Máy điện đàm được bật liên tục, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới có một thông báo liên quan đến chúng tôi. Vừa nghe xong tin Mario Aldina lái xe chở hoa đến hầm ngầm Holland thì bà Oliphant đột ngột mở miệng.
- Tôi biết anh ấy đã 12 năm nay, từ khi tôi còn ở với Henry Olphant. Henry và Hugh là bạn, cho tới khi Henry và tôi ly dị. Chuyện đó xãy ra cách đây tám năm. Ngày ấy tình hình của tôi rất tồi tệ, Hugh đã quan tâm đến tôi. Anh là một người bạn thật sự. Tình yêu của chúng tôi mãi sau này mới dần dần hình thành. Mới từ ba năm nay chúng tôi mới có với nhau một … một quan hệ.
Ba năm mà còn ít sao, tôi nghĩ thầm. Rồi tôi nói thành tiếng: – Nếu bà không khai ra, người ta sẽ cáo buộc bà nội trợ giúp, hay chí ít ra cũng tội biết mà không khai báo trong vụ giết Donna Hayes. Bà rõ điều đó không, bà Oliphant? Người ta sẽ buộc tội bà đã biết tất cả mọi chuyện, tất cả những gì Greenfield đã làm hay bỏ qua không làm. Bà hãy suy nghĩ kỹ!
Cô ta là nữ nhân viên của một luật gia hạng nhất. Cô ta biết điều gì đang chờ phía trước va cô ta có được cơ hội nao, tùy theo việc cô ta khai ra hay im lặng.
Giờ người đàn bà lại im lặng. Xe của chúng tôi lăn bánh qua Manhanttan trong đêm. Đến Phố Số 34, Phil rẽ vào Đại Lộ Số Năm, con phố cắt với đường Broadway ở quảng trường Madison. Ngôi nhà Empire State Building chọc lên trên trời cao như một ngón tay sáng rỡ.
Đến quảng trường Madison, Phil rẽ theo Broadway đi về hướng Nam. Nằm bên đoạn cuối của Broadway là tòa nhà văn phòng liên bang với những phòng làm việc mới của chúng tôi và cách đó không xa là nhà ngục điều tra liên bang. BÀ Oliphant chắc sẽ được hưởng một phòng riêng. Có cả phòng tắm. Nhà ngục điều tra ở đó được trang trí nội thất rất đầy đủ.
Phil nghiêng đầu khi một giọng nói vang ra từ loa: – Chiến dịch K gọi trung tâm!
Chiến dịch K, đó là chúng tôi. Cùng với ba chiếc xe theo dõi Mario Aldina.
George Baker là người đã đưa ra mã hiệu này.
- Trung tâm nghe, – George nói.
- Đi về phía phố Canal.
- Rõ, – George trả lời.
Phil xoay đầu về.
- Bên dưới cái vỏ ngụy trang chợ hoa nửa đêm, gã có thể làm rất nhiều thứ khác, – anh nói.
- Vì thế mà mình cũng đòi cho người theo dõi gã.
Qua máy điện đàm, chúng tôi nghe giọng các bạn đồng nghiệp bàn bạc và liên tục thay đổi vị trí để không khiến kẻ bị truy đuổi nẩy nghi.
- Dừng lại ở góc Đại Lộ Số Sáu…
- Tôi tiếp nhận.
- Tiếp tục. Chú ý, gã lại dừng…
- Tại sao? Cậu có nhìn thấy đèn không?
- Không. Có thể gã hỏi đường. Khu đó tối…
- Này, cái gì kia? Có đứa xuống xe!Số 2! Nhìn thấy gì không?
- Không nhìn thấy gì. Cái xe tiếp tục đi. Bọn tôi bám theo.
Tôi chồm lên hàng ghế trước và giật lấy microphone. – Cotton đây! Khốn nạn, chuyện gì thế?
- Joe cho rằng có kẻ đã xuống xe. Chính xác ở góc cắt với đường Minetta Lane. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả.
- Ở đó có một đường dẫn xuống bến tàu điện ngầm?
- Bến đó vào giờ này đóng cửa. Ở quãng trường Sullivan chỉ mở những cổng chính đến Phố Số 3 và Phố Số 4. Nếu có một đứa xuống xe, chắc nó phải chạy đến quảng trường Washington.
Xe số 1 báo cáo. – Chúng tôi đã vượt qua xe chở hàng. Chỉ nhìn thấy một người trong cabin. – Tôi buột miệng chửi thầm.
- Xe số 2 đây. Chúng tôi rà khu quảng trường Washington cho tới góc phố Bleecker. Nhưng tôi dám cuộc là thằng đó biến rồi…
Tôi lại buột miệng chửi. Rồi tôi xoay sang với laura Oliphant, người đàn bà này đang căng thẳng ngồi trên mép ghế.
- Người đàn ông mà các ông nói tới là ai vậy? – Cô ta hỏi.
- Gã tên Mario Aldina. Bà đã nghe thấy cái tên này bao giờ chưa?
- Tôi … tôi nghĩ là chưa…
- Gã giết thuê. Gã làm việc cho Riccardi. Có thể gã vừa nhận được hợp đồng mới. Sau khi tôi tới đó, Greenfield có gọi điện cho Las Vegas không?
Bà Oliphant gật đầu.
- Thế thì chắc Las Vegas đã gọi điện cho Riccardi, và Riccardi giao việc cho Aldina.
Laura Oliphant thoáng nhắm mắt. Người cô ta lảo đảo khi Phil cho xe phi qua một nắp cống ngầm. Thế rồi cô ta mở lớn mắt ra.
- Ông có biết khách sạn Imperial? Nó nằm ở khu Tây Broadway, nếu tôi không lầm.
- Phố Houston khu Tây, – Phil nói.
- Tới đó bao xa?
- Kể từ đâu?
- Từ chỗ gã đàn ông đó xuống xe.
- Nhiều nhất là 10 phút. Tại sao?
- Trời đất ơi, Hugh đang ở đó. Anh ấy không muốn về nhà, vì anh ấy muốn chờ tôi gọi tới…
- Phil! Còi! Nhanh!
Phil đạp chân xuống bàn ga. Tiếng còi phát những làn sóng âm thanh chói gắt xuyên qua những con phố vắng bóng người.
- Làm sao mà chúng nó lại biết anh ấy đang ở đâu? – Oliphant hỏi.
- Chắc do ông ta tự nói cho chúng nó nghe. – Nhưng ông ta không hề tính đến khả năng Sonny Galano sẽ ngay lập tức gửi sát thủ đến. Có vẻ như Sonny có khả năng đánh giá tình hình xác thực hơn là Greenfield.
- Xe số 1 đến xe số 3! – Tôi nói vào Microphone. – Tất cả ngay lập tức đi về khách sạn Imperial, phố Houston khu Tây! Không còi! Kẻ đang bị truy lùng sẽ tìm cách lọt vào trong. Quan sát kỹ! Trung tâm nghe, trả lời!
- Có đây, Jerry.
- Gọi cho khách sạn Imperial! Nhanh! – Tôi phải bám chặt vào lưng hàng ghế trước khi chiếc xe nhảy qua một đoạn đường không bằng phẳng. Bà Oliphant bị nẩy ngả vào người tôi. – Số phòng bao nhiêu? 7-21?
- Vâng.
- George! Cho nối với phòng 7-21, rồi chuyển máy vào kênh này!
- Chờ đã… Tay gác cửa gây khó dễ. – George biến ra khỏi đường dây mốt thoáng. Rồi anh trở lại: – Ổn rồi, Jerry, cậu nói được rồi.
- Hallo, Greenfield? Phải ông không?
Im lặng ở đầu dây bên kia. Rồi sau đó: – Ai thế?
- Cotton đây. Greenfield, ông nghe tôi cho kỹ! Bây giờ mỗi phút đều có thể mang tính quyết định! Ông đã gọi điện cho Las Vegas, và Las Vegas đã quyết định xử lý ông. Tay sát thủ đã biến ra khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi cách đây bốn phút bên quảng trường Sheridan.
- Nếu anh muốn lòe, Cotton…
- Ông quá rõ là một vụ lòe bịp sẽ có sức mạnh chứng minh tới mức nào trước tòa án. Greenfield. Bây giờ ông còn duy nhất hai khả năng. Hoặc là ông cố thủ trong phòng đó, nếu căn phòng đó chắc chắn, hoặc ông rời phòng ngay lập tức và trốn đi nơi khác. Tôi không biết tòa nhà đó…
Nhưng ông phải quyết định ngay lập tức. Chỉ vài phút nữa là người của chúng tôi tới nơi.
-Cotton, tôi không làm gì hết! Ngay từ đầu tôi đã biết là anh định nhắm vào tôi. Muốn vu vạ cho tôi. Tôi không thèm tin câu chuyện nực cười đó lấy nửa lời!
Tôi giơ microphone đến trước mặt Laura Oliphant. – Bà nói cho ông ta nghe.
- Hugh! Đúng đấy! Em ngồi ở đây và nghe thấy hết cả rồi! Nhóm sĩ quan đặc nhiệm đã để lạc mất cái xe ô tô cùng với … cùng với … gã đàn ông đó!
- Ông nghe chưa, Greenfield, nếu ông còn muốn sống…
Phil vượt đèn đỏ, lao sát sạt trước mõm một chiếc taxi. Phía trước đã hiện ra cụm đèn giao thông cắt với phố Houston. Phil giảm ga một chút. Những bánh xe rên lên não nuột khi anh đánh chiếc Mercury vào vòng cua. Vậy mà bạn tôi vẫn còn có thời gian để tắt còi.
- Greenfield, tôi không tin là ông còn nhiều thời gian đâu. Bây giờ ông muốn làm gì?
- Tôi ở trong phòng tôi! Và tôi cảnh cáo anh, nếu anh muốn dùng bạo lực!
- George! – Tôi kêu lên. – Cậu tiếp nhận điện thoại! Đừng ngắt liên lạc!
- Được, – sĩ quan trưởng ca trực khẳng định.
- Xe số 1 đến xe số 3! Báo cáo vị trí!
Tiếng báo cáo hối hả nối nhau. Các bạn đồng nghiệp đã vào những vị trí cho phép họ quan sát khách sạn từ nhiều phía. Một dáng người khả nghi chắc chắn không thể lọt khỏi tầm ngắm.
Khách sạn Imperial hiện lên trong tầm nhìn. Đầu tiên, tôi để ý đến số lượng rất nhiều những cửa sổ còn sáng đèn trong tầng trệt. Khoảng mái che uốn hình vòng cung ở phía trước cửa vào nổi lên một vẻ kỳ lạ giữa một khung cảnh tiêu điều xuống cấp với những ngôi nhà gạch trần cổ kính đã đen kịt theo thời gian. Trong tầng trệt của khách sạn có một quán rượi và một sàn nhảy. Lại còn thế nữa, tôi bực dọc nghĩ thầm, khi nhìn thấy hàng loạt những chiếc xe mô tô dựng trước cửa vào.
Phil dừng xe bên ngoài quầng sáng. Tôi gắng sức quan sát toàn bộ khung cảnh mờ tối xung quanh bằng mắt trần. Ở phía trái có một con đường hẹp, nhưng đã bị chắn ngang bằng một lần song sắt quét sơn đen. Phía ngang hông ngôi nhà có một cầu thang cứu hỏa. Mặt trước có hai. Đường nét những gọng thép nhòa vào bóng tối.
- Chỉ có mặc áo giáp chống đạn mới vào được trong đó thôi, – Phil nói.
- Anh làm cái gì đi chứ! – Bà Oliphant thúc giục.
- Được rồi, thưa bà, – tôi nói. Rồi tôi nhấn xuống phím nói của dàn máy.
- Các bạn, tôi cần từ mỗi xe một người. Gặp nhau ở góc phía Đông.
Mario Aldina nhảy qua bức tường chắn, rơi vào con dốc thấp dẫn xuống sàn nhảy. Gã khuỵu gối giảm cú xóc rồi bám chặt vào gờ tường. Hơi thở gã hơi nhanh hơn bình thường một chút. Nhưng ngoài ra, người t a không hề nhận thấy là gã vừa chạy một đoạn. Nền dất dưới chân gã đang rung trong một nhịp điệu gay gắt của những làn sóng âm thanh được phát ra từ những dàn loa Stereo cỡ đại phía bên trong tường nhà.
Gã nhìn qua mép tường, lướt về phía Tây. Cảm giác có người đuổi theo gã. Bản năng gã rất thính nhạy, gã biết điều đó. Nhưng gã không tin lại có người biết được hiện gã ở đâu hoặc gã cần phải xử lý đối tượng nào. Một vị khách của khách sạn. Đó không phải là chuyện khó khăn trong một khách sạn dạng này.
Gã cởi tấm tạp dề màu nâu ra, cuộn tròn nó lại rồi xoay người. Bất giác, gã rụt đầu về khi thấy một quầng đèn pha lướt ngang đầu. Quầng đèn pha tắt ngay trong tích tắc sau đó.
Aldina đút chiếc tạp dề ra phía sau chấn song sắt của một khuôn cửa sổ được đóng kín từ bên trong. Thế rồi gã bấm vào chuông.
Có ngọn đèn sáng lên phía trên đầu gã. Hơi mất tự tin, gã đưa mắt lên phía trên. Nếu bây giờ có ai đứng trên phố nhìn xuống dưới này, gã quả thật không có khả năng chống cự. Gã ép chặt cánh tay vào khẩu súng lục đang nằm dưới lần áo veston nhẹ mỏng. Gã đã quyết định sử dụng súng lục.
Gã mới nhận được công việc này cách đây vài tiếng đồng hồ, và điều kiện đưa ra là ngay lập tức!
Gã không có thời gian để chuẩn bị. Trong một tình huống cấp bách như thế, chắc chắn là mang súng lục. Nhưng khi vào việc thật sự, nếu có thể gã sẽ sử dụng con dao gập giờ đang đút trong tay áo bên trái. Chỉ một cú giật tay nhanh lẹ là con dao sẽ trôi thẳng ra bàn tay gã.
Cánh cửa trước mặt gã mở ra và một cô gái trẻ trung với mái tóc dài mềm như lụa quan sát gã từ hai con mắt trẻ thơ mở lớn.
- Ông có đến đúng chỗ không đấy, ôi trời! – Cô gái hỏi.
Gã bước một bước dấn thẳng về phía cô, và cô né sang bên, để trống cửa vào. Khi gã nhìn thấy những bộ quần áo óng ánh bám sát cơ thể của những người khác thì gã hiểu ý cô gái vừa muốn nói gì. Gã mặc quần đen và một chiếc veston màu xám, bên dưới là sơ mi sáng màu và cà vạt, một thứ trang phục thích hợp cho hầu như mọi nơi mọi chốn. Chỉ trừ một sàn nhảy xứ New York.
Cô gái vẫn bám sát theo khi gã chuyển động dọc quầy rượu rất dài. Những âm thanh gay gắt thúc vào tai gã, và ánh điện phản chiếu lấp lóe khiến gã hơi choáng váng. Gã bám vào thanh sắt bên quầy.
- Chắc ông là một vị khách của khách sạn phía trên kia? – Cô gái thét vào tai gã.
Gã gật đầu.
- Ông có muốn uống gì không?
Gã ép mình mỉm cười, nụ cười được cô gái đáp trả. Gã lắc đầu.
- Chắc tôi vào nhầm cửa. Người ta có thể từ đây đi lên phía trên kia không?
Cô gái chỉ vào một cánh cửa. – Ở phía hành lang kia. Ông hãy dùng cầu thang phía sau nhà.
Mario Aldina lách người qua mặt cô gái. Gã luôn gặp may. Có vẻ như hôm nay cũng thế.
Những bậc cầu thang bằng bê-tông dốc đứng lên trong một khu cầu thang riêng. Vì nó cũng đồng thời được dùng làm cầu thang thoát hiểm, nên tất cả các cánh cửa che lửa dẫn vào từng tầng nhà đều không bị khóa.
Người đàn ông ở tầng thứ 7, phòng 7-21, có thể được coi như đã chết…
Tôi không cần chờ lâu. Jimmy Stone, Nick Viola và Pit Grossow thình lình nhô lên như những bóng ma được cắt ra từ bao cảnh tốt thẫm.
- Ta đi bắt con chó lợn, – Jimmy bực bội tuyên bố. – Nó đã một lần sổng ra, giờ ta tóm nó lần nữa.
- Mình vừa tính lại xong, – Pit điềm tĩnh nói. – Nó có thể vào trong kia rồi. Xe của bọn mình đứng ở góc phố Thompson. Ở đó có một con ngõ hẹp dẫn tới phía sau lưng khách sạn này. Trong ngõ tối đen như mực. Ít nhất cũng phải điều một xe đến chiếu đèn pha vào ngõ đó. Ngoài ra, bọn mình còn có đèn pha cầm tay.
- Được, Pit, cậu sắp xếp vụ này. Nhưng đừng vào trong ngõ!
Pit chạy đi. Nick Viola hỏi: – Ta chờ gì nữa? Vào trong thôi!
- Cậu biết mặt gã không?
- Không.
- Thế thì đừng vội thế!
- Được rồi, được rồi, nếu cậu có sáng kiến hay hơn…
- Mình không có sáng kiến nào hay hơn, – tôi thú nhận. – Thôi được, Nick. Cả hai đứa ta sẽ lên tầng 7 và tìm cách đưa Greenfield ra ngoài. Còn cậu, Jimmy, nhận việc điều phối dưới này. Cậu có mang máy bộ đàm chứ?
Cả hai anh bạn đồng nghiệp của tôi đều mang bộ đàm.
- Ta đi thôi! – Tôi bước thẳng về phía mái che uốn cong ở phía cửa vào. Khi vào quầng sáng, tôi thoáng có cảm giác khó chịu. Nhưng rồi tôi bước thẳng vào đại sảnh. Ở đây rất yên lặng.
Không khí bốc lên mùi hành và mỡ rán, các cửa dẫn vào Snack-bar đang mở ngỏ. Đằng sau quầy rượu có một người đàn ông đội mũ đầu bếp đang ngồi lim dum, nhưng người gác phía sau bàn tiếp tân lại tỉnh như sáo và anh ta đang quan sát chúng tôi bằng vẻ nghi ngờ. Tôi chỉ về phía thang máy. Nick Viola gật đầu. Anh đi trước và ấn lên nút gọi, trong khi tôi chìa thẻ ra với người gác cử.
Bức tranh con đại bàng liên bang hoàn toàn chẳng gây ấn tượng gì với anh ta.
- Vào giờ này ông không có quyền…
- Chúng tôi đã báo trước. Phòng 7-21.
Anh ta ném một cái nhìn xuống bảng điều khiển. – Vị khách ở phòng 7-21 đang gọi điện, – anh ta nói.
- Nói chuyện với FBI, – tôi đáp trả. – Yên tâm đi.
Tôi bước về phía Nick, lại gần thang máy hơn.
- Bọn mình lên tầng 8 chứ? – Anh hỏi.
- Vội lắm rồi.
Vậy là Nick bấm lên nút số 7.
Cabin trôi chầm chậm. Nick sẽ ra trước và sẽ là người đầu tiên bước vào hành lang, vì Aldina biết mặt tôi. Trong một khách sạn như thế này, việc một người đàn ông rời thang máy là chuyện hết sức bình thường.
Thang máy dừng lại. Cánh cửa chuyển động. Nick bước ra ngoài và nhìn quanh. Anh giơ tay ra hiệu, cho tôi biết không thấy ai.
Hành lang dài khoảng 40 bước chân về cả hai phía. Phòng số 21 chắc phải nằm ở bên trái đối diện với nó có một cánh cửa quét sơn màu nâu. Tôi lướt lại gần và áp tai vào tấm kim loại lành lạnh.
Im lặng tuyệt đối. Thận trọng, tôi xoay nắm đấm và mở một khe nhỏ, rồi quan sát khu cầu thang chỉ được chiếu sáng bởi mấy ngọn đèn tường lờ mờ, đứng cách nhau khá xa. Tôi đóng cửa lại.
Nick đã tháo ra phần trên của một cây gạt tàn lớn. Anh cười khi đặt cái đầu hình bán nguyệt bằn kim loại đó lên trên nắm đấm cửa.
- Tội nghiệp, thằng bé sẽ giật mình lắm đây, – tôi cười khẩy.
Thật nhanh, tôi di chuyển dọc hành lang. Đến trước cánh cửa số 21, tôi đứng lại. Rồi nhìn quanh lần nữa. Sau đó tôi gõ cửa. Đường dây liên lạc qua điện thoại giữa Greenfield và trung tâm FBI vẫn hoạt động. Nếu tên sát thủ trong thời gian qua đã tìm cách lọt được vào phòng của Greenfield thì George chắc chắn đã báo động tới nhóm xe và các bạn đồng nghiệp chắc chắn đã truyền tin lên đây qua máy bộ đàm.
Greenfield ! – Tôi kêu khẽ. – Tôi đây, Cotton!
Greenfield mở cửa. Tôi thấy đôi mắt gã ta đằng sau khe cửa nhỏ. Rồi gã tháo sợi xích sắt an toàn. Gã mặc đầy đủ quần áo, mặt nhợt nhạt bất thường.
- Tôi chính thức tuyên bố rằng tôi sẽ không khai bất cứ điều gì. Tôi yêu cầu phải được nói chuyện ngay lập tức với một đại diện của công tố đoàn.
- Vâng, vâng, cái đó chúng ta có thể nói chuyện sau. – Tôi đi ngang qua mặt Greenfield và cầm lên ống nghe điện thoại đang để bên cạnh máy. – Hallo, George? Jerry đây. Bọn mình bây giờ sẽ đưa Greenfield xuống dưới.
Hai chúng tôi kẹp người đàn ông vào giữa. Đúng lúc đó, tôi nghe thấy cánh cửa thang máy cọ vào khe. Khốn nạn, tôi nghĩ thầm. Chúng tôi đã quên đặt cái gì đó lên rãnh hoặc bấm công tắc giữ cửa mở.
Tôi ấn lên nút gọi.
- Có lẽ phải đợi một chút, – Nick nói.
Sốt ruột, chúng tôi khẽ nhịp nhịp chân trên nền thảm.
Kia! Một tiếng nghiến khe khẽ vang lên phía sau lưng. Chỉ mình tôi nghe thấy. Tôi xoay về, cái đầu cây gạt tàn bằng tôn chuyển động. Tôi gạt Nick và Greenfield sang bên. Chính lúc đó cái đầu bằng tôn rơi xuống. Tạo lên một tiếng kêu ầm vang, rổn rảng, nó lăn đến trước mũi chân tôi.
Chấp nhận mạo hiểm vô tình tặng cho một nhân viên khách sạn vô tội một vết sưng to tướng trên đầu, tôi đạp mạnh vào cánh cửa.
Cánh cửa đập vào vật cản, nhưng cứ theo cái tiếng kêu rất lớn của nó thì chắc tên giết người đã đoán được hành động này.
Gã bắn qua khe cửa. Đạn chì rít sát người tôi. Thế rồi tôi thúc mạnh vai vào cánh cửa, khiến nó bật ra.
Aldina đang theo cầu thang xuống dưới. Tôi chạy vọt theo, nhảy qua một đoạn tay vịn cầu thang và có được một chút lợi thế về không gian. Vừa chạy, Aldina vừa nổ súng lên hướng tôi. Những mảnh đạn rú rít trong lồng cầu thang chật hẹp.
Thêm một khúc cua nữa. Tôi lấy đà nhảy tới. Aldina đứng lại. Gương mặt u ám của gã vênh lên, hướng về phía tôi. Tay trái duỗi thẳng ra. Có ánh thép lóe.
Đã quá muộn để phanh lại cú nhảy. Tôi nhìn thấy lưỡi dao tiến sát lại phía mình. Chắc chắn nó phải đâm vào bụng tôi.
Tôi buông rơi súng lục, đập tay vào đoạn tay vịn cầu thang rồi vừa đạp hai chân về phía trước, hạ cánh xuống khoảng giữa gã đàn ông và tay vịn cầu thang. Aldina muốn bổ nhào vào tôi. Tôi rút một chân lên. Lưỡi dao rạch rách quần. Trong một thoáng, cảm giác đau bùng cháy bên bắp chân. Rồi tôi đạp tới.
Aldina bay với hai cánh tay dang rộng, bay ngược về phía sau. Vang lên một tiếng động trầm đục đáng sợ khi gã đập lưng xuống và nằm bất động.
Tôi nhặt lên hai khẩu súng lục của tôi và của gã cùng con dao gập, tập tễnh đi về phía gã đàn ông và đưa tay sờ mạch.
Mạch đập mạnh và đều. Tôi rút máy bộ đàm. – Các cậu nghe thấy không? – Tôi hỏi.
- Có, rất rõ. Cậu ở đâu thế?
- Ở đâu đó giữa thiên đường và địa ngục. Tìm mình ở khu cầu thang thoát hiểm! Và cho gọi xe cứu thương! Aldina bị dính đòn.
Vào một buổi sáng ngày hôm đấy, thật bất ngờ mà tôi có được một giấc ngủ rất sâu, kéo dài tới gần trưa. Khi chuông điện thoại reo thì tôi đã tỉnh rồi. Phía đầu dây bên kia là sếp FBI.
- Các anh đã làm được rất nhiều việc và đã đẩy một vài sự kiện phải chuyển động theo, Jerry, – vị sếp FBI New York vào thẳng vấn đề chính. – Nhưng công việc thật sự bây giờ mới bắt đầu. Những tay gangster của Riccardi đồng loạt im lặng. Bà Oliphant còn nói ít hơn chúng và Greenfield chỉ đưa ra những lời tuyên bố. Aldina bị gãy xương quai xanh và nằm trong bệnh viện Bellevue. Không thể tính đến khả năng là gã sẽ khai một nửa lời. Dù sao gã cũng sẽ bị đưa ra trước tòa, ít nhất thì cái đó cũng là chắc chắn. Sau khi khám nhà sáng hôm nay người ta đã tìm thấy ở nhà gã bộ đồ tập chạy màu xanh dương. Những khúc sợi tìm thấy ở hiện trường khu Queens chắc xuất xứ từ bộ đồ này. Chiều hôm nay ta sẽ nhận được kết quả của phòng thí nghiệm. Nhưng nếu những đoạn sợi này là bằng chứng duy nhất, thì chắc chắn chúng ta sẽ không cáo buộc được gã tội giết người. Còn lại, cao nhất là tội tàng trữ vũ khí trái phép. Và gã đàn ông giật dây ở Las Vegas, Sonny Galano, chắc vẫn có thể tiếp tục phạm tội. Giờ chỉ có duy nhất Riccardi buộc tội được gã ta.
- Sếp có thể quên Riccardi đi, thưa sếp, – tôi nói.
- Vậy tại sao ông ta lại gọi điện đến? – John D. High hỏi.
Tôi nhớ lại những lời nhận xét bí hiểm của Riccardi, những lời nhận xét mà ông ta đã đưa ra vào ngày hôm qua khi tôi đẩy xe lăn đưa ông ta từ ban công vào trong nhà. Không một kẻ nào có thể lừa đảo một người như Domenico Riccardi… Có thể tôi sẽ cho anh một cơ hội..
- Gã muốn gì? – Tôi hỏi như bị điện giật.
- Anh cần có mặt ở nhà gã đúng hai giờ chiều. Không sớm hơn.
Nếu tôi gọi cho anh, anh phải tới đây ngay, không đặt câu hỏi nào.
Tôi có cảm giác nôn nao, mặc dù tôi vừa ăn một bữa trưa nhỏ.
- Jerry, anh đừng liều lĩnh!
- Không, thưa sếp, tôi tin là yếu tố mạo hiểm lần này không nằm ở phía tôi, chắc chắn thế. Chiều nay tôi sẽ vào văn phòng. – Tôi ấn xuống giá máy và gọi ngay lập tức cho Phil. Vì bận rộn với việc cung cấp Aldina và Greenfield vào nhà tù cho tới tận mờ sáng, nên hai chúng tôi đã hẹn là sẽ gặp nhau vào khoảng trưa.
- Mình đền đón cậu lúc 1 giờ 30, – tôi nói ngắn.
- Được, – Phil đáp.
Dom Riccardi lại ngồi tắm nắng trong khoảng ban công của căn biệt thự trên cao. Người đàn ông nhắm mắt, cho tới khi cái bóng của Sal Bartolis đổ lên người ông.
Nét mặt Sal đầy lo âu.
- Có chuyện gì thế, Sal? – Riccardi khẽ hỏi.
- Nó vừa tới.
- Mấy giờ rồi?
- 2 giờ kém 15. Nó mang theo hai tên cận vệ.
- Để chúng nó đợi ở phòng khách. – Riccardi gạt chăn ra. Sal cầm lên và cẩn thận gập gọn lại.
- Ông không muốn cân nhắc thêm một lần nữa sao, ông Riccardi? – Sal buồn bã hỏi.
- Sal, tôi đã quá tuổi rồi, anh biết không? Trong thành phố này không còn chỗ cho những người như tôi. – Riccardi mỉm cười. – Rồi anh sẽ tự hào về tôi. Nếu Cotton đến, anh sẽ biết anh phải làm gì. Còn bây giờ, gửi thằng con hoang lên đây!
Dom Riccardi nhỏm dậy và bước một vài bước chân. Bệnh gút khiến việc đi lại trở thành rất vất vả. Ông ta đi vòng quanh một chậu bê-tông rất lớn, thành chậu lấp bên dưới những lớp dây leo xanh ngắt. Rồi ông ta bước đến bên lancan và nhìn xuống.
Bên dưới ông ta là 38 tầng nhà. Tít tắp dưới sâu những chiếc ô tô đang chạy ngược chạy xuôi dọc Đại Lộ Số 3. Hàng đống người tụ tập quanh các ngã tư.
- Dom! Ông ở đâu? – Sonny Galano gọi.
- Ở đây! Anh lại đây!
Sonny Galano đi vòng quanh chậu bê-tông trồng hoa. Làn da mặt Sonny rám nắng. Mái tóc xoăn đen óng ánh như được bôi dầu. Vào thời của tao, bọn con trai không bao giờ thèm chơi trò đỏm dáng như mày, Riccardi nghĩ thầm, và ông già cố nén không bật lên một tràng cười ha hả. Cái bọn Mafia nhãi ranh ngày nay ăn mặc và cư xử giống hệt những đồ nhãi ranh mà chúng nó nhìn thấy trên truyền hình.
Cuộc sống đã thay đổi nhiều biết bao! Sonny chìa tay phải tới. Tay trái của gã cầm một chiếc cặp mỏng và dẹt.
- Dom, ông khỏe chứ?
Riccardi gật đầu.
Nét vui vẻ trong người đàn ông còn tăng lên hơn khi Galano tuôn ra cái tính rẻ tiền ngu đần và khẽ cọ má gã vào má Riccardi.
Thật giống như trong phim, ông già nghĩ thầm. Galano xoay người. – Tại sao ông lại trốn ở góc này? – Gã hỏi.
- Bọn đặc nhiệm bây giờ được trang bị kỹ lắm, – người đàn ông nói. – Microphone định hướng, camera với ống kính tele. Chúng nó chẳng chừa thứ gì…
Mặt Sonny Galano sầm xuống. – Tôi đã nghe tin xấu rồi. Bọn đặc nhiệm đã bắt giam ủy viên công tố của tôi. Và một người tên là Aldina. Tôi đoán đây chính là tay chuyên gia mà ông có nói tới trong cú điện thoại hôm qua.
Riccardi gật đầu, và một nụ cười chế giễu uốn cong vành môi của Galano.
- Giờ ông không còn một tay sát thủ trung thành nào nữa, kẻ nợ ông một món nợ ân tình, Dom.
- Tôi vẫn còn khả năng đạt mục tiêu bằng chính sức mình, Galano. Anh có mang cổ phiếu theo không?
- Tôi có mang đi theo, nhưng lúc lên đường tôi chưa biết được những tin tức tồi tệ kia. – Galano ra vẻ hối tiếc, gục gặc cái đầu. – Tôi e ngại rằng, Dom, tôi cần phải tìm một mối liên hệ mới ở New York đây. Chuyện này sẽ tốn kém…
- Và chẳng còn mấy đồng sót lại cho một ông già, phải thế không?
- Ông không nên cay đắng như thế, Dom. Ông phải hiểu tôi chứ.
- Anh là một thằng lưu manh cò con. Anh tởm lắm, Galano.
Mặt Galano cứng lên, và gã bước một nửa bước về phía Riccardi. Riccardi bình tĩnh nhìn gã đàn ông trẻ tuổi.
- Nào, Galano! Anh chỉ cần đẩy một cái là tôi ngã qua lan can.
Galano cười khẩy. – Tôi không làm hộ ông chuyện đó đâu, Dom. Với ông thì chuyện đó đâu được lợi gì, ông hiểu không? Nhìn theo phương diện làm ăn, tôi sẽ lỗ to nếu giết ông và nhận tới 20 năm đằng sau chấn song sắt, trong khi bản thân ông có thể ngã lăn ra chết bất cứ lúc nào. Tôi tin rằng, nói thế là đủ rồi, Dom. Vĩnh biệt!
Galano giật người lên khi nhìn thấy Sal Bartolis rẽ vòng quanh góc nhà. Sal đến đứng bên cạnh Riccardi và thì thào điều gì đó vào tai ông già.
- Ông Cotton và ông Decker có ở đây, – người hầu trung thành nói. – Họ đang chờ…
Riccardi mỉm cười.
Sal bước một bước lùi về phía sau. Mặt ông ta đột cứng đờ ra như được tạc bằng đá.
Galano nhìn từ người này sang người khác.
- Các người đang âm mưu một trò con lợn nào đó!
Riccardi vẫn mỉm cười. Hai bàn tay ông ta bám chặt lan can.
- Galano xoay sang phía Sal, lưng quay về phía Riccardi.
- Ông nói cho tôi biết đi, ông ta muốn gì! Tôi không hiểu.
Sal nhắm mắt lại.
Galano xoay về.
Riccardi không còn ở đó nữa.
Galano rên lên khi cúi người qua mép lan can, và hai đầu gối gã mềm nhũn ra khi nhìn thấy cái thân người bay trong không khí với hai cánh tay giật giật, và khi gã nhìn thấy thân người đó đập vào khoảng ban công của tầng nhà thứ sáu, sau đó xoay về. Không điều khiển nổi giọng nói của mình nữa, gã khào khào rên lên: – Sal, chính ông đã nhìn thấy…
Sal nhếch môi lên.
- Vâng, thưa ông, tôi nhìn thấy tất cả.
Ông ta nhô người ra khỏi chậu trồng hoa bằng bê-tông và vẫy tay:
- Mời các quí ông, mời các quí ông đến nhanh lên!
Sal Bartolis hối hả vẫy tay, và chúng tôi chạy ra ngoài ban-công. Bất giác, tôi giật tay về phía súng lục, nhưng vẫn để nó nằm trong bao.
Phía sau chậu bê-tong có một gã đàn ông cao mảnh tóc xoăn. Mới ngày hôm qua tôi vừa nhìn thấy ảnh gã. Ra đây là Sonny Galano.
Nhưng Dom Riccardi ở đâu rồi?
- Jerry! – Phil mím môi nói, và tôi cúi người qua lan can.
Lúc bấy giờ tôi nhìn thấy ông ta, và tôi linh cảm được chuyện gì đã xảy ra.
- Tự ông ta lao xuống! – Galano thét lớn. – Sal, chính ông đã nhìn thấy! Ông nói đi! Ông đã nhìn thấy.
Sal nghiêm trang nhìn tôi.
- Tôi đã nhìn rất rõ, thưa ông. Khi tôi nói với ông Riccardi là các ông vừa tới, thì ông Galano đã hất ông ấy ngã qua lan can. Tôi sẵn sàng nhắc lại lời khai của mình bất cứ lúc nào và sẵn sàng thề chỉ khai sự thực.
Galano giật lùi về. Gã la thét đòi cận vệ rồi xoay qua thúc chiếc cặp đựng tài liệu vào bụng tôi.
Phil tóm tới. Anh giật tay Galano ra sau lưng gã và cho còng sập xuống.
Vào ngày thứ bảy tuần đó chúng tôi gặp nhau trong căn hộ của Kellin. Đó là ngày mà lẽ ra Cora đã muốn nấu bữa tối. Kellin tự tay chuẩn bị món rau trộn và một vài tảng thịt rán, và chúng tôi uống rượu vang cùng rượu Whisky, cứ như thể chúng tôi có cớ để mà mở tiệc.
Không ai nói một lời về những sự kiện đó, nhưng ai trong chúng tôi dĩ nhiên cũng đều nghĩ tới chúng, những gì đã xảy ra trong những ngày vừa qua.
Lệnh cho Kellin tạm ngưng việc đã ngay lập tức được xóa bỏ sau khi Greenfield bị bắt giam. Chàng thanh tra bây giờ đã được phục hồi danh dự hoàn toàn.
Và chắc chắn cánh quan tòa sẽ có cơ hội thực thi nhiệm vụ của họ. Sonny Galano, kẻ bị cáo buộc tội giết người, đang tìm cách thực hiện một cuộc thương thuyết với công tố đoàn.
Gã sẵn sàng nhận tôi đút lót cũng như những tội nhẹ nhàng tương tự, nếu thay vào đó cáo buộc giết người trong vụ án Riccardi được bỏ qua.
Trong cơn sợ hãi nhận án tù chung thân, gã đã vu tội cho Greenfield rất nhiều.
Sal Bartolis, kẻ tay chân trung thành cuối cùng của Riccardi, vẫn trơ trơ như đồng giữ lời khai đầu tiên. Nếu Sal nhắc lại lời khai đó trước tòa, Galano sẽ “bay ngay ra khỏi kệ hàng”, theo cái cách người ta thường nói.
Nếu suy cho kỹ, chúng tôi quả cũng có lý do mở tiệc: chúng tôi đã chiến thắng trên toàn cục. Nhưng chẳng ai vui được vì vụ án này.
Anh bạn đồng nghiệp Michael Kellin của chúng tôi đã phải trả giá quá nhiều cho cuộc tình cuối của anh.