Ánh trăng sáng lòa rọi lên thân người, phảng phất như đưa cả hơi lạnh tới. Ở vùng quê hoang vắng này, mặt trăng có vẻ như to khác thường.
Tôi ngồi xuống bên cửa, phiến đá lạnh băng, hơi lạnh thấu tới tận xương. Mới hút được nửa điếu thuốc, tôi chợt thấy tiếng động sau lưng. Ngoảnh đầu lại đã thấy Tử Lam. Ã khoác
áo đứng nhìn tôi dò xét.
Tôi hỏi:
- Sao không ngủ nữa đi?
Tử Lam nhìn tôi xét nét rồi chậm rãi nói:
- A Khang, sao anh không ngủ?
Tôi đau khổ cười:
- Ngủ không nổi.
- Anh buồn ngủ lắm rồi cơ mà!
Tôi đang mãi nghĩ thì Tử Lam bảo:
- Nhưng trên thân Liễu Văn Uyên đâu có thấy?
- Tai sao Liễu Văn Uyên muốn hút máu người, người khác có biết không?
Tử Lam lại lắp bắp:
- A Khang, anh không được nói với ai đấy nhé; nếu Liễu Văn Uyên biết tôi nói với anh, ông ta sẽ giết tôi.
- Sẽ không nói đâu. - Tôi lẩm bẩm, vẫn còn hoang mang không hiểu thết nào.
Dạ Vương thực ra là cái thứ gì vậy? Sự thật này tôi không sao hiểu nổi và cũng thật đáng sợ. Chắc chắn là Tử Lam không nói dối tôi, mọi điều ả nói, khẳng địng là đúng, nhưng tất cà những điều đó thật là khó hiểu.
Tôi bảo:
- Kể tiếp đi, về sao thế nào?
- Người đó... - Mắt ả bổng trợn lên, giọng lạc đi - A Khang, không kể có được không?
- Kể tôi nghe đi.
Âm thanh nghe thấy lúc này hoàn toàn không giống với tiếng còi hụt hơi đó nhưng chẳng hiểu tại sao, tôi cứ cảm thấy chúng cùng một loại.
Tôi lại nhìn Tử Lam, đôi mắt ả đầy vẻ sợi hãi chẳng khác gì con vật nhỏ bé đang bị thú dữ chằm chằm nhìn mình. Tôi thấy hơi nhói đau trong lòng, đập đập vào tay ả:
- Thôi, đi ngủ đi, tôi đi xem một chút rồi về ngay.
- Anh cẩn thận đấy, đừng đến quá gần - Ả dường như sắp bật khóc - Tôi sợ lắm.
- Đừng sợ.
Tôi đi về phía trước, được hai bước lại quay đầu nhìn lại, Tử Lam vẫn đứng trước cửa nhìn theo tôi, người đứng thẳng, hoàn toàn không động đậy. Tôi vẫy tay tiếp tục bước. Âm thanh đó vọng tới, nghe rõ hơn và không còn giống tiếng còi ho8i; chỉ là tiếng rít của không khí phát ra trong đường ống; vừa rền rĩ vừa trầm nặng. Khi mới nghe tưởng như rất xa, nhưng nghe kỹ lại có cảm giác rất gần, gần như ngay dười chân và dễ làm người ta liên tưởng đến hơi thỏ.
Đúng vậy, ở ngay dười chân. đôi chân tôi đã cảm nhận được lòng đất đang run rẩy.
Trong nhà là nền đất, nhiều năm tháng đã qua, nền đất bị giẫm đã chật cứng. Vậy mà gan bàn chân tôi lại cảm nhận thấy nơi ấy đang gợn sóng trồi sụt , tuy biên độ rất nhỏ nhưng có thể cảm nhận rõ. Tôi dường như đang đứng trên lưng một con sâu xanh khổng lồ, con sâu này oằn oại từng cơn.
Liệu tôi có nhầm lẫm, tôi đã đọc được trong một cuốn sách viết rằng: nơi mà lớp vỏ trái đất đang có hoạt động chuyển dịch mạnh mẽ thì những cơn động đất nhẹ kiểu này là chuyện thường thấy. Có lẽ cái làng nhỏ bé Tương Tây này cũng nằm trong vùng thường xuyên xảy ra địa chấn.
Nếu lắng tai, có thể nghe thấy tiếng lao xao rất khẽ xung quanh như tiếng thở của đất. Nhưng tất cả những âm thanh đó chỉ biến nơi này thành tĩnh lặng như trong cõi chết. Những âm thanh đó rất nhỏ nhẹ, thậm chí còn có nhịp điệu, tạo nên sự kỳ bí của đêm đen.
Nhà của Tử Lam hẳn phải ở chỗ cùng làng vì tôi không nhìn thấy mái nhà nào khác. Một con đường vòng qua trước cửa rồi chìm vào cỏ dại cao lút đầu người. Tôi thận trọng bước lên từng bước vì đường làng không được là phẳng bằng xe lu mà do con người đi mãi thành lối mòn. Sau cơn mưa, mặt đường mềm nhão; nếu đi chân trần bùn nhão chắc hẳn sẽ trào qua kẽ chân.
Tôi rẽ cỏ tiến lên phía trước. Bùn dính bám vào đế giày theo từng bước chân làm mất sức nhanh như thể có một sức mạnh bí hiểm nào đó muốn níu chân tôi. Không chút do dự, tôi từng bước, từng bước tiến về phía trước.
Tiếng lào xào bỗng lắng xuống
Tôi cũng đứng sững lại nỗi sợ hãi mơ hồ trào dâng làm tôi chao đảo, chẳng khác gì đang đi đêm trên con đường đá mấp mô, gồ ghề; khi bước lên đoạn đường nhẵn phằng lại có cảm giác không vững nữa.
Tôi rẽ cỏ tiếp tục tiến bước.
Cỏ mọc rất cao che khuất mọi vật trước mắt, nhưng lúc này chắc chắn là tôi đã đến rìa tràng cỏ, phía trước là vùng thoáng đãng. Không chỉ trảng cỏ trên vùng tới đây, cỏ quanh làng cũng tốt um tùm, nhẹ nhàng gợn sóng trong gió đêm; trông giống như đàn động vật nguy hiểm tiềm ẩn. Tôi vươn tay ngắt một lá cỏ đẩm nước mưa, nước dính vào ngón tay đem lại cảm giác giá buốt. Nhưng không hiểu vì lý do gì, trong lòng tôi bỗng trào lên một dục vọng mờ ám.
Có người đến. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi thực sự chẳng muốn bước thêm, cảm thấy như trút được gánh nặng.
Có ba người đến. Người đi trước ăn vận kiểu nông dân. Kẻ đi giữa vạm vỡ, khỏe mạng trên tay cầm chiếc gậy dài bằng sắt có vẻ rất nặng. Người đi cuối cùng vận chiếc áo gió, ăn mặc kiểu tỉnh thành.
Ngoài tôi ra, hóa ra làng Xạ Công vẫn có người ngoài. Mãi đến lúc này, cái thế giới siêu thực như lời đồn đại mới mờ nhạt bớt. Lâu nay tôi vẫn cho rằng cái làng nhỏ bé này là một thế giới hoàn toàn biệt lập.
Bọn họ bước tới trước giếng, người mặc áo gió bỗng nói:
- Thì ra là ở đây.
Người này hạ giọng rất thấp, cổ áo gió dựng đứng che khuất mặt mũi nhưng giọng nói thì nghe quen quen. Tôi chưa kịp nhớ ra là ai thì người mặc bộ đồ thôn quê kia đã nói:
- Ở đây! Chuẩn bị xong chưa?
- Tấn nhiên.
Kẻ mặc áo gió cười, rút một điếu thuốc đưa lên miệng:
- Làm điếu thuốc đã nào!
- Làm việc trước đã - Người cầm gậy nói.
Một tiếng "tách", lửa đã bật. Tiếng bật lửa đó như tiếng chuông đánh thức trí nhớ của tôi. Nhờ ánh sáng bật lửa, tôi nhìn rõ mặt người này, y chính là tay lái buôn đồ cổ có tên Trương Bằng mà tôi gặp trên thuyền.
Sao hắn cũng đến đây? Phải chăng lúc ở trên thuyền, thấy tôi muốn hỏi han về làng Xã Công, hắn tưởng tôi cũng đi kiếm đồ cổ nên đã vội đến trước? Tôi rất giận hắn, nhưng nghĩ đến việc nếu không có cái sơ đồ mà hắn vẽ cho, tôi khó mà đên được làng Xạ Công này nên tôi cũng nguôi ngoai.
Tay vạm vỡ đó lùa cây gậy vào dưới nắp giếng, một tiếng "cheng" phát ra. đó là tiếng va chạm của kim loại, rõ ràng cây gậy đó phải là cây gậy sắt. Hắn dùng sức bẫy lên, cái nắp giếng phát tiếng kêu "két" nhưng cũng chỉ hơi nhúc nhích. Hắn lại nắm lấy cạnh nắp giếng, kéo thử một cái rồi gọi Trương Bằng:
- Đừng phát ra ánh lửa.
Trương Bằng cùng gả nông dân, mỗi người nắm lấy một cạnh của nắp giếng, từ từ nhích từng chút một. Chiếc nắp cọ trên thành giếng phát ra tiếng cọt kẹt như nghiến răng. Bố con nhà A Bảo, như Ôn Kiến Quốc nói, chắc hẳn đã tốn không ít công sức mới mở được cái nắp ấy ra. Trương Bằng làu nhàu:
- Giấu kỹ đấy.
- Bên trong là pho tượng vàng ròng đó? Trong bóng đêm, nhịp thở của tôi cũng gấp gáp thêm.
Trong bóng tối bỗng lại có người nói khẽ:
- Chú ơi, làm thế này không được đâu.
Tiếng nói đó thật đột ngột, lại một người đàn ông mặc áo nông dân bước ra. Giọng nói này rất già. Ánh trăng soi vào mặt ông, có thể thấy rõ những nếp nhăn như vỏ cam héo dồn lại thành đống. Cả ba người kia đều giật mình, buông nắp giếng ra đứng sang một bên.
- A Kim, việc này không quan hệ gì đến anh.
Người đàn ông mặc áo nông dân hạ giọng nói; vừa nghe thấy, tôi liền chột dạ. Giọng trầm nhỏ nhưng như có nam châm, phát âm khúc chiết, tôi không thể tin được giọng nói đó lại có thể từ miệng một người nông dân ở vùng hẻo lánh này. Nếu đó là một phát thanh viên của đài trung ương thì tôi tin ngay.
- Sao lại không quan hệ gì đến tôi, tôi là trưởng thôn, dù thứ bậc trong họ thì chú cao hơn tôi nhưng chú phải nghe tôi.
Khẩu khí của tay trưởng thôn tên Kim đó rất cứng, ông ta lại bước lên một bước nói:
- Trời ơi, các cụ đã bảo rồi, nắp giếng này không được mở, mở ra là sinh chuyện đấy. Dạo trước cả nhà A Bảo mở nắp giếng này đều đã chết ở trong rồi còn gì. Từ hôm đó chú chẳng bảo bọn tôi là không bao giờ được đến gần cái giếng này nữa là gì. Sao chú còn dẫn người lạ lén lén lút lút tới đây mở giếng?
Trương Bằng ngơ ngác nhìn người trưởng thôn rồi nói:
- Liễu Văn Uyên, thế này là thế nào?