JULIAN LÀ NGƯỜI dậy đầu tiên vào sáng hôm sau. Cậu thức giấc ngay khi vầng thái dương vừa nhô lên khỏi đường chân trời phía Đông và dát vàng cả một vùng trời. Cậu nằm nhìn trần nhà mất một lát, và rồi, cậu bỗng nhớ lại mọi chuyện xảy ra hôm trước. Cậu ngồi bật dậy và thì thầm to hết mức.
“Dick! Dậy! Chúng ta phải đi xem con tàu! Dậy đi!”
Dick tỉnh giấc và cười ngoác miệng với Julian. Một cảm giác hạnh phúc trào dâng trong nó. Chúng sắp có một cuộc thám hiểm! Nó lao ra khỏi giường và chạy thật êm tới phòng bọn con gái. Nó mở cửa. Cả hai đứa đều đang ngủ say, Anne cuộn tròn trong chăn như một con chuột sóc.
Dick lay George và thúc vào lưng Anne. Chúng thức giấc và ngồi dậy. “Nhanh lên!” Dick thì thầm. “Mặt trời vừa mới mọc. Chúng ta phải nhanh lên.”
Đôi mắt xanh của George sáng lên khi nó thay đồ. Anne vừa nhảy chân sáo thật khẽ vừa tìm đồ, chỉ là bộ đồ bơi, quần bò, áo phông và đôi giày cao su. Chẳng mất mấy phút bọn trẻ đã chuẩn bị xong xuôi.
“Giờ thì đừng làm cầu thang cọt kẹt, không ho hắng hay khúc khích gì hết nhé!” Julian cảnh báo khi bọn trẻ đứng túm tụm ở đầu cầu thang. Anne là chúa hay rúc rích và thường nhịn không nổi mà phá hỏng các kế hoạch bí mật. Nhưng lần này, cô bé tỏ ra nghiêm nghị và cẩn thận chẳng kém gì những đứa kia. Chúng nhón chân xuống cầu thang và mở cửa trước. Không một tiếng động. Chúng đóng cửa khẽ khàng và đi dọc con đường qua khu vườn dẫn ra cổng. Cánh cổng luôn tạo ra tiếng két khi mở ra đóng vào nên chúng trèo luôn qua cổng.
Mặt trời đã chiếu sáng rực rỡ dù vẫn nằm thấp ở vùng trời phía Đông. Không khí đã ấm lên. Bầu trời xanh tuyệt đẹp đến nỗi Anne không thể không cảm thấy như trời vừa được gột rửa! “Trông trời như vừa mới từ tiệm giặt là về vậy,” nó bảo bọn còn lại.
Ba đứa kia được phen cười rũ rượi. Anne thường phát ngôn những câu kỳ cục. Nhưng chúng hiểu con bé muốn nói gì. Ban mai hôm ấy đang tỏa ra một cảm giác thật mới mẻ, đáng yêu - những đám mây hồng rực trên bầu trời xanh ngời ngợi và mặt biển thật êm ru, tươi mới.
George lấy thuyền của mình. Rồi nó đi đón Tim trong khi bọn con trai đẩy thuyền xuống nước. Cậu bé Alf ngạc nhiên thấy George tới sớm vậy. Nó đang chuẩn bị đi câu cá với bố mình. Nó nhe răng cười với George.
“Cậu cũng đi câu hả?” nó nói. “Chẳng phải hôm qua vừa mới có bão sao! Tôi cứ nghĩ là các cậu bị dính bão rồi.”
“Có đấy,” George đáp. “Đi nào, Tim! Đi nào!”
Tim rất hài lòng khi được gặp George sớm như vậy. Chú nhảy cỡn xung quanh cô nhóc trong khi cô nhóc chạy lại với mấy đứa kia, làm cô suýt ngã nhào. Vừa thấy con thuyền là chú nhảy phóc lên rồi tới ngồi ở đuôi thuyền, cái lưỡi đỏ thè ra, đuôi ngoáy liên hồi.
“Mình không tin cái đuôi sẽ dính được lâu vào cậu ta,” Anne nói khi ngắm nhìn chú chó. “Một ngày nào đó, Timothy ạ, cậu sẽ ngoáy bật cả đuôi ra mất thôi.”
Chúng khởi hành ra đảo. Mặt biển êm nên chèo rất nhàn. Chúng ra tới chỗ hòn đảo và chèo sang bờ bên kia.
Và con tàu đắm ở đó, kẹt giữa những tảng đá sắc nhọn! Giờ nó đã nằm yên và không chao đảo khi có sóng xô dưới đáy tàu. Nó hơi đổ nghiêng về một bên, và cái cột buồm gãy, giờ đã ngắn hơn cả lúc trước, chĩa ra một góc.
“Nó đây rồi,” Julian reo lên trong niềm phấn khích cực độ. “Con tàu cũ đáng thương! Anh đoán là giờ nó hơi hư hại hơn một chút. Âm thanh mà nó tạo ra khi lao vào đá khiếp thế cơ mà!”
“Mình lên boong bằng cách nào bây giờ?” Anne hỏi và nhìn đội quân đá xấu xí, sắc nhọn hùng hậu khắp xung quanh. Nhưng George không hề lúng túng. Nó am tường từng phân vùng biển quanh hòn đảo nhỏ của mình. Nó kéo mái chèo đầy chắc chắn và chẳng mấy chốc đã tới gần những tảng đá nơi con tàu đang nằm.
Từ thuyền, bọn trẻ ngước nhìn con tàu. Nó to lớn, lớn hơn chúng từng tưởng tượng khi ngắm nhìn nó từ trên mặt nước nhiều. Thân nó bám đầy những loài trai sò nào đó, vô số dải rong biển nâu hoặc xanh rủ xuống. Con tàu tỏa ra một mùi lạ lùng. Bên sườn tàu có những lỗ thủng khổng lồ, tiết lộ chỗ thân tàu bị va vào đá. Với bấy nhiêu điểm, nó tựa hồ một con tàu cũ buồn bã và cô độc - nhưng với bốn đứa trẻ, nó là thứ kỳ khôi nhất thế giới.
Chúng chèo tới chỗ bãi đá nơi con tàu nằm. Sóng biển xô trùm lên đá. George nhìn quanh một lượt.
“Chúng ta sẽ cột thuyền vào chính con tàu,” nó quyết định. “Và chúng ta sẽ lên boong rất dễ bằng cách trèo lên sườn tàu. Kia kìa, Julian! Cậu ném cái thòng lọng này vào mẩu gỗ vỡ nhô ra ở đó.”
Julian làm theo. Thòng lọng thít chặt lại và thuyền đứng yên một chỗ. Rồi George trèo lên sườn tàu lanh lẹ như một chú khỉ. Nó là một tay cự phách trong môn leo trèo. Julian và Dick theo chân nó, nhưng Anne thì phải có người kéo lên. Thoáng sau, bốn đứa trẻ đã đứng trên boong tàu nghiêng đổ. Sàn tàu trơn trượt vì rong biển và xộc lên một mùi rất mạnh. Anne không thích điều ấy tẹo nào.
“Chà, đây là boong tàu,” George nói. “Còn kia là chỗ thủy thủ đoàn trèo lên boong.” Nó chỉ vào một cái hố lớn. Chúng tới đó và nhìn xuống. Tàn dư của một cái thang sắt vẫn còn ở đó. George quan sát nó.
“Tôi nghĩ cái thang vẫn đủ vững để giữ được chúng ta,” nó nói. “Tôi sẽ đi trước. Ai có đèn pin không? Dưới kia có vẻ tối ra trò đấy.”
Julian mang theo đèn pin. Cậu trao nó cho George. Lũ trẻ trở nên cực kỳ lặng lẽ. Có gì đó thật bí ẩn khi nhìn xuống lòng tàu tối đen. Chúng sẽ tìm thấy gì? George bật đèn pin lên và leo xuống cái thang đung đưa. Những đứa kia cũng theo bước nó.
Ánh sáng từ ngọn đèn pin soi tỏ một cảnh tượng thật lạ lùng. Hầm tàu có trần rất thấp đóng bằng gỗ sồi dày. Bọn trẻ phải cúi đầu để đi lại bên trong. Chừng như có những chỗ từng là ca bin dù giờ thì rất khó nhận ra vì mọi thứ đều hư hại, sũng nước biển và phủ đầy rong rêu. Lòng tàu xộc lên một mùi kinh khủng, dù hầu hết là mùi rong biển khô.
Bọn trẻ trượt trên đám rong biển khi chúng đi vòng quanh khoang tàu. Trong hầm không hề rộng rãi. Phía dưới các ca bin có một khoang lớn, ánh đèn pin giúp bọn trẻ phát hiện ra nó.
“Đó hẳn là chỗ giấu các hòm vàng,” Julian nói. Nhưng trong khoang chẳng có gì ngoài nước và cá! Bọn trẻ không thể đi xuống bởi vì nước quá sâu. Một, hai chiếc thùng trôi nổi trên mặt nước, nhưng chúng đã mở toang và chẳng có gì trong đó.
“Tôi nghĩ đó là thùng nước, thùng thịt hoặc bánh quy,” George nói. “Chúng ta hãy đi vòng quanh các chỗ khác một lần nữa, chỗ mấy cái ca bin ấy. Được ngắm những chiếc giường nơi thủy thủ đoàn từng ngủ chẳng phải rất thú vị sao? Và nhìn cái ghế gỗ cũ kĩ kia xem. Thật đáng ngạc nhiên là nó vẫn ở đó sau bao nhiêu năm như vậy! Trông những thứ treo ở mấy cái móc kia nữa, giờ bụi bặm và phủ đầy rong biển, nhưng trước kia hẳn chúng từng là xoong chảo bát đĩa của người đầu bếp!”
Đi một vòng hầm tàu quả là chuyến thám hiểm kỳ diệu. Lũ trẻ dồn hết tâm trí vào những chiếc hòm có thể chứa vàng bên trong, nhưng có vẻ như lục lọi khắp nơi cũng chẳng tìm được cái hòm nào như thế!
Rồi chúng đến một ca bin to hơn hẳn những ca bin khác. Góc ca bin có một giường ngủ, một con cua lớn đang nằm chình ình trên giường. Một thứ đồ đạc cũ trông có vẻ là một chiếc bàn hai chân, bên ngoài bám đầy những mảnh vỏ xám, đứng tựa lưng vào giường. Những giá gỗ, được trang trí bởi rong biển xám xanh, treo lệch lẹo trên tường ca bin.
“Đây hẳn là ca bin riêng của thuyền trưởng,” Julian nói. “Đây là ca bin lớn nhất. Nhìn kìa, cái gì ở góc kia vậy?”
“Một cái chén cũ!” Anne nói và nhặt nó lên. “Còn đây là nửa còn lại của cái đĩa. Em đoán là thuyền trưởng đang ngồi đây uống trà khi con tàu bị đắm.”
Điều này khiến lũ trẻ cảm thấy thực sự không thoải mái. Cái ca bin chật chội này thật tối tăm và nặng mùi, còn mặt sàn thì ướt và trơn trượt. George bắt đầu nghĩ rằng con tàu đắm của nó khi chìm dưới đáy nước sâu đáng yêu hơn nhiều khi nổi lên thế này!
“Đi thôi,” nó rùng mình nói. “Tôi không ưa nó lắm. Nó thực sự thú vị, tôi biết, nhưng cũng hơi đáng sợ.”
Chúng quay người đi. Julian quét đèn pin xung quanh cái ca bin một lần cuối cùng. Cậu chuẩn bị tắt đèn và theo những đứa khác trèo lên boong thì bỗng thấy một vật khiến cậu dừng phắt lại. Cậu soi đèn về phía đó và rồi gọi bọn còn lại.
“Này! Đợi một chút. Có một cái tủ chìm trong tường. Chúng ta hãy xem có gì trong đó không!”
Những đứa kia quay lại nhìn. Chúng thấy một vật giống cái tủ nhỏ nằm chìm trong tường ca bin. Chính lỗ khóa của nó đã khiến Julian để ý. Nhưng không có chìa.
“Có thể có thứ gì đó ở trong này,” Julian nói. Cậu thử dùng ngón tay nậy mở cánh cửa gỗ, nhưng nó không lay chuyển. “Khóa rồi,” cậu nói. “Tất nhiên nó phải khóa.”
“Tôi đoán là đến giờ thì khóa cũng mục rồi.” George nói và cũng đưa tay thử. Rồi nó lấy ra một con dao bỏ túi, nhét lưỡi dao vào giữa cửa tủ và tường ca bin. Nó ấn mạnh lưỡi dao và khóa tủ bất ngờ bật ra! Đúng như lời nó, chiếc khóa đã mục. Cửa tủ bật mở, và lũ trẻ thấy một cái kệ với vài thứ đáng hiếu kỳ trong đó.
Có một cái hộp gỗ, thớ gỗ trương ra bởi bị ngâm nước biển trong bao nhiêu năm ròng.
Vài ba vật trông có vẻ như những cuốn sách cũ nát và mềm nhão. Một thứ gì đó đại loại như cốc vại bằng thủy tinh, bị vỡ làm đôi, cùng với hai hoặc ba vật kỳ cục bị rong biển làm hư hại đến mức không ai còn có thể nói xem chúng là cái gì nữa.
“Chả có gì thú vị, trừ cái hộp,” Julian nói và cầm nó lên. “Mà anh đoán dù là thứ gì ở trong này thì cũng đã hỏng rồi. Nhưng chúng ta cũng cứ nên thử mở nó xem sao.”
Cậu và George cố hết sức để mở khóa của cái hộp gỗ cũ. Trên nắp hộp có in các chữ viết tắt H.J.K.
“Em nghĩ đó là viết tắt tên của thuyền trưởng,” Dick nói.
“Không, đó là tên của cụ tổ tôi!”George đáp, mắt nó bỗng sáng rực lên. “Tôi đã nghe kể rất nhiều về cụ tổ. Tên cụ là Henry John Kirrin. Đây là con tàu của cụ, các cậu biết đấy. Đây hẳn là cái hộp riêng của cụ tổ, trong đó cụ giữ giấy tờ cũ và nhật ký của mình. Oa, chúng ta nhất định phải mở nó!”
Nhưng cố sức mở nắp hộp với những dụng cụ chúng có trong tay là việc không thể. Bọn trẻ sớm bỏ cuộc và Julian mang theo cái hộp về thuyền.
“Về nhà ta sẽ mở nó,” cậu nói, giọng đầy vẻ hứng thú. “Chúng ta sẽ kiếm một cái búa hoặc thứ gì đó và tìm cách mở nắp. Ồ, George, đây quả là một phát hiện ra trò!”
Cả bốn đứa cảm thấy chúng đang sở hữu một vật thật sự bí hiểm. Liệu có gì đang được giấu trong chiếc hộp không, và nếu có thì đó sẽ là gì? Chúng một lòng mong về đến nhà và mở nó ra!
Chúng trèo thang sắt lên boong. Vừa tới nơi, chúng lập tức biết rằng đã có thêm những người khác phát hiện ra con tàu bị hất tung lên từ đáy biển!
“Ôi trời! Đến nửa số thuyền cá ở vịnh đã thấy nó!” Julian kêu lên, nhìn một lượt những thuyền cá đã tiến lại gần con tàu hết mức. Những người dân chài đang quan sát con tàu. Khi thấy bọn trẻ trên tàu, họ hét gọi rất to.
“Chààaoooo! Con tàu đó là gì vậy?”
“Một xác tàu đắm!” Julian gào lên đáp. “Nó bị cơn bão hôm qua hất tung lên đây.”
“Đừng nói nữa,” George ngăn, đôi mày nó cau lại. “Đây là con tàu của tôi. Tôi không muốn có khách tham quan trên này!”
Vậy là không tiết lộ thêm lời nào, bốn đứa trẻ trở lại thuyền rồi chèo như bay về nhà. Lúc đó đã quá bữa sáng. Chúng có thể bị mắng ra trò. Cũng có thể bị ông bố dữ dằn của George nhốt vô phòng. Nhưng sao chúng phải quan tâm chứ? Chúng đã thám hiểm con tàu đắm, và đã trở về với một chiếc hộp có thể đang giữ... ồ, nếu không phải là hàng đống vàng thì là một miếng nhỏ, biết đâu đấy!
Chúng quả thực bị mắng. Chúng cũng bị mất nửa khẩu phần sáng vì chú Quentin tuyên bố những kẻ về muộn không xứng được ăn thịt xông khói nóng và trứng, chỉ còn bánh mì và mứt cam. Thật buồn.
Chúng giấu cái hộp ở dưới giường trong phòng bọn con trai. Tim đi cùng với cậu con trai nhà chài, hay đúng hơn là bị cột lại ở sân sau nhà cậu ta vì Alf phải ra khơi đánh cá, và có khi lúc này đang đứng trên thuyền của bố nó mà tròn mắt nhìn con tàu đắm.
“Chúng ta có thể kiếm chác được chút đỉnh từ dịch vụ đưa khách tham quan ra chỗ con tàu đấy,” Alf nói. Và chưa đến cuối ngày đã có vô khối người nhìn ngắm xác tàu đắm từ sàn ca nô hoặc thuyền cá.
George giận sôi lên. Nhưng nó chẳng thể làm gì. Dù sao, nói như Julian, ai mà chả có quyền được nhìn!
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !