Đông Dương Hấp Hối Chương 9 a

 Chương 9a
Cuộc ngừng bắn
Dịch giả: Phan Thanh Toàn
Nguồn: NXB CAND



        
    Trước khi chủ nghĩa Cộng sản tràn đến biên giới Đông Dương, ta chỉ nghĩ rằng cuộc chiến sẽ được kết thúc bằng một sự quy hàng của “bọn phản loạn”.

Chúng ta đã phải dần dần xét lại quan điểm này. Việt Minh, với sự giúp đỡ của Trung Quốc trở thành một đối thủ ngày càng khủng khiếp, mà ta ngày càng cảm thấy phải nhượng bộ. Mặt khác, việc ta trao trả dần độc lập cho các Quốc gia Liên kết đã tạo điều kiện cho họ cũng có tiếng nói trong vấn đề này, thế nhưng quan điểm của họ về hòa bình khác với chúng ta. Và cuối cùng từ khi nước Mỹ bắt đầu cung cấp viện trợ cho ta thì họ giành quyền phải được tham khảo. Việc tái lập hòa bình trở thành một vấn đề phức tạp với nhiều phương án. Nó đã không được nghiên cứu một cách tường tận.



Vì thế, khi tôi nắm quyền chỉ huy quân đội tại Đông Dương vào đầu mùa hè năm 1953, nước Pháp vẫn không có một ý niệm nào về cách kết thúc cuộc chiến tranh cũng như họ đã không có kế hoạch cho cuộc chiến này.

Về phía đối phương thì tình hình hoàn toàn khác.

Đối với Việt Minh, mục tiêu của họ là một chiến thắng toàn diện, mang lại một nền độc lập hoàn toàn cho nước Việt Nam và sự đánh đuổi người Pháp với tư cách là những kẻ thống trị ra khỏi Đông Dương. Nhưng do ý thức được khó khăn nếu tồn tại trong cô lập, và lo ngại nếu chỉ có chỗ dựa duy nhất là Trung Quốc mà đầu óc bành trướng khiến họ lo sợ. Việt Minh cũng không loại bỏ việc tồn tại, ít nhất một thời gian trong khối Liên hiệp Pháp, nhưng chỉ với các mối liên hệ lỏng lẻo về kinh tế và văn hóa.

Trung thành với học thuyết của Chủ nghĩa Cộng sản, theo đó chiến tranh là một cuộc vận động tổng lực bao gồm sự kết hợp chặt chẽ giữa đường lối chính trị và chiến lược quân sự song song với việc tìm kiếm thắng lợi bằng vũ lực, Việt Minh luôn để ý và tranh thủ bất cứ một cơ hội chính trị nào có thể tạo điều kiện cho họ đạt được mục đích.

Trước mùa hè năm 1953, Việt Minh dự kiến sẽ đạt được thắng lợi trong cuộc chiến trước 1955 hoặc 1956. Về mặt quân sự họ dự kiến sẽ cần thêm một hai năm để Binh đoàn Tác chiến của họ, với sự giúp đỡ của Trung Quốc theo một nhịp độ như những năm vừa qua, có thể tung ra một cuộc tấn công đủ mạnh đẩy các lực lượng của chúng ta vào chỗ nguy hiểm nghiêm trọng. Về mặt chính trị, các điều kiện cũng chưa cho phép họ có hy vọng đạt được thành quả tức thì. Dư luận nước ta ngày càng có vẻ mệt mỏi vì cuộc chiến này, nhưng chưa tỏ ra chín mùi cho một nền hòa bình buông xuôi.

Bất ngờ, vào mùa thu năm 1953, có các dấu hiệu cho thấy có một sự điều chỉnh sâu sắc trong quan điểm của chính Phủ Việt Minh. Việc thay đổi kế hoạch các cuộc hành quân (xem Chương 6) là dấu hiệu của sự điều chỉnh này. Nó xuất hiện vào đầu tháng 11. Vài ngày sau đó, tờ báo Thụy Điển Expressen cho đăng những lời tuyên bố gây nhiều tiếng vang của ông Hồ Chí Minh. Qua cơ hội này, ông Hồ Chí Minh đã xuất hiện trở lại công khai sau một thời gian rút vào bí mật, và có một lập trường hoàn toàn mới: ông tỏ ra ủng hộ việc đạt đến một nền hòa bình qua thương lượng trực tiếp với nước Pháp. Trong những tuần lễ tiếp theo, sự chuyển hướng này càng được thể hiện rõ hơn qua các buổi phát thanh của đài Việt Minh. Một số buổi phát thanh của các đài Mátxcơva và Bắc Kinh cũng cho thấy lập trường này được sự thống nhất của Trung Quốc và Liên Xô.

***
Lý do nào khiến cho các nhà lãnh đạo Việt Minh tin tưởng là họ có thể đạt được hoà bình trong một thời gian ngắn thông qua những cuộc thương lượng mà họ đã chủ động khởi xướng?

Có một số lý do mang tính cách quân sự. Việc thực hiện “Kế hoạch Navarre”, một kế hoạch mà báo chí Pháp và Mỹ quảng cáo một cách rầm rộ tạo ra một sự lo ngại sâu sắc về phía đối phương. Sự lo ngại này được thể hiện qua các buổi phát thanh của đài Việt Minh, cũng như qua thông tin tình báo ta nắm được. Việc nắm lại thế chủ động của chúng ta trong nhiều cuộc hành quân mùa hè năm 1953, nhất là trong vùng Lạng Sơn, sức bật mới của các lực lượng Quân đội Liên hiệp; việc hình thành binh đoàn tác chiến của chúng ta, nhất là cảm nghĩ của đối phương cho rằng chúng ta từ nay điều hành chiến tranh theo một kế hoạch chặt chẽ làm cho các nhà lãnh đạo Việt Minh cảm thấy ưu thế quân sự mà họ đang có sẽ sớm bị đuổi kịp và chiến thắng có thể vuột khỏi tầm tay họ.

Chắc chắn là qua rất nhiều sự rò rỉ tin tức mà họ nắm được họ đi đến kết luận là cuộc chiến vào giai đoạn 1953-1954 sẽ tạo ra cho chúng ta rất nhiều khó khăn, nhưng nếu chúng ta vượt qua được giai đoạn nguy hiểm đó, thì khả năng của chúng ta trong giai đoạn kế tiếp sẽ gia tăng một cách mạnh mẽ.

Họ có thể nhận định rằng, đứng về quan điểm quân sự, họ sẽ có được nhiều thuận lợi nếu thực hiện đòn quyết định ngay trong năm này.

Cho dù lý do quân sự rất là quan trọng, nhưng lý do quyết định lại là lý do về mặt chính trị.

Lý do chính và chắc chắn là Việt Minh trong mùa hè năm 1953 biết ro được mức độ chống đối của dư luận quần chúng và quan trọng hơn nữa là sự chống đối của Quốc hội Pháp đối với cuộc chiến tranh Đông Dương (xem Chương 4).

Một lý do chính yếu khác là các nhà lãnh đạo Việt Minh nắm được những điều kiện do “tuyên bố ngày 3 tháng bảy” quy định cho các cuộc trao đổi giữa Pháp và các Quốc gia Liên kết về việc thực hiện sự trao trả độc lập đã được thống nhất trên nguyên tắc cho các nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Chắc chắn là một giai đoạn tế nhị sẽ diễn ra trong mối liên hệ giữa Pháp và ba quốc gia kể trên. Dự kiến sẽ có rất nhiều mâu thuẫn giữa luận điểm của người Pháp muốn giữ lại - ít nhất là trong thời gian còn chiến tranh - một phần quan trọng các sự ràng buộc đối với nền độc lập và luận điểm của các Quốc gia Liên kết muốn có một nền độc lập hoàn toàn và ngay lập tức. Sự căng thẳng nghiêm trọng xuất hiện vào mùa hè năm 1953, trong các mối quan hệ giữa Pháp và Campuchia là một ấn tượng ban đầu mà chúng ta có thể chờ đợi sẽ diễn ra với các quốc gia khác, đặc biệt là ở Việt Nam. Các biểu thị chống Pháp tại Quốc hội Việt Nam vào giữa tháng 10 cũng là một dấu hiệu báo trước cho những khó khăn nói trên1.

Do đó, Việt Minh có thể hy vọng rằng một tình hình rối ren kéo dài trong nhiều tháng ở Đông Dương, sẽ ngăn chặn mọi nỗ lực chiến tranh của các Quốc gia Liên kết. Mặt khác, chắc họ cũng phải nghĩ rằng một khi vượt qua cuộc khủng hoảng đó, các quốc gia này - và nhất là Việt Nam - sẽ tìm được trong ý thức về nền độc lập vừa đạt được, một sức mạnh để tiến hành một cách nghiêm túc cuộc chiến tranh.
_______________________________________
1. Ta có thể nhớ lại vào các ngày 15 và 16 tháng 10 năm 1953, “Quốc hội Việt Nam” họp tại Sài Gòn đã thông qua kiến nghị khẳng định ý muốn của Việt Nam không gia nhập khối Liên hiệp Pháp trong khuôn khổ quy định của bản Hiến pháp chúng ta.

Tất cả diễn biến của tình hình cho thấy là vào cuối năm 1953, và trong quý 1 năm 1954, phía chúng ta gặp nhiều khó khăn - trên cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, nhưng một khi sự khủng hoảng đó được vượt qua, thì tình hình sẽ được củng cố.

Hơn nữa các nhà lãnh đạo Việt Minh nhận thấy việc kéo dài cuộc chiến tranh sẽ làm cho sự can dự của Trung Quốc ngày càng sâu hơn vào Việt Nam, vì họ phải yêu cầu một sự viện trợ rất lớn, lâu dài hơn và sự bác bỏ hoàn toàn sự hiện diện của nước Pháp có nguy cơ đặt nước Việt Nam dưới sự bảo hộ của một ngoại bang khác nặng nề hơn chúng ta rất nhiều.

Từ tất cả những yếu tố chính trị và quân sự trên đây, Việt Minh đi đến quyết định tìm kiếm ngay từ năm 1954 một giải pháp cho cuộc đối đầu thông qua các cuộc thương thuyết. Lợi ích sâu xa của họ là chấm dứt cuộc xung đột, và do ý thức được các điều kiện họ đang có là hoàn toàn thuận lợi hơn chúng ta về mặt tuyên truyền và hoạt động chính trị, nên họ có nhiều lý do để tin tưởng sẽ chiến thắng trong các cuộc thương lượng để đạt tới hòa bình1.

Một cơ hội đã xuất hiện. Phải tranh thủ nó một cách tối đa. Sự thay đổi kế hoạch quân sự và những lời tuyên bố của ông Hồ Chí Minh với tờ báo Expressen đã đánh dấu một bước đầu cho hướng đi này.

Phản ứng chính thức của Chính phủ Pháp là một sự từ chối, được che đậy dưới một sự đồng ý trên nguyên tắc bao gồm những điều kiện không thể chấp nhận được.

Tuy nhiên chẳng có ai không biết điều “bí mật” này: các thành viên chính phủ không thống nhất với nhau về các điều kiện bắt đầu các cuộc thương lượng, và có một số bộ trưởng nghiêng về phương án tiếp xúc nhanh chóng với đối phương. Trong những người có quan điểm nói trên, có ông Paul Reynaud, Phó thủ tướng và ông Marc Jacquet, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết. Quan điểm của các vị này đối lập hoàn toàn với quan điểm của ông Georges Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao.

Phản ứng của dư luận và phản ứng của giới chính trị là khẳng định rằng việc tái lập hòa bình là một điều có thể làm được đúng y như những gì Việt Minh đã nói.

Một sự lo lắng lớn được nhận thấy trong giới lãnh đạo các Quốc gia Liên kết. Họ đang lo sợ về một sự “bỏ rơi” của nước Pháp.

Chính trong không khí như vậy mà Việt Minh phát động một kế hoạch hành động về mặt chính trị và quân sự, với sự chủ động hết sức xuất sắc.

Về mặt quân sự, kế hoạch hành động này nhằm mục đích đặt chúng ta vào một tình thế khó khăn nhất mà họ biết rất rõ: việc phòng thủ nước Lào. Họ chỉ cho chúng ta có hai sự lựa chọn, mà cả hai đều hết sức nguy hiểm: hoặc chúng ta bảo vệ cho đồng minh Lào và chấp nhận một sự phiêu lưu đầy nguy hiểm, hoặc là bỏ mặc đồng minh này và chấp nhận cái chết ngay từ trong trứng nước của khối Liên hiệp Pháp.

Trên mặt trận chính trị, kế hoạch hành động của Việt Minh được xây dựng trên cơ sở tuyên truyền nhằm hủy hoại tinh thần của nước Pháp và các Quốc gia Liên kết.

Đối với dư luận Pháp, chương trình hành động này được tiến hành thông qua các tổ chức Cộng sản hoặc có cảm tình với Cộng sản với những khẩu hiệu quen thuộc như: sự vô ích của chiến tranh, sự mất mát về mặt tiền bạc và mạng sống của con người, những sự hy sinh vô ích hay là “chỉ có lợi cho người Mỹ”... Mặt khác, người ta cũng cho rằng một nền hòa bình có được vẫn cho phép người Pháp duy trì sự có mặt của mình ở Đông Dương về mặt văn hóa, kinh tế và có thể về cả chính trị nữa: quyền lợi của Pháp vẫn được bảo tồn, tại sao lại phải tiếp tục cuộc chiến? Chiến dịch hành động này đã có một tác động mạnh mẽ vì lý lẽ họ đưa ra không hoàn toàn là sai. Chiến dịch còn được sự đồng tình của nhiều giới chính trị, sẵn sàng lên nắm quyền lực trả giá bằng một nền hòa bình đạt được bằng sự từ bỏ cuộc chiến.

Đối với các Quốc gia Liên kết, Việt Minh muốn chứng minh cho thấy là hòa bình sẽ mang lại nền độc lập hoàn toàn cùng với sự ra đi của người Pháp, vả lại dù sao thì người Pháp cũng đang chuẩn bị bỏ cuộc và thương thuyết với Việt Minh. Quân đội Việt Nam là mục tiêu chính của sự tuyên truyền này.

Chiến dịch này càng được nhiều thuận lợi hơn vì Việt Minh biết rất rõ về những lá bài của chúng ta, trong khi ta không biết gì về các lá bài của họ.
______________________________________
1. Trong một lá thư đề ngày 1 thánh giêng năm 1954, tôi đã báo cáo với Chính phủ suy nghĩ của tôi là Việt Minh đang tìm kiếm “một nền hòa bình qua thương thuyết” và để đạt được mục đích này, họ muốn có “một lá bài quân sự thuận lợi cho họ, bằng cách dự kiến cắt Đông Dương ra làm hai tại vĩ tuyến thứ 16 hay thứ 17. Đây một giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi một giải pháp thuận lợi hơn cho vấn đề Đông Dương”.

***

Để đối phó với một cuộc chơi được tính toán rất kỹ như vậy của Việt Minh, chính sách của chúng ta tỏ ra hết sức ngập ngừng. Các nhà lãnh đạo rất sợ các cuộc thương thuyết, nhưng lại cảm thấy bắt buộc phải tham dự vào một ngày nào đó, vì dư luận quần chúng sẽ không bao giờ chịu chấp nhận một sự bác bỏ các đề nghị của Việt Minh mà không có những cuộc thương lượng.

Chúng ta phải làm thế nào để bắt đầu những cuộc thương lượng này mà không có quá nhiều nguy hiểm? Có nên chăng nói chuyện trực tiếp với đối phương, hoặc là nên giải quyết vấn đề Đông Dương trong khuôn khổ của một sự thương lượng rộng lớn về các vấn đề của vùng Viễn Đông?

Phương pháp thứ nhất chắc chắn có những điểm thuận lợi.

Chắc chắn là không có chuyện nước Pháp thương lượng trực tiếp với Việt Minh mà không có sự đồng ý và tham dự của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, một chính phủ mà nước Pháp đã hỗ trợ và không thể phản bội được. Nếu có thể đưa được Chính phủ này vào quá trình thương thuyết, chắc chắn đây là giải pháp tốt nhất vừa cho Pháp, vừa cho Việt Nam.

Đối với Việt Nam, đây là phương cách chắc chắn nhất để củng cố lại sự thống nhất của họ.

Còn đối với nước Pháp, chúng ta có thể lấy lại được uy tín bằng cách thủ vai trọng tài giữa hai phe kình địch nhau. Chúng ta cũng có thể lấy lại được một ảnh hưởng để có thể giữ được sự hiện diện của nước Pháp trong một nước Việt Nam thống nhất mà chắc chắn sẽ cần đến chúng ta.

Một trong những ưu điểm rất lớn của các cuộc thương thuyết trực tiếp là khả năng chúng được tiến hành với một sự kín đáo tương đối, nghĩa là chỉ có một khả năng tối thiểu tác động đến tinh thần của dân chúng và nhất là của quân đội.

Đối mặt với nhưng thuận lợi nói trên, việc thương thuyết trực tiếp cũng có khó khăn rất rõ ràng. truyện copy từ tunghoanh.com

Khó khăn đầu tiên có tính cách tinh thần và pháp lý. Khi nói chuyện với Việt Minh, nước Pháp đã rời bỏ vị thế không biết bao lần được khẳng định từ đầu cuộc chiến: chúng ta sẽ không bao giờ thương thuyết với một “kẻ phản loạn”. Nhưng “kẻ phản loạn” đó không còn chiến đấu chống lại chúng ta, vì chúng ta đã nhìn nhận nền độc lập của nước Việt Nam. Bây giờ, họ chỉ chống lại Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Vì vậy chính phủ này mới là người thương thuyết với Việt Minh. Nhưng Việt Minh từ chối thương thuyết với chế độ Bảo Đại, vì họ không thừa nhận tính cách hợp pháp của chế độ này và họ cho là họ mới là người đại diện hợp pháp của nước Việt Nam. Còn chính phủ Việt Nam thì không muốn đi vào con đường có thể xét lại tính cách hợp pháp của họ.

Tuy nhiên đây không phải là trở ngại chính. Trở ngại chính đến từ người Mỹ. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ là một mặt của cuộc chiến toàn diện chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Nếu chúng ta ngừng cuộc chiến này lại bằng những cuộc thương thuyết với Việt Minh, mà không có Mỹ tham dự thì ta sẽ bị tố cáo là kẻ đào ngũ khỏi khối phương Tây và chạy về với đối phương. Nếu chúng ta không đạt được thắng lợi hoàn toàn - vì họ không đòi hỏi ta làm chuyện mà họ cũng không làm được trong trận chiến Triều Tiên tuy có phương tiện hơn hẳn chúng ta - giải pháp duy nhất có thể làm vừa lòng họ là một sự “chia cắt” theo kiểu “Triều Tiên”, để lại cho họ ở phía nam Đông Dương một vùng giúp họ duy trì được những căn cứ cần thiết cho chiến lược vùng Viễn Đông của họ. Chắc chắn không thể có một giải pháp theo kiểu này trong một hiệp định ký trực tiếp với Việt Minh. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Để có thể tiến tới những cuộc thương lượng trực tiếp, chúng ta phải có một chính sách ngoại giao đối phó với người Mỹ, để cho họ hiểu rằng nước Pháp không sẵn sàng đóng vai con bài của Mỹ và chịu thiệt thòi trên khắp thế giới. Khốn nỗi, nền ngoại giao của chúng ta lại không theo hướng đó mà cho rằng ta chẳng có cách nào khác hơn là “bám chặt” vào đường lối chính trị của Mỹ, ở bất cứ đâu.

Do đó, ngay lập tức chúng ta bắt buộc phải chấp nhận một hội nghị quốc tế, nơi ta sẽ được “sự hỗ trợ” - đúng hơn là một sự dám sát chặt chẽ - của các nhà ngoại giao Mỹ.

Những điểm bất lợi của một hội nghị như vậy có thể được nhận thấy ngay.

Chắc chắn là cuộc thương thuyết sẽ gây ấn tượng rất mạnh, không thuận lợi cho việc theo đuổi chiến tranh, vì nó sẽ tạo ra một ảnh hưởng không tốt đối với tinh thần binh sĩ của ta, khuyến khích Việt Minh tìm kiếm một “lá bài” quân sự thuận lợi cho họ, và tạo cơ hội cho họ đẩy mạnh việc tuyên truyền lên mức tối đa. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Chúng ta sẽ không có một sự tự do nào để hành động, và phải quan tâm đến ý muốn của người Mỹ nhiều hơn là quyền lợi của chính chúng ta. Trong trường hợp ta có những quan điểm khác biệt với Chính phủ Quốc gia Việt Nam, thì họ sẽ dựa vào người Mỹ để chống lại ta. Bên cạnh ảnh hưởng của người Mỹ - mà ta có thể được lý giải được trong một phạm vi nào đó, vì họ thật sự có giúp đỡ chúng ta - chúng ta cũng phải quan tâm đến ảnh hưởng của nước Anh, tuy nước này không đóng góp gì cho cuộc chiến. Và cuối cùng sau lưng Việt Minh là Trung Quốc và Liên Xô, có thể tạo ra những sức ép không thuận lợi cho Việt Minh thỏa hiệp với ta.

Nhưng các nhà ngoại giao của chúng ta chỉ thấy có thuận lợi - hoặc những cái họ cho là thuận lợi.

Các nhà ngoại giao của ta cho rằng sự hỗ trợ của Anh và Mỹ sẽ giúp chúng ta vượt qua được các trở ngại, mà Nga và Trung Quốc có thể dựng lên trong các cuộc đàm phán.

Họ nghĩ có khả năng thuyết phục được Trung Quốc bỏ rơi Việt Minh, để đổi lấy một số nhượng bộ từ khối chúng ta. Đây là “ý tưởng” lớn của Bộ Ngoại giao, nơi nói rất nhiều đến vụ Tito bỏ rơi người Hi Lạp nổi loạn. Nhưng họ quên rằng điều kiện rất khác xa. Tito bỏ rơi Marcos vì chính ông ta đã bị phe Xô Viết khai trừ.

Không có một sự tương tự nào như vậy đối với Trung Quốc. Đối với những sự thuận lợi mà phương Tây có thể trao cho Trung Quốc - như là việc công nhận chính quyền của họ, bỏ đi các hạn chế về trao đổi thương mại - tùy thuộc nhiều vào nước Anh và nhất là nước Mỹ, lúc này chưa quan tâm lắm đến việc đi vào con đường này.

Trên thực tế, điểm thuận lợi cơ bản mà nền ngoại giao của chúng ta có được khi dự một hội nghị quốc tế là ta không đụng chạm đến nước Mỹ và vẫn nằm trong cái rờ-moọc của họ.

Nói tóm lại là ngay sau những đề nghị của ông Hồ Chí Minh, lập trường của chính phủ Pháp, hay ít ra cũng là thái độ duy nhất mà chính phủ có thể có trong tình trạng các thành viên đang hục hoặc với nhau, là làm thế nào lẩn tránh tối đa các cuộc thương thuyết, và trong trường hợp không thể né tránh được nữa, thì chỉ nên chấp nhận một hội nghị quốc tế. Thế nhưng thái độ này không phải là thái độ của một bộ phận dư luận ngày càng đông hơn, đòi hỏi phải có những cuộc đối thoại trực tiếp và ngay lập tức đối với những đề nghị của ông Hồ Chí Minh.

Thế là, để đối lại với một đối thủ có chương trình hành động rõ ràng, vừa cùng một lúc nhắm đến những chiến thắng quân sự vang dội, vừa tạo một sức ép về mặt chính trị buộc chúng ta phải thương thuyết, chúng ta lại rơi vào tình thế chênh vênh nguy hiểm, cả về mặt quân sự - chúng ta đang vướng vào một thế trận rất khó khăn - lẫn về mặt chính trị khi mà thái độ chúng ta thiếu sự rõ ràng và không được ủng hộ của một bộ phận quan trọng của dư luận.

***

Sách lược chính trị - quân sự của Việt Minh được triển khai vào các tháng 11, 12 và tháng giêng. Chúng ta đã biết là chiến dịch quân sự của Việt Minh gần như đã bị chặn lại vào khoảng 15 tháng 2. Sau những thành công ban đầu, cuộc tấn công của họ vào miền Trung Lào bị chặn lại tại ngưỡng cửa Séno, thậm chí phải rút lui. Còn hướng tấn công chính vào vùng Thượng Lào bị chặn lại tại Luang Prabang, Mường Sài và Điện Biên Phủ.

Chúng ta có thể mong đợi là sau cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ, vì các lý do về “danh dự”, địch quân sẽ không dừng lại ở đấy. Nhưng chúng ta biết là phương tiện của họ sẽ không cho phép họ tiến hành ý định này, và do mùa mưa sắp đến, họ phải chậm lại rồi ngừng hẳn các cuộc hành quân. Như thế là chúng ta cầm chân được đối phương trên chiến trường, đó cũng là mục đích của cuộc chiến 1953-1954. Việc này sẽ tạo điều kiện cho chúng ta tổ chức lại các lực lượng trong mùa hè cho cuộc chiến vào năm sau.

Sách lược về mặt chính trị của Việt Minh ngược lại đã đạt được những kết quả rất quan trọng.

Ở Pháp, xu hướng chấp nhận việc thương thuyết đạt được các bước đi dài và chính phủ ngày càng cảm thấy dư luận quần chúng bắt buộc họ “phải làm một cái gì đó”.

Tình trạng này tạo ra một hậu quả xấu ở Đông Dương. Các Chính phủ Liên hiệp trở nên lo lắng hơn - nhất là ở Việt Nam - họ tự hỏi không biết chúng ta có bỏ rơi họ không. Sự lo lắng này tạo cớ cho họ né tránh các nỗ lực chiến tranh. Nhưng cuộc thảo luận để thực hiện tuyên bố ngày 3 tháng 7 diễn trong một không khí hoàn toàn bị đầu độc.

***

Vào giữa tháng 2, hội nghị Berlin được mở ra và trong dịp này, nền ngoại giao của ta có một sáng kiến hết sức thảm hại, tạo điều kiện cho Việt Minh đạt đến chiến thắng.

Vì nhận thấy là không thể cứ tiếp tục né tránh thương lượng, và lúc nào cũng muốn tránh những cuộc thương thuyết trực tiếp, ngành ngoại giao chúng ta chấp nhận các cuộc thương thuyết diễn ra trong một khuôn khổ quốc tế theo sự lựa chọn của ta.

Thông qua ông Pléven vào lúc ấy đang có mặt ở Việt Nam, tôi biết rằng Chính phủ quyết định chấp nhận nguyên tắc của một hội nghị về vùng Viễn Đông, trong có bàn vấn đề Đông Dương.

Ai sẽ tham dự hội nghị này? Hình như ông Pléven không nghĩ là sự có mặt của Việt Minh sẽ được đề cập. Ông cho rằng cùng lắm là có mặt của Trung Quốc.

Và thời gian hội nghị sẽ kéo dài bao lâu? Ông có vẻ như cũng không biết và tôi có cảm tưởng như ông cho là hội nghị chỉ kéo dài vài ngày thôi, với một phạm vi không rộng lắm. Chúng ta đến đó tham dự để chỉ làm vui lòng dư luận quần chúng và chứng tỏ họ thấy là không thể có được một nền hòa bình trong danh dự vào lúc này. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Chuyện này có phù hợp với thực tế không? Một hội nghị như hội nghị Genève diễn ra sau đó, được giới thẩm quyền ngoại giao của ta dự kiến hay do giới ngoại giao của chúng ta vì muốn có một hội nghị ngắn và hạn chế đã bị đối phương gài thế và lôi cuốn vào một hội nghị có một tầm cỡ rộng lớn? Hình như là ông Bidault, khi đến hội nghị Berlin đã quyết định chỉ chấp nhận một hội nghị hạn chế, không có mặt của Trung Quốc và nhất là không có mặt của Việt Minh, nhưng do sức ép của chính phủ đang chịu ảnh hưởng của Paul Reynaud trong thời gian ông vắng mặt. Do đó, ông Bidault đã bất đắc dĩ đi theo một con đường tai hại dẫn đến hội nghị Genève. Đã thế, người ta còn coi đây là một thắng lợi của ngành ngoại giao nước ta và các đảng phái chính trị đã tranh nhau vinh dự “gầy dựng” được hội nghị này. Vô ý thức đến thế là cùng!

Tôi không hề được biết một chút gì. Không khi nào, người ta hỏi ý kiến tôi về các hậu quả có thể có trên lĩnh vực quân sự cũng như các phương cách để đối phó.

Chỉ vào tháng 3 tôi mới biết - tôi không nghĩ là ông Tổng ủy có thể biết được trước tôi - một cách chính xác về hội nghị Genève: sự có mặt của Việt Minh, phạm vi và tính cách rộng lớn của hội nghị, và cuối cùng là thời gian kéo dài của các cuộc thương thuyết. Những sự phản đối quyết liệt của tôi1 đã là quá trễ để có thể có tác dụng.

Ngược lại Việt Minh đã nắm được rất chính xác các tin tức về một sự kiện hoàn toàn theo ý muốn của họ. Họ đã đạt mục đích của họ. Hòa bình chỉ còn tuỳ thuộc vào họ. Thật vậy chúng ta biết rõ là khi đã tham dự một hội nghị đông đảo như vậy với sự có mặt của hàng chục nhà ngoại giao cùng với hàng trăm nhà báo, thì không một chính phủ Pháp nào không thể chấp nhận những “giải pháp hòa bình” được đề nghị - nhất là những đề nghị này lại được đưa cùng lúc một quả đấm quân sự gây nên thất bại đầy ấn tượng của chúng ta trên chiến trường, làm tan vỡ cả tinh thần của người Pháp.

Còn về phía chúng ta, sự ngây ngô kỳ lạ của ta đã được thể hiện trong bài diễn văn ông Bidault đọc vào ngày 9 tháng 5, qua đó ông nhấn mạnh là chiến dịch Điện Biên Phủ đã được bắt đầu sau khi hai bên có quyết định họp hội nghị ở Genève, ông còn nói thêm: “Theo lẽ bình thường, đáng lý triển vọng này đã làm im tiếng súng”. Nhưng than ôi nó đã làm cho súng nổ thêm. Chúng ta đã cúi đầu lủi vào cái bẫy.
_________________________________________
1. Trong một bức điện tín, tôi đã đánh giá quyết định tổ chức một hội nghị tầm cỡ như vậy vào giữa lúc chiến cuộc đang diễn ra là một quyết định “thảm hại”.

***

Thời kỳ giữa cuối hội nghị Berlin (18 tháng 2) và sự bắt đầu của hội nghị Genève (26 tháng 4) ta chứng kiến các nỗ lực to lớn của Việt Minh trên mọi lĩnh vực.

Ngày 20 tháng 2, Bộ Chỉ huy tối cao Việt Minh đã làm mọi khả năng có được để đưa chiến tranh lên đỉnh điểm: một cuộc tổng tiến công trên tất cả các mặt trận bắt đầu từ ngày 15 tháng 3, với nỗ lực chính dồn về Điện Biên Phủ; chấp nhận thiệt hại nặng nề và các biện pháp khắc nghiệt để đối phó; chuẩn bị tư thế cho một cuộc chiến kéo dài thậm chí qua mùa mưa; đặt các yêu cầu cho sự chi viện ồ ạt từ phía Trung Quốc - tất cả những nỗ lực này được Bộ Chỉ huy Việt Minh thể hiện trong các văn bản lệnh của họ là “nhằm mục đích gây sức ép lên hội nghị”.

Nỗ lực của Việt Minh về mặt chính trị cũng không kém phần mạnh mẽ.

Ở Pháp, tất cả các khả năng của sự tuyên truyền và phản bội đã được sử dụng để tạo ra trong dư luận một suy nghĩ rằng hội nghị Genève sẽ bắt buộc phải đem lại hòa bình, một nền hòa bình bằng mọi giá. Một chiến dịch của chủ bại, bắt đầu từ giới báo chí ở Hà Nội, với cường độ được tăng thêm với sự xấu đi của tình hình tại Điện Biên Phủ, phối hợp các tác động có tính cách hủy hoại của nó với sự tuyên truyền của Việt Minh. Các cuộc tiếp xúc sơ bộ đã bắt đầu diễn ra tại Paris và Thụy Sĩ, giữa các sứ giả của Việt Minh và những người Pháp đòi hỏi hoà bình bằng mọi giá, qua đó người ta chuẩn bị một cách hăng say việc nắm quyền hành.

Ở Việt Nam, một “sự nhồi sọ” với cường độ ngày càng tăng được nhắm vào dân chúng và quân đội. Sự tuyên truyền này nhằm mục đích chỉ rõ thắng lợi chắc chắn của Việt Minh, nước Pháp sẽ bỏ rơi đất nước này, những việc làm tốt đẹp của chính quyền nhân dân, cùng với sự “trả thù” chắc chắn chống lại những ai trở về với họ. Các nỗ lực này chủ yếu được nhắm vào quân đội Việt Nam, vừa nhắm vào các cá nhân, và nhất là các sĩ quan được khuyến khích đào ngũ và trở về với lực lượng của Việt Minh, vừa nhắm vào các đơn vị. Họ được hứa sẽ được sáp nhập vào Quân đội Nhân dân, nếu họ rời bỏ hàng loạt Quân đội Quốc gia. Những lời hứa này cũng được kèm theo những lời đe dọa nặng nề, trong trường hợp binh lính quốc gia không nghe theo. Tôi đã có nói qua về những sự tác hại của các chiến dịch vận động như thế này.

Về phía ta, chúng ta đi đến hội nghị mà không có một sự chuẩn bị nào.

Quyết định đầu tiên cần có là xác định lập trường của chúng ta về cách thức mà ta mong muốn chấm dứt cuộc xung đột.

Có hai phương cách. Phương cách đầu tiên là tìm kiếm một cuộc ngưng bắn ngay lập tức khi hội nghị mở ra, hoặc từ đề nghị của một trong các đồng minh của Việt Minh (Liên Xô hoặc Trung Quốc), và điều này cũng rất có khả năng, hoặc từ một phái đoàn trung lập (Ấn Độ chẳng hạn, đã từng khai mạc các hội nghị theo cách này), hoặc từ chính chúng ta đề nghị, hoặc nhờ một trong các đồng minh của ta đề nghị. Phương cách thứ hai là vừa thương thuyết vừa đánh, và các cuộc xung đột chỉ được ngưng lại chỉ khi nào đạt được các đảm bảo về mặt lý thuyết theo thông lệ một cuộc ngừng bắn

Khi được Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp hỏi ý kiến về vấn đề này, sau khi suy nghĩ rất cặn kẽ, tôi ủng hộ hướng thứ nhất.

Lý luận của tôi như sau. Việc thông báo họp hội nghị Genève đã là một thảm họa về mặt quan điểm quân sự. Nó phá vỡ tan nát tinh thần và sức mạnh của quân đội Việt Nam và làm mất đi tất cả nhưng hy vọng của chúng ta về một giải pháp thuận lợi cho vấn đề Đông Dương. Nó thúc đẩy Việt Minh quyết định đánh dứt điểm cuộc chiến bằng mọi giá, và Trung Quốc quyết tâm trợ giúp họ với quy mô vượt qua mọi dự đoán. Nó thúc đẩy Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ, và sự thất thủ của cứ điểm này là một việc rất có khả năng xảy ra. Bị đưa vào một sự việc đã rồi, và chúng ta không thể nào làm một cái gì hơn, ta phải tìm cách tranh thủ tất cả những gì thuận lợi mà hội nghị này có thể mang lại cho ta để đổi lại những gì chúng ta đã phải trả giá. Một cuộc “ngưng bắn” ngay lập tức có thể cứu được Điện Biên Phủ để ổn định tình hình nếu không nó sẽ trở nên tồi tệ hơn - vì không có gì thảm hại hơn cho tinh thần của một quân đội đang phải chiến đấu, trong không khí kéo dài của các cuộc thương thuyết về hòa bình.

Quan điểm này không phù hợp với quan điểm của Bộ Ngoại giao Pháp. Họ cho rằng chỉ nên ngừng bắn khi nào có sự đảm bảo là Việt Minh sẽ không tranh thủ việc đình chiến để đạt được các ưu thế mà họ không đạt được trong chiến tranh.

Tôi phản bác lại - và tôi cho rằng mọi chuyện xảy ra sẽ xác nhận là tôi đúng - rằng những “sự đảm bảo” nói trên đều là ảo tưởng, và dù sao cũng không bù đắp được thiệt hại của chúng ta do sự sụp đổ của cứ điểm Điện Biến Phủ, sự diễn biến tồi tệ hơn của tình hình quân sự, sự tan rã của quân đội Việt Nam, nếu cuộc chiến cứ kéo dài. Tuy tôi đã cực lực phản đối nhưng lý lẽ của tôi không được chấp nhận. Bằng cách suy luận theo kiểu các luật gia hơn là với đầu óc thực tế, các nhà lãnh đạo của ta đáng lẽ phải nắm con chủ bài là tình hình còn đang rất vững, nhưng lại thay vào đó bằng những cam kết mà chúng ta biết chắc đối phương chỉ thực hiện khi nào họ thấy có lợi.


Cuộc tranh luận sơ bộ về một cuộc ngưng bắn và một cuộc đình chiến qua thương thuyết kết thúc nghiêng về hướng thứ hai, do đó chúng ta phải xác định ta muốn gì khi ngưng cuộc chiến.

Cả về điểm này, nước Pháp đã không xác định được chính sách của mình và không có một sự thống nhất nào với các Quốc gia Liên kết, cũng như với các đồng minh Mỹ và Anh. Trên tất cả mọi lĩnh vực, các quan điểm đều trái ngược nhau.

Có một sự mâu thuẫn trong các giới chính trị ở Pháp, giữa những người muốn chứng tỏ qua hội nghị là hòa bình chưa thể đạt được vào lúc này và số người, đông hơn, muốn có hòa bình bằng mọi giá.

Có một sự mâu thuẫn giữa nước Pháp, muốn có sự nhượng bộ với Việt Minh - cho dù chưa biết chính xác đó là những sự nhượng bộ như thế nào - và chính phủ Việt Nam, tuy đã chẳng làm một việc gì nghiêm túc để đánh thắng cuộc chiến, nhưng lại không chấp nhận một nền hòa bình có sự nhân nhượng cho những kẻ “nổi loạn”. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Có một sự bất đồng giữa Mỹ và Pháp vì người Mỹ cảm thấy chua chát khi tiền và trang thiết bị mà họ cung cấp cho chúng ta có nguy cơ bị mất trắng, như đã từng xảy ra với Tưởng Giới Thạch. Và người Mỹ đến dự hội nghị chỉ để phá đám.

Chúng ta cũng phải quan tâm đến quan điểm của người Anh cho rằng cuộc phòng thủ Đông Dương là tối cần thiết cho họ và cho dù họ chẳng giúp ta một cái gì, chúng ta vì họ mà tiếp tục nó.

Cũng như về vấn đề cơ hội cho cuộc đình chiến, nước Pháp và các đồng minh không thống nhất với nhau về thể thức của cuộc đình chiến này, nếu có.

Hai giải pháp có khả năng được áp dụng: duy trì sự thống nhất của Việt Nam dưới một chính phủ “Quốc gia Thống nhất” với sự có mặt của đại diện hai phía, hoặc phân chia đất nước theo kiểu Triều Tiên.

Giải pháp thứ nhất tạo ra một rủi ro rất lớn gần như một điều chắc chắn - do sự yếu kém bẩm sinh của chế độ quốc gia Việt Nam - chính phủ thống nhất sẽ nhanh chóng bị Cộng sản lũng đoạn và khống chế theo phương pháp chiếm chính quyền, đã giúp họ thành công ở nhiều nơi khác.

Nhưng nếu cân nhắc sự không thiện cảm chắc chắn của Việt Minh đối với một sự tùy thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, thì giải pháp này có thể là giải pháp duy nhất giúp cho nước Pháp còn một cơ hội có mặt ở lại Đông Dương. Dĩ nhiên giải pháp phải có sự thống nhất của người Mỹ là họ sẽ tránh đi. Việc này chắc chắn là khó, nhưng chúng ta không loại bỏ việc có thể thuyết phục được họ là vùng Đông Nam châu Á sẽ được bảo vệ tốt hơn bằng một nước Việt Nam thống nhất nhưng trung lập hơn là bằng một nước Nam Việt Nam thân Mỹ nhưng lại dễ bị một Bắc Việt Nam mạnh hơn nhiều khống chế.

Ngược lại, chia cắt Việt Nam thành hai miền có lợi là duy trì ở phần phía nam Đông Dương một vùng về mặt lý thuyết không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản, và có thể xây dựng ở đây những căn cứ của phương Tây, tức là của Mỹ.

Đó chính là ý muốn của người Mỹ, nhưng họ chưa dám công khai nói ra vì sẽ đụng chạm đến quan điểm của người Việt Nam, lúc nào cũng muốn duy trì sự thống nhất của đất nước.

Người Anh cũng vậy, dù họ không dám nói gì hơn, là những người ủng hộ giải pháp phân chia, giúp duy trì trong một thời gian một tấm đệm an toàn tương đối trước vùng đất Malaysia và cho phép họ duy trì việc “chờ và xem” (wait and see).

Còn đối với các Quốc gia Liên kết là cả một sự bối rối. Nước Campuchia là một vùng hoàn toàn nằm về phía nam, nên không có vấn đề gì. Đối với nước Lào là một bi kịch, vì cho dù nước Lào vẫn còn thống nhất về mặt lý thuyết, phần phía bắc có nhiều khả năng sẽ bị thu hút về phía miền Bắc Việt Nam theo Chủ nghĩa Cộng sản1. Tại Việt Nam, tất cả những gợi ý cho một sự phân chia đều tạo ra phản ứng bất bình của dân chúng, cũng như những lời tuyên bố nảy lửa của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự. Trên thực tế, sự bất bình này chỉ thành thực ở các nhà chính trị có nguồn gốc ở Bắc Bộ - không thể có một sự mơ hồ nào về số phận của họ khi có một sự phân chia - sự bất bình trên ít được nhận thấy hơn ở những người miền Trung và nhất là miền Nam. Đối với những người ở phía nam, ý tưởng về một sự tách rời khỏi miền Bắc, nghèo nàn hơn về lúa gạo, mà miền Nam thường phải giúp nuôi ăn, là một sự kiện không có gì quá bi thảm. Một số người miền Nam vẫn gắn bó với nước Pháp và không thích người Bắc Bộ mà họ lo sợ vì tính thô bạo và sự năng động của những người này, trong đáy lòng đã nhìn sự phân chia này với một chút thuận lợi nào đó.
__________________________________________
1. Một chính phủ Lào ly khai (Pathet Lao) đã được Việt Minh thiết lập ở Sầm Nưa (do họ chiếm được vào tháng 3 năm 1953).

Nước Pháp thì do dự giữa việc tiến hành duy trì sự thống nhất của Việt Nam và hy vọng giữ được ít nhất một “cái gì đó” ở phía Nam, nếu giải pháp chia cắt thắng thế.

Việt Minh thì qua sự biểu hiện bên ngoài cũng có vẻ như ủng hộ cho sự thống nhất của Việt Nam, nhưng trong giai đoạn này cũng nghiêng một cách kín đáo về sự phân chia, tạo ra cho họ rất nhiều thuận lợi to lớn.

Trước hết là thuận lợi về mặt quân sự. Trên thực tế, giữa hai kỳ phùng địch thủ này, cán cân về quân sự nghiêng về phía Bắc. Khi buộc chúng ta phải rút khỏi miền Bắc, Việt Minh ép buộc ta phải có một sự nhượng bộ quan trọng hơn rất nhiều so với việc họ chấp nhận phải rời khỏi phần phía Nam, nơi họ có ít lực lượng chính quy và nhiều lực lượng địa phương hơn mà họ có thể cho giải ngũ ngay tại chỗ về mặt hình thức, nhưng trên thực tế vẫn giữ các lực lượng này lại làm thành đạo quân thứ năm phía sau phòng tuyến chúng ta.

Đứng về mặt chính trị, sự phân chia còn tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho Việt Minh. Việc sở hữu hoàn toàn phần đất phía Bắc tạo điều kiện cho họ ra hoạt động công khai, được nâng lên hàng một Nhà nước có tổ chức và được công nhận một cách chính thức. Họ sẽ có một thủ đô chính trị là Hà Nội và một lá phổi kinh tế là Hải Phòng. Họ sẽ tranh thủ các điều kiện này về sau để chinh phục phần phía Nam bằng các con đường quân sự và chính trị.

Do đó ở cả hai phía, người ta tuyên bố một cách công khai ủng hộ cho một nước Việt Nam thống nhất, nhưng đều mong muốn một cách kín đáo một sự chia cắt.

Vấn đề hòa bình là chủ đề tranh luận trong những tuần lễ trước khi hội nghị Genève diễn ra, sự bối rối không biết giải quyết như thế nào trong nội bộ phe phương Tây bị đẩy lên tột độ. Không có một kế hoạch, một chương trình hành động, một sự khác biệt quan điểm nào mà không được báo chí trình bày, mổ xẻ với cường độ càng tăng lên khi hội nghị càng đến gần.

Các tin tức nghiêm trọng đến từ Điện Biên Phủ, các cuộc tranh luận về một cuộc can thiệp của không lực Hoa Kỳ, sự rút lui của người Mỹ khi họ bị đẩy đến chân tường, kế hoạch của họ nhằm xây dựng một liên minh phòng thủ ở vùng Đông Nam châu Á mà Anh và Pháp xem xét một cách dè dặt - tất cả những sự kiện này tạo ra một rối loạn tinh thần và hoảng loạn, trái ngược hoàn toàn với sự bình tĩnh, sự kiên quyết và sự bí mật tuyệt đối bên phía Việt Minh.

Vì đối với họ, Genève là một thắng lợi lớn, đài phát thanh của họ không bỏ lỡ cơ hội để tuyên truyền. Họ đã buộc được chúng ta phải chấp nhận thương thuyết, trong khi đối với chúng ta chỉ riêng sự kiện chấp nhận nguyên tắc thương thuyết đã là một sự thua trận.

***

Chỉ vào khoảng giữa tháng tư - không tới hai tuần trước khi hội nghị bắt đầu - Bộ Ngoại giao mới quyết định tham khảo chúng tôi, ngài Tổng ủy và tôi, về những điều kiện cho một cuộc đình chiến mà ta có thể chấp nhận được.

Vấn đề chủ yếu và khó nhất là việc tập kết các lực lượng quân sự của hai bên. Rõ ràng là cách tập kết các lực lượng quân sự này báo trước - cho dù những điều khoản của hiệp định sẽ như thế nào - giải pháp chính trị mà người ta đang hướng đến cho nền hòa bình. Nếu chương trình này được thực hiện dưới hình thức những sự tập kết cục bộ trong từng vùng lãnh thổ (Bắc, Trung, Nam Bộ), thì người ta sẽ hướng về việc duy trì sự thống nhất. Còn nếu ngược lại, chúng ta tiến hành một sự tập kết rộng lớn các lực lượng của mỗi phe trong một vùng lãnh thổ địa lý rộng (lực lượng Việt Minh ở phía Bắc một lằn ranh nào đó và nước Việt Nam quốc gia ở phía Nam), thì việc này có khả năng dẫn đến một sự chia cắt về mặt chính trị về sau của đất nước này.

Vì đã chính thức lựa chọn giải pháp giữ sự thống nhất lãnh thổ nên chúng tôi chỉ có thể khuyến cáo công thức về một sự tập hợp cục bộ theo từng vùng lãnh thổ. Bên trong Bắc Bộ, Trung bộ, và Nam Bộ, mỗi bên phải tập kết các lực lượng của mình trong một số khu vực nào đó, trên cơ sở tình hình quân sự vào ngày đình chiến và ổn định những chiến tuyến quan trọng của mỗi bên trong những điều kiện trên. Bộ Ngoại giao tại Quai d’Orsay đã yêu cầu ngài Tổng ủy và tôi thống nhất những đề nghị chi tiết, tạo cơ sở ban đầu để các nhà thương thuyết của chúng ta làm việc ở Genève.

Ở Bắc Việt Nam, chúng ta giữ Hải Phòng, Hà Nội, đường sắt nối liền hai thành phố này, cùng với vùng đất phía bắc, bao gồm vùng bờ biển. Chúng ta cũng giữ lại phần lớn vùng phía bắc Hà Nội. Các lực lượng của Việt Minh sẽ tập hợp trong vùng Phủ Lý- Hưng Yên- Thái Bình và một phần của vùng phía tây. Các giáo phận Công giáo (Nam Định, Bùi Chu, Phát Diệm) sẽ là những vùng trung lập. Một số biện pháp tiếp cứu những nhóm thiểu số trung thành với chúng ta trong vùng núi đã được dự kiến.

Ở Trung Bộ Việt Nam, chúng ta giữ lại tất cả những gì chúng ta đang chiếm giữ. Việt Minh tập hợp lại các lực lượng của họ trong hai hay ba vùng tiếp giáp với núi. “Vùng Atlante” và vùng cao nguyên Trung Bộ sẽ được phân chia bởi trục Quy Nhơn, An Khê, Pleiku, giữa một bên là chúng ta đóng ở phía nam và Việt Minh đóng ở phía bắc.

Ở Nam Bộ Việt Nam, Việt Minh tập hợp lại trong ba hay bốn vùng kém quan trọng, thường là những căn cứ địa của họ, và giữ lại bán đảo Cà Mau.

Lẽ tất nhiên đối phương sẽ rút ra khỏi những vùng ở Lào và Campuchia mà họ đã chiếm đóng.

Có thể là Việt Minh mong chúng ta là những người đầu tiên nói đến việc phân chia, cho nên phải mất một thời gian rất lâu họ mới cho thấy ý đồ của họ1.

Những đề nghị của họ vô cùng khôn khéo: một sự phân chia tạm thời, chỉ có hiệu lực cho việc đình chiến thôi chứ không phải cho hòa bình, với mục đích là họ vẫn duy trì nguyên tắc về một sự thống nhất. Như thế họ có thể giành phần lợi thế trên cả hai lĩnh vực.

Về ranh giới phân chia giữa phần phía bắc và phần phía nam, Việt Minh đề nghị vĩ tuyến thứ 13. Họ biết chắc chắn đề nghị của họ là không thể chấp nhận được - chúng ta phải hy sinh Huế và Đà Nẵng - nhưng đây chỉ là một cái giá ban đầu để các nhà thương thuyết của họ làm việc, như kế hoạch của chúng ta cho việc tập kết trên nhưng lãnh thổ mà tôi đã nói vắn tắt ở phần trên.
_______________________________________
1. Trong những cuộc tranh luận về hội nghị Genève trước quốc hội, ông Frédéric Dupont, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết trong chính phủ Laniel (thay thế ông Marc Jacquet, đã từ chức) đã trưng ra một tài liệu, do đại tá Brébisson, thành viên quân sự của phái đoàn Pháp lập ra. Tài liệu này cho biết vế những đề nghị mà Việt Minh đã đưa ra trong một phiên họp bí mật vào ngày 10.6. Theo đó thì Việt Minh cho ông biết rằng, vùng Bắc Bộ là vùng chủ yếu và có lợi ích rất lớn đối với họ và phải hướng về hai vùng tập kết, một ở phía bắc (cho Việt Minh), và một ở phía nam cho các lực lượng của khối Liên hiệp Pháp. Lằn ranh phân chia giữa hai vùng nằm vào khoảng bên cạnh thành phố Huế. Tài liệu này là một chủ đề tranh luận gay gắt giữa ông Frédéric Dupont, khẳng định là đã đưa cho ông Mendes France khi ông cầm đầu phái đoàn Pháp, còn ông ta lại tuyên bố không biết gì về việc này cả.

***

Xuất phát từ những vị trí ban đầu đối ngược như vậy, nhiệm vụ của những nhà ngoại giao của hai phe là tìm ra một giải pháp dung hòa.

Những nền tảng cho việc thương lượng đó là không thể dung hòa được, vì được xây dựng trên những khái niệm khác nhau: Thống nhất hay chia cắt. Phải một trong hai phe từ bỏ lập trường của mình. Nhưng trong trường hợp này, việc phe từ bỏ lập trường được đền bù rộng rãi là một điều hiển nhiên.

Và chúng ta đã nhượng bộ một cách nhanh chóng. Có lẽ chúng ta khó tránh khỏi phải nhượng bộ, thậm chí có lẽ chúng ta cũng ước muốn nó một cách kín đáo. Nhưng những nhà thương thuyết của ta đã không tranh thủ được sự thuận lợi mà Việt Minh đã tạo ra khi họ đưa trước lá bài. Chúng ta đã nhượng bộ mà không có sự có đi có lại nào cả. Truyện "Đông Dương Hấp Hối " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()

Chúng ta có hai ê kíp các nhà thương thuyết nối tiếp nhau làm việc tại Genève. Ê kíp đầu tiên do ông Bidault dẫn đầu, ê kíp thứ hai do ông Mendès France dẫn đầu. Cả hai đều đổ trách nhiệm cho nhau về việc bỏ lỡ cơ hội có đi có lại này.

Khi ngài Mendès France nắm quyền chính thức trong việc thương thuyết, các quan điểm ban đầu đã xích lại gần với nhau rất nhiều và chính là phía chúng ta đã đi đến 9 phần 10 đoạn đường, chính Việt Minh công nhận điều này và họ chờ chúng ta yêu cầu họ có những nhượng bộ rất quan trọng. Thậm chí họ còn nói rõ là sẽ sẵn sàng đồng ý nhượng bộ một số điểm1. Hình như ông Mendès France vội vàng muốn ký một hiệp ước với bất cứ giá nào nên đã không làm điều đó.

Sự có đi có lại nói trên trước hết là ở chỗ vị trí lằn ranh đình chiến phải được quy định tại vĩ tuyến thứ 182 và việc duy trì ở Bắc Bộ một khu đất nằm giữa vùng của Việt Minh: cảng Hải Phòng.

Một hiệp ước đình chiến - ta không được quên - không phải là một hòa ước. Khi nó được thống nhất - như trong trường hợp này - giữa các địch thủ đang còn đủ khả năng tiến hành chiến tranh thì nó phải chứa đựng các điều kiện cho phép, trong trường hợp một trong hai bên sử dụng nó như một trò lừa phỉnh, tiếp tục cuộc chiến trong các hoàn cảnh mà cả hai bên đều đã có được trước khi cuộc ngưng bắn diễn ra. Thế nhưng khả năng khởi động lại chiến tranh chỉ khả thi cho chúng ta trong điều kiện thuận lợi nếu như ranh giới quân sự ở tại vĩ tuyến thứ 18 và chúng ta còn giữ một đầu cầu trong vùng châu thổ Bắc Bộ là cảng Hải Phòng để có thể tiến hành những cuộc tấn công. Mọi cuộc đình chiến không bao gồm những điều khoản nói trên chỉ là một sự đầu hàng.

Bên cạnh các yêu cầu về mặt chiến lược nói trên, chúng ta còn phải thêm một yêu cầu về mặt tinh thần: trung lập hóa các giáo phận Công giáo trong vùng châu thổ. Thật là một điều hoàn toàn đi ngược lại với danh dự và uy tín của nước Pháp khi chúng ta bỏ lại dưới sự cai trị của Việt Minh các cộng đồng Công giáo đã cung cấp cho chúng ta những đơn vị tinh nhuệ nhất và chắc chắn, họ sẽ rơi vào sự trừng phạt của đối phương3.

Để có thể đạt được sự trung lập hóa này, chúng ta phải duy trì sự có mặt trong vùng phía nam châu thổ trong suốt thời gian hội nghị diễn ra. Thế nhưng, chúng ta lại rời bỏ vùng đó vào đầu tháng 7 (cuộc hành quân “Auvergne”) vội vã đến nỗi không thể nào di tản kịp những người muốn ra cùng đi với chúng ta.

Việc rút lui nói trên hoàn toàn không do tình thế quân sự đòi hỏi, kéo theo sự từ bỏ - không thể tránh khỏi - yêu cầu của ta đòi trung lập hóa các sứ đạo đã đem lại những hậu quả hết sức nặng nề trong tương lai. Chúng là nguyên nhân đưa đến một sự di cư ồ ạt về phía nam, trong những điều kiện hết sức tồi tệ của gần một triệu người Công giáo. Chúng đã củng cố thái độ chống Pháp của ông Diệm, cũng là một người Công giáo, đã nắm lấy quyền hành ngay ngày chúng ta di tản ra khỏi những giáo phận này, và những người tỵ nạn theo đạo Công giáo trở thành những người nhiệt tình ủng hộ ông ta nhất.

Và cuối cùng, chúng ta phải có sự cẩn thận cần thiết đối với việc tổng tuyển cử, chúng ta phải giành quyền, hoặc trì hoãn cuộc tổng tuyển cử này trong một số trường hợp giả định, hoặc là duy trì việc phân chia giữa miền Bắc và miền Nam - như là ở Triều Tiên - nếu đa số dân chúng ở miền Bắc bỏ phiếu cho Việt Minh và đa số dân chúng miền Nam bỏ phiếu cho Quốc gia.
_______________________________________
1. Đó là những gì mà ông Frédéric Dupont nói một cách chính thức với Quốc hội. (Phiên họp ngày 18 tháng 12 năm 1954). Những tin tức tôi nhận được xác minh lời nói của ông.
2. Tức là vùng đèo Ngang. Ông Fréderic Dupont đã khẳng định trong cuốn sách của mình: Nhiệm vụ của nước Pháp ở châu Á là Việt Minh chờ đợi chúng ta sẽ đưa ra yêu sách này và họ sẵn sàng nhượng bộ. Tôi cũng có các tin tức tương tự như vậy.
3. Trước khi hội nghị Genève diễn ra, ông Dejean và tôi đã gửi yêu cầu đến Bộ Ngoại giao Pháp đề nghị trung lập hóa những giáo phận nói trên.

***

Ngay khi hội nghị khai mạc, tôi bị gạt hoàn toàn ra khỏi các cuộc thương thuyết, cho dù về mặt nguyên tắc việc đình chiến phải được người tổng chỉ huy quân đội tham chiến ký hoặc là một người được ông ủy quyền. Tôi được yêu cầu gửi đến Genève một người đại diện, nhưng người này thậm chí không được quyền liên lạc trực tiếp với tôi để thông báo tình hình. Chức danh “đại diện của Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương” chỉ là một hư danh mà thôi, và ông này chỉ được xem như là một trong những chuyên gia quân sự của phái đoàn Pháp, do Bộ Ngoại giao lãnh đạo từ đầu đến cuối trong các cuộc thương thuyết, không bao giờ có sự tham khảo với tôi. Tôi chỉ được thông tin một cách rất hạn chế về diễn biến của các cuộc thương thuyết trên. Tuy vậy, dù sao đi nữa, tôi vẫn có đủ các tin tức để khẳng định rằng tất cả đã được sắp xếp một cách ý thức hay vô tình - cho một sự đầu hàng giả dạng.

Để tránh một sự đầu hàng giả dạng như vậy, chúng ta phải làm cho Việt Minh thấy ta quyết tâm kết thúc chiến tranh trong danh dự và nếu không đạt được mục đích như vậy, chúng ta sẽ tiếp tục cuộc chiến với những phương tiện được chi viện thêm. Có thể làm như vậy, chúng ta đã có một thái độ hơi bịp bợm, nhưng sự bịp bợm cũng là một phương tiện chính trị... đặc biệt, và dành cho những người biết giấu kỹ lá bài. Nhưng thái độ này của chúng ta chỉ có thể có hiệu quả với một số điều kiện.

Điều kiện đầu tiên là lá bài về quân sự của chúng ta không quá bị xuống cấp, hoặc không quá tệ. Ta đã thấy sự rút lui vội vã và không có ích gì trên vùng Tây Nguyên và nhất là vùng châu thổ Bắc Bộ làm cho những điều kiện này trở nên không phù hợp nữa (xem Chương 7).

Và phải có sự chuẩn bị chi viện quan trọng ở Pháp cũng như ở Bắc Phi cho những yêu cầu của tôi và khi các đơn vị lên đường, nó phải được thông báo một cách nhanh chóng, cho dù những cuộc thương thuyết đang ở giai đoạn nào đi nữa.

Lực lượng chi viện đã được chuẩn bị sẵn sàng, nhưng số lượng ít ỏi của nó đã bị báo chí tiết lộ ngay lập tức1 và ngày lên đường lại được ấn định quá xa. Việc gửi thêm các lực lượng chiến đấu sẽ cho phép - bằng cách bố trí những đơn vị mới đến này vào những nhiệm vụ thứ yếu - rút một lực lượng từ 15 đến 20 tiểu đoàn cho Binh đoàn Tác chiến. Kế hoạch này đã được tranh luận một cách công khai, và quyết định cuối cùng là nó chỉ được thực hiện khi nào các cuộc thương thuyết thất bại.
___________________________________
1. Tuần báo France-Observateur, số ngày 27.5.1954, đã phổ biến một bài báo ký tên là Roger Stéphane, (chúng ta còn nhớ là tác giả của việc tiết lộ cuộc tranh luận về việc phòng thủ nước Lào tại Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 7 năm 1953), đăng bản tường trình của Ủy ban Quốc phòng ngày 24 tháng 5 năm 1954, trong đó có một bản kê chi tiết về các lực lượng chi viện.

Xét đến sự chống đối của Việt Minh, của dân chúng Pháp và nhất là của quốc hội, việc chỉ công khai hóa quyết định chi viện này khi nào những cuộc thương thuyết thất bại thì chẳng khác nào cho đối phương biết rõ là chúng ta kiên quyết đạt đến hòa bình bằng bất cứ giá nào.

Để các cuộc thương lượng có cơ hội thành công, chúng ta phải tạo một sức ép lên Việt Minh và Trung Quốc, về khả năng một cuộc can thiệp mạnh mẽ của Mỹ trong trường hợp hội nghị Genève thất bại, nhưng sức ép này đã qua đi rất lâu trước khi những cuộc thương thuyết bắt đầu. Chúng ta có thể nhớ lại việc Lầu Năm Góc đề nghị hỗ trợ bằng không lực để giải cứu Điện Biên Phủ, nhưng sau đó họ lại rút lui. Ảnh hưởng tinh thần của sự tháo lui rất là nặng nề, và càng nặng nề hơn khi những lời tuyên bố của ông Foster Dulles được báo chí đăng tải rất nhiều, tố cáo sự can thiệp của Trung Quốc và ám chỉ rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ qua một hành động như vậy.

Ngay trước khi hội nghị diễn ra, Việt Minh đã biết rằng họ không phải sợ gì từ phía Mỹ và những kế hoạch được công bố một cách ồn ào về một Liên minh phòng thủ vùng Đông Nam Á, chỉ là để che đậy sự tháo lui của các cường quốc phương Tây.

Cuối cùng, chúng ta phải làm cho Việt Minh và các đồng minh của họ cảm thấy ta kiên quyết không để bị áp đặt bất cứ một thứ hoà bình nào.

Thế nhưng, các phái đoàn thương thuyết của chúng ta, từ phái đoàn của ông Bidault - dù nhà ngoại giao nàv có nhiều cố gắng cá nhân để phải nhượng bộ ít nhất - cho đến đoàn của ông Mendès France, đã phô ra từ đầu đến cuối hội nghị, một tinh thần chủ bại đen tối nhất. Thay vì phải làm giảm đến mức tối đa hậu quả sự thất thủ Điện Biên Phủ và trình bày sự việc đúng với bản chất của nó - Điện Biên Phủ đúng là một thất bại về mặt chiến thuật nghiêm trọng, nhưng thất bại này không làm giảm khả năng chiến lược của chúng ta - các nhà ngoại giao của ta lại nói năng thiếu ý tứ, thổi phồng tính cách quan trọng của thất bại này, bằng cách gán cho nó những hậu quả không có, bằng cách nhắc đi nhắc lại “chúng ta không thương thuyết trong sự thất bại” mà quên rằng, chính họ đã tạo nên sự thất bại này bằng sáng kiến không đúng lúc của họ tại hội nghị Berlin. Họ hành động như thể họ chuẩn bị trước các lời xin lỗi và lý lẽ cho một sự tháo lui được quyết định trước rồi.

Còn chính phủ thì lại dung dưỡng việc báo chí làm cho dân chúng hoảng sợ bằng cách để dân chúng nghĩ là tất cả đã mất hết và phải buông trôi tất cả. Và để cơn hoảng loạn lan truyền trong các giới chính trị tạo ra một tâm lý đầu hàng.

***

Sự sụp đổ của Chính phủ Laniel và việc ông Mendès France ngồi vào chức vụ thủ tướng đã không làm cho tình hình cải thiện.

Sự ra đi của ê kíp Laniel là sự ra đi của ê kíp cuối cùng trong những ê kíp tám năm qua đã ít nhiều tìm kiếm một giải pháp danh dự cho chiến tranh Đông Dương nhưng đã không thực hiện được vì yếu kém hay sự thiếu hợp tác. Những người thuộc ê kíp mới là những người từ lâu đã tuyên bố ủng hộ một nền hòa bình bằng mọi giá, giờ đây đã lên nắm quyền lực.

Họ đã đạt được thắng lợi một cách vang dội. Đây là một phần của cuộc chơi trong quốc hội. Nhưng cái nghiêm trọng hơn, cho dù họ phải chịu một trách nhiệm, ít nhất cũng ngang với những người tiền nhiệm về thất bại này - vì họ cũng đã có mặt trong những chính phủ trước, hoặc do ở trong phe đối lập, bằng các bài diễn văn và lá phiếu, họ đã ngăn cản hành động của những người có ý định hành động - khi lên nắm quyền, họ lại tự coi mình là những người cứu nước Pháp. Và để tạo cho mình cái dáng vẻ đó, họ phải làm cho tình hình quân sự xấu đi một cách có ý thức, hay ít nhất là làm cho dư luận cảm thấy nó đã trở nên tuyệt vọng. Đó là những sự việc họ đã làm một cách không do dự1. Và phải đi đến đình chiến trong thời gian ngắn nhất cho dù điều này sẽ biến việc được coi là một sự cứu nạn chỉ còn là một màn kết thúc vội vàng.

Trong cuộc tranh luận ngày 20 tháng 12 năm 1954 tại Quốc hội, ông Mendès France vẫn còn mô tả tình hình Đông Dương trước khi hội nghị Genève nhóm họp như sau: “Tất cả Binh đoàn Tác chiến của chúng ta đều nằm dưới sự uy hiếp của một cuộc tấn công dữ dội ở giữa Hà Nội và Sài Gòn, cùng với hiểm họa từ phía tây có khả năng ngăn cản chúng ta bảo vệ vùng cố thủ Hải Phòng. Cùng vào thời gian đó, trong những vùng khác, tình hình không có gì tốt đẹp hơn, cho dù đó là ở Trung Bộ, An Khê, Đà Nẵng, Nam Bộ. Ở Campuchia tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Phần phía nam của nước Lào vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chúng ta... Chúng ta đang nằm bên bờ vực của một thảm họa. Binh đoàn Viễn chinh có nguy cơ bị rơi vào một cái rọ và bị tiêu diệt”. (Trích tờ France-Soir ngày 21.12.54). Trong giải trình của ông trong vụ án rò rỉ thông tin, vào tháng 4 năm 1955, ông Marc Jacquet đã tuyên bố rằng, sau trận Điện Biên Phủ “các lực lượng Việt Minh đã tràn vào Bắc Bộ” 2.
__________________________________________
1. Đó là ý nghĩa của tất cả những tuyên bố của ông Mendès France tại Quốc hội trước và sau hiệp định Genève. Huyền thoại được nặn ra đã trở thành một sự thật chính thức.
2. Việt Minh đặt rất nhiều hy vọng vào việc lên nắm chính quyền của kíp mới, sự việc này được họ xem như là một thắng lợi: Hòa bình chắc chắn sẽ đạt được trong những điều kiện tốt nhất đối với họ. Các sĩ quan của ta bị bắt làm tù binh đã nghe các sĩ quan Việt Minh nói như thế.

Từ Đông Dương, tôi trở về Pháp vào ngày 16.6.1954. Tôi đến Paris vào thời điểm mà Chính phủ mới nắm quyền lãnh đạo phái đoàn Pháp tại hội nghị Genève. Và cũng như các lần trước, tôi không bao giờ được tham khảo về việc này, những gì tôi có thể nói được với một vài nhà chính trị đã không được quan tâm đến.

Thực tế là, ngay khi Chính phủ mới lên nắm quyền - hoặc là vì họ không có một sự đánh giá nghiêm túc về tình hình Đông Dương, hoặc là họ bị ảnh hưởng sai lệch của các bản báo cáo bi quan từ Sài Gòn - họ đã thể hiện một thái độ chính thức như sau: chúng ta đang ở bên bờ vực thẳm của một thảm họa, phải điều đình bằng bất cứ giá nào.

Xuất phát từ một tâm trạng như vậy, đã xảy ra “ Vụ đánh cuộc ngày 20.7”. Để có đánh cuộc thì phải có tranh chấp. Thế nhưng giữa hai phía đã có sự thống nhất về mặt quan điểm, giữa ông Mendès France và ông Phạm Văn Đồng, một người cũng rất mong ước có được một nền hòa bình chẳng kém gì người đồng nhiệm Pháp1.

Vả lại nói với đối phương: “Tôi sẽ đi đến hòa bình trước ngày 20 tháng 7 hoặc tôi sẽ từ chức” không tạo được một ấn tượng gì cho họ, vì họ biết rất rõ rằng trong hai vế của cái gọi - là sự lựa chọn nói trên, chỉ có vế trước là có giá trị.

Vụ “đánh cuộc” nổi tiếng ấy chỉ có thể làm cho thái độ thương thuyết của đối phương trở nên cứng rắn hơn, trong khi ép buộc nhà thương thuyết của chúng ta nhượng bộ tối đa, vì ông này muốn tránh phải từ chức trong trường hợp cuộc thương thuyết thất bại.

Theo cách nói của người bình dân, trong một cuộc “cá độ”, bao giờ cũng có một kẻ ăn cắp và một kẻ bị ăn cắp. Rõ ràng người bị đánh cắp trong cuộc “cá độ” ngày 20 tháng 7 là nước Pháp.
__________________________________________
1. Trong cuốn sách: Nhiệm vụ của nước Pháp tại châu Á, ông Fréderic Dupont đã trích những bản báo cáo của đại tá De Brébisson sau những cuộc tiếp xúc với phái đoàn Việt Minh. Chúng ta có thể đọc như sau: “Chắc chắn là Việt Minh mong ước một sự ngưng bắn... Qua tám năm phát động cuộc chiến tranh, với một cường độ ngày một tăng cao, trong một nền kinh tế không vững chắc như thế, chắc chắn làm cho quân đội căng thẳng. Các tầng lớp dân chúng mà họ kiểm soát trở nên mệt mỏi vì gánh nặng chiến tranh. Điện Biên Phủ là một thắng lợi nhưng họ phải trả một giá đắt. Chiếm Bắc Bộ là một việc khả thi, nhưng sẽ phải trả bằng một giá cao hơn Điện Biên Phủ rất nhiều và sẽ tạo thêm những suy sụp khác nữa... Việt Minh rất nóng lòng đạt được hòa bình”.

***

Người ta có thể đặt vấn đề nếu chúng ta có thể đạt được những điều kiện tối thiểu có thể và có trách nhiệm phải đòi hỏi, tức là đường ranh giới phải được kéo đến vĩ tuyến thứ 18 và nắm giữ Hải Phòng cho đến ngày hòa bình thật sự, thì số phận của Đông Dương sẽ rất khác số phận mà ta đã dành cho nó khi chấp nhận sự đầu hàng vừa qua.

Có thể nói rằng nhận xét đó đúng một phần. Đối với nước Lào và Campuchia, tình hình vẫn sẽ như vậy. Đối với nước Việt Nam Quốc gia, các điều kiện bội phần tốt hơn có thể xuất hiện, nhưng chưa chắc có khả năng khai thác chúng.

Nam Việt Nam sẽ có một ranh giới quân sự vững chắc hơn với vĩ tuyến thứ 18, còn với vĩ tuyến thứ 17 đang có thì điều kiện sẽ không được tốt như vậy. Nhưng cho dù họ có một vị trí tốt hơn, vấn đề là chất lượng của các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ nó.

Người Mỹ đặt rất nhiều hy vọng vào quân đội Việt Nam và họ đã không từ bỏ một cơ hội nào để tố cáo chúng ta không có khả năng phát triển quân đội này. Nhưng đến khi họ nhận trách nhiệm phát triển quân đội này, không những họ không chịu làm tốt hơn chúng ta, mà họ còn đặt cho quân đội này một chỉ tiêu thấp hơn1 rất nhiều.

Quân đội này có khả năng phòng thủ biên giới tại Đèo Ngang không? Không cần phải nói nhiều để có thể trả lời chắc chắn là không. Và nếu như có một sự tranh chấp giữa miền Bắc và miền Nam, thì quân đội Việt Nam sẽ gặp nguy hiểm ngay từ phía sau lưng hay trong lòng họ nhiều hơn là ở bất cứ mặt trận nào mà họ phòng thủ.

Đầu cầu cảng Hải Phòng, nếu chúng ta còn giữ được sẽ là một căn cứ xuất phát thuận lợi cho các cuộc tấn công chống lại Việt Minh trong trường hợp cuộc chiến tranh bùng nổ trở lại. Nhưng một cứ điểm dùng để tấn công hay phòng thủ - cũng chỉ có giá trị thông qua lực lượng sử dụng nó.

Cuộc tấn công này sẽ do ai khởi động lại? Quân đội Việt Nam đã không thể phòng thủ được một ranh giới tự nhiên, làm sao có thể phát động một cuộc tấn công được. Còn nước Pháp, khi mà quyền lợi ở Đông Dương càng ngày càng bị nhạo báng, đã lui về bảo vệ những quyền lợi có tính cách sống còn hơn của mình tại vùng Bắc Phi. Nước Pháp rút binh đoàn Viễn chinh về và rút ra khỏi một cuộc chơi không còn là của họ nữa. Người Mỹ thì chỉ thích tiến hành chiến tranh bằng quân đội của nước khác. Còn những “đồng minh” khác ở vùng Đông Nam Á, thì không có vấn đề họ sẽ thực hiện một nỗ lực nào đó.

Do đó, người ta có thể đưa ra lập luận - xem chừng có vẻ ít nhiều có lý - rằng, Việt Minh đã giành thắng lợi ngay từ ngày mà họ gài chúng ta vào hội nghị Genève; và với một vài điều kiện dành cho ta, họ đã làm sụp đổ các vị trí của chúng ta và của phương Tây.

Tuy nhiên, lập luận như vậy là xem nhẹ tinh thần của nước Pháp.

Mặc dù chúng ta đã chịu một thất bại rất đau đớn, nhưng sự can đảm của những người lính bảo vệ Điện Biên Phủ và sự hy sinh của họ để giữ lời hứa với nước Lào đã làm nổi bật tinh thần này.

Các nhà thương thuyết của chúng ta tại Genève đã làm tinh thần quả cảm, đức hy sinh đó trở thành vô ích. Họ đã để tư tưởng buông xuôi và đầu hàng nhận chìm đất nước này, làm cho cả thế giới nghĩ rằng chúng ta sẵn sàng cam chịu mọi điều.

Chính hội nghị Genève chứ không phải Điện Biên Phủ đã dìm nước Pháp xuống. Trách nhiệm thuộc về các nhà chính trị chứ không phải quân đội chúng ta.
__________________________________________
1. Sau khi có hiệp định Genève, tướng Ely đã đồng ý giao cho người Mỹ trách nhiệm phát triển quân đội Việt Nam. Vài tuần sau đó, họ quyết định giảm hai phần ba quân số của quân đội này, và chỉ giới hạn trách nhiệm của nó vào việc duy trì trật tự, loại bỏ mọi sự phòng thủ chống lại các đơn vị chính quy Việt Minh, họ cho là việc quân đội này không thể làm được

Các chương khác:

Nguồn: tunghoanh.com/dong-duong-hap-hoi/chuong-9-sqzaaab.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận