Bà Chúa Thuốc Độc Chương 4


Chương 4
Hồng nhan bạc mệnh

Bói bài để tìm hiểu tương lai không phải là thói quen của người vô công rỗi nghề. Kẻ sống nguy hiểm nhất lại cũng là kẻ thích bói bài nhất.

Cách Vạn Tường 3 giờ máy bay, những nhân viên thân tín của ông Hoàng đang cặm cụi trước cỗ ích-xì nhiều màu rực rỡ. Tâm tri họ không nghĩ đến cùng việc chồng chất nữa. Mà là nghĩ đến 32 con bài xinh xắn, những con rô, bích, cơ, chuồn, xì, đầm, già và bồi.

Nhìn những con bài phủ đầy bàn. Nguyên Hương cảm thấy rạo rực, như vừa được Văn Bình hôn. Giờ này, chàng đang yên vị trong cái ghế bành màu đỏ, trong văn phòng ông tổng giám đốc.

15 phút trước, chàng tạt qua bàn nàng như ngọn gió. Chàng đứng lại, nâng cằm nàng lên, và cười một cách ý nhị. Không nói gì hết, nàng cúi gằm xuống, những sợi tóc mềm mại phất phơ trước mặt. Mặc dầu thức đêm nhiều, và làm việc quên ăn quên ngủ, nàng vẫn đẹp, sắc đẹp luôn luôn tươi mát như trái lê cất trong tủ lạnh.

Lê Diệp chống nạnh nhìn nàng, và tủm tỉm cười:

- Thế nào?

Lê Diệp thường hỏi bang quơ như vậy. Mỗi lần Văn Bình ghé Sở để nhận công tác, Lê Diệp thường dùng hai tiếng « thế nào » ri rỏm và nghịch ngợm để hỏi mát nàng. Trong quá khứ, nàng đáp lại bằng cái nhún vai. Đôi khi nàng rưng rưng nước mắt, rồi cúi xuống cái máy chữ điện IBM đồ sộ. Lần này, nàng ngửng phắt đầu, nói giọng chắc nịch:

- Bói bài.

Lê Diệp chắt lưỡi:

- Hừ, bói bài làm gì vô ích. Mãi hắn vẫn không chừa. Tôi sợ lần này lên Lào hắn lại rước thêm một bà nữa.

Giọng nàng vẫn đầy vẻ tin tưởng:

- Không đâu. Tôi thấy tốt lắm.

Lê Diệp lắc đầu:

- Bói bài lấy cho mình không linh ứng. Để tôi bói dùm cho cô. Vừa rồi, cô được những con nào?

Lối bói của Nguyên Hương rất giản dị: lấy một bộ 32 con bài, bỏ bớt 1 con, xóc đều rồi cúp nhiều lần, sau đó lấy 11 con bên trên cất một bên trải 20 con còn lại thành hình móng ngựa. Nếu trong 20 con này, còn 4 con 9 nút, là sắp sửa có sự ly biệt. Nhưng nếu là 4 con đầm thì vạn sự như ý.

Nàng dề môi:

- 4 đầm.

Lê Diệp cười ha hả:

- Phải bói 3 lần mới đúng. Nào cô đưa cỗ bài cho tôi.

Chàng sếu vườn của sở Mật vụ xóc bài thoăn thoắt như tay chơi thực thụ. Trên thực tế, Lê Diệp không phải là con thiêu thân đổ bác, song nếu cần – cũng như Văn Bình Z.2S – chàng có thể đương đầu với phường đại bịp quốc tế. Chàng chia xấp bài cho Nguyên Hương:

- Mời cô cúp.

Thấy nàng giơ tay phải, chàng gạt đi:

- Không được. Theo phong tục bói bài, phải cúp bằng tay trái, nghĩa là tay gần trái tim. Cúp bằng tay phải là hỏng.

- Ồ, hồi nãy tôi cúp bằng tay phải.

- Nghĩa là hỏng rồi.

20 con bài nằm ngoan ngoãn trên bàn. Đột nhiên, mặt Nguyên Hương đỏ ửng. Nàng cảm thấy xấu hổ. Nếu việc này đến tai Văn Bình, chàng sẽ cười nàng hàng tháng.

Giọng Lê Diệp đều đều:

- Cô lật bài lên.

Nàng suýt thét lên. Trời ơi, 4 con bài 9 nát phơi mặt chềnh ềnh dưới ánh đèn nê – ông. Nghĩa là Văn Bình sẽ bỏ nàng… Rồi nàng bưng mặt khóc…

Nhưng chỉ một phút sau, nàng vùng đứng dậy. Vội vàng, Lê Diệp lùi lại, song không kịp nữa. Bình mực đỏ đã rót vào ngực chàng. Cái áo sơ mi trắng tinh mới lấy ở tiệm giặt về trở thành đỏ ối. Nguyên Hương túm lấy cánh tay Lê Diệp:

- Hừ, anh thông đồng với Văn Bình để lừa tôi. Anh cố tình xóc gian. Bài của anh đâu đưa hết cho tôi.

Lê Diệp biểu diễn đã nhanh, song vì quá nhanh nên sơ xuất. Chàng thay 4 con bài bằng 4 con khác 9 nút giấu sẵn trong túi nhưng lại để một con tòn ten ở mép túi. Nàng đấm thùm thụp vào lưng chàng.

Cửa ra vào được mở đúng lúc để cứu Lê Diệp. Quỳnh Loan, nữ nhân viên ưu tú ban Biệt vụ, một ban gồm toàn nữ điệp viên, đứng sững trên ngưỡng cửa.

Thấy cái áo sơ mi nhuộm đỏ và bộ mặt nhăn nhó một cách hài hước của Lê Diệp nàng phá lên cười. Sự có mặt của bạn gái trong phòng làm Nguyên Hương tăng thêm tức giận. Nàng vờ lấy bình mực xanh toàn ném thì Lê Diệp đã chạy vụt ra ngoài. Nàng không dám rượt theo vì ngọn đèn đỏ trên bàn buya-rô phựt cháy.

Ông tổng giám đốc vừa mở đèn đỏ ngụ ý: tối hệ, cấm vào. Ngọn đèn màu lục kế bên cũng nhấp nháy.

Chết rồi, ông Hoàng đã biết rõ sự việc vừa xảy ra trên màn ảnh vô tuyến truyền hình đặc biệt. Đèn màu lục có nghĩa là « yêu cầu văn phòng bí thư trưởng giữ im lặng ».

Tấn kịch trong phòng Nguyên Hương kết thúc, kịch nghiêm chỉnh và trọn đại bắt đầu.

Văn Bình, Z.28 vẫn giữ vai trò chính.

«««

Văn Bình buôn mình xuống chiếc ghế bành đồ sộ, đặt trước buya-rô hình bán nguyệt của ông Hoàng. Vừa cắt xong điếu xì gà Ha van to tướng, ông tổng giám đốc Gián điệp đưa lên mũi hít hà một cách trịnh trọng trước khi châm lửa.

Nhìn cái quẹt máy, Văn Bình tỏ vẻ sung sướng: chiếc bật lửa Trung cộng này, chàng mua ở Hà Nội tháng trước. Nó không đáng là bao, song ông Hoàng đã vứt quẹt máy chạy ga đắt tiền, và dùng chiếc bật lửa tầm thường do Văn Bình tặng.

Rít hơi thuốc Salem, chàng chăm chú nhìn ông Hoàng. Mái tóc của ông đã bạc hết, bộ âu phục màu đen đã chuyển sang màu nước dưa, cánh tay bị rách một miếng. Cái cà vạt đen, cũng tự tay chàng mua sáu năm trước tại Vọng các, bây giờ đã sờn chỉ. Bùi ngùi, nhìn xuống chân Văn Bình thấy đôi giày của ông Hoàng bắt đầu há mõm, tất cả vá chằng chịt mà không giấu được lỗ hổng.

Trông cách phục sức cổ xưa và nghèo nàn của ông Hoàng, không ai dám ngờ ông là một trong những người tiêu xài nhiều tiền nhất nhì thế giới. Dĩ nhiên là không tiêu xài cho bản thân, vì ông không có vợ con, ông cũng không thèm cao lương mỹ vị. Ông sống tầm thường như hàng ngàn, hàng vạn công chức tầm thường khác.

Có lẽ đời sống của ông còn tầm thường hơn nữa. Bữa cơm của ông luôn luôn đạm bạc, gần như chay trường. Ông chỉ phạm hai điều xa xỉ: ấy là uống cà phê đặc xịt suốt ngày thay nước trà, và hút xì gà Ha van loại đặc biệt không bao giờ nghỉ. Nhiều đêm bận công việc, ông hút thuốc đến khi môi miệng cháy bỏng mà vẫn không chịu ngừng.

Trong số nhân viên dưới quyền, Văn Bình – cũng như Nguyên Hương và Lê Diệp – được biết số tiền chi tiêu khổng lồ của ông Hoàng. Có tháng, ông vung ra mấy trăm triệu bạc. Người ngoài không thể tìm ra ông lấy tiền ở đâu vì lẽ ngân sách quốc gia không dành mục nào cho sở Mật vụ.

Trên thực tế, phần lớn chi tiêu của Sở đều do ông tổng giám đốc và các cộng sự viên ruột thịt tự lực làm ra. Có lẽ cũng vì lý do này mà ông Hoàng ngồi hết tháng này qua năm khác trong ghế tổng giám đốc Mật vụ. Vả lại, nếu các chi phí khoản đều được ngân sách quốc gia cung cấp thì cũng không thể tìm được ai thay nổi ông Hoàng, con người được giới điệp báo quốc tế coi là siêu nhân.

Gõ tàn xì gà vào cái đĩa sứ trắng, ông Hoàng hỏi giọng thân mật:

- Z.28. Đã lấy lại phong độ rồi chứ?

Lời nói của ông Hoàng nhắc chàng nhớ lại những ngày gian nan tại Hà Nội, đi theo vết chân của tử tội Bôrin. Công tác thành công nhưng chàng bị thương nặng, phải nghỉ dưỡng sức một thời gian ở Đà Lạt.

Cũng như mọi lần, chàng lo ngay ngáy đang đêm trong khi chàng hú hí với giai nhân, Lê Diệp sẽ lù lù dẫn xác vào, lôi chàng về. Nhưng lần này, chàng được hưởng ngoại lệ. Ông Hoàng mặc cho chàng bù khú trên đất cao nguyên mát lạnh.

Tưởng ông giám đốc mắc bệnh hay quên. Văn Bình đã mừng rơn. Song chàng mừng không được lâu. Hạn nghỉ vừa hết, một chiếc phi cơ hạng nhẹ đã chờ chàng ở Liêng Khàng. Chàng đành thở dài từ giả người đẹp – đúng hơn, một trong một tá người đẹp mà chàng gặp trong những ngày được mệnh danh một cách văn vẻ là dưỡng sức – vội vã đóng va li, trèo lên máy bay.

Lê Diệp cũng như Nguyên Hương đều không có mặt ở phi trường và « hộ tống » chàng về Sài Gòn như thường lệ. Đó là lần đầu chàng được hưởng đặc ân. Đến Tân Sơn Nhất, một chiếc xe hôm đen đã nằm lù lù ở phi dạo, với một khối thịt hơn trăm kilo sau vô-lăng. Tài xế không phải chàng sếu vườn lầm lì quen thuộc mà là gã vệ sĩ to xác, sợ chàng như sợ cọp.

Thấy chàng, hắn nhanh nhảu:

- Gớm, lâu quá!

Chàng cười khì khì:

- Lâu quá, chưa bắt tay phải không?

Cách đây không lâu, chàng lợi dụng cơ hội bắt tay đã vận nội công bóp hắn suýt nát xương. Chàng trừng phạt hắn về lội xen vào chuyện riêng : giữa chàng với cô bí thư trưởng trẻ đẹp và hay ghen tuông. Từ lần bị trẹo tay, hắn không dám sàm sỡ với chàng nữa.

Dọc đường về đại lộ Nguyễn Huệ, hắn ngăm tăm, không nói nửa lời. Đến trụ sở Công ty Điện tử, tổng hành doanh của sở Gián điệp mới xây cất, Văn Bình được đưa thẳng vào phòng ông tổng giám đốc.

Chàng trả lời ông Hoàng bằng cái nhún vai cố hữu:

- Thưa tôi đã bình phục hoàn toàn.

Thật vậy, vết thương ở vai chàng đã khỏi hẳn. Khỏi hẳn, mặc dầu chàng không theo đúng chỉ thị của y sĩ riêng của Sở. Y sĩ bắt bó bột thì chàng gạt phắt. Chàng chỉ dán thuốc cao của một viên đông y gia truyền, rồi bỏ một mạch lên cao nguyên.

Thời gian ở Đà Lạt, chàng không hề thay thuốc cao. Vậy mà vết thương lành lặn như được điều trị bằng thuốc của Hoa Đà. Mà quả thật là chàng được Hoa Đà điều trị. Hoa Đà đối với chàng là hàng chục chai huýt-ky hạng tốt, uống sếch không pha nước, là hàng chục đêm không ngủ bên bàn mạt chược, hoặc nếu ngủ thì không bao giờ ngủ một mình. Hoa Đà đối với chàng là đàn bà…

Văn Bình đinh ninh ông Hoàng sẽ trễ giọng ra để mắng yêu chàng vài câu lấy lệ. Nhưng không, ông tổng giám đốc đón tiếp câu nói của chàng một cách chăm chú. Có lẽ ông bắt đầu tin chàng nói thật. Hoặc giả ông đã quá quen với lối thề cá trê chui ống của chàng. Hoặc giả ông đang bận giải quyết một công tác thập phần quan trọng mà lời nói bưng bít của chàng không đủ sức mạnh để đánh thức bản chất hài hước trong lòng ông nữa.

Ông Hoàng nghiêm trọng:

- May quá. Tôi chỉ lo không có ai thực hiện được công tác này. Một công tác khá nguy hiểm, trừ anh ra vị tất nhân viên nào làm nổi. À anh nghe nói tới Quốc tế Đặc vụ chưa?

- Thưa rồi. Tôi được tin dạo này Quốc tế Đặc vụ hoạt động ráo riết ở khu vực châu Á. Bọn họ công khái buôn vàng, á phiện và khí giới. Gần đây, tôi nghe họ mất nửa triệu đô la vang lậu ở Hồng Kông.

- Anh nói đúng, song đối với Quốc tế Đặc vụ, thì nửa triệu đô la bị mất chỉ là muối bỏ biển. Chắc anh đã biêté Quốc tế Đặc vụ có nhiều tiền, rất nhiều tiền. Tuy mới được thành lập, họ đã đặt xong hệ thống đại diện trên khắp ngũ đại châu. Tổ chức Á châu của họ tương đối hoạt động đắc lực nhất. Điều này rất phiền cho ta, vì sớm muộn quyền lợi của ta sẽ va chạm với quyền lợi của họ.

- Thì ta sẽ cho họ một bài học.

- Nói như vậy không được. Nghề điệp báo không phải là nghề của sức mạnh, giống như võ sĩ thượng đài, ai cân nặng, ai giỏi võ thuật thì thắng. Người yếu thắng người khỏe là thường. Yếu tố quyết định là mưu trí. Chính vì thế nên tôi không muốn đụng tới Quốc tế Đặc vụ. Vì tôi hy vọng sẽ dùng được họ. Hoặc ít ra dùng họ để lấy tin tức và làm những việc mà ta không tiện làm hoặc không làm được. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Thái độ trịch thượng của Quốc tế Đặc vụ bắt tôi phải can thiệp.

Từ lâu, họ không dám « ăn hàng » ở Ai Lao, vì hơn ai hết, họ biết Ai Lao nằm trong địa bàn hoạt động của ta, léo hánh tới Ai Lao thì ta phải hành động. Hiện nay, họ bắt đầu gây sự ở Vạn Tượng.

- Theo tôi, có lẽ bàn tay của Bắc Kinh đã nhúng vào.

- Có lẽ. Ít nhất, họ phải có kẻ nào giựt giây mới dám vuốt râu hùm. Một chiếc phi cơ ủa chính phủ hoàng gia Lào vừa bị Quốc tế Đặc vụ chặn bắt trên đường từ Vạn Tường tới Đà Nẵng.

- Họ buộc phi công đáp xuống vùng cộng sản kiểm soát, phải không ông?

- Không. Phi hành đoàn gồm ba người, đại úy chỉ huy Kham Sen là sĩ quan giàu kinh nghiệm, và rất được tin cậy về phương diện chính trị. Phi cơ rời Vạt chai được một giờ thì Thao La, một nhân viên phi hành, dùng rượu pha thuốc độc, cho hai bạn uống. Họ chết gục trên phi cơ. Thao La bèn lái về phía nam, dọc đường đáp xuống cho Quốc tế Đặc vụ lấy hàng hóa. Thao La bay dọc sông Cửu Long, không biết định đi đâu, song chỉ mấy phút sau phi cơ nổ tung.

- Thôi, tôi hiểu rồi. Thao La bị Quốc tế Đặc vụ giết.

- Đúng, Quốc tế Đặc vụ hà tiện được một món tiền thù lao lớn, lại bảo vệ được bí mật. Tuy nhiền, cái chết của Thao La làm cuộc điều tra bị sa lầy. Nhân viên phản gián Lào tới tận nơi phi cơ làm nạn chỉ thấy một đống kim khí méo mó, trầy trụa và ba cái xác bị cháy ra than.

- Phi cơ của Kham Sen chở hàng gì, thưa ông?

Ông Hoàng bâng khuâng nhìn hơi khói xì gà cuộn thành vòng tròn trong khoảng không:

- Điều này đang làm tôi băn khoăn nhiều nhất. Vì đây là thuốc độc. Phi cơ AN-2P chở toàn thuốc độc có thể giết hàng triệu con người trong chớp mắt.

Trong dĩ vãng, Văn Bình đã điều tra về nhiều vụ phi cơ bị chặn bắt dọc đường. Song nhân viên gián điệp quốc tế hoặc quân gian chỉ chân bắt bằng hoa đắt tiền như vàng, hột xoàn, hoặc các yêu nhân khoa học, chưa bao giờ xảy ra vụ chặn bắt thuốc độc. Và có lẽ đây là lần đầu tiên chàng nghe nói tới phi cơ chở thuốc độc giết người.

Tưởng lãng tai, sau nhiều đêm hoan lạc, và uống quá nhiều huýt-ky nguyên chất, chàng vội hỏi lại:

- Thưa, phi cơ chở thuốc độc à? Chở thuốc độc xuống Đà Nẵng làm gì thưa ông?

Ông Hoàng bấm chuông điện:

- Tôi cho mời bác sĩ Trần Ngọc tới ngay bây giờ. Bác sĩ Ngọc sẽ giải thích tường tận cho anh hiểu. Tôi chỉ biết đại cương phi cơ chở thuốc độc xuống Đà Nẵng. Phi cơ ta bay dọc biên giới nhờ chiếc AN-2P suốt đêm để hộ tống mà không thấy, đành phải quay về căn cứ. Thùng độc dược này không phải của ta mà là của chính phủ Hoa Kỳ.

Cửa phòng kẹt mở, Bác sĩ Trần Ngọc bước vào. Trần Ngọc là một thanh niên trạc bốn mươi. Mắt sáng như điện, thân hình lực lưỡng trông hao hao như võ sĩ quyền Anh hạng nhẹ tên tuổi. Ông Hoàng ra hiệu cho Trần Ngọc ngồi xuống:

- Đây là Văn Bình, tức là Z.28, chắc bác sĩ đã biết.

Trần Ngọc nghiêng mình:

- Mới nghe danh, giờ được gặp mặt. Hân hạnh lắm.

Ông Hoàng nói:

- Bác sĩ Trần Ngọc vừa tốt nghiệp khóa bổ cúc dài hạn của CIA về hóa chất đặc biệt. Phiền bác sĩ giải thích rành mạch cho Z. 28, chắc bác sĩ đã biết.

Bác sĩ Ngọc đằng hắng một tiếng, rồi nói một mạch::

- Hễ nói tới thuốc độc, ai cũng kinh sợ vì uống vào thường mất mạng, song nhà khoa học lại coi như trăm ngàn thuốc khác. Chẳng hạn như xi-a-nuya, thử thuốc độc ghê gớm nhất mà cơ quan điệp báo nào cũng dùng, mùi the the như hạnh nhân, uống vào trong năm giây thì chết, lại là một vật liệu kỹ nghệ. Người ta dùng xi-a-nuya, để bón cây chanh cho khỏi sâu, hoặc nhuộm vải, thuộc da và chế thuốc. Hầu hết các độc dược đều được dùng trong y khoa và kỹ nghệ.

Gần đây, y học thái tây phát minh ra phương pháp chữa bệnh bằng độc dược. Đối với người châu Á, đó không phải là chuyện lạ vì tuy ngàn năm nay ta đã biết dĩ độc trị độc. Tại Âu-Mỹ, một số thuốc độc cực mạnh đã được dùng trị bệnh thần kinh. Người ta ra nhiều phương pháp để nghiên cứu và sản xuất độc dược. Cơ sở sản xuất ở Lào được coi là quan trọng nhất châu Á.

Văn Bình ngắt lời:

- Tại sao lại sản xuất thuốc độc ở Lào? Phải chăng Lào là nơi có nhiều á phiện?

Bác sĩ Ngọc đáp:

- Ông nói đúng, cách thủ đô Vạn Tường một cây số có một nhà máy riêng do người Mỹ dựng lên để chế độc dược. Phần lớn độc dược được sản xuất tại đó là á phiện. Thật ra, á phiện chứa cả thảy 25 chất độc khác nhau, và chất được nhiều người biết đến là mọt-phin. Theo thần thoại Hy Lạp, mọt-phin là tên của vị Thần Ngủ. Chất này được tìm ra vào năm 1803, có tác dụng làm bệnh nhân ngủ say, quên đau, nên được đặt tên là mọt-phin. Ngoài mọt-phin, còn có nhiều chất khác, như cô-đê-in, thê-ba-in và papavêrin.

Nhà máy độc dược gần Vạn Tường, bề ngoài đội lốt hãng chế tạo tân dược, mang cái tên rất thơ mộng là Công ty Dược phẩm Thần tiên. Công ty Thần tiên còn chế nhiều độc dược vô cùng nguy hiểm, chỉ một chút đủ giết một mạng người trong chớp mắt. Cây mã tiền được trồng ở Ấn độ, sau đó được mang qua Lào và trồng trên những ngọn đồi gần vương đô Luang Prabang.

Trái mã tiền trong giống như cam, hai nhà bác học Pháp tìm ra chất mã tiền, và dùng để kích thích thần kinh hệ. Việc sản xuất mã tiền thường đi đôi với sản xuất mọt-phin vì nó kỵ á phiện. Người bị đầu độc á phiện thường được cứu chữa bằng mã tiền. Mã tiền còn cứu sống được những người bị đầu độc bằng thuốc mê, rượu mạnh và thuốc ngủ nữa.

Văn Bình lại ngắt lời:

- Thưa, nhiệm vụ của tôi là hoạt động điệp báo. Tôi muốn anh biết rõ trước khi đảm nhận công tác. Vì ngoài á phiện, mã tiền và acônít ra, thùng độc dược chở trên phi cơ AN-2P còn chứa nhiều hóa chất nguy hiểm khác nữa.

Dường như không quan tâm tới sự sốt ruột của Văn Bình, bác sĩ Ngọc nói tiếp, giọng đều đều như giáo sư giảng bài:

- Theo thống kê, chết vì đầu độc đứng hàng thứ ba trong các tai nạn. Mỗi năm, 34.000 người Mỹ chết vì thuốc độc, vô tình hay hữu ý. Có thể phân loại thuốc độc làm 3; thứ nhất, tàn phá mọi cơ thể, thứ hai, làm cháy thịt da, thứ ba, chỉ nguy hại đối với một số bộ phận trong người. Sự nguy hại của độc dược đã được nhiều chính phủ lợi dụng triệt để, đặc biệt từ đầu thế kỷ này. Trong thế chiến thứ nhất, nước Đức đã dùng hơi độc tại mặt trận. Trong thế chiến thứ hai, lãnh tụ quốc xã Hít le đã cho sản xuất nhiều loại hơi độc kinh khủng, song không dám đem dùng.

Hít le bại trận, Nga sô chiếm đoạt các nhà máy chế hơi độc của Đức, mang về nước, và mặt vụ Sô viêté đã tiếp tục công việc của Hít-le, trên một qui mô rộng lớn và khoa học hơn. Buộc lòng Hoa kỳ cũng phải lao đầu vào công cuộc nghiên cứu, phát minh và sáu xuất hơi độc. Công ty Dược phẩm Thần Tiên là một bộ phận của côn cuộc này. Khỏi nói, ông cũng biết nó rất quan trọng.

Thứ thuốc độc hoặc hơi độc hiện được các cường quốc Nga-Mỹ thí nghiệm ráo riết không phải là thứ làm chết người tức khắc mà là thay đổi tính tình, năng lực con người. Hoa Kỳ đã chế ra một loại hơi, ngửi vào thì thông minh biến ra điên khùng, kẻ lương thiện có thể trở thành sát nhân. Người ta gọi là hơi ngạt thần kinh. Ngoài ra, còn sản xuất một thứ độc dược khả dĩ thay đổi được tâm địa con người.

Một trong các dược liệu được dùng là chất acônít. Từ lâu, người Âu châu đã biết acônít. Tưởng Mác ăn toan mang quân đi đánh, bị vây khốn, lương thực thiếu hụt, binh sĩ phải đào rễ cây mà ăn. Một số ăn lầm acônít đã mất trí nhớ, và thành điên khùng. Acônít gây ra nhiều nguy hiểm đến nỗi người ta gọi nó là (Bà Chúa thuốc độc). Thời Chiến quốc bên Tàu, các bộ lạc ở dọc Hy mã lạp sơn cũng dùng acônít để giết kẻ thù.

Năm 1762, acônít được ghi vào danh sách dược liệu Áo quốc. Người ta thường thấy cây acônít mọc ở Thụy Sĩ, Pháp, Đức và Tây Ban Nha. Trên núi ở Hoa Kỳ cũng ó cây acônít. Loại cây này thường mọc dọc dòng suối. Gần đây, nó mọc lên thật nhiều ở Lào. Hoa nó rất đẹp, trông như bim bim, màu tím hay vàng, trắng tùy theo loại. Thứ acônít ở Nêpan được coi là độc nhất. Acônít trồng ở Lào là loại cây từ Nêpan tới.

Khoa học Tây phương hiện dùng acônít để chữa bệnh thần kinh. Theo chỗ lộc biết, các cơ quan điệp báo đang biến acônít thành một thứ thuốc đặc biệt, có thể chinh phục một quốc gia, đánh ngã một dân tộc không cần bắn phát súng. Uống acônít vào, nạn nhân cảm thấy nong nóng để chịu bao tử, đói khi ói mửa, nhưng thường là mạch máu và nhịp thở chậm lại, da dẻ lạnh ngắt, rồi thân thể trở nên bất động, miệng không nói được, tay chân không giơ lên được, tóm lại con người thành tượng đài.

Lời tiết lộ của Trần Ngọc và Văn Bình bàng hoàng. Chàng đã hiểu tại sao ông tổng giám đốc muốn chàng chăm chú theo dõi cuộc giải thích trường giang đại hải của Trần Ngọc. Cách đây không lâu, trong một cuộc họp bí mật với CIA ở Hoa Kỳ, vấn đề xử dụng acônít vào mục đích gián điệp đã được cứu xét với ông Hoàng. Vạn nhất đối phương hoàn thành được võ khí acônít, cán cân thăng bằng trong cuộc vật lộn bí mật sẽ không còn nữa.

Văn Bình chăm chú nghe bác sĩ Trần Ngọc nói khiến tan thuốc S đem rớt đầy ống quần mà chang kỳ ông biết. Ngẫm nghĩ một giây, chàng hỏi:

- Có phương thuốc nào giải độc acônits không?

Bác sĩ Ngọc đáp:

- Có. Mời uống thì có thể pha mù-tạt với nước âm ấm cho bệnh nhân, để giải độc, trước khi chở vào bệnh viện. Nhưng đó là uống ít. Nếu uống nhiều thì vô phương.

Văn Bình châm điếu Salem mới:

- Ở Việt Nam có acônít không, bác sĩ?

Ông Hoàng xen vào:

- Nếu bac sĩ Ngọc trình bày một cách bình dân hơn, có lẽ anh không đặt ra câu hỏi vừa rồi. Xứ ta có rất nhiều acônít. Ai cũng biết nó. Vì nó là Phụ tử.

Văn Bình giật mình:

-Thưa, phụ tử trong thuốc Bắc ấy à?

Ông Hoàng gật đầu:

- Phải. Thầy lang nào của ta cũng từng cắt phụ tử mặc dầu không dám cho uống nhiều sợ công phạt. Ta chỉ nghe nói phụ tử rất nóng, còn nóng hơn quế chi nhiều, chứ chưa biết nó là thuốc độc nguy hiểm.

Từ hai năm nay, cơ quan gián điệp Hoa lục đã bắt đầu nghiên cứu phụ tử.

Văn Bình buột miệng:

- Thảo nào!

Ông Hoàng gật gù:

- Bây giờ anh đã hiểu tại sao tôi lưu tâm đặc biệt tới vụ mất trộm thuốc độc ở Ai Lao.

Văn Bình hỏi:

- Thưa, Quốc tế Đặc vụ chặn bắt thùng độc dược để bán lại cho Trung cộng, phải không?

Ông Hoàng thở dài:

- Tôi chưa rõ. Nếu vậy thì thật là bất hạnh. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng là một vụ chứa đựng rất nhiều bí ẩn. Ngay sau khi chiếc AN-2P mất tích, trung ương CIA đã liên lạc với tôi, nhớ tôi tiến hành cuộc điều tra. CIA nắm được một số đầu mối. Sau khi máy điện tử Intellofax sắp xếp xong tài liệu, tôi sẽ chuyển đến tay anh.

Tiếp theo CIA là văn phòng đặc biệt của phủ Thủ tướng Lào quốc yêu cầu ta giúp đỡ một tay. Dĩ nhiên là ta nhận lời. Nếu họ không yêu cầu, ta cũng lãnh trách nhiệm.

Bác sĩ Trần Ngọc đã ra ngoài không biết từ khi nào. Ông Hoàng lấy trong tủ nhỏ gắn vào tường ra một cái khay bạc, trên để chai rượu buo bông đầy ắp và hai cái ly pha lê. Biết tính điệp viên thượng thặng Z.28, mỗi khi chẳng tới văn phòng, ông thường để giành riêng cho chàng.

Nốc một hơi bal y huýt-ky thơm phức, Văn Bình hỏi ông tổng giám đốc:

- Tôi sẽ phải làm gì, thưa ông?

Mắt ông Hoàng trở nên mơ màng sau làn khói xì-ga Havan:

- Chính phủ Lào chuyển cho ta một bức thư quan trọng do Quốc tế Đặc vụ gửi tới. Họ vừa nhận được trưa qua. Một chuyến máy bay quân sự đặc biệt vừa mang thư này tại đây. Bức thư được gửi bằng đường bưu điện ở Vạn Tường:

Ông Hoàng đẩy lại trước mặt chàng một hồ sơ đánh máy màu vàng, bên trên có hai chữ « tối mật » bằng mực đỏ tươi. Bức thư được đánh máy trên giấy láng, trình bày rất sáng sủa và lịch sự. Ở góc trái, trên cùng, Văn Bình thấy bốn chữ « Quốc tế Đặc vụ » in mực xanh. Nội dung bức thư như sau:

Vạn Tường, ngày… tháng… năm 19…

Kính gửi Hoàng thân Thủ tướng Chính phủ Ai Lao,

Thưa Ngài,

Ngài đã nghe nói nhiều tới chúng tôi, song đây là lần thứ nhát chúng tôi được hân hạnh giao dịch với qui chính phủ, nên tôi mạn phép được tự giới thiệu. Tôi là chủ tịch Quốc tế Đặc vụ, viết tắt QTĐV. Tổ chức do tôi có vinh dự điều khiển được thành lập sau trần đại chiến thứ hai, đặt chi nhánh khắp năm châu, và chuyên về địa hạt điệp báo và thương mãi đặc biệt.

Chúng tôi không giống như Quốc tế Tin tức của đại tá Mỹ A-mết. Chúng tôi cũng không giết người thuê như Mafia, hoặc có khuynh hướng chính trị rõ rệt như đảng Hắc Long ở Nhật Bản và đảng Thanh Long ở Trung Quốc. Phương châm hoạt động của chúng tôi là kiếm ra thật nhiều tiền.

Cơ hội kiếm tiền của chúng tôi đã tới khi qui chính phủ cao chở một thùng thuốc từ Vạt chai đi Đà Nẵng. Năm giờ sau khi chiếc AN-2P của sở Mật vụ Lào bị thất lạc, một số thông tấn xã quốc tế đã hay tin. Ngoài các hãng Tây phương như Pháp tấn xã, Mỹ liên xã và Hợp chúng xã, phải viên Tất của Liên sô và Tân hoa xã của Trung Quốc cũng đã điện cùng khắp thế giới về vụ phi cơ mất tích. Phủ Thủ tướng của quí chính phủ ra một thông cáo đặc biệt nói rằng chiếc AN-2P ngộ nạn trong vùng rừng rú gần Paksé vì hỏng máy, và phi cơ này bị rơi trong một công tác liên lạc thông thường, không dính líu tới bí mật quốc phòng.

Tôi rất buồn khi phải thông báo với Ngài rằng chiếc AN-đã chở một món hàng trọng hệ. Ba nhân viên phi hành đều tử nạn, và thùng thép trên phi cơ đã được mang tới một nơi an toàn.

Chiếc thùng này đang nằm trong tay tôi, nếu Ngài chưa tin, tôi xin liệt kê một số đặc điểm, để ngài tưởng lầm:

Thùng hình vuông, mỗi bề một thước rưỡi, gồm ba vỏ thép, bề dày mỗi vỏ là 15 ly, trên nắp gắn một cái hộp riêng, chứa ba kilo bột G. và ngòi nổ. Hiện hộp nổ này đã được tháo ra và tiêu hủy. Trong thùng có cả thảy 115 kilô dược liệu quốc phòng, chia ra như sau:

- 60 kilô phụ tử, tức là acônít, độc dược mà Trung Quốc đang thí nghiệm để chế tạo một võ khí mới cho cuộc chiến tranh lạnh.

- 10 kilô mã tiền tính.

- 5 kilô xi-Văn Bình-nuya.

- 5 kilô nọc nhện đên Latrodeclus mactans.

- 5 kilô thạch tín và hơi độc ac-xin.

Hai chục kilo còn lại gồm những dược liệu sau đây

- Cà độc dược: dược liệu này dùng để chế atơrophin, một thứ thuốc chữa bệnh hen suyễn và chữa mắt. Cuy-ra: thứ này, dân da đỏ thưởng tẩm vào đầu mũi tên để giết kẻ thù. Trúng độc cuy-ra, nạn nhân sẽ mở mắt, cấm khẩu, cuống họng thở và buồn phổi cứng đờ, và từ 10 đến 15 phút sau sẽ ngạt thở mà chết.

Ngoài ra, còn ba hộp thép nhỏ nữa, mỗi hộp nặng một kilo.

- Hộp thứ nhất đựng nọc độc côn trùng: Hẳn ngài đã biết trên trái đất bẩn thỉu mà ta đang sống này có chừng 800 000 thứ côn trùng, một số hiền, một số độc, riêng giống muỗi cũng có 2.000 loại khác nhau. Ruồi thì có ruồi đồng, ruồi xe xê chích vào nạn nhân bị bệnh ngủ, như ở Phi châu còn có cháy rận thì có thể truyền bá bệnh.

- Hộp thứ nhì đựng độc thảo: Về độc thảo thì nơi nào cũng có, riêng nước Mỹ có tới 525 loại cây cỏ độc khac nhau. Trong hộp này có những loại cỏ đặc biệt như cỏ nhung, cỏ Dônsơn, cỏ Xuđăng, nghĩa là những thứ cỏ ăn chết người. Mặt khác còn một số nắm độc nữa. Trên thế giới có 4.600 thứ nấm thì non nửa là nấm độc, công ty Thần Tiên ở Vạn Tường đã bỏ vào trong hộp một loại nắm độc nhất vô nhị, pha vào rượu uống thơm ngon song giết người rất nhanh.

- Hộp thứ ba đựng nọc rắn: hàng năm chừng 40.000 thiệt mạng trên thế giới vì nọc rắn, mà hai phần ba xảy ra ở Á châu. Diến điện có nhiều nạn nhân nhất, cho nên chúng tôi không lấy làm lạ khi thấy công ty Thần Tiên nghiên cứu nọc rắn. Phải chăng vì Ai Lao ở sát nách Diến điện? Phải chăng vì Trung Quốc có phòng thí nghiệm về nọc rắn?

Thưa Ngài,

Chúng tôi không hề tơ hào tới một li độc dược đựng trong thùng thép. Xin quí chính phủ tin vào sự làm ăn đúng đắng của chúng tôi vì lần này còn lần khác, chúng tôi không muốn mất tín nhiệm đối với khách hàng, nhất là khách hàng nhiều tiền như quí chính phủ và đồng minh Hoa Kỳ.

Tôi xin mạn phép hỏi Ngài một câu: nhân loại sẽ đi tới đâu nếu 115 kilô độc dược này được hòa với nước, trộn với rau cá? Theo chỗ chúng tôi tính, nó đủ sức giết chết 500 triệu người. Bao trận đại chiến xảy ra, nhưng chưa bao giờ có tới mấy chục triệu người chết. Song nếu quí chính phủ qúa hà tiện, hà tiện một cách ngây ngô thì 500 triệu người sẽ chết oan và quí Ngài sẽ phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề trước nhân loại và lịch sử.

Cơn ác mộng sẽ tiêu tan nếu Ngại chịu điều đình với chúng tôi. Vâng, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi sẵn sàng điều đình với quí chính phủ. Tôi sẽ giao hoàn 115 kilô dược tiêu lại cho Ngài nếu Ngài bằng lòng trả cho Quốc tế Đặc vụ một số tiền vỏ nghĩa là hai triệu đô la Mỹ.

Số tiền vàng này sẽ được chuyển vào một trương mục tại Thụy Sĩ (sau đây, xin đính kèm những chi tiết về vụ chuyển ngân). Nếu quí Ngài thỏa thuận, xin liên lạc với chúng tôi trên làn sóng điện 9 kilôxich mỗi đêm vào lúc 10 giờ đúng. Tần số này hiện được cơ quan mật vụ Lào xử dụng, vậy xin Ngài ra lệnh cho tướng Sulivông giành riêng cho chúng tôi trong một thời gian.

Tôi tin quí chính phủ sẽ hoàn toàn đồng ý. Vì nếu Ngài không đồng ý, chúng tôi bắt buộc phải thi hành những biện pháp cứng rắn. Chúng tôi sẽ bỏ thuốc độc chứa trong thùng thép vào các hồ chứa nước. Chúng tôi có nhân viên ở khắp nơi trên thế giới, Vạn Tường, Vọng Các, Ngưỡng Quang, Sài Gòn, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đông Kinh, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, và hàng trăm thị trấn đông dân cư khác có thể được chúng tôi chọn làm mục phiêu. Quí ngài sẽ phải khoanh tay không biết chúng tôi hành động ở đâu.

Vả lại, nếu chúng tôi báo cho quí Ngài biết trước nơi sẽ bị đầu độc, cảnh sát và quân đội được huy động rầm rộ để bảo vệ an ninh sẽ gây ra những chi phí lớn lao, có thể gấp mười, hoặc gấp trăm lần số tiền hai triệu đô la chúng tôi đòi hỏi. Một lần nữa, chúng tôi tha thiết kêu gọi quí Ngài, sáng suốt, đừng để chuyện đáng tiếc xảy ra.

Bức thư này được gửi đi từ rạng sáng 1-6. Ngày 1-6, nó sẽ được tới tay Ngài. Chúng tôi sẵn sàng chờ quí chính phủ cho đến 12 giờ đêm 8-6. quá thời hạn này, không một sức mạnh nào cản trở chúng tôi được nữa.

Lúc Ngài nhận được thư này cũng là lúc Ngài được tin thiếu ta Sim Leng từ trần. Cái chết của thiếu tá Sim Leng là một thiệt hại lớn lao cho chính phủ Lào vì ông ta là một sĩ quan ưu tú về điệp báo. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc, thứ thuốc độc do xí nghiệp Thần Tiên chế tạo. Tôi xin trình với Ngài rằng thuốc độc dùng để giết Sim Leng đã được lấy tại phòng thí nghiệm Công ty Thần Tiên, chúng tôi không hề Sự kiện này chứng tỏ chúng tôi có tai mắt khắp nơi, ngay cả ở một nơi được coi là cán cứ quốc phòng tối mật ở Ai-Lao.

Chúng tôi giết thiếu tá Sim để báo cho quí Ngài biết rằng thuốc độc của hàng Thần Tiên rất bén nhạy. Mặt khác, cũng để cảnh cáo quí Ngài rằng Quốc tế Đặc vụ sẽ không lùi bước trước khó khăn.

Từ nay cho đến khi tôi hậu thư hết hạn, quí Ngài phải ra lệnh cho các cơ quan an ninh trong nước án binh bất động. Nghĩa là sở mật vụ, sở cảnh sát và an ninh quân đội không được áp dụng một biện pháp nào, dầu là tiêu cực hay tích cực, đối với Quốc tế Đặc vụ.

Nếu các điều kiện này không được quí chính phủ triệt để tôn trọng, buộc lòng chúng tôi phải dằn mặt bằng một hay nhiều vụ ám sát chính trị khác nữa. Khi đó nạn nhân sẽ là những nhân vật quan trọng hơn cố thiếu tá Sim Leng của sở Mật vụ.

Trong khi chờ đợi sự xử trí sáng suốt và thông mình của quí Ngài, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi long trọng chuyển tới quí Ngài và chính phủ hoàng gia Lào lời chào quí mến.

Tổng hành doanh Quốc tế Đặc vụ Viễn Đông.

Chủ tịch: Sam Phoun ấn ký.

«««

Văn Bình bâng khuâng buôn lá thư xuống bàn. Mùi xì-gà Ha-van quyện với mùi Salem bạc hà thành một mùi thơm lạ lùng. Văn Bình ngẩn nhìn ông tổng giám đốc:

- Thưa Sam Phoun là ai?

Ông Hoàng chậm rãi đáp:

- Hiện phản gián Mỹ đang truy nguyên căn cước của Sam Phoun. Chỉ biết hắn là chủ tịch phân bộ Viễn Đông.

- Như vậy Quốc tế Đặc vụ phải là một tổ chức hùng hậu. Nếu không họ không dám hoạt động ngang nhiên ở Lào, nhất là chọc tức chúng ta và tình báo CIA.

- Dĩ nhiên. Tôi biết họ có người ở khắp châu Á. Họ liên lạc với nhau bằng làn sóng ngắn, CIA đã khám phá ra tần số, và thu âm được một số mật điện, song chưa tìm ra nghĩa. Hẳn anh không lạ gì cơ quan NASA của Mỹ. Hầu hết mật mã trên thế giới đều bị các chuyên viên toán học cao cấp của NASA chọc thủng. Song NASA phải bó tay trước mật mã của Quốc tế Đặc vụ.

- Thưa, chính phủ Lào nắm được đầu mối nào chưa?

- Có lẽ anh cần hiểu rõ nội tình Lào quốc hơn nữa. Lào chia làm 3 phe, trung lập, hữu hái và tả phái. Tam dầu chế này làm chánh quyền vương quốc bị tê liệt. Vì thế, cơ quan an ninh Lào bị tê liệt do sự tranh chấp giữa 3 khuynh hướng điều khiển. Hoàng thân Thủ tướng đã tiên liệu được sự sa lầy này nên bí mật thành lập tại phủ Thủ tướng một cơ quan đặc biệt, đảm trách công tác mật.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà anh đoán biết, anh chỉ có thể liên lạc công khai với cơ quan an ninh chánh thức mà thôi. Khi nào phanh ra manh mối, sắp đánh ván bài quyết định, anh mới được phép tiếp xúc với phủ Thủ tướng.

- Thưa còn CIA?

Người Mỹ cho biết sẵn sàng nộp hai triệu đô la tiền chuộc. Đối với họ, thì hai triệu chứ hai chục triệu cũng không thành vấn đề. Họ sẽ trả tiền một cách vui vẻ, nếu Quốc tế Đặc vụ bi đánh gục. Tôi đang thường thuyết với họ về một vài chương trình quan trọng. Sự thành công của anh ở Lào sẽ giúp cuộc điều đình của tôi chóng đạt kết quả.

- Thưa, tôi sợ Quốc tế Đặc vụ đánh cắp bớt thuốc độc, trộn bột khác vào thay thế.

- Không sợ. Thuốc độc được niêm phong cẩn thận trong hộp sắt. Muốn lấy ra, phải tháo gỡ các dấu xi, và bẻ 4 cái khóa. Khóa này được chế tạo riêng trong ban Kỹ thuật CIA, nếu không có chìa thì không tài nào mở được. Riêng gỡ ác dấu xi đã khó rồi, vi xi được trộn hóa chất đặc biệt, khiến mọi phương pháp mở tân tiến đều bất lực thuê ở ngân hàng, gồm hai nấc, nấc mở bằng chìa, và nấc mở bằng chữ số.

- Thưa, Quốc tế Đặc vụ có thể khoan dung thùng thép cho ổ khóa bật ra.

- Trong trường hợp này, chất nổ giấu sau ổ khóa sẽ phát ra, độc dược sẽ biến chất. Tóm lại, họ chỉ có thể phá hủy thùng độc dược mà không thể lấy độc dược được.

- Thưa, bao giờ lên đường?

- Trong nửa giờ, phi cơ sẽ cất cánh. Máy bay riêng của ông tùy viên quân sự tòa đại sứ Lào tại Sài Gòn. Gia đình ông tùy viên về Vạn Tường nghỉ phép, anh sẽ đi nhờ. Họ không biết anh là ai. Và anh cũng không cần quen họ. À, còn điều này nữa…

Ông Hoàng mở tập hồ sơ trên bàn, nói tiếp:

- Anh biết cô Quỳnh Loan trong ban Biệt vụ không?

Văn Bình đau nhó như bị đâm kim vào thịt. Dĩ nhiên, chàng phải biết Quỳnh Loan, vì nàng là người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành của Sở. Nhan sắc của nàng đã làm chàng mê mẩn đến mất ăn, mất ngủ. Hơn ai hết, chàng phải biết Quỳnh Loan, nữ điệp viên ưu tú và đa mưu.

Cách đây không lâu, tưởng nàng dễ bảo, Văn Bình lựa lời tán tỉnh. Như chàng tiên liệu, nàng đã đầu hàng nhanh chóng. Chàng đinh ninh nàng rung động trước những thớ thịt rắn chắc, thân hình vạm vỡ, cân đối, khuôn mặt khôi ngô, cặp mắt đa tình, giọng nói quyến rũ, cử chỉ lịch thiệp và… bùa phép ghê gớm của chàng.

Ngờ đâu nàng cho chàng vào xiếc.

Đồng lõa với Nguyên Hương, nàng giả vờ xiêu lòng, rủ chàng đi chơi, rồi lừa chàng bị bắt, khiến Z.28, điệp viên số một của ông Hoàng, tinh hoa của làng điệp báo từng được năm châu kính nể, phải nằm khám một đêm, đánh bạn với rệp và muỗi đói.

Từ bấy đến nay, chàng vẫn chưa hết bực mình. Chàng rình cơ hội trả đũa. Ông tổng giám đốc vừa mạng lại cho chàng một dịp báo thù bằng vàng. Chàng bèn gật đầu:

- Thưa biết.

Ông tổng giám đốc nheo cặp mắt cận thị:

- Ừ nhỉ, tôi suýt quên. Cô Quỳnh Loan đi lừa anh ngủ bót cách đây ba tháng. Đúng ba tháng. Thôi, chuyện cũ xí xóa. Đàn bà nguy hiểm lắm không hiền lành như anh tưởng đâu. Công việc Lào rất tế nhị, anh cần người đủ tài, đủ thủ đoạn phụ tá. Tôi cử Quỳnh Loan làm phụ tá cho anh. Hiện tòa đại sứ khuyết chân tùy viên văn hóa…

Chuông điện thoại reo. Ông Hoàng đưa bàn tay nhăn nheo lên chào Văn Bình. Biết cuộc nói chuyện đã xong, Văn Bình trở ra phòng ngoài.

Quỳnh Loan đón chàng bằng tràng cười ròn rã:

- Chào anh.

Thấy nàng, chàng vừa giận, vừa mừng. Những vết muỗi rẹp đêm: y trong bót cảnh sát rủ nhau đau nhói lại một lượt. Chàng định quắc mắt, mắng nàng một trận cho hả cơn tức, song lại nín thing. Miệng cười hoa nở và luồng nhỡn tuyến quyến rũ của Quỳnh Loan như trận gió nằm mắt rơi thổi vào căn phòng nóng nực. Chàng đành nghiếng đầu cười lại. Lẽ ra, chàng nói « chào em, em đẹp như tiên nữ giáng trần », chàng chỉ lúng túng:

- Không dám.

Chàng chỉ có quyền nói « không dám » vì có Nguyên Hương ngồi bên. Nguyên Hương đã nghĩ và da mưu như Tào Tháo. Nếu chàng đụng tới cô gái hơ hớ Quỳnh Loan, nàng còn làm thái điên bát đảo. Coi bằng đóng kịch « ngoan ngoãn như con cừu non dại» của Thụy Sĩ Lau trọng Lư.

Nguyên Hương đứng dậy, đưa cho chàng cái phong bì màu vàng:

- Đây là giấy tờ cần thiết. Xe hơi đang chờ anh ngoài cửa. Anh đi một mình. Quỳnh Loan sẽ đáp máy bay Air-Vietnam.

Nguyên Hương nhấn mạnh bốn tiếng « anh đi một mình ». Nàng muốn bảo ngầm chàng rằng trong thời gian ở Vạn Tường, léo hánh đến Quỳnh Loan thì ăn đòn.

Quỳnh Loan nhanh nhẩu:

- Nội đêm nay, em sẽ có mặt tại sứ quán. Em mang theo một diện đài cực mạnh. Khi cần liên lạc với Sở anh hãy gọi em.

Văn Bình « vâng » một tiếng cụt ngủn, rồi cất phong bì giấy tờ vào túi. Nguyên Hương nhấc cái va li dưới đất, đặt lên bàn, rồi nói:

- Va li của anh đây. Ban kỹ thuật vừa làm xong, em dặn mạng tới cho anh đúng.

Văn Bình đỡ lấy vái va-li da màu xanh nhạt. Bề ngoài, nó không khác va-li thường, nhưng bên trong lại là kho chứa dụng cụ hành nghề gián điệp. Mở ra, chàng bấm nút, dây thứ nhất bật lên, lộ ra một cái ngăn đựng khẩu súng ngắn tự động Olempích, hai bì đạn mỗi bì mười viên, một chùm chìa khóa đặc biệt, ba cái bút máy Pạc ke giả, chứa thuốc nổ và thuốc mê.

Văn Bình thảo bao da trừu bóng loáng đeo dưới vai, lấy ra một khẩu SM9 ly. Chàng tháo đạn xem xét từng viên, bỏ lại vào bì tung khẩu súng trên lòng bàn tay để ước lượng sức nặng. Ra vẻ bằng lòng, chàng giấu súng vào chỗ cũ, gài nút vét-tông, người tinh mắt cũng không thể nhận ra.

Nguyên Hương lẳng lặng theo dõi cử chỉ của Văn Bình. Khi chàng sửa soạn cáo từ nàng mới mở ô kéo rút ra một cái hộp hình chữ nhật, bên trong có đôi giày màu vàng bằng da lợn. Nàng đưa đôi giày cho chàng.

- Em thấy anh dùng giày mũi nhọn, giày này dạo chơi ở Sài Gòn thì totó, không hợp với đất đỏ lầy lội Vạn Tường đâu. Em nhờ ban Kỹ thuật đóng riêng đôi này cho anh.

Văn Bình bàng hoàng sau khi nhìn kỹ đôi giày. Đế giày được gắn một lớp chì cứng, không káhc giày của giám thị trong khám tử hình Sing Sing bên Mỹ. Còn đặc điểm nữa, mỗi khi ấn mũi giày xuống, lưỡi dao nhỏ xíu, nhọn hoắt nhô ra. Văn Bình xử dụng bàn chân rất tài tình, nhiều lần chàng đã hạ thủ đối phương bằng ngọn cước xuất quỉ nhập thần. Nguyên Hương gãi đúng chỗ ngứa của chàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng, tỏ sự biết ơn.

Chàng muốn ôm nàng hôn nhưng lại sợ Quỳnh Loan cười. Chắt lưỡi, chàng xách va-li ra thang máy.

Xe chạy qua khiêu vũ trường Vieng Ratry. Tài xế chắt lưỡi:

- Trong đó mới có một con bé tuyệt đẹp. Người da trắng, đại ca ạ. Nó nhảy thoát y, trên người không có vết thẹo. Đến nốt ruồi, tàn nhang cũng không có.

Gã Cụt nheo con mắt đĩ điếm:

- Con bé làm nghề cởi truồng ấy, tôi biết rồi. Chú mày cận thị thì phải. Trước khi ra sân khấu, nó trát kem phấn đầy mình, che hết lỗ chân lông, còn thấy quái gì nữa. Sáng sớm, gặp nó, chú mày sẽ giựt mình vỡ mộng. Eo ôi, lỗ chân lông của nó vừa to, vừa sâu, trông như ống nước. Đến cái nách của nó thì hôi không thể tả. Chú mày có biết nó dùng mấy lọ nước hoa một đêm không? Một đêm, cởi quần áo bốn lần, mỗi lần đi đứt một chai Sanen số 5, loại lớn. Bữa nào chú mày thấy hứng, đàn anh sẽ dẫn đến phòng nó. À, phải đeo mặt nọ hơi ngại nghe! Nếu không sẽ tắt thở mà chết.

Tên ngồi cạnh Gã Cụt suýt soa:

- Đại ca tài thật, cái gì cũng biết.

Tư Cụt vênh mặt:

- Chuyện! Vạn Tượng nhỏ như mù soa hỉ mũi, xó xỉnh nào tôi không biết. Vũ trường Vieng Ratry lại là giang sơn của tôi: hàng tuần bà chủ phải biếu tôi một phong bì toàn bạc 500, tụi gái nhảy đều sợ tôi như cọp. Con bé nhảy thoát ở Vieng Ratry còn thua mấy cô ả ở Ernest Outrey về cái khoản vệ sinh.

Rồi hắn nhún vai – cái nhún vai quen thuộc:

- Ồ, đàn anh còn biết nhiều vài cái nữa. Chẳng hạn bọn gái làm dưới quyền ông chủ Simun. Các chú đã gặp con bé cái bụng bằng chét tay, cái ngực to bằng hai quả lê đầy nước, suốt ngày đêm bị cấm cung trong phòng ông chủ chưa?...

Tên tài xế liếm mép:

- Của quí ấy, em không dám. Đứa nào mó vào là bỏ mạng. Ông chủ sai người qua tận Hồng Kông, bỏ ba trăm đô la mua nó về đầy năm ngoái. Còn nguyên, đại ca biết không? Nó mới 14 tuổi. Ông chủ chơi sành lắm. Cái nào cũng mới toanh, chưa cắt chỉ.

Gã Cụt hừ một tiếng:

- Tâm sự riêng với các chú, dừng tâu với ông chủ, nghe không? Một thằng ma cô, bạn thân của đàn anh, đã làm môi giới bán cho ông chủ. Khốn nạn, nó mua miếng thiệt có 50 đô la, mang về Vạn Tượng, cất trong phòn 10000 g đúng một tháng. Trong tháng ấy, đàn anh đã tới ba lần. Ba lần ban đêm. Lần nào cũng ở suốt sắng. Simun cụt một giò nên nhận xét kém trước nhiều.

Tên tài xế trố mắt:

- Em bái phục đại ca sát đất.

Tên thứ hai xen vào:

- Thôi, câm miệng đi, ông nội. Sắp đến nơi rồi.

Dáng điệu khoan khoái, Gã Cụt châm điếu thuốc khác: Hắn khoan khoái vì đã qua mặt Simun. Con người từng được coi là trùm đĩ điếm và buôn lậu trên đất Lào. Simun có nhiều tiền, nhiều bộ ba, còn về mưu mẹo thì vị tất hơn hẳn. Dưới ánh đèn táp lô xanh nhạt, Gã Cụt thoáng thấy nét mặt kính phục của tên tài xế. Xong vụ này, hắn sẽ được năm chục lạng vàng. Hắn cố dồn tiền, gày cơ sở để trong tương lai gần laọi trừ Simun trèo lên bậc chúa đảng ở Vạn Tượng.

Nghĩ vậy, hắn mỉm cười một mình. Chợt nhớ ra, hắn hỏi tên ngồi bên:

- À, quên khuấy đi mất. Tên các chú là gì nhỉ?

Tên lái xe quay lại:

- Em là Ba Mode. Bè bạn gọi em là Blode vì em xử dụng súng Môde rất giỏi. Bắn phát nào cũng trúng, dầu bắn xuôi, bắn ngược, bắn ngồi, bắn nằm, bắn đứng, bắn chạy. Còn thằng ngồi cạnh là đại ca là Tám Răng.

Gã Cụt phì cười:

- Thiếu gì tên mà đặt là Răng?

Tám Răng nhe hàm răng vẩu ra:

- Vì em có bộ răng nhọn và cứng kinh khủng. Khi lâm chiến, anh em thường dùng dao, dùng súng, còn em, em dùng bộ răng. Em chuyên cắn cổ như bẹt giê ấy. Hễ cắn vào là nát họng. Răng em đã uống không biết bao nhiêu máu rồi.

Ba Môde lái từ từ qua khách sạn Constellation sáng rực đèn điện. Hắn nói:

- Em sắp rẽ sang bến phà, đậu trên một quãng tối. Nhà Mila cách đây mấy bước. Chúng em đợi anh ở ngoài. Nếu gặp trở ngại, chúng em sẽ tiếp cứu.

Gã Cụt lại nhún vai:

- Hai chú yên tâm, một mình đàn anh đủ ha một tiền đội súng ống đầy đủ. Trong vòng năm phút, công việc sẽ xong xuôi. Rồi chúng mình qua Chợ Mới kiếm mấy con bò lạc, hú hí một lát chợ sướng.

Gã Cụt nhảy xuống xe. Giết một cô gái yếu ớt như Mila. Hắn thấy dễ dàng như giết con ruồi. Năm phút là lâu nhất, lệ thường hắn chỉ cần một phút. Sở dĩ hắn dặn năm phút vì còn muốn hạnh hạ cô ả rồi mới thủ tiêu.

Hắn bấm đèn trèo lên gác xiên vẹo.

Căn phòng của Mila le lói ánh điện. Hắn vặn nắm cửa. Bên trong có tiếng vọng ra:

- Ai đó?

Gã Cụt đáp:

- Cảnh sát.

Tiếng Mila:

- Các ông tới đây có chuyện gì? Trong nhà không có ai hết.

Gã Cụt quát:

- Mila, mở cửa ra mau.

Không đợi nàng thỏa thuận, hắn vận sức vào một bên vai, xô một cái thật mạnh, cánh cửa mỏng bật tung ra. Trong phòng, đồ đạc, chăn gối bừa bộn. Mila đang loay hoay với chiếc va li mở nắp. Có lẽ nàng đang dọn nhà.

Mila vờ lấy cái khăn bông, định quấn ngang bụng, song Gã Cụt đã giựt lại. Mila trần truồng đẹp gấp mười lần Mila mặc quần áo. Hắn đã tới xem Mila thoát y nhiều lần ở nhà hàng Vieng Ratry, song trên sân khấu nàng còn dán hai đồng tiền bằng giấy đỏ ở ngực, và bên dưới một cái mù soa cũng màu đỏ ba góc.

Trước mặt hắn đêm nay, nàng khỏa thân hoàn toàn. Đúng như thiên hạ ca tụng, người nàng không một vết thẹo, tay chân tròn trịa như nặn, bụng thót lại, ngực nhô ra trong một cử chỉ thách thức dâm đãng.

Thiếu tá Sim Leng mất mạng là đúng. Gã Cụt nổi danh có trái tim sắt đá mà cũng sững sờ.

Mila lấy tay che thân thể trần truồng:

- Trời ơi, Tư Cụt, anh đến đây làm gì?

Gã Cụt cười:

- Hai bàn tay nhỏ xíu thế kia che sao được hết! Bỏ xuống cho rồi.

- Anh ra ngay, nếu không tôi la lên bây giờ.

- Hà, hà, định kêu cảnh binh hà? Khu này làm gì có cảnh binh mà cầu cứu. Vả lại, đêm nay cuối tháng, cảnh sát vừa lãnh lương, phải xuống xóm đập phá đã chứ! Mila ơi, cô nàng đẹp quá!

- Anh muốn nói gì, đợi tôi mặc quần áo đã.

- Mặc làm gì, cứ để thế này đẹp hơn.

Sự thèm muốn làm giảm bớt những tia lửa sát nhân từ trong mắt tóe ra. Hắn bỗng cảm thấy toàn thân nóng bừng như ngồi gần lò lửa.

Lâu lắm, hắn chưa có dịp thưởng thức sắc đẹp quý phải. Cuộc sống nguy hiểm đã làm trái tim hắn kho đét như cây cỏ bên bờ sông Cửu Long dưới mặt trời thiêu đốt. Đột nhiên, hắn rung động lại như hồi trẻ tuổi.

Và trong khoảng khắc, Tư Cụt quên hẵng nhiệm vụ do Simun giao phó: hạ sát người đẹp Mila. Gần Mila, và chiêm ngưỡng của báu độc nhất vô nhị của nàng, hắn mới thấy 50 lượng vàng tiền công còn rẻ. Đem bán nàng cho ngoại kiều cũng được cả ngàn đô la, huống hồ giết nàng… Simun, Gã Cụt chán. Chủ tiệm nhảy Yêu Đương khôn thật…

Tư Cụt đỡ người ngắm Mila … Không những quên nhiệm vụ sát nhân, hắn còn quên luôn nhân viên của Simun, Ba Môde và Tám Răng đang chờ dưới đường.

Lăn lộn nhiều năm trong tình trường, Mila đã nhận ra sự chuyển biến đột ngột trên mặt gã du côn chuyên nghiệp và hung hãn. Nàng biết là pho tượng vô tri giác đã bắt đầu xao xuyến. Tuy còn sợ, nàng không sợ như trước nữa. Nàng hy vọng sẽ dùng nhan sắc thuyết phục được Tư Cụt.

Trong giây phút lạ lùng này, nàng bỗng nhớ đến Sim Leng. Sim Leng, người thanh niên cao lớn, cằm vuông, vai tròn, miệng cười ngạo nghễ, nhã nhặn khét tiếng với phụ nữ, uống rượu Vat như hũ chìm. Vì rượu Vat mà chàng mất mạng.

Tấn thảm kịch đêm ấy hiện rõ mồn một trong trí Mila. Nàng không thể quên được thái độ đau khổ đến bình thản của chàng khi chàng ngã sóng soài trên nền nhà, bọt xùi bên mép. Và chàng nói một hơi:

- Ba… tám… Hãy nghe lời anh trối trăn. Em phải trốn đi. Trốn đi trong đêm nay. Nếu không người Tám Răng sẽ giết em. Ráng nhớ lấy, Mila, nhớ lấy 3…8..

Nghĩa là Tư Cụt đến đây đêm nay để giết nàng. Tư Cụt là kẻ giết người thuê nổi danh ở Vạn Tượng. Hắn phải liên quan đến vụ đầu độc thiếu tá Sim Leng.

Đột nhiên, như được mớm lời, nàng hỏi Gã Cụt:

- Anh giết Sim Leng phải không?

Hỏi xong, Mila mới biết là dại, Tư Cụt có thể giết nàng để giữ bí mật. Vẻ lo lắng, nàng ngó Tư Cụt trân trân.

Song nàng đã đoán lầm. Giết người đối với hắn cũng giản dị và tầm thường như người đói bụng vào tiệm gọi thức ăn. Hắn gật đầu, giọng thản nhiên:

- Phải.

Nàng rú lên:

- Trời ơi, Sim Leng có làm gì anh đâu?

Tư Cụt bùng ngón tay:

- Sim Leng chẳng làm gì anh cả. Vả lại, anh chưa hề quen hắn. Anh giết hắn vì người ta muốn giết. Thế thôi.

- Người ta là ai?

- Em không cần biết. Sim Leng này chết thì hàng chục Sim Leng khác kết bạn với em. Em đẹp như bà tiên, dại gì khóc cho phí nước mắt. Em hãy nghĩ đến mình đi… vì người ta…

- Người ta nhờ anh giết em?

Tư Cụt lại nhún vai, lạnh lùng:

- Phải. Đêm nay, người ta nhờ anh tới giết em. Giết em, giết em, như giết Sim Leng, em nghe rõ chưa?

Mila rùng mình ớn lạnh. Giọng nàng run run:

- Lạy anh, anh tha cho em. Em chưa muốn chết.

Gã Cụt ngồi xuống giường:

- Ừ, nếu anh ghét em, anh đã tặng em nhát dao vào ngực nãy giờ. Gớm, cái ngực em tròn quá, căng quá, đẹp qúa, anh không nỡ đâm được.

- Anh đừng giết em nhé!

- Để anh xem đã. Em dễ thương, anh sẽ xét lại. Nếu em cứng đầu, anh…

- Dại gì cứng đầu với anh. Này anh coi, em dám tiếc gì anh đâu.

Mila ném áo che mình xuống đất. Nàng đứng kiễng chân nghiêng nghiêng trước mặt Tư Cụt, cốt cho hắn thấy những đường cong hỏa diệm sơn của nàng. Mùi nước hoa đắt tiền, mùi da thịt quyến rũ xông vào mũi hắn.

Mắt gã đàn ông tàn phế hoa lên. Da thịt hắn đã nóng tới cực độ. Mila đắm đuối nhìn hắn, rồi từ ngả lên nệm trắng muốt, duỗi chân ra, hai bàn tay kê dưới gáy, tôn hản bộ ngực nguyên tử căng phồng. Gã Cụt đã là chủ nhiều đàn bà, và có thói quen coi đàn bà như cỏ rác. Song đêm nay hắn biến thành tên nô lệ.

Có lẽ vì Mila là người đàn bà khác thường. Mặt đã đẹp, thân hình lại đẹp hơn, dáng điệu còn đẹp hơn nữa. Nhưng cũng có lẽ vì Mila có ngải. Nhiều phụ nữ ở Lào đã dùng ngải yêu để giữ riệt đàn ông.

Gã Cụt loạng choạng đứng dậy. Mila giang cánh tay ra, ôm gã đàn ông xấu xí vào lòng. Trước kia, Gã Cụt đã chết mê, chết mệt vì nữ sắc. Đến khi mất một tay, hắn càng thèm muốn hơn, bao nhiêu cũng chưa đủ. Còn lần bác sĩ nói với hắn là người tàn phế thường thèm ân ái, theo luật thừa trừ của tạo hóa.

Hắn hôn mạnh vào má nàng. Chợt nhìn thấy chai rượu huýt ky, Gã Cụt nhoài tay ra. Hắn nắm chai rượu, ghé cổ chai vào thành ghế sa lông, dằm xuống. Mảnh vỡ rơi tung tóe, rượu chảy ra ồng ộc. Gã Cụt đưa chai rượu nham nhở lên miệng và tu hết sạch.

Nếu có tủ rượu đầy, hắn cũng tiêu thụ hết, huống hồ một chai. Nhất là chai rượu Vat nhỏ xíu. Đối với bợm nhậu, rượu vào là lời ra, song Tư Cụt lại trái hẳn. Càng uống rượu, hắn càng lì lợm, mặt đanh lại như tượng đá. Hắn chỉ có một nhược điểm: thích phá phách. Phá phách không phải vì chếnh choáng hơi men, mà phá phách cho bớt ngứa ngáy tay chân. Hắn khoái nhất là uống rượu bằng cổ chai mỗi khi hẹn hò với đàn bà, và uống xong là ném chai cho vỡ nát. Nghe tiếng cha vỡ, hắn cảm thấy sung sướng tràn trề, hệt như hồi nhỏ hắn được hút thuốc lá lần đầu.

Như thường lệ, hắn giang tay quăng vỏ chai vào tủ gương. Loảng xoảng, tấm gương đắt tiền tan ra thành nhiều mảnh.

Cái tủ gương bằng gỗ bạch đàn, Mila thửa riêng ở Pháp, rồi tháo ra từng mảnh, chở phi cơ về Vạn Tượng. Hàng ngày, ít nhất nàng soi gương 10 lần, chưa kể những lúc trần truồng rượt lại màn múa thoát y khêu gợi.

Mila có hai cái thú: thú ngắm hình truong gương và thú uống rượu Vat. Thấy tủ gương vỡ nát, nàng đau nhói như bị đâm kim vào ngực, song nàng cố nén tiếng kêu trong cổ họng. Chai Vat mà Tư Cụt vừa nốc cạn và ném vỡ cũng là món hàng đắt giá. Vì đó không phải là Vat thường. Loại Vat đặc biệt này được Mila đặt mua từ nguyên xứ, gần 50 đô la một chai nhỏ.

Đúng ra, 50 đô la chỉ là hạt bụi đối với con người kiếm hàng ngàn đô la mỗi đêm như nàng. Song nàng tiếc vì đó là chai rượu Vat cuối cùng. Tuần sau, thùng Vat của nàng mới từ bên kia trời Tây hạ xuống Vạn Tượng bằng phi cơ thương mãi phản lực. Nàng có cảm tưởng là Tư Cụt đã uống luôn hy vọng cuối cùng của đời nàng, cuộc đời bắt đầu xuống dôc nguy hiểm từ ngày thiếu tá Sim Leng thiệt mạng.

Mắt nàng hoa lên. Nàng nằm ngửa, miệng há rộng, nhìn lên trần nhà, ra vẻ mỏi mệt.

Một cặp mắt từ trần nhà nhìn xuống. Cặp mắt nàng không thể nào quên được. Cặp mắt lờ đờ của người sắp bất tỉnh. Cặp mắt lờ đờ của người sắp bất tỉnh. Cặp mắt của thiếu tá Sim Leng trước phút vĩnh biễt coi thế. Nàng có linh tính là đời nàng sắp hết, không sức mạnh nào, kể cả nhan sắc tuyệt diệu của nàng cứu vãn được.

Tưởng nàng ưng thuận, hắn đè nàng xuống:

- Mila, Mila!

Mùi mạctini, mùi huýt ki, mùi thuốc lá tẩm á phiện, mùi hơi thở nồng nặc, tất cả hợp thành một mùi khó tả, phà vào mặt nàng. Nàng ngoẹo đầu sang bên cho khỏi ngạt:

- Đau em quá!

Tư Cụt cất tiếng cười ha hả. Hắn rít lên:

- Mũi dao của anh đâm vào thịt còn đau hơn nhiều. Nào, bây giờ còn đâu nữa không?

Nàng mắt ràn rụa, nàng đáp:

- Không.

Bỗng nàng cảm thấy như bị điện giật. Tiếng chân người dừng trước cửa phòng. Nàng định báo cho Tư Cụt biết song hắn đã nhắm mắt lim dim, bồ hôi đầm đìa trên tấm thân đen đủi, đầy thẹo, đầy lông lá và đầy hình xâm màu xanh.

Cánh cửa bị đạp toang ra. Một tiếng quát dữ dằn nổi lên:

- Ngồi dậy, thằng khốn.

Bản năng của kẻ chuyên nghề vào sinh ra tử bùng dậy trong người. Tư Cụt hất mình sang bên, ngồi thẳng lên. Hoảng hốt, Mila cuộn tròn trong « ga » giường để che thân thể trần truồng.

Gã Cụt khựng người khi nhận ra Ba Môde và Tám Răng. Tám Răng đứng gác ngoài cửa, tay chống nạnh, vẻ mặt kiêu căng và dữ tợn.

Dáng điệu thần phục ngoan ngoãn hồi nãy đã biến mất trên mặt Ba Môde. Tay hắn lăm lăm khẩu súng côn.

Tư Cụt nhận ra tiếng quát hỗn xược của Ba Môde. Hắn đinh ninh Ba Môde bị bức tượng Vệ nữ khỏa thân làm chóa mắt nên nhảy vào tranh phần. Vì vậy, hắn khệnh khạng gạt cái gối tròn văng xuống đất, với ý định cảnh cáo, kèm theo câu nói hách dịch:

- Gì thế các chú?

Ba Môde lạnh lùng ra lệnh:

- Thằng khốn, đứng lên.

Tư Cụt phản đối:

- Ai cho phép các chú gọi đàn anh là thằng khốn?

Tám Răng cười ác độc:

- Cụt ơi, mày ngu như con chó. Mày tưởng bọn tao là đàn em hả? Còn lâu. Chẳng qua bọn tao đóng kịch cho mày xem chơi. Giờ chết của mày tới rồi. Mày theo đạo nào, Phật hay Thiên chúa. Quỳ xuống sám hối rồi ăn kẹo đồng.

Sự thật đã xảy ra một cách quá phũ phàng. Quen với phép đối xử giang hồ, Tư Cụt luôn luôn có tinh thần mã thượng. Mỗi khi đấu dao với kẻ thù, hắn thường mời đầm trước. Hắn không ngờ bọn người giang hồ như hắn đã lừa hắn.

Tuy nhiên, Tư Cụt không phải là kẻ đầu hàng dễ dàng. Cái chết đã là bạn thân của hắn từ nhiều năm nay. Tức lạnh người, hắn vẫn cố nén:

- Hừ, các chú đừng láo. Tôi sẽ mách lại với ông Simun.

Tám Răng ngửa cổ cười sằng sặc:

- Simun, Simun … Cụt ơi, lớn ngần ấy tuổi đầu mà còn ngây thơ như con gái dậy thì. Được mày muốn gì, tao nói giùm với ông Simun cho. Nhưng bây giờ mày phải nghe lời chúng tao. Vì thời giờ eo hẹp, không thể nói chuyện phiếm với mày. Chúng tao sẽ hóa kiếp cho mày nhẹ nhõm, không đau đớn gì hết.

Tư Cụt định nói gì thì Ba Môde gầm gừ, ngoắt họng súng:

- Thằng khốn, giơ hai tay lên.

Mắt đỏ ngầu, Tư Cụt đành bước xuống giường. Ba Môde lại dõng dạc như viên tướng ngòai trận địa:

- Được, mày ngồi xuống ghế, đặt hai tay lên đùi.

Tư Cụt còn trù trừ thì Ba Môde quát lớn:

- Đặt tay trên đùi, nhanh lên và không được nhúc nhích.

Rồi Ba Môde quay lại phía giường:

- Mila!

Thiếu phụ trùm mền kín mít, tường làm như vậy sẽ được hai tên du côn tha tội. Nàng đã lầm. Chúng đến để giết nàng:

Tám Răng lại léo nhéo:

- Mila. Còn đợi gì mà không ngồi dậy cho rồi.

Ba Môde kéo tấm ga tuột khỏi người thiếu phụ. Nàng nằm tô hố dưới ánh đèn sáng quắc. Tám Răng quát:

- Đứng xuống đất, mau lên.

Mila tuân lệnh răm rắp, mặt tái mét. Càng tái nàng càng đẹp, hai tên dao búa ngó nàng trân trân. Trong một cử chị tự vệ thông thường, nàng lấy tay che thân. Ba Môde trợn mắt:

- Bỏ tay xuống. Cứ đứng như thế. Ưỡn ngực ra cho chúng tao thưởng thức. Uổng quá, ngực mày no tròn thế này mà tao bắn vào.

Thiếu phụ rú lên:

- Trời ơi, em có tội tình gì… Các anh tha cho em.

Tám Răng cười điểu giả:

- Tha hả? Mày chỉ có thủ đoạn dâm dục ấy. Lúc nãy thằng Tư Cụt dọa giết mày, mày cũng cởi truồng ôm ấp nó. Bây giờ lại véo von, diễn lại trò nữ sắc. Đừng hy vọng con ạ. Thế nào, mày muốn bị thương ở đâu? Đôi vú mày ngon quá. Để tao ngoạm một miếng.

Tư Cụt xem vào:

- Tụi bay là thằng hèn. Tao khát máu thật đấy, song không khi nào giết đàn bà đẹp. Vả lại trong nghề giang hồ, giết được kẻ cầm khí giớ trong tay mới anh hùng.

Tám Răng nói:

- Câm họng đi. Rồi mở mắt xem tao biểu diễn.

Hắn quay về phía Mila:

- Cô em, tiến lại đây cho các anh ngắm nghía một chút. Gớm, thân thể em trắng quá, rấy máu thật uổng.

Run như cầy sấy, Mila tiến lên một bước. Nàng không dám lấy bàn tay che thân thể lõa lồ nữa. Ba Môde ngoắt miệng súng.

- Cô em biểu diễn vài điệu nhảy giựt gân xem.

Mila lắc đầu:

- Tay chân ríu lại, em không múa được.

Tám Răng cười hềnh hệch:

- Hừ, nếu em không múa tay chân thì múa răng vậy. Em biết hàm răng của anh chứ? Anh cắn nhẹ là đứt cổ. Máu em chắc nhiều chất ngọt lắm.

Mila lại rú lên:

- Em cắn rơm, cắn cỏ lạy hai anh. Hai anh bắt làm gì, em cũng làm.

Ba Môde đằng hắng:

- Thì nhảy múa ngay đi. Phải biểu diễn thật tình tứ như ở trên sân khấu Vieng Ratry vậy.

Nước mắt ràn rụa, Mila uốn éo theo một điệu luân vũ tưởng tượng. Tám Răng khoát tay:

- Không được. Các anh thích em mua bụng và ngáy mông kìa.

Thiếu phụ tuân lời răm rắp.

Gương mặt nàng buồn thảm một cách lạ lùng. Mắt nàng tóe ra một tia lửa ghê gớm. Nếu biết đôi chút võ nghệ nàng đã liều mạng…

Ba Môde đã nghe nói nhều về tài thu hồn đàn ông của Mila, giờ đây mới được mục kích bằng xương bằng thịt. Thân thể nàng uốn khúc mềm mại, uyển chuyển bay bướm như giải lụa đào của những cung nữ tuyệt diệu ngày xưa trong hoàng cung Luang Prabang thầm kín…

Bình tĩnh hơn, Tám Răng đứng khoanh tay, miệng cười lạnh lùng. Hết nhìn Ba Môde, hắn lại nhìn Gã Cụt. Trong cuộc đời trôi nổi, hắn không bao giờ rung động. Hắn chỉ nghĩ đến giết người. Nghĩ đến món tiền thưởng kếch sù mà ông chủ sắp trao cho hắn.

Như thường lệ, ông chủ căn dặn hắn:

- Giao việc này cho chú. Chỉ có chú mới có đủ tài ba và kinh nghiệm. Còn thằng Ba Môde… Nó là đồ bỏ…

Khi ấy, Tư Cụt có cảm giác như muôn ngàn mũi kim nhọn hoắt đang đâm vào da thịt hắn, khiến toàn thân đau đớn lạ lùng. Trong lòng hắn bùng lên một tình thương vô tận. Hắn thấy yêu Mila đằm thắm, sâu xa hơn bao giờ hết. Trong khoảnh khắc hắn quên bẵng Tám Răng và Ba Môde, quên bẵng khẩu súng quái ác đang kè kè bên mình. Hắn chỉ nghĩ đến người đẹp đang bị bọn ngưu đầu mã diện hành hạ.

Toàn thân nóng bùng, Tư Cụt thét lên một tiếng thảng thốt:

- Thôi!

Mila ngừng lại, như bị một mãnh lực vô hình níu cứng tay chân. Nàng đứng thẳng như pho tượng giữa phòng. Một bầu không khí nặng nề đè xuống đầu ba gã đàn ông ngây dại.

Bừng tỉnh mộng, Ba Môde quắc mắt:

- Thằng khốn, tại sao mày phá đám cuộc giải trí của chúng tao?

Gã Cụt nghiến răng:

- Bọn mày là quỷ sứ. Tao không còn bụng dạ nào ngắm Mila múa bụng, ngoáy mông để rồi bị bọn mày hạ thủ.

Tám Răng dằn giọng:

- Nó biểu diễn cho chúng tao thưởng thức, mày chỉ xem « cọp » mà thôi. Đừng giả bộ đạo đức nữa, ráng nhìn cho sướng mắt để chết khỏi tiếc.

Tư Cụt cũng dằn giọng đáp:

- Mày dọa tao vô ích. Bình sinh tao là người không sợ chết. Ngực đây, chúng mày bắn đi! Bọn mày cứ giết quách cho rồi.

Tám Răng nói:

- Hứ, chết đâu dễ dàng như thế. Mày còn bị làm tình, làm tội ê chề rồi mới được tắt thở.

Gã Cụt ung dung không chút sợ hãi:

- Tám Răng, mày chỉ là nhãi ranh, tao đâu sợ. Chẳng qua bọn mày có súng. Nếu tay không, tao chấp cả hai đứa. Tao búng nhẹ là bọn mày bẹp dí như con ruồi chết dưới chân tao đây này…

Tư Cụt đập gót giầy trên nền gác, rồi thản nhiên cúi xuống. Ba Môde và Tám Răng vô tình nhìn theo. Nhưng con ruồi chết bẹp dưới chân Gã Cụt chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Chẳng qua hắn áp dụng một trong các thủ đoạn đánh lừa thông thường của nghề đại bợm.

Vì kém kinh nghiệm, Ba Môde và Tám Răng đã sa bẫy một cách ngây thơ. Bản chất khôn ngoan và bén nhậy, Ba Môde khám phá ra xảo kế của đối phương, song Tư Cụt thi thố một miếng võ cực hiểm khiến hắn xoay sở không kịp.

Trong nháy mắt, Gã Cụt đứng vụt lên, bàn chân phóng ra như tên bắn. Ngọn cước ghê gớm của tên trùm đao búa Vạn Tượng đã phạt trúng cườm tay cầm súng. Khẩu Mode đen sì, lắp ống hãm thanh bằng cao su dài ngoằng, bị đá bật xuống sàn gác kêu lên tiếng khô khan.

Ba Môde chỉ nguy hiểm khi đối với Gã Cụt khi hắn có súng – đặc biệt là có khẩu Mode quen thuộc – trong tay. Mất súng, hắn không phải là đối thủ đồng cân đồng lạng.

Nhưng bên cạnh Ba Môde đang còn Tám Răng nữa. Biết bị lừa, Tám Răng bước trèo sang bên, rút lưỡi dao trong bọc ra, xẹt một vòng trong không trung. Mila rùng mình, đưa tay lên bưng mặt. Nàng sợ đến nỗi quên bẵng chạy trốn.

Gã Cụt không bỏ qua một cử động nhỏ nào của đối phương. Khẩu Ba Môde vừa rớt xuống, Ba Môde toan lượm, Gã Cụt đã nhòai chân hất mạnh vào góc phòng, làm đống ly chai rơi vỡ loảng xoãng. Đồng thời, hắn quay mình về phía Tám Răng.

Mặc dầu chỉ có một tay, Gã Cụt vẫn xử sự như người có thân thể bình thường. Loáng một cái, hắn đã lôi được khẩu Iver Johnson nòng 22 đeo tòn ten dưới nách. Khẩu súng quí báu nằm gọn trong lòng bàn tay sần sùi, hắn nhắm giữa mặt Tám Răng bóp cò. Nếu viên đạn trúng giữa mặt, mũi và miệng Tám Răng sẽ nát ngướu, và Gã Cụt khỏi cần tốn viên đạn thứ hai nữa.

Trong cuộc đời ngang dọc, ít khi Gã Cụt phải dùng viên đạn thứ hai để kết liễu tính mạng kẻ thù. Đạn của hắn được chế riêng, gồm nhiều hột ghém li ti, bắn vào người là phá tung xương thịt như đạn đum-đum. Nòng khẩu 22 cũng là loại đặc biệt, có nhiều rãnh, nên viên đạn được xoáy lông lốc, và xuyên vào mục phiêu giống cái đinh vít.

Biết tài Tư Cụt nên Tám Răng phải nhảy lùi lại một bộ, mặt xanh mét như tràm đổ. Hắn định nhòai mình xuống sàn để tránh đạn, đồng thời phóng lưỡi dao vào họng Gã Cụt. Nghệ thuật chơi dao của Tám Răng đã khét tiếng trong làng ăn chơi Vạn Tượng. Dầu còn thua Tư Cụt, hắn cũng đủ tài hạ đối phương bằng nhát đầu tiên.

Tư Cụt chưa chịu bóp cò ngay. Vì hắn đã nắm chắc trong tay tính mạng của địch. Trước giây phút, hắn thích chơi trò mèo vờn chuột. Hắn nhe hàm răng cải mả cười ềnh ệch khi thấy Tám Răng cuộn tròn người, lăn lông lốc trên nền gác:

- Ha, ha, mày định trốn đi đâu?

Bàn tay Tám Răng run run, cán dao dính cahựt vào hổ khẩu như bị từ thạch thu hút.

Ba Môde lồm cồm bò dậy, hai chân lảo đảo, đứng không vững. Giọng Gã Cụt rít lên:

- Nhắm mắt lại cho khỏi thấy nòng súng của đàn anh. Chú em Ba Môde ơi!

Tư Cụt quay khẩu súng một vòng trên tay, rồi nhả đạn. Con vật hy sinh đầu tiên là Tám Răng. Vừa bắn, Tư Cụt vừa rủa:

- Thằng hỗn xược. Mày phải lên thiên đường trước.

Cổ nhân có câu « mưu sự tại nhân, thạnh sự tại thiên », Gã Cụt là người Lào nên càng tin hơn vào định mạng. Định mạng đã xỏ ngọt Gã Cụt, khiến viên đạn vị thối. Một tiếng « cấc » nho nhỏ nổi lên rồi câm bặt, viên đạn khốn kiếp không chịu nổ toang và cắm vào giữa mặt Tám Răng.

Khẩu Iver Johnson của Gã Cụt thuộc loại 57 rulơ chứa được 8 viên đạn. Loại này không gây khó khăn cho người bắn mội khi đạn hốc. Bởi vậy, Gã Cụt không biến sắc khi thấy Tám Răng chưa chết. Thái độ bình tĩnh khác thường, hắn bóp cò lần thứ ba. Lưỡi dao sắc như nước của Tám Răng bay vèo qua đầu, Gã Cụt phải thụp xuống suýt nữa mất mảng tóc.

Ba Môde cũng vung con dao nhọn hoắc. Thử dao bấm nút này có cái lưỡi dài thê lê giấu trong cán, đàn anh chị ở Âu châu thường dùng trong các trận sát lá cà, vì nó nhỏ bản dễ cất trong túi áo, lại đâm rất ngọt, ngọt như đâm vào bơ, và rút ra nhiều khi không dính máu mà nạn nhân đã tử thương.

Gã Cụt né sang bên tả, mũi dao của Ba Môde trệch ra ngoài. Hắn ném khẩu súng phân chủ xuống sàn, rồi thuận tay rút lưỡi dao bách chiến bách thắng.

Với con dao cán ngà, dùng lắc biến thành màu vàng rơm này, Gã Cụt đã dọc ngang khắp chốn từ Vọng các tới Vạn Tượng, du đãng Lào - Thái phải vào cụp tai chạy trốn. Kẻ nào gan dạ cũng chịu được vài ba phút đọ dao là cùng, vì trong tay Gã Cụt con dao trở nên một làn chớp xẹt sáng quắc, tóe hào quang tứ phía, đụng vào đâu là máu chảy, thịt rơi đến đấy. Có lần xung đột với ba tên anh chị ở Nồng Khai, trước sự chứng kiến của làng du đãng địa phương, Gã Cụt trồ tài múa dao, đâm cả ba trong vòng một phút đồng hồ. Kẻ địch bị tử thương mà trên mình không có vết máu. Gã Cụt ung dung ngồi xuống đâtá, mổ bụng từng đứa cắt lấy bộ gan, rồi đốt lửa thui chín đem nhắm rượu. Từ đó, oai Gã Cụt vang lừng suốt giải sông Cửu Long.

Tám Răng thét lên:

- Ba Môde, cẩn thận đấy. Thằng Cụt chơi dao cừ lắm.

Gã Cụt nhảy lùi, miệng bô bô::

- A, bọn mày đã biết ông nội là thần đao thì còn vuốt râu hùm làm gì nữa. Tao tha chết cho hai đứa mày, thôi cút đi cho rảnh mắt. Chắc bọn mày đã nghe tới vụ tao ăn gan ba thằng anh bị hét ra lửa ở Nồng Khai. Bọn mày còn trẻ, gan nướng nhắm rượu tuyệt ngon…

Ba Môde cười nhạt:

- Mày lầm rồi. Hôm nay mày phải chết dưới tay chúng tao… không ngờ mày là đứa lão luyện trong nghề mà bị phỉnh phờ như con nít. Tư Cụt ơi, vểnh tai mà nghe… Ông chủ đấy lừa mày đấy. Mày đầu độc chết thiếu tá Sim Leng nên mày phải chết. Ông chủ sợ mày phản phé, khai tuốt tuột với công an, mày hiểu chưa? Ông chủ lập mưu thuê mày giết Mila, rồi sau đó chúng tao sẽ giết mày… Vì mày tần ngần không chịu hóa kiếp cho nó, buộc lòng chúng tao phải thay đổi chương trình.

Tư Cụt rít lên:

- Thằng Simun phải gió! Nó hứa trả công tao 50 lượng vàng, ngờ đâu lại nuốt lời. Lát nữa, tao sẽ vằm nó hàng trăm mảnh mới nguôi được cơn giận.

Tám Răng cười ồ:

- Ái chà, đòi giết cả ông chủ! Này, tao bảo cho mày biết, ngòai chúng tao ra, đang còn nhân viên khác của ông chủ canh gác bên ngoài. Nếu chúng tao xẩy tay, họ sẽ báo thù, và quăng xác mày xuống sông Cửu Long, biếu tôm cá một bữa no nê… Trừ phi mày hóa thành con muỗi mới đụng được lông chân ông chủ… Mày giỏi võ thật đấy, song võ của mày chỉ là trò cười đối với ông chủ… Về trước khi mời được vào người ông chủ, mày còn phải đánh ngã toán vệ sĩ cừ khôi…

Ba Môde gạt ngang:

- Đừng nói chuyện tầm phào với nó nữa, mất thời giờ vô ích. Bọn mình còn phải xuống xóm uống rượu. Tư Cụt ơi, liệu chống đỡ đi con…

Gã Cụt xoay dao một vòng. Lưỡi dao của hắn dạo hai đối thủ kêu keng keng rợn người, Tám Răng loạng choạng suýt ngã, còn Ba Môde phải níu cánh cửa để khỏi mất thăng bằng.

Gã Cụt phá lên cười:

- Các cháu ơi, đã biết ngón đòn thần sầu của ông nội chưa? Mới nhát mở đầu mà các cháu đã lảo đảo, liệu còn hơi sức đâu chịu được vài ba trăm hiệp.

Ba Môde xông vào giữa làn dao của Gã Cụt đâm chém loạn xạ. Gã Cụt phải né tránh. Hắn ré lên:

- A, cái thằng con nít lại to gan lớn mật.

Nói đoạn, hắn tiến lên hai bước đâm dứ một cái rồi phạt lưỡi dao vào mặt Ba Môde. Ba Môde thoát chết, song Tám Răng lại đâm sầm tới, lưỡi dao xén mất mảnh áo trên vai, kèm theo miếng thịt to tướng.

Mùi máu tanh tưởng làm Tám Răng hăng lên. Hắn xoạc chân lấy tấn, rồi dùng toàn lực đâm vào giữa tim đôi thủ. Gã Cụt nhấc dao lên đỡ.

Choang…

Lưỡi dao của Tám Răng bị mẻ một miếng. Hắn bị bắn vào tường, song không ngã. Ba Môde đã xấn lại, một trân thư hùng diễn ra. Bắn súng đã giỏi, Ba Môde đánh dao cũng giỏi không kém. Đường dao của hắn biến hóa khôn lường, lúc đâm bên tả, khi thọc bên hữu, tưởng như đùa bỡn song rất nguy hiểm. Biết địch không phải tầm thường, Gã Cụt trở nên thần trọng, mỗi miếng đòn đều được tính toán kỹ lưỡng.

Phàm trong đời việc nào cũng phải kết thúc, nên sau năm phút xung đột phần thắng đã nghiêng về phía Ba Môde và Tám Răng. Có lẽ vì thiếu sung lực trước tấm thân nõn nàn của Mila, hồi tối hắn lại say sưa gần hai tiếng đồng hồ với một ả mỹ miều trong phòng ngủ – Gã Cụt không còn đánh đỡ tỉnh táo như trước nữa.

Gã Cụt lỡ một đường dao: Tám Răng phóng thẳng một mũi vào ngực kẻ thù. Vết thương đổ máu như suối. Gã Cụt không rên một tiếng, mặc dầu mặt hơi biến sắc. Ba Môde bồi nhát thứ hai vào cánh tay, Gã Cụt gầm lên như hổ đói, khoa dao như chong chóng, dâm lia lịa vào mặt đối thủ.

Tám Răng lãnh một nhát giữa bụng, ruột gan đổ ra lòng thòng. Một tay bịt chỗ bị đâm, tay kia Tám Răng vẫn chống đỡ gan dạ khiến Gã Cụt phải khen thầm:

- Thằng mọi này giỏi thật.

Gã Cụt lại hở một đường dao khác. Lần này Ba Môde đã chực sẵn nên Gã Cụt vừa mất trớn, hắn đã lọt vào khoảng trống, thúc mũi dao kinh hồn vào ngực gã. Gã Cụt thét lên một tiếng khủng khiếp, loạng choạng một giây rồi ngã vập vào tường.

Tám Răng nhảy xồ lại: lưỡi dao sửa soạn phập xuống nhát kết thúc. Hắn không ngờ Tư Cụt lại có sức chịu đựng dẻo dai đến thế. Hai vết thương vào ngực làm mất motọ lít máu trong khoảng khắc chưa tiêu hủy được nghị lực chống trả của Gã Cụt. Trái lại, Gã Cụt hăng thêm.

Hắn nhỏm dậy như được bà tiên thần diệu cho uống linh đơn. Giọng hắn rền vang:

- Hừ, chúng mày định giết tao!

Tám Răng thọc dao vào cổ Gã Cụt. Gã Cụt vung dao lên đỡ. Sức lực cuối cùng của hắn được thu vào cánh tay gân guốc khiến Tám Răng khựng người một giây, toàn thân rung chuyển vì đâu buốt.

Trên môi Tư Cụt nở lóe một nụ cười kiên bảnh. Tuy nhiên, hắn chỉ cười được một nửa rồi mím lại. Vì Mila nối đuôi Tám Răng phóng tới, Tư Cụt ngả người sang bên để tránh, song lưỡi dao ghê gớm đã ngập vào ngực.

Tư Cụt rú lên, vận bình tấn, rút phăng lưỡi dao ra, rồi ném trả vào đối phương. Ba Môde cúi thụp xuống, mũi dao đâm vào tường kêu keng một tiêng khô khan, rồi rơi xuống đất.

Thế là hết.

Biết sắp chết. Tư Cụt bình thản nhắm mắt lại. Đột nhiên, hắn cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết. Hắn không sợ chết, song không thích chết, vì cuộc đời đối với hắn là thế, dưỡng đầy khoái lạc vật chất. Giờ đây, hắn lại thích chết. Ý nghĩ cuối cùng của Tư Cụt được dành cho tấm thân mỹ miều và trắng nõn của Mila.

Hắn sẽ gặp lại nàng dưới địa ngục. Nếu được ôm nàng vào lòng, thì địa ngục nóng như lò nướng bánh, hoặc lạnh như tảng băng, hẳn vẫn tìm thấy hạnh phúc.

Tư Cụt nằm lăn trên nền gác, mắt mỏ ròng. Dường như kẻ hấp hối muốn nhìn Mila lần chót, để hẹn thầm với nàng. Rồi Tư Cụt nằm ngoẹo đầu, thở hắt ra.

Tám Răng xà xuống, đâm lấy đâm để, Ba Môde can ra:

- Mày làm gì thế?

Tám Răng chọc thêm nhát nữa vào cuống họng rồi mới chịu ngừng dao. Dòng máu đỏ tuôn từ yết hầu nạn nhân tuôn ra. Tám Răng liếm mép:

- Anh cho tôi làm một ngụm nhé.

Ba Môde khoát tay:

- Không được. Phải hạ thủ con bé đã.

« Con bé » là Mila, Ba Môde giựt mình như ngồi trên ổ kiến lửa: « con bé » đã trốn đâu mất. Hắn gọi to:

- Mila, Mila, mày trốn đâu rồi?

Không có tiếng trả lời. Tám Răng tong ra cửa. Thừa lúc ba người quần thảo, Mila đã lẻn ra ngoài hành lang. Song nàng không đi được xa. Nàng sực nhớ tới thân thể trần truồng nên ngần ngừ trong một phút. Thời gian trù trừ này là bản án tử hình đối với người đàn bà còn chút Thiếu Cơ lệ trong lòng.

Lạ lùng thay! Lúc cần che giấu nạng lại phô bày toàn bộ, còn khi phải tranh thủ thời gian để tìm sống nàng lại thẹn thò. Thật vậy, nàng không e lệ, trái lại còn vui sướng khi được cởi quần áo mỗi đêm tại vũ trường Vieng Ratry, trên bục gỗ đánh xi bóng loáng, dưới ánh sáng chói mắt của ngọn đèn pha một ngàn nến, có thể chiếu rõ từng giọt mồ hôi lóng lánh trên tấm thân nõn nà và căng cứng. Tại sang nàng lại e lệ trước hai tên du đãng thô lỗ, còn trước hàng trăm người đàn ông hiếu sắc nàng cười luôn miệng, vui vẻ bỏ hết những mảnh vải cuối cùng, chỉ còn trên mình ba ngôi sao đỏ bằng giấy, nhỏ hơn đồng xu?

Chính nàng cũng không hiểu nguyên nhân.

Ba Môde gầm lên:

- Mila!

Với tấm khăn mỏng trên người, Mila rúc vào can buồng xếp dùng để cất đồ vặt vãnh cuối hành lang. Tiếng kêu của Ba Môde xen lẫn tiếng gió dữ dằn từ ngoài sông Cửu Long thổi vào, thành một âm điệu rùng rợn khiến Mila rợn tóc gáy.

Nàng rúc sâu vào góc, không để ý tới mạng nhện chi chít, tới bày kiến lửa thi nhau bám vào làn da ngon lành của nàng. Bình sinh nàng rất sạch sẽ, Sim Leng đã gọi đùa nàng là phụ nữ Nhật Bản. Vì nàng tắm nhiều lần mỗi ngày, và ưa tắm nước nóng như người Nhật. Đêm nay, nàng nhận thấy xó phòng đen kịt này sạch sẽ lạ thường, còn sạch sẽ gấp chục lần sàn xi bóng loáng của vũ trường mà theo lệnh nàng hai nhân viên Vieng Ratry phải lau cho đến khi biến thành gương soi trước khi nàng tiến ra nhảy thoát y.

Nàng lại sợ chuột hơn mọi vật trên đời. Vạn Tượng là một trong những thị trấn mà chuột mượn làm quê hương nên nàng hết sức thận trọng. Tuy vũ trường Vieng Ratry thuộc loại tân tiến, trần thiết sang trọng, toàn khách thượng lưu, nàng vẫn có ấn tượng là có chuột.

Mỗi khi trình diễn, nàng thường yêu cầu một người chực sẵn để đuổi chuột, mặc dầu từ nhiều tháng nay chưa thấy con nào. Có lần nàng hoảng hốt bỏ chạy ra đường, quên mặc quần áo vì một ông khách hâm mộ thất vọng đã bỏ con chuột giả bằng nhựa ở gần cây đàn dương cầm, bên dưới sân khấu thoát y vũ.

Tiếng chuột đua nhau kêu chin chít trong buồng xép. Chuột cha, chuột mẹ, chuột con, chạy rần rần. Một con chuột đồng kếch xù nhảy vào lòng nàng, làn da lành lạnh gớm ghiếc xông lên một mùi lợm mửa. Song Mila không cảm thấy lạnh và lợm mửa. Ngũ quan hàng căng thẳng đến cực độ. Nàng nghe thấy, ngửi thấy, cảm thấy thần chết đang tiến vào căn phòng chật hẹp.

Qua tiếng chuột điếc tai, nàng nghe rõ ràng chân người dẫm ngoài hành lang ẩm mốc. Nàng lại run như cầy sấy.

Tám Răng dừng trước cửa phòng:

- Lạ nhỉ, nó không mặc quần áo, tất không dám xuống nhà… Hay là….

Ba Môde vỗ đánh đét vào vai Tám Răng:

- Đúng rồi, con bé trốn trong này.

Tám Răng cười hềnh hệch:

- Được để nó cho tôi.

Ba Môde đạp toang cánh cửa ọp ẹp:

- Mila.

Mila thu nhỏ thêm nữa, và cố nén thở. Nàng hy vọng hai gã đàn ông chỉ hỏi bâng quơ rồi tới phòng khác. Nàng không ngờ Ba Môde đánh hơi rất giỏi. Hắn chĩa đến bấm vào xô buồng, giọng dữ tợn:

- Mila, tại sao mày câm miệng?

Biết trốn không thoát, Mila phải lên tiếng:

- Eeeemmm… đây.

Tám Răng quát lớn:

- Đồ khốn nạn. Mày làm chúng ông tim học mắt mới thấy.

Hắn nắm tóc nàng, lôi sềnh sệch ra ngoài như bị gạo. Máu điên sôi sùng sục, Ba Môde đạp mạnh vào lưng nàng. Nàng ngã chùi, mặt đập xuống đất, máu tuôn đầy miệng.

Tám Răng kéo tay nàng ngồi dậy. Sự cọ sát của làn dao làm hắn bàng hoàng. Tia lửa dâm dục tỏa ra ngoài mắt, hắn xà xuống, sửa soạn ôm ghì lấy nàng. Đoạn được phản ứng của bạn, Ba Môde với chĩa súng vào đầu Mila, bóp cò.

Nàng quẫy mình, xô Tám Răng. Vì thế viên đạn quái ác trượt ra ngoài. Ba Môde nã thêm phát nữa. Trúng đạn, Mila quằn quại trong vũng máu.

Đột nhiên, Ba Môde khựng người. Hắn vừa nghe tiếng động khả nghi. Tám Răng cũng nghe tiếng động lạ lùng này. Hắn đứng vùng lên, tay nắm chuôi dao. Ba Môde nói nhỏ:

- Có người mày ạ.

Ba Môde thoáng thấy một bóng người cao lớn nhô khỏi thang gác. Hắn giơ súng lên, bóp cò lia lịa.

Bóng người cao lớn là Văn Bình.

Văn Bình xô Thiếu Cơ ngã xuống. Đồng thời, chàng cũng nép mình vào tường.

Đoàng, đoàng, đoàng, ba phát súng nổ liên tiếp, lửa màu da cam sáng rực hành lang tối om, chi chít màng nhện.

Nhìn cách bắn, Văn Bình biết đối thủ là tay cự phách trong làng tác xạ, tuy nhiên chưa giàu kinh nghiệm chiến trận như chàng. Kẻ giàu kn không dại dột bắn trước trong bóng tối, vì tia lửa từ họng súng tó era sẽ giúp địch khám phá mục phiêu.

Không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở, Văn Bình bắn trả, nhưng vừa bóp cò xong chàng nằm rạp xuống sàn gác. Hai phát súng khác nổ ròn, do hai khẩu súng lục khác cỡ, 7, 65, và 9 ly. Chàng bò tới vách tường thẳng gốc thước thợ với hành lang. núp ở đây, chàng không sợ địch thấy.

Chàng nghe tiếng chửi rủa tục tũi, rồi súng lại nổ. Tám Răng quát to:

- Đồ hèn. Có giỏi ra đây đấu súng.

Văn Bình mỉm cười trong bóng tối. Chàng biết ngay đối phương không phải là nhân viên điệp báo già dặn. Căn cứ vào âm thanh, chàng có thể nã đạn trúng địch dễ dàng. Song chàng chỉ muốn làm địch bị thương, chứ chưa muốn giết. Vì vậy, chàng hạ thấp nòng súng.

Tám Răng đang nói lảm nhảm thì viên đạn của Văn Bình đã xoắn vào vai hữu.

Hắn rú lên, ngồi bệt xuống. Ba Môde, khôn ngoan hơn, lùi vào tường, vận con mắt cú vọ nhìn xuyên qua màn tối. Một ý nghĩ thoáng qua ô hắn rút túi lấy bật lửa, ném xuống đất. Mục đích của hắn là đánh lừa Văn Bình.

Nghe tiếng động khô khan của vật kim khí reo trên sàn gỗ, chàng biết ngay thủ đoạn của địch. Song đó chỉ là thủ đoạn ấu trĩ, chỉ đánh lừa kẻ mới vào nghề. Tương kế, tựu kế, chàng giả vờ bị mắc mưu, bằng cách bắn lia lịa.

Chờ đến phát thứ ba, Ba Môde mới bắn trả. Văn Bình đã cuộn mình nhẹ nhàng ra chỗ khác, đồng thời đặt một viên đạn vào chân đối phương. Một tiếng « ối » nổi lên: tiếng kêu của Ba Môde.

Văn Bình ném khẩu súng vào người địch rồi nhảy chổm lại. Cây thịt trên 70 kilô của chàng đè lên người Ba Môde. Tám Răng ôm vai bị thương lao vào. Ba người vật lộn nhau trong bóng tối.

Ba Môde thét:

- Tám, Tám, dao của mày đâu?

Văn Bình phóng vào giữa mặt hắn. Trúng vào huỵệt Janchu ở nhân trung. Ba Môde bị bất tỉnh tức khắc. Văn Bình chỉ kịp đứng dạy thì đèn điện bật sáng và Tám Răng hươi dao tơi trong một thế đánh tuyệt kỹ.

Chàng lùi lại, vướng chân Ba Môde nên ngã khuỵu. Tám Răng trườn theo, hạ mũi dao xuống đầu chàng. Chàng vội lăn người để tránh, lưỡi dao sắc như nước trượt qua vai, lôi theo măng áo. Tám Răng chưa kịp thu võ khí về, Văn Bình đã phóng vào ngực hắn một ngọn cước nguy hiểm. Đối phương né sang bên, Văn Bình bồi thêm ngọn độc cước thứ hai. Nhiều kẻ có hạng trong làng võ thuật đã kinh hồn tàng dởm vì hai cái đá liên tiếp của Văn Bình. Tám Răng né đã giỏi, song hắn chưa phải là đối thủ cân xứng nên bị đòn vào ức, nằm vật trên sàn.

Văn Bình chỉ cần giáng atémi vào tử huyệt của Tám Răng là kết thúc cuộc đòi ngang dọc của gã du đãng Vạn Tượng. Song chàng lại thu quyền về và quỳ xuống, lật hắn dậy. Mục đích của chàng là dỗ dành hắn để khám phá ra những chi tiết mà chàng chưa biết.

Tám Răng nhe hàm răng nhọn hoắt:

- Mày đừng hòng cậy miệng tao. Chết thì thôi, tao không cần…

Văn Bình cười nhạt, đâm ngón tay vào huyệt trên mặt, Tám Răng rên lên thảm thiết.

Vút…

Một lưỡi dao từ bên hông vèo tới. Văn Bình hụp xuống tránh, và cuộn mình trên nền gác. Ba Môde đã thủ trong tay con dao ghê gớm của Tám Răng. Nếu tránh châm một phân mười tích tắc, Văn Bình đã bị đâm thủng yết hầu.

Ba Môde trườn tới, lưỡi dao lại phạt ngang cuống họng trong đường tơ kẽ tóc. Áp dụng một thế võ bí truyền, Văn Bình ngồi yên, không thèm né, chờ đường dao đến gần mới vung tay gạt. Ba Môde có cảm giác như lúc vào chiếc cam-nhông chở đầy hàng hóa đang phóng trên trăm cây số một giờ. Sức gạt vũ bão của Văn Bình xô Ba Môde bắn vào tường.

Chàng chỉ nghe một tiếng động khô khan rồi Ba Môde de sóng soài, mặt nát bét, chất óc bầy nhầy bắn tung tóe. Văn Bình điềm nhiên đánh vào ngực Tám Răng. Hắn thở dốc ra rồi lịm luôn.

Xong xuôi, Văn Bình phủi tay, ngoảnh lại.

Thiếu Cơ phê bình:

- Pép đánh của anh kinh khủng thật. Em nhận thấy anh giỏi võ hơn xưa nhiều lắm.

Thiếu Cơ phê bình rất đúng. Võ công của chàng đã khác hẳn ngày trước, từ khi chàng hấp thụ được tinh hoa của kiai-ju-su, nịnutsu và thần ảo công. Riêng về thần ảo công, chàng đã tập luyện chuyên cần trong thời gian chán đời, thế phát quy y, trong ngôi chùa hoang ở ngoại ô Vạn Tượng. Nhờ thần ảo công, da thịt chàng có thể cứng như thép, hoặc mềm như bún, lối đánh nhẹ mà nặng, chậm mà nhanh, biến ảo khôn lường, làm đối phương hoa mắt, không tìm ra cách né tránh mà chống trả.

Thiếu Cơ lại có đủ thẩm quyền để phê bình võ công của chàng, vì nàng xuất thân từ một gia đình lẫy lừng về quyền pháp. Không hiểu sao, nàng không theo nghề võ của tổ tiên, mà lại lao thân vào làng ca kỹ.

Biết nàng sắp sửa thở dài chán nản, Văn Bình bèn nhắc tới sự thực phũ phàng:

- Em biết hai người này là ai không?

Thiếu Cơ đáp liền:

- Thủ hạ của Simun.

Chàng định hỏi « Simun là ai », nhưng ngừng bặt. Tiếng rên nho nhỏ từ cuối hành lang vọng ra. Văn Bình thấy cửa buồng xếp vỡ toang, Mila – cô gái thoát y có tấm thân ngàn vàng – nằm sóng sượt trên vũng đỏ lòm. Nàng vừa chống tay ngồi dậy, nhưng kiệt sức ngã vùi, mắt mở rộng ngó thẳng lên trần nhà.

Thiếu Cơ đứng khựng, tay ôm ngực như chính nàng bị thương. Mặt nàng hơi tái, những giọt đua nhau rớt xuống gò má phấn trắng loang lổ. Vẻ buồn rầu vô hạn, nàng cúi xuống:

- Tội nghiệp Mila

Thấy bạn, mặt Mila bỗng sáng lên cặp môi mấp máy. Thiếu Cơ quỳ xuống, giọng tha thiết:

- Mila nhận được chị không?

Mila gật đầu nhè nhẹ. Nàng muốn nói song vết thương ở cuống họng trào máu ra như suối. Văn Bình biết nàng không còn sống bao lâu nữa. Thiếu Cơ hỏi chàng:

- Mang đi bệnh viện, liệu cứu được không anh?

Chàng lắc đầu thở dài:

- Không hy vọng. Bị hai phát đạn, phát thứ nhất vào ngực đủ nguy tính mạng, phương chi còn phát thứ hai vào yết hầu. Mắt đã lạc thần, trong vài phút nàng sẽ tắt thở. Em hãy hỏi gặng xem nàng muốn trối trăng điều gì không?

Thiếu Cơ ghé miệng vào tai Mila:

- Bọn tay sai của Simun giết em phải không?

Mila lại gật đầu. Văn Bình xen vào:

- Tại sao?

Mila lặng thinh. Hơi thở của nàng đã đứt quãng. Một giọt lệ pha máu ứa ra bên khóe mắt của nàng. Trước phút vĩnh biệt cõi đời, khuôn mặt của Mila trở nên nghiêm nghị lạ thường. Nhìn nàng khi ấy không ai ngờ nàng là vũ nữ thoát y, chuyên nghề cởi quần áo mỗi đêm.

Biết nàng sắp nói những lời quan trọng, Văn Bình và Thiếu Cơ đều cúi xuống, mặt sát vào đôi môi mấp máy. Văn Bình hỏi gặng lần nữa:

- Tại sao Mila bị giết?

Giọng nàng thều thào, tiếng còn tiếng mất:

- Em không biết… Có lẽ vì…

Thiếu Cơ thúc giục:

- Vì ai?

Mila hắt ra một tiếng ngắn:

- Sim Leng

Văn Bình lập lại:

- Thiếu tá Sim Leng?

- Vaang…

- Ai ra lệnh giết?

Mila muốn nói những lưỡi đã cứng lại. Văn Bình vỗ về:

- Ráng nói đi, Mila. Chúng tôi sẽ trả thù cho Mila.

Nước mắt chảy đầm đìa, nàng lắp bắp:

- Si…mun… Simun ra lệnh giết.

- Tại sao Simun ra lệnh giết?

- Khoooooong bieeet… Sim chết… nói với em..

- Nói những gì? Mau lên, Mila …

- Ba… Tám…

Văn Bình giật mình:

- ba tám, ba tám là gì, hả Mila?

Đột nhiên, Mila khỏe hẳn như mỗi đêm trước giờ trình diễn trên sân khấu Vieng Ratry uống một hơi hail y Vat pha sôđa, nhắm với trái ô-liu màu xanh, màu hy vọng.

Nàng nói luôn một hơi trơn tru:

- Em không hiểu. Trước khi bị Tư Cụt đầu độc chết, Sim dặn em trốn đi và nhớ lấy « ba tám ». chị Thiếu Cơ ơi, báo thù cho em.

Mila ngoẹo cổ sang bên, mặt xám ngoẹt. Nàng đã thở hơi cuối cùng.

Tiếng chuột kêu chin chít, tiếng dơi đập cánh phành phạch đột nhiên im bặt. Thậm chí tiếng gió reo vù vù trên nóc nhà cũng im bặt. Toàn thể tiếng động trong vũ trụ đều rủ nhau im bặt. Trong giây đồng hồ thiêng liêng ấy, hồn Mila từ từ bay lên không gian…

Thiếu Cơ bóp chặt bàn tay của Mila, dường như không tin rằng bạn nàng đã chết. Đến khi thấy Mila nằm thẳng băng. Thiếu Cơ mới hoảng hốt thét lên:

- Mila, Mila chết rồi ư?

Rồi nàng bưng mặt khóc hu hu như đứa trẻ.

Tuy có trái tim thép nguôi, Văn Bình cũng xúc động. Chàng nghiêng đầu chào Mila lần cuối. Trong vũng máu đỏ lòm, nàng vẫn đẹp. Có lẽ nàng đẹp hơn khi còn sống. Tạo hóa chỉ có thể nặn được một thân thể cân đối và khêu gợi đến như Mila là cùng…

Chàng đặt tay lên vai Thiếu Cơ, giọng an ủi:

- Thôi, chúng mình về đi.

Thiếu Cơ mếu máo:

- Còn xác Mila?

- Lát nữa, anh sẽ báo tin cho cảnh sát.

Tới phòng Mila, Văn Bình khám phá rat hi thể của Gã Cụt trên mình đầy vết dao. Thiếu Cơ khựng người:

- Trời, Tư Cụt.

Văn Bình hỏi:

- Em quen hắn ư?

- Hắn là hung thần Vạn Tượng, ai cũng biết mặt. Giới vũ nữ và đĩ điếm còn quen mặt hơn vì hằng tháng tiệm khiêu vũ, sòng bạc và nhà chứa nào cũng phải nộp thuế cho hắn. Ai không nôp, hắn đâm chết.

Văn Bình quan sát đồ vật trong phòng Mila. Mùi nước hoa tỏa ra thơm mát. Chàng nói:

- Đêm nay, em về với anh nhé?

Thiếu Cơ lắc đầu:

- Không. Mệt lắm, em phải về ngủ.

Hai người lặng lẽ xuống cầu thang. Đàn chuột đuổi nhau loạn xạ, kêu chin chít rùng rợn.

Trời đã khuya lắm, tuy nhiên xe cộ vẫn còn nhiều. Văn Bình nắm vai Thiếu Cơ:

- Anh đưa em về nhà.

Nàng gỡ tay chàng ra:

- Để em về một mình.

- Em cẩn thận đấy. Họ có thể giết em được nếu biết em đi với anh đêm nay. Em còn nhớ chiết Opel hồi nãy không? Chắc là nhân viên của Simun. Anh có linh tính nếu em về nhà một mình đêm nay họ sẽ giết em.

Thiếu Cơ lặng thinh, lùi lũi đi bên chàng. Văn Bình tiếp:

Anh có phòng ở Seltha Palace. Sáng mai, anh sẽ đưa em lên tòa đại sứ, người Tám Răng lo liệu ngay thủ tục cho em về Sài Gòn. Em phải về ngay.

Thiếu Cơ lầm bầm như người mất trí:

- Sài Gòn, về Sài Gòn! Cám ơn anh, em không về Sài Gòn đâu.

Văn Bình ngạc nhiên:

- Hồi tối em đòi về kỳ được. Em nói nếu được chấp chiếu khác, bảo nhảy vào lửa em cũng làm. Sao không về Thiếu Cơ?

Nàng thở dài đánh sượt, giọng thễu não:

- Anh tha lỗi cho em. Xa quê hương, em muốn trở về, nhưng anh ơi, em đã quen với nếp sống bê tha ở Lào. Hồi tối, em nhớ Sài Gòn lạ lùng, bây giờ hết nhớ rồi.

Văn Bình nhìn thẳng vào mặt nàng. Trong bóng đêm, mắt chàng sáng quắc như chứa hắc quang.

Chàng hiểu Thiếu Cơ hơn ai hết. Nàng là người, yêu quê hương tha thiết. Vì cảnh ngộ éo le, nàng phải lên Lào tha phương cầu thực. Mỗi lần gặp chàng ở Vạn Tượng, nàng đều hỏi thăm Sài Gòn. Lần trước, đang uống rượu với chàng trong một bin-đinh nhìn ra sông Cửu Long, nàng bỗng thở dài:

- Ngày nào cũng ngắm dòng nước đỏ ngầu này, chán chết. Chả bù với nước sông Sài Gòn…

Chàng cười:

- Em lầm rồi. Nước sông Sài Gòn không hơn gì nước sông Cửu Long, đôi khi còn đục hơn nữa.

Chợt nghĩ ra, nàng buột miệng:

- Ừ nhỉ! Nhớ Sài Gòn quá nên em thấy cái gì ở Sài Gòn cũng trong trẻo và sạch sẽ.

Rồi nàng nói luôn một hơi:

- Thật đấy, anh ạ. Nước sông Đồng Nai đầy rác rến, song em có cảm tưởng là sạch hơn ở đây nhiều. Có sống xa quê hương, anh mới thấy nhớ nhung. Lắm lúc, em thèm phát điên một bát phở mà không có. Trên này có nhiều tiệm bán phở Bắc, do người Bắc làm chủ, song không ngon, anh ạ. Kể ra, bát phở cũng chứa ngần ấy gia vị, ngần ấy bánh, ngần ấy thịt, ngần ấy nước dùng, cách nấu phở cũng chỉ ngần ấy, thế mà… Theo em, còn thiếu một gia vị quan trọng: quê hương.

- Trời ơi, Thiếu Cơ sắp thành nhà thơ…

- Xa nhà, ai cũng làm thơ… Anh ơi, vận động với ông đại sứ cho em về đi. Em viết hàng tá đơn mà chẳng được trả lời. Mỗi lần em hỏi thì nhân viên sứ quán lại nói là đơn của em đang đuwocj ở Sài Gòn cứu xét.

Nhớ lại, Văn Bình thở dài nhè nhẹ. Hai người nhìn nhau giây lâu. Thiếu Cơ có cảm tưởng như luồng mắt sáng quắc của chàng soi thấu những ý nghĩ chôn giấu trong óc nàng. Bất giác, nàng rùng mình. Chàng nắm chặt tay Thiếu Cơ:

- Đêm nay, em nên suy nghĩ lại. Anh sẵn sàng giúp em. Một lần nữa, anh khuyên em nên hồi hương vì ở đây địch có thể tìm ra em, và giết em cũng như đã giết Mila.

Nàng nhún vai, giọng chán chường:

- Chết đươc như Mila càng đỗ khổ.

Nghe nàng than thở, Văn Bình lặng thinh. Chàng đã khám phá ra nguyên nhân Thiếu Cơ thay đổi ý kiến. Nàng tự biết nhan sắc đã về chiều, gái giang hồ luống tuổi có thể sinh sống ở Vạn Tượng dễ hơn ở Sài Gòn. Vả lại, dầu còn đôi chút sắc đẹp nàng cũng không về. Vì cũng như hàng trăm người đàn bà đơn chiếc trong nghề buôn phấn, bán hương trên đất Lào híu quạnh, nàng đã dại dột làm quen với thuốc phiện. Văn Bình đã thấy rõ trông mắc lờ đờ của nàng, tròng mắt của kẻ bầu bạn trung thành với ả phù dung.

Trong thâm tâm, nàng muốn theo chàng về khách sạn Settha Palace. Từ lâu, có lẽ nàng chưa được hưởng một đêm ân ái tuyệt diệu. Song sự đòi hỏi của nàng á phiện đã lấn át sự đòi hỏi của xác thịt.

Ánh đèn của lữ quán Constellation hắt vào mặt xanh nhợt của Thiếu Cơ. Nàng đã xảm lồ:

- Em về nhé.

Văn Bình khoát tay:

- Không, để anh đưa em về. Em muốn về đâu?

Chàng gọi tắc xi. Lên xe, nàng nói với tài xế bằng tiếng Lào thành thạo:

- Chợ Chiều.

Chợ Chiều là một khu trong thành phố. Nàng ngồi nép vào góc, không cười nói vui vẻ như trước nữa. Cơn ghiền đang hành hạ cơ thể nàng. Văn Bình lẳng lặng chăm thuốc Salem. Nàng hỏi, giọng ngạc nhiên:

- Ồ, anh vẫn đam mê thứ thuốc lá nhạt nhẽo này ư? Trên này mới có nhiều thứ ngon lắm. Ngon nhất là thuocó lá thẩm á phiện, hút vào tê mê như vừa chích đôlôdan

Văn Bình thở dài:

- Anh mê thuốc Salem không phải vì nó có mùi thơm bạc hà độc đáo, hoặc sợi thuốc nó ngon. Mà vì thói quen đặc biệt. Hồi nhỏ anh là kẻ mỗi ngày hút ít nhất 2 gói Bát tốt xanh. Khi nào ba hút thuocó là anh trốn ra nơi khác, vì mùi thuốc khét lẹt làm anh lộn mửa. Lúc vào trung học, anh càng sợ thuốc lá hơn nữa. Vì anh đọc sách báo, được biết cái hại của thuốc lá. Có lần anh đánh bạo khuyên ông già không nên hút thuốc lá, sợ ung thư phổi thì được trả lời bằng cái mỉm cười. Rồi ông nói « Thuốc lá cũng như tình yêu vậy, có cái dở nhưng cũng có cái hay ».

Thiếu Cơ cười rộ:

- So sánh hay quá!

Tiếng thở dài của Văn Bình não nuột hơn:

- Lớn lên, biết yêu, anh mới thấy ông già nói đúng.

- Trời, con người không tim như anh cũng biết yêu ư?

- Đừng rủa anh, tội nghiệp. Tim anh cũng biểt rung động như mọi người song kinh nghiệm và đau khổ nghề nghiệp đã làm cứng lại. Anh biết yêu lần đầu khi là sinh viên trường Luật, chưa dấn thân vào đời tình báo tàn nhẫn. Em thử đoán xem nàng yêu anh về điểm nào không?

Thiếu Cơ nhún vai:

- Anh mới dở hơi chứ! Đẹp trai, tài hoa như anh thì đứa con gái nào không mê.

Văn Bình lắc đầu:

- Không phải đâu. Nàng yêu anh vì một lý do kỳ quặc. Buồn cười lắm, em ạ, nàng ở lầu hai một tòa nhà kín đáo, giữa khu vườn rộng mênh mông, bọn con trai cùng tuổi anh mê như điếu đổ mà không có cách nào liên lạc với người đẹp. Vả lại, gia đình nàng bắn ná khét tiếng. Cha nàng là nhà thiện xạ bá phát bá trúng. Cậu nào bén mảng vào vườn là anh ruột nàng dùng ná cao su bắn vào chân. Nàng cũng bắn ná cao su cừ khôi.

Hồi nhỏ, anh cũng là quán quân ná cao su. Trong lúc nàng hóng mát ngoài sân thượng một mình, anh bắn thư vào cho nàng. Anh chiếm được trái tim nàng dễ ợt… nàng đẹp lạ lùng, đẹp như toàn thể hoa hậu thế giới hợp lại. Nàng yêu anh tha thiết. Anh đinh ninh sẽ cưới nàng làm vợ, và cuộc đời hai đứa sẽ chảy một nhịp bình thường. Ngờ đâu, định mạng trớ trêu…

Văn Bình ngừng bặt, mắt bỗng dỏ hoe. Thiếu Cơ bóp chặt tay chàng:

- Định mạng trớ trên bắt hai người xa nhau phải không?

Văn Bình lại thở dài:

- Phải, xa nhau, xa nhau mãi mãi. Trong đại chiến thứ hai, nàng thiệt mạng trong một vụ oanh tạc của phi cơ đồng minh.

- Ồ, đó không phải lý do khiến anh mê thuốc lá Salem thơm vị bạc hà.

Giọng Văn Bình buồn tha thiết:

- Bình sinh, nàng rất thích kẹo bạc hà. Mỗi lần hò hẹn với anh, nàng đều ăn kẹo bạc hà, khiến da thịt nàng, tóc nàng, miệng nàng đều thơm mùi bạc hà. Nàng chết đi, mùi bạc hà còn phảng phất trong đám tang lạnh lẽo. Từ đó, anh đam mê mọi thứ có mùi bạc hà, mùi đặc biệt của nàng.

Tuy nhiên, anh mới yêu mùi bạc hà, chưa yêu thuốc Salem. Anh bắt đầu yêu Salem trong trường hợp lạ lùng…

Anh lưu lạc qua Âu châu, hoạt động trong hàng ngũ OSS của Mỹ. Một đêm kia, nhờ điếu Salem, anh thoát chết. Số là đêm đó, anh được lệnh vượt qua phòng tuyến Đức lên Balê, tiếp xúc với một đại biểu của Kháng chiến. Nơi hẹn là một quán cà phê nhỏ ở tả ngạn sông Sen. Dọc đường, anh gặp một thiếu nữ có cặp mắt đen láy, và bàn tay tháp bút trắng muốt giống như cặp mắt và bàn tay của người yêu quê hương. Anh vốn có tính mê gái – một tính rất xấu, chắc em đã biết – nên mỉm miệng cười với nàng, nàng cười trả. Rồi hai người làm quen nhau.

Còn năm phút nữa đến giờ hẹn. Anh định từ giã nàng song nàng cứ níu lấy. Đến gần quán cà phê, nàng nũng nịu đòi anh mua giùm nàng một gói thuốc Salem có vị bạc hà. Hồi đó, nước Pháp bị Đức quốc xã chiếm đóng, hàng hóa khan hiếm, thuốc lá đắt như vàng, huống hồ thuốc Salem của Mỹ.

Anh chạy đôn, chạy đáo mới mua được gói Salem. Có thuốc rồi, nàng vẫn chưa chịu hút. Nàng bắt anh ngồi xuống ghế công viên hút chung với nàng một điếu. Giọng nói của nàng chứa một sức quyến rũ gần như thôi mien làm anh quên hết. Hút xong điếu thuốc nàng mới chịu đứng dậy.

Anh tất tưởi chạy lại quán cà phê. Vừa khi ấy, anh thấy một người mặc com-lê đen bị dẫn ra đường, và đẩy vào xe Citroen. Người mặc com-lê này là đại biểu kháng chiến mà anh có bổn phận tiếp xúc. Do một sự phản bội trong hàng ngũ kháng chiến, cuộc tiếp xúc bị phản gián quốc xã phăng ra, người đại biểu bị bắt. Sau này bị tra tấn tàn nhẫn, Vieng Ratry đã nhảy qua cửa sổ lầu tư xuống đường tự tử.

Thoát chết, anh tìm đến nhà cô gái mắt đen và bàn tay búp măng. Song không bao giờ anh gặp lại nàng nữa. Nàng bị thiệt mạng trong một vụ oanh tạc đồng minh. Như người yêu đầu tiên của anh…

- Rồi từ đấy anh mê thuốc Salem…

- Phải, từ đấy anh mê thuốc Salem…

Tắc xi đậu lại cho Thiếu Cơ xuống.

Nàng chìa má cho chàng hôn, giọng buồn rầu:

- Lâu lắm, em mới được nghe lại một chuyện buồn. Hồi hái ra tiền, em vui suốt ngày đêm, bạn bè trò chuyện với nhau cũng chỉ kể chuyện vui mà thôi. Lên Lào, sống thui thủi một mình, trong cảnh đói rét, tha phương cầu thực, em mới nhớ lại những chuyện buồn của đời em. Anh ạ, yêu là khổ, vì yêu, em phải bỏ xứ ra đi để thành thân tàn ma dại…

Văn Bình an ủi nàng:

- Cuộc đời như nước sông luôn luôn chảy xuôi không bao giờ chảy ngược. Em nên nghĩ đến tương lai… hơn là trách móc dĩ vãng.

Nàng tần ngần một phút rồi nói:

- Anh nói đúng. Sáng mai, em lên khách sạn tìm anh.

Đột nhiên, nàng bậm môi, nhìn vào khoảng không mù mịt. Rồi, như người điên, nàng ôm ghì lấy chàng, hoảng hốt tìm môi chàng, hôn thật laua. Chàng cảm thấy mằn mặn ở miệng. Trong lúc hôn, nàng đã để rơi một giọt nước mắt.

Về khách sạn, Văn Bình bâng khuâng như người đánh mất một cái gì quí giá. Thiếu Cơ không phải là ý trung nhân của chàng, như Nguyên Hương, Thu Thu, Katy hoặc như Mộng Kiều, mà chỉ là một trong những bạn gái thân thiết, đội khi gặp nhau thì ở lại một vài đêm. Hồi nàng còn xuân sắc ở Sài Gòn, chàng trổ tài chinh phục cũng như nhà quán quân leo núi thích vượt qua Hy mã Lạp sơn. Đến khi nàng xuống dốc, Văn Bình cảm thấy có bổn phận an ủi nàng…

Thiếu Cơ đã hôn chàng nhiều lần, lần nào cũng cuồng nhiệt như người đói hôn tử chục nằm trước. Song lần này chàng linh tính dó là cái hôn cuối cùng của hai người đàn bà ngày xưa gục chết dưới đống gạch vụn đầy vỏ đạn.

Như cái máy, chàng vào buồng tắm mở nước đầy bồn. Dòng nước chảy ào ào xuống bể tắm cẩn gạch men xanh dường như có ma lực kéo luôn ưu tư đang chồng chất trong lòng chàng.

Đêm nay chàng phải thức trắng.

Chắt lưỡi, chằng châm điếu Salem thơm mùi bạc hà.

Trong khi ấy, ở khu Chợ Chiều, Thiếu Cơ đi thoăn thoắt vào một ngõ hẹp tối om.

Nàng xô cửa một căn nhà gạch ở cuối hẻm. Một người đàn ông gầy gò, lúcn phún râu mép nhận ra nàng, đon đả:

- À, Tin Cố. Đêm nay sao đến muộn thế? Có khách xộp phải không?

Nàng mỉm cười:

- Ừ.

Nhà dưới được chia làm nhiều buồng nhỏ, ngăn bằng gỗ trước cửa treo riềm đỏ. Mùi á phiện sèo sèo trên đèn dầu lạc xông ra thơm ngào ngạt.

Nàng trèo thang gỗ lên lầu. Một mâm đền riêng được để dành cho nàng. Gã chủ có râu mép kéo riềm lên:

- Này, Tin Cố, lão tây già đang hút dưới nhà. Hồi nãy, hắn đòi gặp em. Em bằng lòng tiếp hắn không?

Thiếu Cơ mường tượng tới một người đàn ông Pháp trên sáu mươi, da sạm lại sau nhiều năm trồng cao su tại thuộc địa, toàn thân nồng nặc mùi mạc tem. Hắn là một trong những người yêu một đêm của nàng. Sắc đẹp úa tàn, nàng không còn diễm phúc được hẹn hò với những chàng trai khỏe mạnh và khôi ngô nữa. Từ nhiều tháng nay, lão tây già lui tới tiệm hút ở Chợ Chiều và kết bạn với nàng. Hơn một lần nằm bên hắn, nạng bị lọm mửa và muốn bật đèn, mặc quần áo, ù té chạy xuống đường, tìm xó tối khóc một hồi cho đỡ tủi. Song lần nào nàng cũng nằm lại trên tấm đệm dầy một tấc.

Vì lão tay già có một cái ví cũng dầy như tấm nệm cao su mút. Mỗi lần đến với nàng, hắn thường cho nàng ba ngàn kíp. Ba ngàn kíp trong cảnh gạo châu và củi quế, một đô la Mỹ trị giá trên ba trăm kíp, là món tiền không lấy gì làm nhiều, nhưng đới với một nhan sắc quá mùa, cũng đã quá nhiều.

Thiếu Cơ lại hết tiền. Món nữ trang cuối cùng, nàng đã đem bán, và sắp tiêu đến đồng kíp cuối cùng:

Gã chủ xun xoe:

- Để tôi mời hắn lên nhé.

Mỗi lần đi khách, nàng thường biếu gã chủ một phần ba. Tam thất chế độ hoa hồng này còn nhẹ hơn tứ lục ở Sài Gòn. Thấy nàng lặng thinh, gã chủ hí hửng toan xuống cầu thang, song Thiếu Cơ gọi giật lại:

- Thôi, đêm nay tôi mệt. Hẹn hắn khi khác.

Giọng gã chủ đượm thất vọng:

- Mai hắn đi rồi. Nữa tháng nữa mới quay lại. Em chịu khó một chút. Nghe nói em hết sạch tiền rồi…

Nàng gằn giọng:

- Hết tiền nhưng vẫn còn đủ trả tiền hút cho anh đêm nay. Phiền anh nói với hắn là tôi không tiếp. Tôi không thích hắn. Tôi ghét hắn, anh biết chưa?

Mắt nàng đỏ ngầu như pha màu. Sửng sốt, gã chủ đứng lại một giây, rồi thở dài bước nhẹ xuống.

Thiếu Cơ nằm xuống đệm, nước mắt ràn rụa. Ngọn đèn dầu lạc nhảy múa trước mắt nàng. Nàng nhớ lại thời xuân sắc huy hoàng, được vương tôn, công tử nghiêng đầu mời nàng trên lên xe hơi bóng loáng, dài ngoằng, có tài xế mặc đồng phục, đội cát két trắng. Nàng nhớ lại những đêm nhảy suốt sáng bên đống vỏ chai sâm banh dầm đá vụn.

Nàng nhớ nhất một đêm mưa sùi sụt, đêm đầu tiên nàng bước chân vào nghề thanh lâu. Hồi ấy, nàng không túng thiếu vì tiền bạc đến với nàng như nước chảy. Không hiểu sao nàng lại nhận lời một người đàn ông lạ mặt.

Có lẽ vì trời mưa đầy đường, phố sá Sài Gòn buồn tênh, chưa đến nửa đêm mà đại lộ Lê Lợi vắng tanh, không lấy một ai. Khiêu vũ từ chập tối, Thiếu Cơ đã thấm mẹt. Nàng cảm thấy mỏi mệt thì đúng hơn. Vì khách nhảy toàn là xe bò nặng chĩu. Nàng chán nản trở về bàn thì gặp một thanh niên phục sức đúng đắn nhưng sang trọng, chứng tỏ đã du lịch nhiều và kiểm tiền cũng nhiều.

Thấy nàng, hắn không đứng dậy, kéo ghế mời nàng như mọi người đàn ông lịch sự khác đối với đàn bà đẹp, phương chi nàng là hoa khôi của vũ trường. Hắn vẫn gục đầu vào ly sâm banh thượng hạng, dường như không thấy, không nghe gì hết.

Mấy phút sau, hắn ngửng lên, giọng ngang tàng:

- Em đẹp như bà tiên.

Quen với lối tán tỉnh hoa mỹ của đàn ông háo sắc, nàng nhún vai:

- Cám ơn.

Hắn tợn thêm một ly rượu rồi nhìn thẳng vào mặt nàng:

- Trời mưa tầm tã, buồn ghê! Tôi có một căn phòng kín đáo, có âm thanh nổi, rượu huýt-ky và hoa phong lan mới mở, mời em đến cho vui.

Thủ đoạn tán tỉnh này đối với nàng đã xưa như trái đất. Lần khác, nàng đã mắng xối xả. Hoặc tặng hắn một cái tát cháy má về tội phạm thượng. Đột nhiên, máu trào lộng sôi sục trong người nàng cười ròn rã:

- Anh muốn rủ tôi ư?

Hắn buông thõng:

- Phải

Nàng nói lơ lửng, không ngoài mục đích trêu tức:

- Tôi đắt lắm, anh ạ.

Hắn thản nhiên rót rượu:

- Bao nhiêu?

Nàng đưa ra một con số kếch sù để tống cổ hắn ra khỏi tiệm nhảy:

- 500.000 đồng.

Nàng đinh ninh hắn sẽ há miệng, trợn mắt, rồi hoa chân múa tay trong sửng sốt. Trái lại, hắn vẫn giữ nét mặt bình thản, bình thản như nhà triệu phú mua hoa cho nhân tình nghe cô hàng hoa nói thách. Một phút sau, hắn hỏi lại:

- Em đòi nửa triệu?

- Vâng. Đúng nửa triệu, không bớt một xu.

- Em nói đùa hay thật?

Dĩ nhiên, ở Sài Gòn, không ai điên cuồng đến nỗi vứt nửa triệu bạc để mua vui trong chốc lát với vũ nữ, nên Thiếu Cơ gật đầu:

- Tôi không bao giờ nói đùa.

Người đàn ông kỳ dzị đứng lên:

- Bằng lòng, mời em ra xe với tôi.

Và đêm ấy, hắn trả nàng nửa triệu bạc đúng như lời hứa. Cầm gói bạc nàng run run suýt ngã, hắn cười nói:

- Tiếc là chúng mình quen nhau hơi muộn.

Nàng không quan tâm đến lời hắn. Một tuần sau, nàng mới biết là hắn đã tự tử sau đêm gặp nàng. Hắn gom góp tiền nong được hơn triệu bạc, định tiêu hất một đêm rồi lìa đời.

Tâm trạng của hắn gần giống như tâm trạng của nàng hôm nay. Nàng chỉ cần hưởng lạc với Văn Bình trong phút chốc, rồi lát nữa, hoặc sáng mai chết không buồn tiếc.

Thở dài, nàng vớ lấy dọc tẩu.

Hút một hơi gần hai chục điếu, nàng nằm ngửa, chân duỗi ra, mắt lim dim nhìn trên trần nhà ám khói. Nàng quên hết quá khú. Nàng quên hết thực tại, nàng có cảm giác lâng lâng được bay trên đám mây trắng toát vang lừng nhã nhạc.

Trong cơn say thuốc đêm mê, nàng không để ý đến riềm cửa được vén lên, rồi một bóng người lom khom bước vào, ngồi xuống bên nàng.

Giật mình tỉnh dậy, thấy người lạ ngồi bên, tưởng lão tây già hiếu sắc nàng gắt:

- Đêm nay, tôi mệt, anh tìm cô khác.

Nàng định nói thêm cho bõ ghét, song bỗng nín bặt. Người lạ không phải lão già triệu phú.

Hắn mặc sơ mi ngắn màu lục, tay chân thô tháp, ngực hở, để lộ cái đầu lâu và hai xương tréo xâm mực xanh.

Hắn trạc bốn mươi, mắt to mắt nhỏ, lông mày sâu róm, mũi bếch, miệng mím chặt như sợ gió thổi vào hàm răng khắp khểnh. Thiếu Cơ định kêu lên, song bàn tay lông lá của người đàn ông đã chẹn họng nàng. Rồi gằn giọng:

- May la một tiếng, tao bóp cổ chết.

Mắt Thiếu Cơ trợn tròn trong sự sợ hãi vô biên. Lát sau, hoàn hồn nàng mới lắp bắp:

- Ông… ông… đến giết tôi phải không?

Hắn cười nho nhỏ

- Không, em đừng sợ.

- Vậy anh vào đây làm gì?

- Yêu cầu cô em nói một đôi lời. Nếu cô em không khai, bắt buộc tôi phải hạ thủ.

Thiếu Cơ đã lấy lại vẻ bình tĩnh và gan lỳ cố hữu. Nàng nói:

- Tôi la lên là lão chủ vào ngay.

- Vô ích. Hắn đã bị tôi trói còng queo và nhét giẻ vào miệng

- Anh còn quên khách hút nữa.

- Ồ, bọn xo vai, rụt cổ ấy đếm xỉa làm gì. Mỗi đứa tôi chỉ cho một búng. Thôi, cô em đừng kiếm cớ hoãn binh nữa. Thằng vệ sĩ đẹp trai của cô em đã ngủ say tại Settha Palace, không ai đến cứu đâu. Biết điều thì khai đi.

Trong giây phút, Thiếu Cơ đã phăng ra sự thật ghê gớm. Nhân viên của Simun đến đây để hạ sát nàng. Tuy nhiên, nàng không sợ cho nàng bằng sợ cho Văn Bình. Ruột gan nàng bỗng nóng như lửa đốt.

Nàng hỏi hắn:

- Khai gì?

Hắn trề môi:

- Ha, ha, cô em ngoan lắm. Mila hấp hối bao lâu?

Thiếu Cơ giật mình. Tại sao hắn muốn biết Mila hấp hối bao lâu? Vốn thông minh, nàng hiểu ngay. Người lạ tìm cách đánh lừa nàng… Nàng sực nhớ lời trăn trối của Mila... ba… tám… ba… tám… Simun cần biết rõ Mila bị hạ sát chết tức khắc hay còn trăn trối với Văn Bình.

Thiếu Cơ bèn đáp một cách khôn ngoan:

- Lúc tôi vào. Mila đã chết.

Người lạ cười hềnh hệch:

- Thế à? Cô em làm việc với ông Hoàng lâu chưa?

Nàng tró mắt:

- ông Hoàng nào?

- Thôi, ông nội, đừng ỡm ờ nữa. Tao đã biết hết. Tao vốn ghét bọn gái giả vờ. Mày không quen ông Hoàng khác nào nói rằng mày chưa ngủ với đàn ông… Hà, hà, nói thật đi con.

Gã đàn ông bắt đầu giở giọng điểu cáng. Thật ra, Thiếu Cơ chỉ quen Văn Bình, chưa từng quen ông Hoàng. Nang không biết ông Hoàng là ai, mặc dầu vẫn nghe tiếng.

Thấy nàng im lặng, hắn bèn đổi giọng ôn tồn:

- Chắc cô em cũng không quen một người đàn ông tên là Văn Bình.

Nàng nhún vai:

- Văn Bình là bạn thân của tôi.

- Vậy cô em là nhân viên của ông Hoàng. Cô em đã báo cáo với Sài Gòn những gì?

- Tôi không hiểu anh định nói gì.

Một cái tát cháy bỏng giáng vào mặt nàng, kèm theo lời hăm dọa cục cằn:

- Đừng giả vờ… Tao sẽ bắn nát xác.

Thiếu Cơ trả đũa:

- Mày bắn đi… Đàn ông to xác như mày mà phải dùng súng mới uy hiếp nỗi phụ nữ ốm yếu.

Gã đàn ông đám vào mặt nàng, máu mũi tuôn như suối. Nàng cắn răng chịu đau, không một lời van vỉ. Trong giới thanh lâu, nàng đã nổi tiếng ngang tàng. Nhiều lần, nàng dám đánh nhau với khách chơi, và nàng đã học được những ngón đòn bí hiểm khiến đàn ông khiếp đảm. Nàng thản nhiên nhìn người lạ, nửa mặt bị tím bầm. Gã đàn ông bồi thêm trái đấm thứ hai, Thiếu Cơ cầm dọc tẩu gạt. Hắn xòe tay định bóp cổ, nàng ôm hắn cấu, xé, cắn.

Gã đàn ông hích cùi tay vào ngực nàng, Thiếu Cơ hự một tiếng, hai mắt nổ đom đóm, tim như ngừng đập, song nhất định không thả người lạ. Nàng ngoạm vào vai hắn, mười móng tay nhọn hoắt cắm trên cổ và thái dương, máu chảy ròng ròng. Gã đàn ông vùng vẫy, dùng độc thủ hạ nàng.

Bị đánh vào yếu huyệt, Thiếu Cơ lịm đi. Gã đàn ông vớ dọc tẩu phang lấy phang để vào mặt nàng cho đến khi nát nhừ. Máu chảy chan hòa trên đệm. Thiếu Cơ lặng lẽ lìa trần bên ngọn đèn dầu lạc. Nàng không chịu khai. Nàng không thèm rên la.

Biết Thiếu Cơ đã chết, gã đàn ông lảo đảo đứng dậy, nhìn đống thịt nhầy nhụa trên san gác, nhổ bãi nước bọt, rồi khệnh khạng xuống cầu thang. Dân ghiền vẫn kéo ro ro êm tai vào nướng thuốc thơm ngát, dường như không quan tâm đến sự việc xảy ra.

Hết chương 4. Mời các bạn đón đọc chương 5!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/39986


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận