn toàn chiến lược và thuộc thẩm quyền vị chỉ huy quân đội (điều hành những cuộc hành quân). Ngược lại, quyết định rút quân mà không giao chiến ở Lào, một quốc gia đồng minh là một quyết định chính trị, mà Chính phủ mới có quyền quyết định (điều hành cuộc chiến tranh).
_____________________________________
1. Ông Laniel đã có một sự so sánh giữa sự rút quân chiến thuật ở Marne vào năm 1914 và một sự rút lui mà lẽ ra tôi có thể làm được ở Lào. Sự so sánh này đã chứng tỏ có một lẫn lộn trong tư tưởng của ông, giữa trách nhiệm của Chính phủ và trách nhiệm của vị chỉ huy quân sự.

***

Khi bàn về vấn đề chiến lược, ông Laniel lên án quyết định của tôi chấp nhận trận Điện Biên Phủ và đánh giá đây là một sự “thiếu thận trọng”, “một quyết định tai hại”, “một hành động đáng tiếc”, “một sai lầm trí mạng”,... Lý luận của ông ấy dựa hoàn toàn vào sự khẳng định của ông là tôi đã nhận được lệnh không bảo vệ nước Lào. Vì thế khẳng định này cũng chẳng giá trị hơn những khẳng định khác của ông ta.

Chắc chắn rằng nếu tôi đã nhận được các chỉ thị như vậy cho dù là những chỉ thị ngấm ngầm - tôi sẽ không thể được tha thứ nếu đã đưa một bộ phận quan trọng của binh đoàn Viễn chinh vào một hành động mà tôi biết là nguy hiểm và không có một mục đích gì cả, vì tôi xin nhắc lại là chiến dịch Điện Biên Phủ chỉ được mở ra để giải cứu nước Lào. (Ông Laniel đã không dựa trên một cơ sở nào khi gán cho quyết định này những nguyên nhân khác, như bảo vệ vùng châu thổ hoặc tiêu diệt Binh đoàn Tác chiến Việt Minh. Đây chỉ là những kết quả phụ mà chúng ta có thể rút ra được từ chiến dịch, nhưng không phải là những nguyên nhân dẫn đến việc mở chiến dịch này).

Ngược lại, nếu người ta nhìn nhận nhiệm vụ của tôi bao gồm việc bảo vệ nước Lào, thì quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ là hoàn toàn hợp lý, một phần vì không có phương cách nào khác để thực hiện nhiệm vụ này1, phần khác vì mục tiêu này đã đạt được. Về điểm này, thì ông Laniel đã không ngần ngại tự mâu thuẫn khi nhìn nhận nó bằng cách viết rằng: “Khi quyết định mở chiến dịch, Bộ Chỉ huy quân đội chúng ta đã nhắm vào 3 mục đích cùng một lúc: đưa địch quân ra khỏi vùng châu thổ, bảo vệ nước Lào đang bị uy hiếp, và tiêu diệt Binh đoàn Tác chiến của đối phương. Về hai mục tiêu đầu tiên, chúng ta đã đạt được mặc dù phải chịu đựng thất bại về mặt quân sự. Về mục tiêu thứ ba, chúng ta chỉ đạt được một phần thôi”. nguồn tunghoanh.com

Sau khi tôi viết những dòng này, một giải pháp đã được đăng trong tạp chí Perspectives ngày 9 tháng 3 năm 1957, do một nhà chiến lược vô danh nào đó viết. Theo ông này, tôi nên bảo vệ nước Lào ở Luang Prabang với một lực lượng không quân đóng tại Vien Tiane và được tiếp tế bằng tuyến đường sắt đi ngang qua nước Xiêm.

Giải pháp này thoạt đầu nghe rất là hấp dẫn. Nó cũng đã từng được nghiên cứu, nhưng bị bác bỏ vì điều kiện để chiến đấu ở đấy tồi tệ hơn là đánh nhau tại Điện Biên Phủ và gặp phải những trở ngại tuyệt đối. Việc phòng thủ trên bộ ở Luang Prabang là một việc rất khó, và là một việc không thể làm được đối với việc phòng thủ từ trên không. Và cũng không thể tổ chức trong một thời gian mong muốn một căn cứ quân sự quan trọng ở Vien Tiane. Không thể nào lập ra một tuyến đường sắt ngang qua nước Xiêm do lưu lượng đường sắt giữa Bangkok với Vien Tiane rất thấp và chủ yếu là do sự từ chối của nước Xiêm - họ ngại bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh và không muốn đặt lãnh thổ của họ dưới sự sử dụng của chúng ta để yểm trợ các cuộc hành quân.

Nhưng ông Laniel đã không giới hạn những sự chỉ trích của mình đối với Bộ Chỉ huy quân sự ở phạm vi chiến lược. Theo ông, chúng ta đã phạm nhiều sai lầm nặng nề ở tất cả các cấp (Bộ Chỉ huy cứ điểm Bộ Chỉ huy Bắc Bộ, Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương). Các sai lầm này đóng góp một phần quan trọng vào việc làm cho cứ điểm bị thất thủ, và nếu không có chúng thì chúng ta có thể thắng được trong chiến dịch này. Tôi không tranh luận về quan điểm này, vì nó không dựa trên một cơ sở đúng nào cả. Tôi chỉ giới hạn trong sự tái khẳng định là nếu đã có những sai lầm nói trên - chính tôi cũng có lên tiếng báo động về chúng - thì chúng không vượt quá những sai lầm không thể không có trong tất cả các hoạt động chiến tranh và chúng không có ảnh hưởng quyết định đối với kết cục đau buồn của chiến dịch.

Nguyên nhân quyết định sự thất bại của chiến dịch không phải là nguyên nhân quân sự mà là nguyên nhân chính trị và hoàn toàn có thể được quy về cho Chính phủ: đó là sáng kiến bất thình lình và thiếu suy nghĩ mở hội nghị về hòa bình tại Genève mà không tham khảo Bộ Chỉ huy quân đội.

Lẽ tất nhiên ông Laniel tìm cách hạ thấp tầm quan trọng và những ảnh hưởng của quyết định tai hại này. Ông cho rằng, Bộ Chỉ huy quân sự đã biết được ý đồ của Chính phủ trong việc tìm kiếm hòa bình qua thương lượng. Việc mở hội nghị Genève không phải một sáng kiến chính trị mới mẻ gì có thể làm cho cấp chỉ huy quân sự phải “bị bất ngờ”.

Đây chỉ là một trò chơi chữ. Cái đã làm cho Bộ Chỉ huy quân đội bị bất ngờ, không phải là ý muốn tìm kiếm hòa bình của Chính phủ - Bộ Chỉ huy đã biết rõ về việc này - nhưng ngay trước khi một trận đánh khó khăn diễn ra, quyết định bất thình lình họp một hội nghị quy mô trong những điều kiện như vậy chỉ làm cho binh sĩ của chúng ta bị ảnh hưởng về mặt tinh thần trầm trọng, trong khi địch quân lại rất phấn khởi để quyết định đánh một trận trí mạng, và người đồng minh Trung Quốc của họ cũng rất phấn chấn để gia tăng ồ ạt sự chi viện của họ.

Thật vậy, ông Laniel tránh không nói đến ảnh hưởng của việc mở hội nghị Genève đối với tinh thần của binh lính hai bên. Còn đối với sự gia tăng viện trợ của Trung Quốc, ông dừng lại ở chỗ tạo ra sự nghi ngờ việc này bằng những lập luận chỉ đúng về hình thức, cho dù có đủ những tài liệu chứng minh một cách không thể tranh cãi được cường độ cao của sự chi viện này, mà ông không thể không biết.
________________________________________
1. Trong cuốn cách này, tôi có nói rằng không có một giải pháp thay thế nào phù hợp với các phương tiện và nhiệm vụ của tôi đã được đề nghị trước, trong và thậm chí sau khi trận đánh đã xẩy ra.

***

Đến phần cuối của cuốn sách của mình, ông Laniel chuyển qua một đối thủ khác. Ông ngừng không chỉ trích các nhà chỉ huy quân sự nữa mà xoay qua chỉ trích ông Mendès France. Lý luận của ông có thể tóm tắt như sau. Chúng ta đã trải qua một thất bại ở Điện Biên Phủ, nhưng không phải là một sự thất trận. “Một sự xem xét sáng suốt tình hình” đã cho thấy sự tổn thất của địch thủ lớn hơn chúng ta, rằng “cán cân lực lượng đã không bị bẻ gãy trong bất cứ lĩnh vực nào”, rằng “con ách chủ bài của chúng ta vẫn là lực lượng quân sự” và một nền hòa bình trong danh dự có thể đạt được ở Genève. Ông ám chỉ rằng nếu ông còn cầm quyền thì ông có thể khai thác tình hình đang vẫn còn khá thuận lợi. Thật vậy, đây đúng là tình hình thật sự sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ - nhưng đau đớn thay, đây không phải là bức tranh mà ông Laniel đã thấy được vào lúc bấy giờ. Mặc dù tôi đã cố gắng hết mức để làm cho họ thấy rõ vấn đề, Chính phủ đã để bị lôi cuốn vào những sự suy nghĩ và hành động bi quan đen tối nhất. Thông qua tướng Ely ông đã gửi cho tôi những chỉ thị chiến lược chuẩn y những kế hoạch hành động mà tôi đã xin ý kiến, nhưng với tinh thần hoàn toàn khác. Tôi đã thông báo cho Thủ tướng những đề nghị sơ tán trong vùng châu thổ trong trường hợp - tôi đánh giá là có ít khả năng xảy ra - đối phương tấn công mãnh liệt. Trong những buổi họp của Chính phủ mà tôi biết đã diễn ra trong không khí hoảng hốt, các đề nghị của tôi đã được thông qua, nhưng lại được yêu cầu phải hành động, trước khi cuộc tấn công của đối phương diễn ra. Những chỉ thị miệng mà tướng Ely đã truyền đạt cho tôi thậm chí còn đề ra một thời hạn rút lui ngắn đến nỗi có thể được xem như là một sự tháo chạy thật sự1.

Hoàn toàn trái ngược với những gì ông Laniel đã nói, những chỉ thị này không hề giúp củng cố tình hình quân sự để có thể có được một con ách chủ bài ngoại giao, chúng chỉ là lệnh tháo chạy. Việc thực hiện những lệnh này, theo cách chúng đã chỉ thị cho tôi, chỉ có thể làm sụp đổ tinh thần của binh đoàn Viễn chinh, bẻ gãy xương sườn của quân đội Việt Nam, và làm cho việc tìm kiếm một nền hòa bình trong danh dự là không thể có được đối với chúng ta.

Trong những điều kiện như vậy, đâu là trách nhiệm của ông Laniel, đâu là trách nhiệm của ông Mendès France trong sự đầu hàng tại Genève? Ông Laniel đã trút hết những trách nhiệm này lên ông Mendès France. Có công bằng không?

Tôi không hề che giấu những cảm nghĩ của tôi đối với tính cách độc hại của vụ “đánh cược” nổi tiếng của ông Mendès France. Tôi không rút lại một chút nào những gì tôi đã viết về đề tài này.

Nhưng sự khách quan buộc tôi phải nói rằng, vào thời điểm ông Mendès France tuyên bố về sự “đánh cược” này, ông đã bị người tiền nhiệm của mình lôi kéo vào con đường loại bỏ hẳn khả năng có được một nền hòa bình trong danh dự cho nước Pháp, trừ khi ông có được một sự vực dậy phi thường về mặt tinh thần.

Chúng ta vừa thấy là ông Laniel đã ra lệnh phải thực hiện những cuộc rút lui ở Bắc Bộ trong lúc tình hình quân sự không đòi hỏi phải làm như vậy. Ông đã để cho báo chí thông báo sự rút lui này một cách ồn ào.

Ông đã không có một phản ứng tích cực nào - trừ một vài biện pháp đáng chế giễu - để ngăn chặn sự lan truyền làn sóng chủ bại mà người kế nhiệm ông, cho dù đó là một người như thế nào cũng không thể vực tinh thần dậy được.

Ông đã không làm gì để gửi những chi viện quan trọng cần thiết đã được tôi yêu cầu. Ông cũng đã có thái độ khoan nhượng đối với sự rò rỉ tin tức tạo điều kiện cho đối phương biết được ngày dự kiến lên đường hãy còn rất xa của một lực lượng chi viện rất nhỏ mà chúng ta định gửi đi.

Và cuối cùng ở ngay tại Genève, ông là người chấp nhận nguyên tắc về việc nhượng lại Bắc Bộ cho Việt Minh.

Tuy tính chất khác nhau nhưng trách nhiệm của ông trong nền hòa bình có tính cách đầu hàng này cũng tương đương trách nhiệm của người kế nhiệm.

***

Khi viết cuốn “Đông Dương hấp hối”, tôi cố tránh cáo giác cá nhân ông Laniel vì tôn trọng một người mà tôi nhận định là đã không thể kiểm soát được các sự kiện nhưng rất mong muốn giúp tôi, và tôi không bao giờ nghi ngờ về tinh thần yêu nước của ông. Rất tiếc là hôm nay, tôi phải có những sự cải chính kiên quyết với ông. Có thể cho rằng, như chính ông đã nói, tôi đã “đơn giản chỉ vì quan tâm đến sự thật”.
________________________________________
1. Thời hạn là từ mười đến mười lăm ngày. (Một vài bộ trưởng còn yêu cầu nó phải thực hiện trong 48 tiếng đồng hồ thôi). Tướng Ely khi nắm quyền chỉ huy đã kéo dài ra thành 6 tuần. Việc rút khỏi vùng nam châu thổ đã diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 7, tuy địch quân chưa bao giờ tung ra một cuộc tấn công mạnh

Nguồn: tunghoanh.com/dong-duong-hap-hoi/chuong-10-end-tqzaaab.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận