Chương 3 Kern tới Prague vào buổi chiều. Anh gởi vali tại nhà ga và đi thẳng tới sở Cảnh sát. Kern không có ý định khai báo nhưng anh nghĩ là cứ tới đó rồi tùy cơ ứng biến. Sở Cảnh sát là nơi tiện lợi nhất cới những người như Kern. Ở đó không có Cảnh sát viên đi xét hỏi giấy tờ.
Kern ngồi trên một ghế dài ở hành lang. Phía trước là phòng ngoại kiều. Anh hỏi một người ngồi bên cạnh:
- Viên chức có râu càm còn ở đây không...
- Không biết. Người này không có râu càm.
- Vậy là đã có sự thay đổi. Họ đối xử ra sao...
- Tàm tạm. Họ có thể cho cậu giấy cư trú vài ngày một cách dễ dàng. Nhưng sau đó thì mọi việc đều khó khăn. Đông lắm rồi.
Kern suy nghĩ, nếu được phép lưu trú vài hôm, anh có thể nhờ ủy ban cứu trợ nạn dân cấp cho một thẻ thực phẩm và cư trú tám ngày. Lần trước, anh cũng làm như thế. Nhưng nếu bị từ chối quyền tạm trú, anh sẽ bị nhốt rồi lại sẽ bị tống ra biên giới.Người bên cạnh bảo:- Tới phiên cậu.Kern nhìn ông ta:- Bộ ông không muốn xin trước sao... Tôi không cần gấp.- Được, cậu chờ vậy.Người đàn ông đứng lên, vào trong. Kern quyết định chờ xem người này được đối xử ra sao rồi mới quyết định. Anh đi qua đi lại, ruột nóng sôi. Cuối cùng, người đàn ông đi ra. Kern vội vã bước mau tới:- Sao... Khả quan không...Mặt người đàn ông sáng rỡ:- Mười ngày. May quá! Và không hỏi han gì cả. Chắc ông ta đang vui hoặc bữa nay ít người. Lần mới đây, tôi chỉ được có năm ngày.- Vậy tôi cũng thử xem.Đúng là viên chức này không có râu càm. Dầu vậy, Kern vẫn nhận ra có nét quen quen. Hay là cũng chính ông ta nhưng đã cạo bỏ bộ râu ấy đi rồi. Ông ta đang mân mê một con dao nhỏ cán ngà và nhìn Kern với đôi mắt vô hồn, mệt mỏi.- Di dân...- Vâng.- Từ Đức tới...- Vâng. Mới hôm nay.- Có giấy tờ gì không...- Dạ, không.Người công chức nghiên đầu xuống. Ông ta gập lưỡi dao vào với một tiếng cách gọn gẫy & kéo lưỡi giữa ra, bắt đầu đánh bóng móng tay cái.Kern đứng chờ. Đối với Kern, dường như cái móng tay của người công chức là vật trân quí nhất trên trái đất này. Kern cố thở nhẹ để khỏi làm phiền và khiến ông ta tức giận.Sau cùng móng tay cũng không còn chỗ nào cần đánh bóng hơn. Người công chức ngước lên nhìn Kern với vẻ thoả mãn:- Mười ngày. Cậu có thể lưu trú mười ngày. Sau đó phải ra khỏi xứ ngay.Thần kinh Kern tự nhiên giãn ra khiến anh tưởng mình sắp té. Tuy nhiên, cũng trong giây phút đó, linh giác chợt loe sáng, Kern chụp ngay cơ hội:- Thưa cám ơn ông. Nhưng nếu ông vui lòng cho thêm năm ngày nữa…- Không thể được. Chi vậy...- Tôi đợi giấy tờ gởi tới sau. Tôi rất cần có một địa chỉ chất định để được đưa tới đó. Sau khi được giấy tờ, tôi sẽ đi qua Aùo quốc ngay.Nói xong, Kern bỗng sợ mọi việc sẽ hỏng vào phút chót nhưng anh nghĩ là mình đã nói dối khá mau và khá giỏi. Kern không bao giờ ưa nói dối nhung anh cũng biết đôi khi nói dối là cần thiết.Người công chức xếp lưỡi giũa vào cán dao.- Thôi được. Mười lăm ngày, trường hợp ngoại lệ. Nhưng sau đó thì không còn gia hạn nữa cả.Ông ta rút một tấm thẻ, bắt đầu ghi vào. Kern nhìn ông ta cắm cúi viết như nhìn một thiên thần. Anh không tin hẳn là lại có thể may mắn đến thế. Cho tới phút chót, Kern vẫn còn sợ ông ta lục lại hồ sơ và biết ra mình đã hai lần trú ngụ tại Prague. Vì vậy Kern phải khai tên khác và đổi luôn ngày và nơi sanh. Nếu bị cật vấn, anh sẽ bảo mình là một trong những người trong họ.Nhưng người công chức đã quá mệt để phối kiểm lại. Ông ta trao thẻ tạm trú cho Kern:- Đây. Còn ai ở bên ngoài không...- Thưa không. Lúc tôi vào, ngoài đó chẳng còn ai.- Tốt.Người công chức rút khăn tay và bắt đầu lau chùi cán dao bằng ngà. Ông ta gần như không để ý tới lời cám ơn của Kern. Trong khi đó, Kern hấp tấp bước ra, như sợ người công chức đổi ý, đòi giấy lại.Kern đi một mạch mãi khi tới lề đường, anh mới đứng lại trước cửa một cửa nhà, nhìn quanh quất! Quả thật có trời! Thế là mình thoát nạn. Trong mười lăm hôm nữa chẳng cần phải sợ ai, mười lăm ngày đầy đặn trong đó có mười lăm đêm yên lành, cả một vĩnh cửu!Xin thượng đế ban phước lành cho người công chức có con dao cán ngà!Một Cảnh sát viên đang đứng gần Kern. Tự nhiên anh cho tay vào sờ mảnh giấy thân yêu. Anh tiến tới trước người Cảnh sát:- Mấy giờ rồi thầy đội...Kern cũng có đồng hồ nhưng đây là cơ hội duy nhất để chứng tỏ anh không sợ Cảnh sát viên. Người Cảnh sát cầu nhàu:- Năm giờ.- Cám ơn.Kern thong thả bước đi. Anh phải cố gắng lắm mới giữ được dáng điệu ung dung, bằng không thì đã chạy như điên.Gian phòng khách to lớn của uỷ ban cứu trợ dân tỵ nạn đã đầy nghẹt những người cũng không ngăn được một cảm giác trần truồng. Đây đó, từng nhóm người xơ xác đứng, ngồi trông thiểu não như những bóng mờ. Gần như không một ai mở miệng. Mỗi người đều đã từng nói đến số phận của mình cả trăm lần. Họ chỉ còn có một khả năng duy nhất là chờ đợi. Đó là bức rào ngăn cách cuối cùng giữa họ và sự tuyệt vọng.Hơn phân nửa những người có mặt đều là dân Do Thái. Ngồi bên cạnh Kern là một người đàn ông xanh mét, trán cao. Trên gối ông ta là một hộp vĩ cầm. Một người khác cũng ngồi bên Kern là một ông lão trán móp với một vết thẹo to. Hai bàn tay ông không ngớt nắm lại rồi mở ra. Kế đó là một đôi thanh niên nam nữ, bấu chặt tay nhau dường như chỉ mọt phút rời ra là họ sẽ bị người ta kéo lôi đi mỗi người một ngả. Cả hai không nhìn nhau nhưng cùng nhìn vào một điểm nào đó trong khoảng không và trong dĩ vãng, ánh mắt vô hồn. Phía sau họ, một người đàn bà to lớn đang khóc lặng. Những giọt nước mắt lăn dài trên má, vòng xuống càm rồi rơi trên áo. Bà ta không để ý và cũng không cố gắng ngăn cảm xúc. Hai bàn tay bà bất động trên hai đầu gối.Trong toàn thể cảnh tượng âm thầm và chịu đựng đau buồn đó, một đứa bé nhởn nhơ đùa nghịch. Con bé khoảng sáu tuổi, linh hoạt, mắt sáng ngời với những lọn tóc đen hết đi nơi này sang nơi khác.Nó dừng lại trước một người trán cao, ngắm nghía ông ta rồi chỉ vào hộp vĩ cầm, hỏi với giọng kể cả:- Ở trong có vĩ cầm, hả...Người trán cao giựt mình, nhìn con bé một lúc dường như chưa kịp hiểu. Rồi ông ta gật đầu. Con bé bảo:- Lấy ra coi.- Chi vậy...- Tôi muốn coi.Nhạc sĩ vĩ cầm ngập ngừng vài giây, mở hộp lấy đàn ra. Cây đàn được bọc trong một lớp lụa màu tím thẫm. Ông ta cẩn thận mở lớp lụa ra.Con bé nhìn cây đàn thật lâu rồi đưa tay nhẹ vuốt dây đàn:- Sao ông không đàn...Nhạc sĩ không trả lời.Con bé lại giục:- Đàn đi!Từ bờ tường đối diện, một thiếu phụ đang bồng một đứa bé sơ sinh, vội vàng gọi:- Myriam. Lại đây, Myriam.Con bé làm như không nghe, nói với nhạc sĩ trán cao:- Bộ không biết đàn sao...- Biết, biết chớ…- Biết thì đàn đi.Nhạc sĩ vĩ cầm bối rối nhìn đứa bé. Bàn tay thành thạo của ông ta bấu chặt cây đàn. Sự chú ý của cả chục người chung quang càng làm ông ta luống cuống hơn. Cuối cùng, ông ta bảo:- Không thể đàn ở đây.- Tại sao... Được mà. Cứ đàn đi, ở đây buồn lắm.Bà mẹ đứa bé lại gọi:- Myriam!Ông lão có thẹo trán lên tiếng:- Con bé có lý. Cứ đàn cho chúng tôi nghe một vài điệu nào đó để khuây lãng đôi chút. Chắc là người ta không cấm đâu.Người trán cao vẫn do dự. Ông ta rút cần cung ra khỏi bao, đưa thẳng lên rồi đặt đàn vào vai. Một âm thanh trong suốt vút lên như xuyên thẳng gian phòng.Kern có cảm giác như một bàn tay nào đó đang tách rời một vật gì đó ra khỏi cơ thể của anh. Kern muốn cưỡng chống lại nhưng không đủ sức. Da anh mọc ốc và như bị điện giựt lướt từng luồng. Nhưng rồi chỉ vài phút sau, anh cảm thấy ấm áp lạ lùng.Cửa văn phòng bỗng mở ra. Người thư ký ló đầu ra. Ông ta bước vào, vẫn để mở cánh cửa văn phòng. Dường như định nói gì… nhưng ông chỉ nghiêng đầu qua một bên tai lắng nghe. Từ từ và không tiếng động, cửa văn phòng khép lại như bởi một bàn tay vô hình.Bây giờ, chỉ còn sự hiện diện duy nhứt của tiếng vĩ cầm. Aâm điệu từ lòng đàn nối tiếp nhau thoát ra tràn ngập không khí nặng nề và vô sinh của gian phòng làm biến đổi tất cả, làm tan chảy nỗi cô đơn thầm lặng của bao nhiêu sự sống còn bé nhỏ đang chập choạng trong vùng tranh tối tranh sáng giữa bốn bức tường để làm thành một đại khúc thương ca xa xứ.Kern bó gối trong vòng tay. Anh gục đầu xuống, thả hồn trôi trên sóng nhạc. Anh có cảm tưởng như đang được một dòng suối cuốn đi, không bờ bến, trở về chính mình hay tới một nơi nào đó hoàn toàn xa lạ. Đứa bé gái ngồi xệp trên sàn nhà, câm lặng và bất động, mắt nhìn chằm chặp vào bàn tay nhạc sĩ.Tiếng đàn chợt im bặt. Kern biết chơi dương cầm và không đến nỗi tệ về âm nhạc để nhìn nhận người chơi vĩ cầm đã đạt tới trình độ điêu luyện.Ông lão có thẹo trán hỏi:- Của Schumann...Nhạc sĩ gật đầu. Đứa bé gái lại hối thúc:- Đàn nữa đi. Đàn cái gì cho vui vui.Bà mẹ đứa bé lại phải lên tiếng:- Myriam!- Được!Người chơi vĩ cầm vừa nói vừa nắm lấy cần cung.Kern nhìn chung quanh. Những cái đầu cúi xuống, những khuôn mặt ngẩng lên… tất cả đều là sự buồn thảm, tuyệt vọng đang được dịu dàng chiếu rọi bởi tiếng vĩ cầm. anh bỗng liên tưởng tới những gian phòng khác mà anh từng trông thấy, cũng đầy kẹt những kẻ bị lưu đày chỉ vì phạm tội được sanh ra và đã sống. Đúng vậy, những sự kiện đó đều có thật và nhưng tiếng vĩ cầm ở đây cũng có thật. Khó mà tưởng tượng được! Đó cũng là một niềm an ủi vô biên đồng thời cũng là một chủ đề trớ trêu chua xót. Kern nhận thấy đầu người nhạc sĩ tựa vào đờn như gục vào vai của người yêu. Mình không thể bị chìm đắm – Kern bỗng tỉnh táo – mình không thể phó mặc cho may rủi bởi vì cuộc sống vừa dịu hiền lại cũng vừa rất dã man. Cuộc sống là gì... Là một âm điệu nhẹ nhàng, một lời mời gọi, một tiếng thét xé rừng hoang, một tiếng gầm chấn động những chân trời xa lạ của bóng đêm quên lãng... Mình chỉ cần biết không thể chết, không muốn chịu chết.Kern bỗng để ý đến sự im lặng trong phòng. Đứa bé hỏi:- Bản gì vậy...Người chơi vĩ cầm đáp giọng khàn khàn:- Những vũ điệu Đức quốc của Franz Schubert.Ông lão bên cạnh cười to:- Vũ điệu Đức! – Ông đưa tay sờ vết thẹo trên trán – Vũ điệu Đức!Người thư ký bật đèn lên:- Xin mời người kế tiếp…Kern lãnh được một giấy tạm trú tại lữ quán Bristol và mười phiếu khẩu phần tại một quán ăn xã hội Wenzeloplaiz. Vừa nhận được các phiếu khẩu phần, Kern tưởng như đói rã ruột đến nơi. Anh băng qua đường gần như chạy vì sợ trễ giờ.Kern không lầm, tất cả các chỗ trong quán ăn công cộng này đều đã có người nên Kern đành chờ. Nhìn qua những người đang nhai nuốt ngấu nghiến, Kern nhận ra một trong những giáo sư đại học cũ của mình. Anh định đến nơi để chào thầy nhưng kịp nghĩ lại, anh đứng yên. Anh đã quá hiểu rằng phần lớn những người tị nạn đều không muốn ai nhắc tới cuộc sống ngày trước.Một lúc sau, nhà vĩ cầm tới, bỡ ngỡ. Kern đưa tay ra hiệu. Nhà vĩ cầm nhìn Kern với đôi chút ngạc nhiên, và từ từ đi tới. Tự nhiên, Kern đâm ra bối rối. Đối với Kern chỉ cần nhìn thoáng qua, nhà vĩ cầm dường như đã quen biết với anh từ lâu, thế nhưng mãi tới lúc này Kern mới nhận ra là cả hai chưa hề nói với nhau lời nào cả.Kern phân giải:- Xin lỗi, lúc nãy tôi đã có dịp thưởng thức tài nghệ của ông. Có lẽ ông chưa quen với tục lệ ở đây...- Vâng, tôi không biết gì cả. Còn cậu...- Tôi thì hiểu rõ lắm vì đã từng đến đây hai lần rồi. Dường như ông rời xứ chưa được bao lâu...- Mười lăm hôm. Tôi vừa mới tới hôm nay.Kern thấy thầy cũ và người bên cạnh đang sữa soạn đứng lên. Anh nói mau:- Có hai chỗ trống. Mình lại ngay.Hai người len lỏi qua các dãy bàn. Người thầy cũ của Kern đi ngược lại. Ông nhìn Kern với vẻ nhớ mang máng.- Hình như tôi có biết cậu...- Thưa tôi là một trong số sinh viên của giáo sư.- Thế à, tốt lắm. Em có biết chỗ nào cần máy hút bụi không... Bán hạ giá mười phần trăm, cho trả góp. Hay là máy hát gắn liền với máy thu thanh...Trong phút bất thần, Kern giựt mình. Vị giáo sư là một nhân vật nổi tiếng về khoa sưu tầm và trị liệu ung thư. Kern xúc động:- Thưa giáo sư không.Vừa trả lời, Kern vừa cảm thấy thương hại vị giáo sư già vì anh thừa biết nghề buôn máy hút bụi và máy hát đã tới hồi sa sút. Ông giáo sư lơ đãng nhìn Kern:- Cám ơn em, xin lỗi…Và ông lách qua, bỏ đi luôn.Bữa ăn chỉ có món súp và món bò. Kern chỉ ăn một loáng là sạch dĩa. Lúc Kern ngẩng đầu lên, nhà vĩ cầm vẫn còn ngồi bên cạnh, hai bàn tay đặt trên bàn, thức ăn còn nguyên. Kern ngạc nhiên:- Ông không ăn à...- Aên không được.- Bịnh sao...Kern nhìn vầng trán cao vọi của nhà vĩ cầm mà ánh đèn yếu diện làm cho vàng úa thêm ra.- Không.Kern khuyên:- Ông nên ăn, phải ăn mới đủ sức.Ông ta không trả lời, lấy thuốc ra châm lửa, hút vội vàng. Cuối cùng, ông ta lắp bắp:- Không… không thể sống như thế nầy.- Ông không có giấy thông hành...- Có nhưng…Nhà vĩ cầm dụi điếu thuốc với bàn tay run rẩy:- Không thể sống như thế nầy. Sống chẳng có gì cả. Không có một mái nhà.Kern chưng hửng:- Sao vậy... Ông có thông hành lại có cả chiếc vĩ cầm…Nhà vĩ cầm ngước mắt lên, giọng hơi xẵng:- Nhưng có liên quan gì đâu. Cậu không hiểu thật chớ...- Hiểu và hiểu rất rõ.Kern thất vọng đến tận cùng. Anh nghĩ rằng một con người nghệ sĩ có trình độ cao như thế ít ra cũng phải là một cá nhân ngoại hạng. Một người ta có thể lấy đó làm gương. Nhưng bây giờ, trước mắt anh chỉ là một kẻ thiếu tự tin, tuy lớn hơn anh khoảng mười lăm tuổi, giống như một đứa bé cứng đầu. Kern nghĩ, chỉ mới giai đoạn đầu của cuộc đời xa xứ… Và Kern bình tĩnh lại:- Ông nhất định ăn...- Không.- Vậy thì cho tôi vì tôi hãy còn đói.Nhà vĩ cầm đẩy dĩa súp sang. Kern ăn từ từ. Mỗi một muỗng là thêm một nguồn lực để chống lại sự đói khổ, Kern nhứt định không bỏ mất một muỗng nào.Kern đứng lên:- Cám ơn. Nhưng dầu sao tôi vẫn thích chính ông ăn lấy.Nhà vĩ cầm nhìn Kern đăm đăm, trán nhăn tít:- Cậu cũng vẫn chưa hiểu ra sao...- Dễ hiểu hơn ông đã tưởng. Ông đang khổ sở. Chỉ có thế thôi.- Chỉ có thế...- Vâng. Lúc đầu ai cũng cho rằng mình đang ở trong một tình trạng bi đát cực cùng. Nhưng rồi, sau một thời gian lưu lạc bềnh bồng, ông sẽ nhận thấy sự khốn cùng chỉ là một trạng huống tầm thường nhứt trong xã hội loài người.Kern ra khỏi quán ăn xã hội. Anh ngạc nhiên khi thấy vị giáo sư già đang bách bộ bên kia lề đường. Tay chắp sau lưng, người hơi khom người về phía trước trông ông giống như những ngày chủ tâm giảng giải về một phát minh mới lạ và tế nhị trong khoa trị liệu ung thư. Nhưng bây giờ có lẽ ông đang ngĩ tới vấn đề chạy hàng để nuôi sống.Kern ngập ngừng, anh không có ý định tiếp chuyện với thầy. Nhưng ngay lúc đó, nhà vĩ cầm bước ra khiến Kern đổi ý. Anh bước qua đường, tới gần người thầy cũ.- Thưa giáo sư, tôi xin phép được thưa một việc. Không bao giờ tôi dám nghĩ là trò có quyền khuyên thầy nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt nầy không biết giáo sư có vui lòng nghe một lời khuyên không...Vị giáo sư đứng lại:- Ồ, có gì đâu. Tôi sẵn sàng nghe. Và rất cảm kích đối với bất cứ lời khuyên nào, và ông lơ đãng tiếp, xin ông vui lòng nhắc lại tên…- Kern. Ludwig Kern.- Rất cám ơn ông Kern, Cám ơn ông vô cùng.- Thưa giáo sư, đây không hẳn là một lời khuyên mà chỉ là kết quả của một chút kinh nghiệm sống. Giáo sư định bán máy hút bụi và máy hát để lấy huê hồng. Xin giáo sư bỏ đi, chỉ mất thì giờ thôi. Đã có hàng trăm dân di trú thất bại rồi. Cũng chẳng khác gì bảo hiểm sinh mạng.- Ồ, đây cũng là việc mà tôi dự định sẽ làm tiếp nối. Có người cho tôi biết là dễ dàng lắm và có thể kiếm được chút ít.- Chắc họ hứa là sẽ để giáo sư hưởng huê hồng trên mỗi hợp đồng...- Phải. Huê hồng khá cao.- Nhưng ngoài ra thì không sở phí, không lương hướng...- Không, chẳng có gì khác.- Tôi cũng có thể giao ước với giáo sư đúng y như vậy. Nhưng rồi chẳng tới đâu. Xin lỗi, chẳng biết giáo sư đã bán được một máy hút bụi nào chưa... Hoặc một máy hát...Ông giáo sư nhìn Kern vừa bối rối vừa xấu hổ:- Chưa, nhưng tôi hy vọng…- Giáo sư nên từ bỏ ý định đó đi. Và đây là lời khuyên của một đứa học trò luôn kính trọng thầy. Giáo sư hãy đi mua một mớ dây giày. Hay vài hộp kẹp tóc, kim tây. Những món hàng nho nhỏ mà mọi người đều cần dùng. Bán lại, mình sẽ chẳng lời được bao nhiêu nhưng có thể bán được nhiều. Bán kẹp tóc, kim tây bao giờ cũng dễ hơn máy hút bụi.Người thầy môn ung thư nhìn Kern đăm đăm:- Đó là điều tôi chưa hề nghĩ tới.Kern cười gượng gạo:- Đối với giáo sư… kể cũng khó… Tuy nhiên, xin giáo sư nghĩ lại. Chính tôi đã từng đi rao bán máy hút bụi và cuối cùng phải xoay sang chuyện khác.Ông thầy đại học suy nghĩ một lúc, bỗng chìa tay ra và giọng nói đột nhiên thấp xuống, run run, khiêm tốn:- Ông có lý. Cám ơn ông nhiều lắm. Ông là người tốt…Kern cắn môi:- Tôi vẫn mãi là học trò của giáo sư.- Thế à… Dầu sao cũng hết sức cám ơn ông … Ông…- Tôi tên là Kern. Nhưng có gì mà giáo sư phải cám ơn.- Có chứ, ông Kern. Rất quan trọng đối với tôi. Xin thứ lỗi, mấy lúc sau này trí nhớ tôi tệ quá. Tôi sẽ cố làm theo lời ông. Cám ơn, cám ơn vô cùng.Lữ quán Bristol là một ngôi nhà hộp tồi tàn mà uỷ ban cứu trợ đã mướn để cung cấp nơi tạm trú cho dân tị nạn. Kern được cho ở chung với hai người khác trong một phòng. Mệt lả vì bữa ăn bất thường lúc tối nên vừa lên giường là Kern ngủ ngay. Lúc anh tới, hai người ở trước đã đi ra ngoài. Lúc họ trở về phòng, anh không hay biết.Giữa đêm, Kern giựt mình thức dậy. Tiếp theo đó là những tiếng kêu la. Như cái máy, Kern nhảy xuống giường, với lấy chiếc vai và quần áo, chạy băng ra cửa.Bên ngoài, tất cả đều yên tĩnh. Chạy tới cầu thang, anh dừng lại, đặt vali xuống và nghe ngóng. Anh đưa tay vuốt mặt. Mình ở đâu dây... Chuyện gì vừa xảy ra... Cảnh sát đâu...Kern nhìn mình từ trên xuống dưới và khoan khoái. Mình đang ở Thủ đô nước Tiệp tại lữ quán Bristol và trong túi lại có giấy cư trú mười lăm ngày. Vậy thì có lý do gì phải sợ. Chắc lại là một cơn ác mộng.Kern vừa quay lại vừa tự mắng, không được như thế, cứ hốt hoảng kiểu đó thì sẽ tàn.Anh mở cửa phòng và mò mẫn trong bóng tối tìm chiếc giường của mình ở phía bên phải sát tường. Anh nhẹ đặt vali xuống và máng quần áo ở thanh sắt đầu giường. Lại mò mẫn, Kern định kéo chiếc mền lên. Thình lình, ngay trước khi ngã người xuống nệm. Bàn, bàn tay anh bỗng chạm phải một vật vừa mềm vừa ấm, phập phều theo hơi thở. Kern nhảy dựng lên.Tiếp theo đó là giọng nói của một phụ nữ đang ngái ngủ:- Cái gì vậy...Kern nín thở. Anh đã vào lộn phòng. Mồ hôi anh tháo ra ướt áo.Một lúc khá lâu, anh nghe có tiếng người thở dài rồi trở mình. Kern chờ thêm vài phút nữa. Khi tất cả đều trở lại yên tĩnh và tiếng thở của người nằm trong bóng tối đã điều hoà, Kern nhẹ nhàng thu dọn đồ đạc, bước rón rén đi ra.Một người đàn ông đang đứng ngoài hành lang ngay căn phòng của Kern. Người nầy nhìn anh chăm chú qua tròng kính. Ông ta đã thấy Kern từ phòng bên cạnh bước ra, tay xách vali. Kern quá bối rối để có thể giải thích. Không một lời, anh bước vào phòng, nép mình một bên vì người đeo kính cố ý không tránh đường. Kern lên giường nằm.Người đàn ông vẫn còn đứng ở cửa. Cặp kính của ông ta loé sáng dưới ánh đèn mờ của hành lang. Một lúc sau, ông ta trở vào, đóng cửa.Ngay lúc đó, tiếng kêu la lại nổi lên:- Đừng đánh! Đừng đánh nữa! Tôi lạy các ông… đừng đánh nữa… Trời ơi! …Tiếng kêu kéo dài rồi chìm xuống lọc ọc trong cổ họng rồi tắt ngấm. Kern nhổm dậy:- Chuyện gì vậy...Có tiếng bật đèn và căn phòng sáng lên. Người đeo kính bước tới chiếc giường thứ ba. Ở đó, một người đang vật vã, thở hổn hển, mình đẫm mồ hôi, mắt lạc thần. Người đeo kính rót nước vào ly rồi kề vào môi người đang nằm:- Uống chút nước đi. Bạn lại nằm mơ. Chẳng có gì cả.Người vừa mớ uống ừng ực. Trái cổ của y chạy lên chạy xuống. Y buông mình xuống như kiệt sức, nhắm mắt lại và thở hồng hộc.Kern lại hỏi:- Chuyện gì vậy...Người đeo kính bước tới bên giường Kern:- Chuyện gì... Một người nằm mơ và mớ to. Y vừa ra khỏi trại tập trung vài tuần. Thần kinh, bạn hiểu chớ...Kern gật đầu. Người đeo kính hỏi...- Bạn cũng ở phòng nầy...Kern gật đầu:- Có lẽ tôi cũng yếu thần kinh. Lúc nãy khi ông ấy kêu la, tôi hốt hoảng bỏ chạy, tưởng Cảnh sát tới nơi. Và kế đó, tôi lại đi lộn phòng.- Aø…Người thứ ba lên tiếng:- Xin lỗi. Tôi sẽ cố gắng không ngủ nữa.Người đeo kính an ủi:- Đừng nghĩ vậy. Bây giờ bạn có nói mê đến bao nhiêu lần, chúng tôi cũng không thấy phiền gì cả, phải không, người bạn trẻ...Kern hiểu ý:- Đúng vậy.Đèn tắt. Căn phòng lại tối om. Kern nằm dài ra nhưng không sao ngủ được. Cảm giác kỳ lạ, ngỡ ngàng lúc nãy ở phòng bên cạnh khiến anh vẫn còn bàng hoàng. Bộ ngực thật mềm mại dưới lớp áo bằng loại hàng mỏng. Kern không thể quên được… khoảng hơn nửa giờ sau, người nói mê, lồm cồm ngồi dậy, xuống giường, tới ngồi trên bệ cửa sổ. Dáng người gục đ 71bf u vào ngực nổi bật trên khung trời vào sáng khiến y trông như pho tượng một tên nô lệ. Kern nhìn sững một lúc lâu vào pho tượng sống rồi ngủ thiếp lúc nào không hay.Joseft Steiner vượt biên giới rất dễ dàng. Là một cựu chiến sĩ, anh ta từng quen những cuộc hành quân tuần thám. Trước kia, anh ta đã là chỉ huy trưởng một đại đội và đã được ân thưởng bội tinh năm 1915 sau một cuộc hành quân viễn thám, bắt được luôn một binh sĩ địch.Khoảng một tiếng đồng hồ lau lách, anh ta hoàn toàn thoát hiểm, đi thẳng tới nhà ga. Trên toa xe chẳng có bao nhiêu hành khách. Người bán vé nhìn anh ta:- Đã trở lại rồi à...Steiner cộc lốc:- Một vé đi Vienne.Người bán vé vẫn một giọng:- Đi cũng khá mau hả...Steiner nhìn vào mặt anh ta.- Bộ bạn tưởng tụi nầy không biết. Chuyện xảy ra hằng ngày mà. Tụi nầy cũng thấy khổ. Lúc đi, bạn cũng ở trên toa nầy, chắc không nhớ nổi...- Bạn định nói gì vậy... Tôi chẳng hiểu gì cả.Người bán vé phì cười:- Phải hiểu chớ. Thôi ra đứng ở cuối toa đi. Nếu có kiểm soát viên tới thì nhảy xuống. Có lẽ giờ nầy ông ta không tới đâu. Như vậy đỡ tốn tiền mua vé.- Tốt lắm. Cám ơn.Đứng ở chỗ giáp nối hai toa xe, Steiner nghe mát lạnh. Aùnh đèn từ các làng trồng nho đua nhau chạy lướt qua. Anh tha hồ hít thở và tận hưởng sự say sưa của không khí tự do, cảm thấy máu lưu chuyển mạnh và bắp thịt như rắn chắc hơn.Anh ta vẫn còn sống, không phải là tù nhân, vẫn sống và đã thoát hiểm.Người bán vé ra cuối toa. Steiner đưa thuốc mời:- Hút một điếu chơi bạn.- Nhưng ngay bây giờ thì không có quyền. Giờ làm việc.- Còn tôi thì được quyền chớ...Người bán vé cười chất phác:- Được. Bạn có ưu thế hơn tôi.Steiner hít mạnh một hơi thuốc rồi cười:- Ưu thế... Bạn nhận như vậy.Anh ta đi thẳng tới nhà trọ cũ, nơi anh và Kern cùng bị bắt. Bà chủ trọ vẫn còn ngồi ở bàn giấy. Vừa thấy Steiner, bà nhảy nhổm lên:- Ông ở đây không được đâu.- Được mà.Vừa nói, Steiner vừa tháo bao đồ trên lưng xuống.- Ông Steiner, Cảnh sát mà bắt gặp ông ở đây là nhà trọ của tôi sẽ bị đóng cửa luôn.Steiner thản nhiên:- Thưa bà Louise, hầm trú ẩn tốt nhất của con người trong chiến tranh là một hố đại bác vì không bao giờ các xạ thủ có thể bắn đúng vào chỗ cũ một lần nữa. Chính vì vậy mà nhà trọ của bà là một trong số các nơi an toàn nhứt của thành Vienne.Bà chủ trọ xỉa cả hai bàn tay vào mái tóc hung, bời rối.- Ông cố tình làm hại tôi – Bà ta kêu lên bi thiết.- Càng hay! Đó là điều mà tôi mong ước! Gây hại cho một người! Bà có vẻ giống nhân vật tiểu thuyết, Louisette.Steiner nhìn quanh rồi hỏi:- Còn chút cà phê nào không... Và rượu mạnh...- Cà phê... Rượu mạnh...- Phải, Louisette. Tôi biết bà hiểu tôi mà. Một người đẹp làm sao ấy! Rượu Slivovizt còn trong tủ không...Bà chủ trọ nhìn Steiner, ngần ngại:- Dĩ nhiên là còn.- May quá. Đúng là thứ mình đang mong đợi.Vừa nói Steiner vừa với tay lấy chai rượu và hai cái ly.- Bà cũng dùng một ly chớ...- Tôi...- Còn ai vào đây...- Không.- Đừng từ chối, Louisette. Hãy cho tôi vui một hôm. Uống một mình, bất lịch sự. Đây…Anh ta rót đầy ly rồi trao cho bà.- Được. Tôi sẽ uống cho ông vui. Nhưng ông không ở đây.Steiner dịu dàng:- Chỉ vài hôm thôi, không hơn, không kém. Tôi có chương trình sinh sống rồi.Uống xong ly rượu, anh ta lại cười lấy lòng:- Và bây giờ là cà phê, Louisette.- Cà phê... Làm gì có.- Có mà, người đẹp. Đằng kia kìa. Tôi đánh cá là ngon tuyệt.Bà chủ nhà trọ tuy tức nhưng không thể đừng cười:- Ông đúng là nhà khôi hài xuất sắc! Tên tôi không phải là Louisette. Tôi là Thérèse.- Thérèse, một cái tên trong mộng!Bà chủ đi pha cà phê, mang lại. Bà chỉ vào một cái vali:- Đồ của ông lão Seligmann vẫn còn đây. Tôi không biết phải làm gì.- Phải ông lão Do Thái râu xám không...Bà chủ gật đầu:- Người ta nói là ông ấy đã chết…- Chuyện cứ vẫn xảy ra như thế. Bà có biết con của lão ở đâu không...- Làm sao tôi biết được... Tôi cũng không thể lo chuyện đó.Steiner mở vali ra. Một lô cuồn chỉ màu rơi ra. Lẫn lộn trong các cuồn chỉ là một mớ dây giày gói ghém cẩn thận. Tiếp theo là một bộ quần áo, một đôi giày, một quyển kinh hébreu, một túi da nhỏ bên trong có ít tiền, hai xâu bùa và một chiếc áo choàng trắng để mặc trong lúc cầu nguyện.Steiner nhìn lên:- Qúa ít đối với một kiếp sống, phải không Thérèse...- Nhiều người còn tệ hại hơn.- Chí lý.Steiner lật quyển kinh và bắt gặp mảnh giấy nhét bên trong bìa sách. Steiner cẩn thận rút mảnh giấy nhét bên trong bìa sách. Steiner cẩn thận rút mảnh giấy ra. Trên giấy có ghi một địa chỉ.- Tốt lắm. Tôi sẽ tới đó. Cám ơn Thérèse. Tối nay tôi về trễ. Tốt hơn hết là cho tôi một chỗ ở tầng dưới, sát với sân. Như vậy, khi cần tôi có thể biến thật nhanh.Bà chủ trọ toan phản đối nhưng Steiner đưa tay lên chận lại:- Không. Không, Thérèse. Nếu cửa nhà trọ không mở tôi sẽ làm náo loạn cả Cảnh sát thành Vienne. Nhưng tôi tin là cửa mở. Cung cấp chỗ trú ngụ cho những người mất quê hương là một giáo điều của Đức Chúa Trời. Làm như thế, khi về thế giới bên kia, bà sẽ được khen tặng luôn mười thế kỷ. Xin gửi lại bao đồ.Anh ta bước ra, biết là có nói thêm nữa thì cũng tới chừng ấy thôi và anh còn hiểu rằng đối với những người thật sự văn minh thì gởi lại đồ cũng là một cách trao tín vật, một lời giao ước. Bao đồ bây giờ đã biến thành một biên lai ở trọ với sự hiện diện câm lặng của nó.Steiner tới quán Sperler, định gặp người Nga Tchernikoff. Trong lúc bị giam chung hai người hứa hẹn với nhau là một hay hai ngày sau khi Steiner được trả tự do, cả hai sẽ đến quán nầy để đợi nhau. Về kinh nghiệm mất quê hương, người Nga hơn những người Đức thời Hitler đến mười lăm năm. Tchernikoff đã hứa với Steiner là sẽ cố gắng tìm xem tổ chức nào tại Vienne có bán giấy tờ giả cho những di dân.Steiner ngồi vào bàn. Anh ta muốn gọi thức uống nhưng không một gã hầu bàn nào chú ý tới việc hỏi khách. Quán không có tục lệ bắt buộc khách phải uống vì phần đông những người vào đây đều chẳng có bao nhiêu tiền.Quán Sperler gần giống như các lều bán thức ăn trong những trại giam tạm cư. Nhiều người ngồi trên ghế dài hay ghế đẩu ngủ gà, ngủ gật, một số khác ngồi phệt dưới đất lưng dựa vào tường. Họ lợi dụng thời gian trước giờ trước đóng cửa, vào đây ngủ khỏi trả tiền. Từ năm giờ sáng đến mười hai giờ trưa, họ lang thang trên đường phố chờ quán mở cửa. Hầu hết những người nầy đều thuộc thành phần trí thức.Một người mặt tròn đầy ngồi cạnh, mặc áo carô, nhìn chăm chú Steiner một lúc khá lâu với ánh mắt hau háu. Hắn hỏi Steiner:- Có gì bán không... Đồ vàng bạc cũ, nữ trang...Steiner lắc đầu.- Quần áo... Mền mùng... Giầy vớ...Steiner lắc đầu:- Nhẫn cưới...Steiner trợn mắt:- Đi ngay, đồ kên kên!Steiner ghét cay ghét đắng những kẻ chuyên mua rẻ đồ đạc của dân tị nạn để ban lấy lời. Để dằn cơn tức, Steiner gọi một gã hầu bàn:- Ê, một cognac!Gã hầu bàn nhìn hắn với vẻ nghi ngại nhưng cũng tới:- Ông cần một trạng sư... Bữa nay có tới hai người. Trong góc kia là Luật sư Silber của Toà Thượng Thẩm Bá Linh. Tham khảo ý kiến, một Đức kim. Ở bàn tròn bên cửa là ông Epstein, cố vấn Tòa Sơ Thẩm Munich. Tham khảo ý kiến, nửa Đức kim. Theo tôi thì nên hỏi Silber.- Tôi không cần Luật sư mà là một ly cognac.Gã hầu bàn che bàn tay sau vành tai:- Xin lỗi, có phải ông gọi cognac...- Đúng, và phải là ly lớn.- Vâng. Xin lỗi, tôi hơi lãng tai. Vả lại, ở đây từ lâu không ai gọi gì khác hơn cà phê.- Tốt. Vậy cho cognac và tách cà phê.Gã hầu bàn làm đúng theo lời Steiner nhưng vẫn còn lẩn quẩn bên bàn. Steiner hỏi:- Gì đây... Muốn xem tôi uống ra sao hả...- Thưa, phải trả tiền trước.- A, trả tiền trước… cũng được.Steiner ném tiền lên bàn. Gã hầu bàn ngập ngừng:- Ông đưa dư hơi nhiều.- Còn dư bao nhiêu là phần của cậu.- Tiền thưởng cho tôi...Gã hầu bàn liếm môi như vừa được cho uống một ly rượu vang. Gã cảm động:- Trời! Luôn mấy năm mới được thưởng một lần. Cám ơn ông. Cám ơn ngàn lần.Vài phút sau, người Nga của Steiner bước vào.Ông ta nhận ra ngay Steiner, đi thẳng tới:- Tôi cứ tưởng là bạn không còn ở Vienne, Tchernikoff.Người Nga cười:- Với bọn mình thì điều gì có thể đều trở thành không thể có, và ngược lại. tôi vừa có một vài tin tức hữu ích.Steiner uống cạn tách rượu:- Nghĩa là có nơi chịu cung cấp giấy tờ...- Phải. Giấy tờ tốt. Đây là loại giấy tờ tốt hơn tất cả các loại giấy giả mà tôi từng được biết.- Tôi cần phải thoát ra cảnh nầy nghĩa là rất cần có giấy tờ. Thà bị tù khổ sai vì xài giấy ma còn hơn là lo sợ nơm nớp hằng ngày chưa biết tới chừng nào.- Tôi vừa ở quán Hallebarde lại. Mấy người lo việc này hiện đang ở đằng đó. Đáng tin cậy. Tuy nhiên rẻ mạt nhứt cũng trị giá tới bốn trăm Đức kim.- Nhưng với giá đó, mình sẽ được loại giấy gì...- Giấy thông hành của một người Aùo từ trần. Còn hiệu lực một năm.- Một năm. Và sau đó...Tchernikoff nhìn Steiner:- Mình có thể gia hạn ở một nước khác. Hoặc nhờ một nơi chuyên sửa đổi tháng, năm.Steiner gật đầu.- Ngoài ra còn hai giấy thông hành của hai người Đức tị nạn đã chết. Nhưng mỗi tấm phải trả tới tám trăm Đức kim. Muốn có một thông hành hoàn toàn giả ít lắm cũng phải tốn tới một ngàn rưỡi. Loại nầy thì bạn có lẽ không vói tới.Tchernikoff búng tàn thuốc:- Trường hợp của bạn không nên quá tin tưởng Hội Quốc Liên. Nhứt là với những người nhập cảnh bất hợp pháp. Nansen, chuyên lo thông hành cho bọn tôi đã chết.Steiner buông xuôi:- Bốn trăm Đức kim! Hiện thời tôi chỉ có hai mươi lăm.- Mình còn có thể trả giá!- Con số cách biệt vẫn quá xa. Nhưng không sao, tôi phải tìm cách kiếm ra tiền. Quán Hallebarde ở đâu...Người Nga lấy từ trong túi ra một mảnh giấy:- Địa chỉ đây. Có ghi cả tên người hầu bàn làm trung gian. Khi cần bạn bảo hắn điện thoại cho những người kia. Mình cho hắn năm Đức kim tiền liên lạc.- Được, tôi sẽ tùy trường hợp thu xếp.Steiner cẩn thận cất giấy ghi địa chỉ.- Cám ơn bạn vô cùng, Tchernikoff.- Ồ, chẳng có nghĩa gì cả – Người Nga đưa tay lên phản đối – Mình phải giúp nhau trong khả năng. Tình cảnh của bọn mình thì biết đâu người nầy lại không có lúc nhờ tới người kia.Steiner đứng lên:- Một ngày nào đó, tôi sẽ gặp bạn tại đây để trả lời.- Hay lắm. Tôi thường có mặt ở đây vào giờ nầy. Chơi cờ với Vua cờ miền Nam Đức. Ông ta ngồi kia kìa, người tóc quăn. Không bao giờ tôi nghĩ là sẽ có dịp đấu cờ với một nhà vô địch.Tchernikoff cười:- Tôi mê chơi cờ lắm.Steiner đi ra, vấp phải chân một vài người đang ngủ dựa tường, miệng há hốc. Ở bàn ông Cố vấn Tòa Sơ Thẩm Epstein, một mụ Do Thái mặt tròn phệu đang chắp hai tay nhìn ngắm ông ta, như ngưỡng mộ một vị thần. Trước mặt bà ta là nửa đồng Đức kim. Bàn tay trái đầy ông lá của Epstein đang đặt trên bàn giấy như một con nhện to tướng đang rình mồi.Ra tới ngoài, Steiner thở mạnh luôn nhiều hơi. Không khí dìu dịu ban đêm khiến hắn ngây ngất sau khi đã ngột ngạt trong gian quán ám khói và buồn thảm. Anh nghĩ, mình phải đi mới xong. Anh nhìn đồng hồ. Hơi muộn. Dầu sao, cũng phải cố tìm gặp tay trùm cờ bạc lận.Quán cóc mà gã chuyên đánh bạc lận thường lui tới gần như đã trống hẳn. Hai thiếu nữ õng ẹo trên hai chiếc ghế đẩu cao nghệu trông giống như những con kéc.Steiner hỏi chủ quán:- Fred có ở đây không...Người chủ nhìn xoi mói Steiner:- Fred... Bạn muốn làm gì anh ta...- Để mời đi lễ, được không...Người chủ quán suy nghĩ một lúc rồi bảo:- Fred đi cả tiếng đồng hồ rồi.- Còn trở lại không...- Không biết.- Được. Như vậy, tôi sẽ đợi. Cho một Vodka.Steiner đợi gần một tiếng đồng hồ. Trong thời gian nầy, anh nhẩm tính tổng quát về tất cả những món mà có thể bán ra tiền. Không quá bảy mươi Đức kim.Hai cô gái liếc nhìn anh. Họ ngồi đó thêm một lúc rồi õng ẹo đi ra. Người chủ quán ném mấy con xúc xắc ra. Steiner hỏi:- Mình thử một bàn chớ...- Cũng được.Hắn gieo hột và Steiner thắng. Cả hai tiếp tục chơi. Luôn hai lần liên tiếp Steiner đều được bốn con một.Steiner cười:- Coi bộ tôi có duyên với số một.- Chỉ chờ hên vậy thôi. Bạn tuổi gì...- Không để ý.- Chắc phải là tuổi Hải sư. Ít ra cũng có mặt trời trong Hải sư. Tôi cũng biết chút ít về chiêm tinh. Một ván nữa, ván chót. Fred không trở lại đâu. Không bao giờ trở lại giờ nầy. Hắn cần ngủ để tay khỏi run.Người chủ quán gieo mấy con xúc xắc và Steiner lại thắng.- Đúng chưa, tuổi bạn chắc chắn là Hải sư. Với ảnh hưởng mạnh của Hải vương tinh. Bạn sanh tháng nào...- Tháng Tám.- Vậy là chính xác rồi. Năm nay có nhiều may mắn lạ lùng.- Trong trường hợp đó, tôi sẽ làm chúa tất cả các sư tử trong rừng – Steiner uống cạn ly – Bạn vui lòng bảo với Fred là Steiner có tới đây. Mai, tôi lại tới.- Được rồi.Steiner trở về nhà trọ. Đường phố hoàn toàn trống vắng. Trời có nhiều sao và mùi hoa huệ thoảng ra từng đợt từ phía sau các bờ tường. “Trời, Marie, mình không thể xa nhau mãi mãi”.Kern bước vào một cửa hiệu bán thuốc Tây vì lúc đi qua anh chợt nhận thấy có một số nước hoa bày bán mang nhãn hiệu của xưởng cha anh: hiệu Farr.Anh cầm chai nước hoa lật qua lật lại xem xét rồi hòi người bán:- Ông mua thứ nầy ở đâu...Người bán nhún vai:- Làm sao nhớ nổi. Chỉ biết từ Đức tới. Mua lâu lắm rồi. Cậu muốn lấy chai nầy...- Một chai... Không đủ. Cho tôi sau chai…- Sáu...- Phải. Lấy trước. Tôi sẽ tới lấy thêm. Tôi chỉ mua đi bán lại thôi, ông định cho hoa hồng bao nhiêu...- Cậu là dân tỵ nạn...Kern đặt chai nước hoa tắm gội lên quầy:- Ông có biết hỏi như thế là chạm tự ái không... Tôi có chứng chỉ di trú đàng hoàng. Tôi muốn biết hoa hồng bao nhiêu...- Mười phần trăm.- Quá tệ. Ông tính xem tôi sẽ kiếm được bao nhiêu.Người chủ tiệm vừa bước tới:- Tôi cho cậu hai mươi lăm phần trăm. Chúng tôi cũng đang cần tống khứ loại hàng tồi tệ ấy đi.Kern trợn mắt:- Loại hàng tồi t65... Ông có biết đây là loại eaude cologne tốt nhất thế giới không...Người chủ tiệm ngoái tai:- Cũng có thể. Như vậy là cậu đồng ý hai mươi lăm phần trăm...- Ba chục phần trăm là tối thiểu. Vấn đề nước hoa hảo hạng và tiền hoa hồng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.Người bán hàng mím môi:Nước hoa nào cũng vậy thôi. Thứ mà người ta cho là tốt chẳng có gì hơn là khéo quảng cáo. Tất cả bí quyết đều ở đó.Kern nhìn sững anh ta:- Ông nên nhớ là loại nước hoa đã không còn được quya3n cáo từ lâu. Và nếu nói như ông, tôi đề nghị ba mươi lăm phần trăm hoa hồng.Người chủ hiệu nói ngay:- Ba mươi thôi. Thỉnh thoảng vẫn có người tới hỏi.Gã bán hàng nói với chủ:- Ông Bureck, mình có thể để ba mươi lăm phần trăm nếu cậu ta lấy đủ chục. Người thỉnh thoảng đến mua cũng trả giá như thế. Lúc sau nầy, ông ta không mua nữa mà ngỏ ý muốn bán cong thức chế tạo.Kern giật mình:- Công thức chế tạo... Người nào định bán...Gã bán hàng cười:- Ông ta bảo nhãn hiệu nầy là của chính ông ta. Dĩ nhiên là đặt điều. Có gì mà dân tị nạn lại không dám làm!Kern tưởng chừng như nghẹt thở:- Các ông có biết người đó ở đâu không...Gã bán hàng nhún vai:- Dường như ông ta có để lại địa chỉ nhưng hiện giờ thì không biết cất ở đâu. Cậu hỏi chi vậy...- Có lẽ đó là cha tôi.Cả hai sững sờ nhìn Kern:- Thật à...- Thật. Chúng tôi thất lạc nhau khá lâu.Người chủ hiệu ra vẻ khích động. Ông ta quay vào gọi người đàn bà đang ngồi bàn giấy:- Bertha, mình còn giữ địa chỉ của ông dịnh bán công thức chế tạo nước hoa không...- Người nào...- Ông Stan hay lão già lẩm cẩm cứ đến quấy rầy luôn...- Nầy, nầy, đừng có ác mồm, ác miệng! Người chủ hiệu ngượng nghịu nhìn Kern - Xin lỗi cậu.Ông ta đi mau vào phòng trong. Gã bán hàng kinh mạn:- Đó là hậu quả của việc lấy người làm công.Vài phút sau, người chủ hiệu thuốc quay ra, thở hào hển, với mảnh giấy trên tay:- Tìm được địa chỉ rồi. Đó là ông Kern, Siegmund Kern.- Vậy là cha tôi.- Thật hả...Người chủ hiệu đưa địa chỉ cho Kern:- Lần sau cùng ông ấy tới đây cách nay ba tuần. Xin cậu vui lòng bỏ lỗi cho về mấy lời nói vô tình lúc nãy. Cậu cũng biết…- Không sao cả. Nhưng tôi cần phải đi ngay. Tôi sẽ trở lại lấy nước hoa sau.- Được ma. ø Chúng tôi giữ cho.Nơi trú ngụ của cha Kern ở trên đường Tuzarova. Khu phố tối ám và mốc meo. Ở đây, người ta ngửi thấy mùi tường ẩm và khói than.Kern từ từ lên thang lầu. Kể cũng lạ, tuy nóng lòng gặp cha nhưng Kern cũng không gấp rút. Có lẽ vì anh đã qu1a quen thuộc với những bất hạnh vào phút chót.Tới lầu ba, Kern nhận chuông. Vài phút sau, có tiếng chân người kéo lê phía sau cửa được kéo qua một bên. Kern nhìn thấy một con mắt đen chiếu thẳng về phía mình.Giọng hỏi gắt gỏng của một người đàn bà giọng ra:- Ai đó...- Tôi muốn gặp một người trong nhà.- Không có người nào ở đây.- Phải có chớ, còn bà có không phải đang ở sao... Kern nhìn tấm bảng gắn ở cửa. Có phải bà là Melanie Ekowski không... Nhưng không phải tôi muốn gặp bà.- Rồi sao...- Tôi muốo61no1i chuyện với một người đàn ông ở nhà nầy.- Không có người đàn ông nào ở đây.Kern nhìn vào con mắt tròn và đen. Hay là cha mình đã đi nơi khác. Tự nhiên, Kern mệt mỏi và chán nản lạ lùng.- Người đàn ông tên gì...Kern lại thấy hy vọng. Anh ngẩng đầu lên:- bộ bà muốn tôi la lớn cho cả ngôi nhà nầy nghe sao... Bà cứ mở cửa, tôi sẽ nói.Con mắt biến mất. Có tiếng khoá xích khua chạm. Kern không khỏi nhĩ, làm gì mà kiên cố như một pháo đài. Anh tin hết chín phần là cha anh vẫn còn ở đây, nếu không thì người đàn bà nầy không vặn đến thế.Cửa mở, một người đàn bà Tiệp khoẻ mạnh, má đỏ, mặt lớn, nhìn Kern từ đầu đến chân.- Tôi muốn gặp ông Kern.- Kern... Không biết. Không có ở đây.- Tôi hỏi ông Siegmund Kern. Tôi là Ludwig Kern.- A…Người đàn bà cũng chưa tin. Kern phải đưa giấy phép lưu trú cho bà ta xem. Người đàn bà đọc tới, đọc lui như cố kéo dài thì giờ. Bà ta trả lại tờ giấy cho Kern:- Cậu là bà con...- Phải.Một cái gì đó khiến Kern không muốn nói rõ hơn. Bây giờ anh gần như tin chắc là cha mình có ở đây.Người đàn bà nói cộc lốc:- Ông ta không có ở đây.- Được trong trường hợp nầy, tôi đưa địa chỉ cho bà. Tôi ngụ tại quán Bristol, chỉ còn vài ngày nữa thôi. Tôi có chuyện cần muốn nói.