Đức Phật Và Nàng Chương 40

Chương 40
Trở lại Khâu Từ

Lưng tôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến lưng đã đụng phải một thứ kỳlạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên não, kích thích tôi choàngtỉnh.

Phía trước, một đôi mắtmở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét dính trên đỉnh đầu, khuôn mặthung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy, nhưng mặt đất gập ghềnh dưới chânkhiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những tiếng răng rắc vang lên, đưa mắt nhìnxuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng chân của một người nào đó, bàn tay dínhđầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp. Trời đất ơi, tôi đang ở nơi nào thế này? Đưa mắtra xung quanh, cơn buồn nôn lập tức ập đến.

Tôi đang ở trong một cáihố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét và chỉ mình tôi là người sống.Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống, mùi hôi thối không ngừng xônglên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt mũi, tôi kinh sợ đưa mắt quan sátkhung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên người và khuôn mặt của những tử thi mấttay mất chân, hay thậm chí mất đầu ấy, tôi đoán họ là binh lính Khâu Từ và rấtnhiều tộc người du mục vùng Trung Á khác. Nếu thời gi­an và địa điểm cài đặttrên cỗ máy thời gi­an là chính xác, thì cảnh tượng trước mắt có lẽ là kết quảcủa cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần và Lữ Quang.

Không phải tôi chưa từngthấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng ở Ai Cập, những bộ xương ngườitrong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoàn khảo cổ đi khảo sátnhững lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thể không đầu trong các độngđá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trên cao nguyên, không khíloãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫn chưa phân hủy hoàn toàn,đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ở Nam Kinh với hố chôn hàngvạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòng đất, mỗi khi bước chân vàođó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng thảm thương đến mức khiếnbạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải kẻ nhát gan, vì nếu thếtôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ tôi khiếp sợ như thếnày. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không ngừng thu nạp thứ mùihôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và tôi lại đang ở nơi màmột khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng không có. Tôi ngẩng đầu,vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá chiều cao của tôi.

Trong ba lô của tôi códây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó, nhóm nghiên cứuđã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện cho tôi một số thaotác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tính mạng con người bịcoi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tập vượt qua tường cao,nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòng thân của con gái. Tuythời gi­an tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậc am­ateur, nhưng ít nhiềucũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân mình mẩy tôi lúc này đangrun lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụ trong ba lô ra nữa. Trừphi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy những cánh tay, bắp chânđứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi thấy thứ mùi khủng khiếpnhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi cũng trở nên tê liệt, tôikhông kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành tiếng khóc.

Lại một thi thể bịném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên có người! Tôi như kẻchết đuối vớ được cọc, không k ịp suy nghĩ, tôi vội gào lên kêu cứu. Mấy cái đầungười nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩ tôi là xác chết sốngdậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩn nên mới sa chânxuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừng được thả xuống.

Lên đến mặt đất mà tôivẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằng tình trạng saukhi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôi lên có vẻ nhưlà binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiến trường, chônlấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối, hoặc bệnhtật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện, tử tế nàykhiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” của mình.

Chưa hoàn hồn với nỗikinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đối phó với tìnhcảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợi phẩm. Nhữngthương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầu để có thểđược ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họ chắc chắn sẽxem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theo súng gây mê,nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi không biết mình cóthể bắn hạ bao nhiêu tên.

Trước mặt tôi đều lànhững khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắp tay cung kính,thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:

- Thưa các anh, tôi vốnlà thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân Đỗ Tấn. Hôm nay rangoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu, gây cản trở côngviệc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.

Trong số các bộ hạ ngườiHán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và Đoàn Nghiệp. Đỗ Tấn làtướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của Đỗ Tấn là giúp LữQuang bình định Hà Tây[23]. Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộquốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng vì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳngkhác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang sinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.

Còn Đoàn Nghiệp, chínhlà người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lại chỉ là một thư lạinhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạt Khâu Từ, về sau,Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là Tửu Tuyền, Cam Túc).Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương của Lữ Quang, đưaĐoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế là từ một bậc“nho nhã, không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗng nhiên trở thànhquốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.

Quân đội của Lữ Quangtập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê với Phù Kiên. Còntôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một người Hán để có thểqua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà không chọn Đỗ Tấn vìchức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp của ô ng ta, chắc chắnsẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi tuổi, chỉ là mộtvăn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê thiếp của người nàychắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa người thân đi cùng,nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã cho phép tướng lĩnhcủa mình nạp thiếp.

Những người đó quả nhiênlộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thở phào, định xoayngười bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôi đến gặp ĐoànNghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lại nghĩ rằng mộtthân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anh ta.

Đường vào thành trải ratrước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gây nên. Xác người, xácngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xe ngựa, gạch đá dùng đểcông phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáo mác cong mẻ gập gẫychất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ, vỡ nát, tan hoang.

Không được chứng kiếntận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghi chép trong sáchsử.

Quân của Lữ Quang có bảymươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực của Shan­shan và Chrishđi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn Bạch Thuần, dốc sạchquốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân đến chi viện.Cộng thêm binh lực của Wen­su, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn quân.

Cuộc chiến với binh lựcquá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho Lữ Quang, ông ta quảkhông hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách “Tấn thư” chép rằng, khiấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại, dàn trận, tínhkế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông ta ít, càng dàn trậncàng phân tán lực lượng, không phải kế hay.

Lữ Quang lệnh cho binhlính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại, đào hào sâu, đắplũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờ lên bù nhìn bằng gỗgiả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nội thành. Sau đó, dẫnđại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binh Khoái Hồ nhất loạtmang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thể xuyên thủng. Thêmvào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng roi da làm vũ khí,thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trăm trúng. Bởi vậy, gi­aiđoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.

Lữ Quang nhận thấy quânKhoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuy đông đảo nhưngchỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cách đối phó với kẻđịch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bất lực, vì bộgiáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càng không thểchống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ, tin tức bayvề khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của cải, bỏ thànhmà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại trận, đã ùnùn kéo đến xin hàng.

Bạch Thuần thua trận khiđã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sách không ghi chép. LữQuang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là Bạch Chấn lên ngôi vua.

Khâu Từ là quốc gia mạnhnhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hài lòng. Bởi vậy khiđược lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shan­shan, vua nước Chrish và BạchChấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vực và xin làm“hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua ba trăm dặmcồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn nhờ vàocông lao của các “hoa tiêu” này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch Chấn, vìtừ lâu “cậu út” đã có dã tâm đoạt ngôi.

Vừa đi vừa nhớ lại nhữngghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đến cổng thành. ThànhKhâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắng lặng, đìu hiu. Lácđác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng then cài. Quân lính củaLữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng trên phố vắng,thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là những tiếng gào khócthảm thiết vang lên.

Sau khi vào thành vànhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đã hạ lệnh choĐoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện Khâu Từ” với nội dung châm biếm, đảkích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởng thụ, trongnhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất giữ hàngnghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong khuôn viênphủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung túng chođám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí bỏ mạngtrong men rượu nhiều không đếm xuể.

- Đoàn đại nhân!

Suy nghĩ bị cắt ngang,tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người dáng vẻ thư sinh, khép tayhành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?

Nếu không tìm cách trốnthoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng cách tôi đến hai mươi mét. Nếucố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã bị bắt lại. Vừa căng thẳng nghĩcách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng cao mãnh liệt, tôi muốn được tậnmắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc Lương. Theo học chuyên ngành này thậtnguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến người ta phải đền mạng như chơi.

Đoàn Nghiệp chừng haimươi tuổi, cao khoảng một mét bảy mươi lăm, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ nhonhã, trên tay cầm giấy bút, đang trò chuyện với một quân nhân, nhìn thấy tênlính người Hán, liền quay lại đáp lễ.

- Đoàn đại nhân, ngàiđây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra ngoại thành hái thuốc rất nguyhiểm, cô dâu mới mà sao ngài không biết thương hoa tiếc ngọc?

Đoàn Nghiệp tất nhiênrất kinh ngạc, liếc nhìn tôi, định mở miệng phủ nhận, tôi giả bộ vui mừng khinhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn, hạ giọng:

- Tôi được cao nhân chỉđiểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay cứu giúp, tôi nhất định sẽbáo đáp ơn này.

Sử sách chép rằng, ĐoànNghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà thuật. Cầu mong sao chiêu bàinày của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.

Hắn nhìn tôi đầy nghihoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho lắm. Cũng phải thôi, tôi cònquá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có chút khí chất thần thánh nào cả.Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:

- Đêm trước khi công pháthành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi vàng bay ra vùng ngoại thành,đúng không?

Đó là những ghi chéptrong sách “Tấn thư”, giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang càng có thêm tự tin rằng“thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất sẽ diệt vong”. Sách “Tấn thư”ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần thánh mang màu sắc mê tín nên rấtnhiều nhà sử học về sau này không xem đó là chính sử. Còn tôi thì đang đặt cược,tôi cược rằng, trước tình thế địch mạnh ta yếu, Lữ Quang đúng là đã bịa đặt ragiấc mơ kì lạ đó để động viên binh sĩ. Nếu tôi thua, tôi cũng chẳng còn đườngthoát nào khác.

Đoàn Nghiệp kinh ngạcngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không khẳng định cũng không phủnhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người vận đồ quân nhân vừa trò chuyệnvới mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong tiếng cười giễu của bọn họ.

Bước đi cùng Đoàn Nghiệpmà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy nhiên, theo tài liệu lịch sử thìĐoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác như Lữ Quang. Nếu không ổn, mộtmình hắn tôi cũng có thể đối phó được. Đoàn Nghiệp đưa tôi đến nhà một thườngdân, bên trong có rất rất nhiều người vóc dáng văn nhân, họ cất tiếng chào anhta. Có lẽ quân Lữ Quang đã cưỡng chế trưng dụng căn nhà này làm nơi tụ họp củacác quan văn.

Khi chỉ còn hai chúngtôi ở trong phòng, tôi chắp tay trước mặt Đoàn Nghiệp:

- Tôi vì muốn giữ mạng,đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại nhân, xin đại nhân thứ tội.

- Cô nương xin đừngkhách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.

Anh ta rất nhã nhặn,lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.

- Vị cao nhân mà tôinhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng Tây vực, Ku­mara­ji­va. Tôituy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp pháp sư, nên đã học hỏi được rấtnhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ cũng vì mong được diện kiến pháp sư. Nếuđược ngài truyền thụ cho chút ít kiến thức, chắc chắn năng lực tiên đoán củatôi sẽ được nâng lên đáng kể.

Không biết Ra­ji­va hiệnnay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy bằng chủ đề ưa thích củaĐoàn Nghiệp.

- Danh tiếng của đạipháp sư Ku­mara­ji­va như sấm dội bên tai, được biết pháp sư có biệt tài xemtướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây vốn đã ngưỡng mộ từ lâu.

- Đoàn đại nhân chưa gặppháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang ở chỗ của Lữ tướng quân, lẽ rađại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên mới đúng chứ?

Tôi nín lặng chờ đợiphản ứng của Đoàn Nghiệp.

Vẻ mặt anh ta vương chútảo nảo:

- Tôi rất muốn, nhưngpháp sư đang bị gi­am lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.

- Tôi và pháp sư vốn códuyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài, tôi nhất định sẽ xin pháp sưxem hậu vận cho đại nhân.

- Điều này e là khôngthể.

Anh ta có vẻ rất sốtsắng, nhưng lại hơi do dự.

- Nghe nói, tướng quângi­am đại sư trong cung, với chức quan quèn như hiện nay, tôi không thể gặpngài.

Trong lòng ngập đầy nỗithất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị gi­am trong cung, nhưng không rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một thư lại nhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên chắc rằng anh ta cũng khôngbiết được thông tin gì.

Tôi đành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ đã bị công phá năm ngày rồi, ngàythứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu Từ.

Suy nghĩ một lát, tôicầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:

- Không biết Đoàn đạinhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyse­da – em trai pháp sư Ku­mara­ji­vakhông?

Một mình trên phố lúcnày chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng gây mê nhỏ bé của tôi chắc chắnkhông thể hạ gục đám lính đang điên cuồng cướp bóc ngoài kia.

Sợ Đoàn Nghiệp từ chối,tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói với anh ta:

- Theo quan sát của tôi,tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không phải hạng tôm cá trong ao tù,ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng, ngày sau, ngài sẽ làm nên nghiệplớn.

- Có thật không?

Anh ta đúng là một kẻ mêtín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò hỏi:

- Sẽ là ở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.

Tôi ra điều kiện:

- Đại nhân chịu đưa tô iđi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.

Môn thần học vốn rấ tthịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học, Huyền học trong một thểthống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là những dự đoán mang màu sắc kỳlạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù Kiên giết tướng Sabir, nên đã chongười tung tin đồn “tháng Ất Dậu năm Giáp Thân, Ngư Dương ăn thịt người”[24].Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãi Mộ Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết cácdân tộc hết sức tiến bộ của ngài đã không có hiệu quả. Và lời cảnh báo củaVương Mãnh lại hết sức chính xác. Năm 384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tầnbắt đầu tan rã. Tu y Phù Kiên bị Diêu Trường thuộc tộc người Khương giết chết,nhưng nguyên nhân chính của sự sụp đổ của nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩaphục quốc của người Sabir.

Bởi vậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyse­da thể hiện sức mạnh to lớn của bói toán.

 

Nguồn: truyen8.mobi/t18886-duc-phat-va-nang-chuong-40.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận