_
Đêm ấy, Thiết Long vô tình chạm vào vết thương nơi vai trái của nhị nương, bà nhăn mặt rên rỉ. Thiết Long giật mình, nhìn ái thê dò hỏi.
Tú Châu liếc yêu trượng phu rồi nói :
- Nữ lang áo xanh kia chính là thiếp đấy.
Bà cởi áo cho Thiết Long xem hai vết thương ở vai và lưng. Ông cảm động hôn lên trán Tú Châu :
- Không ngờ nương tử lại liều mình để hỗ trợ ta.
Ông bỗng nhớ ra :
- Vậy nàng có biết diệu nhân kia không? Hình như ông ta đã cứu nàng và đem vào cánh rừng liễu mà.
Tú Chân thẹn thùng lắc đầu :
- Người ấy hoàn toàn không nói tiếng nào! Ngay cả khi trúng một chùy vào giữa lưng mà cũng chẳng hề rên rỉ. Thiếp đã quan sát vết thương ấy, áo đã bị gai chùy móc rách mà không hề có dấu máu.
Thiết Long kinh hãi :
- Chỉ có ai luyện Thiết Thạch thần công và hoàn thành lớp thứ bảy mới có khả năng ấy thôi Nhưng trừ ta và nhị đệ ra, không còn ai biết được tâm pháp ấy.
Tú Chân giật mình, suy nghĩ một lúc rồi nói :
- Không thể là Hạc nhi được! Nó đang nghi ngờ chàng là Văn Chí Khải tất sẽ không liều mình cứu Nhật Nguyệt song ma!
Chợt bà nghiêm sắc mặt bảo :
- Mấy năm qua, chúng ta đã hiểu Song ma không phải kẻ ác. Họ chỉ bị Chí Khải lợi dụng mà thôi. Sao chàng không âm thầm nói rõ sự thực cho Hạc nhi nghe?
Thiết Long cười buồn :
- Nếu nói ra thì còn gì danh dự của Hà muội và nhà họ Văn? Tuấn Hạc là người đọc sách, trọng lễ nghĩa, tất sẽ rất đau lòng và tủi hổ.
Tú Chân chỉnh sắc :
- Thiếp lại nhận xét khác với tướng công. Hạc nhi là người phóng khoáng, thông tình đạt lý chứ không cố chấp như bọn hủ nho. Nó sẽ thông cảm được với chúng ta.
Thiết Long rầu rĩ đáp :
- Có lẽ không cần phải nói ra đâu. Trong cuộc chiến với Thiên Độc giáo, vợ chồng ta chắc gì đã sống sót? Vài ngày nữa, ta sẽ đóng cửa tiêu cục và gởi Tuấn Hạc xuống miền Đông. Có như vậy mới bảo tồn được tông tự họ Văn Tú Chân nghe lòng nặng trĩu, thầm công nhận tướng công có lý. Thế lực Thiên Độc giáo hùng mạnh nhất vùng phía Nam Trường Giang, cao thủ nhiều như mây. Nhật Nguyệt song ma và Văn gia bảo không tài nào địch lại.
Bà trầm ngâm một lúc, tủm tỉm cười :
- Tướng công! Sao người không tính đến chuyện lập gia thất cho Hạc nhi?
Thiết Long không hiểu :
- Trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, bàn đến chuyện ấy làm gì?
Tú Chân vui vẻ nói :
- Tướng công có nhớ đến chuyện Lưu Bị sang Đông Ngô cầu hôn em gái Tôn Quyền hay không? Biến Hình môn ở Ôn Châu mấy năm nay đã phát triển thành một bang hội hùng mạnh. Đương kim Môn chủ cũng có ý muốn dương danh thiên hạ. Tháng trước, thiếp có gặp lại một đồng môn, ông ta thố lộ như vậy. Đồng thời còn nói rằng Môn chủ đang kén chồng cho Thiếu môn chủ Cổ Doanh Doanh. Hạc nhi là con nhà dòng dõi, lại nổi tiếng thiên hạ về tài thi phú, cộng với dung mạo tuấn tú kia, lo gì không lọt vào mắt xanh của Cổ tiểu thư? Hôn sự mà thành tựu, Cổ môn chủ sẽ dốc sức tương trợ Văn gia bảo. Đây cũng là dịp để Biến Hình môn bành trướng về hướng Tây.
Thiết Long thầm nghĩ như vậy cũng là cách bảo toàn mạng sống cho Tuấn Hạc, vì nếu thất bại, chàng sẽ rút về trọng địa của Biến Hình môn. Ông hỏi lại :
- Nhưng dung mạo Cổ tiểu thư như thế nào?
Tú Chân trấn an :
- Tướng công chớ lo, nàng ta đẹp hơn thiếp nhiều.
Thiết Long đẹp dạ :
- Chỉ cần kiều diễm như nàng cũng quá tốt cho Hạc nhi rồi.
Sáng ra, trong bữa điểm tâm, ông trình bày kế hoạch của Tú Chân. Song ma cũng tự lượng sức mình nên không phản bác. Hân lão nương cười bảo :
- Té ra Chân nhi là đệ tử của Biến Hình môn!
Thiết Long khai luôn :
- Thưa phải! Nàng cũng chính là nữ lang áo xanh hôm trước.
Tuấn Hạc không ngạc nhiên vì biết rằng vợ chồng đầu ấp tay gối tất chẳng thể giấu diềm nhau. Hơn nữa, nhị nương đã thọ thương.
Thiết Long quay sang hỏi ý kiến chàng :
- Hạc nhi! Ngươi đã đến tuổi lập gia thất, Cổ tiểu thư lại là người sắc nước hương trời, nếu lấy được nàng, ngươi cũng chẳng thiệt thòi gì. Nay Cổ môn chủ nuôi mộng tránh bá, dương danh võ lâm, hợp với tình thế hiện nay của Văn gia bảo. Ngươi cứ đi Ôn Châu một chuyến xem sao, nếu không đúng như lời nhị nương thì hãy trở về.
Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ. Chàng hỏi Tú Chân :
- Nhị nương! Cao thủ của Biến Hình môn có bản lãnh gì lợi hại? Nếu quá tầm thường, e rằng chỉ uổng mạng mà thôi.
Hà nhị nương cười đáp :
- Trước đây, họ chỉ giỏi nghề hóa trang và sử dụng ám khí. Nhưng mười năm trước, Cổ môn chủ tình cờ bắt được một pho đao phổ. Ông cố công khổ luyện và dạy lại một phần cho các đệ tử. Nhờ vậy giờ đây, bổn môn đã có một đội dũng sĩ rất tinh nhuệ - đông đến năm trăm người. Cộng với những tuyệt kỹ tổ truyền, họ lợi hại hơn bọn giáo đồ Thiên Độc giáo. Nhất là khi Hạc nhi cho họ uống phòng độc đan.
Tuấn Hạc mang nặng mối tương tư Ôn Tiểu Băng nên không hề nghĩ đến chuyện lấy Cổ Doanh Doanh. Nhưng chàng cũng muốn đi về hướng Đông một chuyến để do thám tình hình Hoài Hạc bang. Sự im lặng của Vạn Bác Hồ Tinh khiến chàng lo ngại.
Trầm ngâm một lúc, chàng đáp rằng :
- Tuần phủ Giang Tây là bạn văn chương với Hạc nhi. Ông ta sẽ điều quan quân đến đồn trú gần Văn gia bảo. Thiên Độc giáo thấy vậy sẽ không dám đến Lư Lăng. Nhưng hài nhi cho rằng phụ thân nên tạm thời đóng cửa tiêu cục, đưa đệ tử về đây phòng thủ. Trong lúc ấy, hài nhi sẽ đi Ôn Châu.
Thiết Long hoan hỉ bảo :
- Để ta phái bốn cao thủ theo bảo vệ ngươi.
- Phụ thân quên rằng Tiểu Bạch thần dũng tuyệt luân hay sao?
Thiết Long cười ha hả :
- Phải lắm! Đến ta mà còn phải lúng túng khi so tài với nó.
Nhật Ma Hách Đông Danh giật mình :
- Chẳng lẽ con vượn nhỏ ấy lợi hại đến thế ư?
Lão quay sang hỏi Tuấn Hạc :
- Ngươi bắt được nó ở đâu?
Chàng đành phải kể lại câu chuyện bịa đặt kia. Hách lão gật gù :
- Nếu Tiểu Bạch giết nổi Ác Y Hồ Lộ Kỳ thì nó chính là linh vật của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt. Bốn mươi năm trước lão phu có gặp ông ta và một con vượn trắng. Không ngờ Cuồng Kiếm quy tiên mà nó vẫn còn đây.
Ba ngày sau khi Tổng binh Lư Lăng đã hạ trại cách Văn gia bảo trăm trượng, Tuấn Hạc mới yên tâm lên đường.
Ngoài tiền bạc, chàng còn mang thư giới thiệu của Thiên Diện Ma Cơ Hà Tú Chân. Bà là sư điệt của Môn chủ Biến Hình môn.
Nhưng chàng lại đi thẳng đến Kim Hoa, cách Ôn Châu bốn trăm dặm. Nơi đây chính là Tổng đàn của Hoài Hạc bang - nằm ngay trên ngọn đồi nhỏ cách cửa Nam thành mười dặm.
Đầu tháng bảy chàng mới đến nơi. Y phục ướt sạch vì cơn mưa hạ. Tuấn Hạc vào thành tìm chỗ trọ. Tắm gội, thay áo xong, chàng ra phố tìm bọn hóa tử. Cái bang bị triều đình giải tán nên không hề có Phân đà. Nếu ai có hỏi, bọn khất cái cũng chẳng dám nhận mình là con cháu của Hồng Thất Công.
Hôm nay là ngày mồng một nên đám hóa tử tụ tập đông đảo ở cổng chùa Lăng Nghiêm Tự.
Tuấn Hạc không vào chùa mà đứng ngoài quan sát bọn khất cái. Cuối cùng, chàng đã phát hiện ra kẻ đứng đầu. Đó là một lão già râu ngắn, tuổi độ ngũ tuần. Lão ngồi giữa hàng, trên ngực chiếc áo rách kín đáo điểm sáu mụn vá nhỏ màu xanh. Nếu không biết trước ký hiệu này, sẽ chẳng ai đế ý. Nó tượng trưng cho cấp bậc sáu túi. Lão chính là Phân đà chủ Kim Hoa.
Tuấn Hạc đã đổi sẵn một ít tiền đồng, chàng đi vào bố thí cho từng người. Đến trước mặt lão Phân đàn chủ, chàng ném tiền vào chiếc nón rách của lão, kèm theo đồng tiền cổ. Đồng thời chàng giả đò làm rớt cây quạt giấy, lúc cúi xuống nhặt quạt, chàng nói nhỏ với đối phương :
- Nửa khắc nữa ra sau chùa gặp ta.
Chàng thò tay lấy lại tín phù rồi đi vào chùa.
Chỉ vái vài cái lấy lệ, Tuấn Hạc trở ra ngoài.
Chàng đi vòng về phía bức tường sau Lăng Nghiêm Tự đứng chờ.
Lát sau, lão khất cái râu ngắn xuất hiện. Lão quan sát chàng rồi bảo :
- Công tử bao nhiêu niên kỷ?
- Bốn mươi!
Lão nghe đúng mật khẩu, hoan hỉ vòng tay :
- Tiểu nhân là Đoản Tu Cái Côn Hành Khuất. Phải chăng công tử ở họ Văn?
Chàng gật đầu rồi hỏi lại :
- Tứ trưởng lão Cù Sở Hòa đã đến đây chưa?
- Thưa đã! Người đến đây cách nay gần tháng Khi nghe nói Tổng đàn Hoài Hạc bang không còn một bóng người, trưởng lão dắt tiểu nhân đến tận nơi điều tra. Người đoán rằng ở đây đã xảy ra một cuộc chiến khốc liệt. Theo dấu vó ngửa để lại, Cù trưởng lão theo hướng Đông nam mà truy tìm. Người dặn tiểu nhân nếu công tử có đến thì báo lại rằng có thể tàn quân của Hoài Hạc bang kéo về hướng Ôn Châu - hoặc bị bắt làm tù binh. Nhưng từ lúc chia tay đến giờ, Phân đà Kim Hoa không còn nhận được tin tức của Tứ trưởng lão nữa.
Tuấn Hạc hỏi ngay :
- Túc hạ ở đây từ lúc Hoài Hạc bang ra đời, vậy có biết lai lịch của gã Bang chủ ấy hay không?
- Thưa không, ngoài cái tên giả Văn Tuấn Hạc, chẳng ai được thấy gã bao giờ. Nhân số Hoài Hạc bang cũng chỉ độ gần trăm.
Tuấn Hạc từ giã Đoản Tu Cái và khách điếm thu xếp hành lý đi ngay.
Mùa hạ này, các khối băng trôi từ Bắc Hải về phía Nam đã làm cho nhiệt độ Hoàng Hải xuống thấp. Không khí lạnh tràn vào khu vực hạ lưu Trường Giang, gặp khối khí nóng ẩm, khiến hơi nước ngưng tụ, trời trở nên âm u, có mưa phùn kéo dài.
Chàng đặt Thần viên vào lòng, trùm kín áo tơi thúc ngựa phi mau. Đường quan đạo lầy lội, nước đọng lại thành vũng và bắn tung tóe, làm cho bốn vó tuấn mã và hai chân chàng bùn bám lấm lem.
Hai ngày sau, trời đột nhiên quang đãng hơn, mưa ngừng rơi, mặt trời le lói sau đám mây xám lững lờ. Lúc này, Tuấn Hạc chỉ còn cách Ôn Châu chừng trăm dặm.
Trước mặt chàng là một đoạn đường vắng vẻ đi ngang qua khu rừng thưa. Tiến lên được hơn dặm đã nghe tiếng quát tháo, tiếng vũ khí va chạm vọng lại. Chàng đoán rằng lữ khách nào đó bị cường đạo chặn đường, liền thúc ngựa phi nước đại. Khi đến nơi, cuộc chiến đã gần tàn.
Sáu tên bịt mặt đang vây quanh hai thiếu nữ.
Nàng áo hồng đã mê man, nằm gục trên mặt lộ.
Nàng áo đen đứng bên, đang cố chống cự, nhưng chỉ như ngọn đèn sắp tắt.
Tuấn Hạc thấy cảnh ngộ này, nộ khí bừng bừng, quát vang như sấm :
- Lũ cẩu tặc!
Chàng như chiếc pháo thăng thiên rời yên ngựa, bay chếch về phía trận địa. Tiểu Bạch cũng không chịu chậm chân. Từ trên cao, Tuấn Hạc xuất chiêu “Khuê Đẩu Quang Minh”, nhắm vào đầu hai gã bịt mặt gần nhất.
Tiếng quát của chàng đã khiến bọn chúng đề phòng - vung kiếm đón chiêu. Kiếm phong rít lên ghê rợn, chứng tỏ một công lực thâm hậu.
Tuy nhiên, pho chưởng pháp này là tuyệt học hãn thế của Công Tôn Quang Nguyệt nên chẳng dễ gì đối phó.
Chưởng kình liên tiếp vỗ vào lưới kiếm và âm thầm xuyên qua chỗ sơ hở, giáng vào ngực chúng. Hai gã kia trúng đòn, gào lên thảm thiết quỵ xuống mặt đất.
Tiểu Bạch chỉ học được phần cầm nã và quyền pháp trong pho tuyệt học kia, nhưng bù lại nó có lớp lông dầy trắng muốt, không sợ gươm đao và thần lực bẩm sinh. Nó không tấn công từ trên xuống mà lao thẳng vào hạ bàn gã thứ ba. Đối phương chưa kịp nhận ra cái bóng trắng nhỏ bé kia là vật gì, cũng vung cước đá liền. Tiểu Bạch chụp ngay bàn chân bẻ mạnh khiến gã trật khớp kêu trời. Và sau đó là tiếng than vãn cuối cùng vì Thần viên đã thọc bàn tay đầy móng sắt vào bụng gã.
Ba tên còn lại điên cuồng lao đến tấn công.
Tuấn Hạc cười nhạt xông vào như không biết sợ chết là gì. Thân hình chàng uyển chuyển và linh hoạt luồn lách giữa ba thanh gươm. Thủ cước ra đòn như chớp giật, uy hiếp các nhược điểm của đối phương. Dường như chàng muốn mượn tay ba gã để thử uy lực pho chưởng pháp? Thực ra không phải thế, kiếm pháp của ba gã này rất ảo diệu, chàng thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên chưa tìm ra cách giải phá.
Nhưng Tiểu Bạch đã lao vào lưng một gã. Nó chẳng hề để ý gì đến qui củ của võ lâm hay tinh thần thượng võ cả. Đối phương nghe hơi gió vội quay lại, vung kiếm đỡ đòn. Trường kiếm chém vào lớp lông dày và trượt đi. Cánh tay dài thườn thượt của Thần viên vươn đến vỗ vào mặt gã. Đôi nhãn cầu vỡ nát, xương đầu rạn nứt, nạn nhân gào lên rồi ngã vật xuống.
Tuấn Hạc phấn khởi dồn chân khí vào song thủ, chụp lấy lưỡi kiếm của tên trước mặt.
Chàng lôi gã về phía mình và tống một quyền vào ngực. Lối đánh cương mãnh này khiến gã còn lại giật mình định đào tẩu. Tuấn Hạc cười nhạt ve vẩy đôi bàn tay. Mười ngón biến thành vạn ngón và một trong những ngón ấy búng luồng chỉ phong vào huyệt Liên Khuyết trên cổ tay hữu - thuộc kinh Thủ Thái âm Phế. Thanh trường kiếm rơi xuống, nhưng gã này có võ công cao cường, cơ trí biến báo nên đã nhịn đau vỗ thẳng vào ngực Tuấn Hạc. Gã đắc thủ nhưng nghe như đánh vào đá, chiếc cổ tay đau đớn gãy lìa. Chân phải Tuấn Hạc đã quất thẳng vào bụng dưới đối thủ, đưa lão về chín suối.
Lúc này thiếu nữ áo đen cũng đã gục xuống.
Chàng vội chạy đến xem thử. Thấy cả hai mê man bất tỉnh, mạch đập rất yếu, Tuấn Hạc cho họ uống linh đan.
Nếu họ là nam nhân, chàng đã có thể cởi áo xem xét thương thế và xoa bóp huyệt đạo.
Tuấn Hạc theo nho học nên trọng lễ nghĩa, không dám sơ xuất.
Trời lại u ám, mây đen giăng mắt, báo hiệu một cơn mưa. Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến tòa phế miếu cách đây nửa dặm. Lúc đi chàng đã thấy nó ẩn hiện trong rừng, cách vệ đường vài mươi trượng.
Tuy thiếu lịch duyệt nhưng chàng cũng hiểu rằng không thể để sáu tử thi kia nằm phơi trên mặt lộ, phe đối phương sẽ phát hiện lùng sục ngay. Chàng không sợ chúng nhưng còn hai thiếu nữ này thì sao?
Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch kéo xác giấu vào rừng, còn chàng đưa hai nạn nhân lên lưng ngựa.
Thần viên chỉ đi ba lượt đã hoàn tất nhiệm vụ Tuấn Hạc đặt hai người nằm vắt ngang qua lưng ngựa rồi dẫn đi ngược trở lại. Cơn mưa sắp đến sẽ xóa tan vết máu và dấu vó ngựa.
Vừa đến được tòa cổ miếu thì cơn mưa ập đến, không phải mưa phùn mà là mưa rào. May thay, một phía mái ngói còn nguyên vẹn nên phần nền chỗ ấy không bị ướt. Chàng trải áo tơi và thêm tấm áo choàng rồi mới đặt họ nằm lên.
Giờ đây chàng mới có dịp nhìn rõ gương mặt hai thiếu nữ. Nàng áo hồng tuổi độ đôi mươi, dù da mặt đang tái xanh vì thương thế mà vẫn lộ rõ một dung nhan diễm lệ. Ngược lại nàng áo đen có gương mặt nạm, xấu xí.
Tuấn Hạc bảo Tiểu Bạch canh gác rồi thăm mạch lần nữa. Thấy khí huyết trì trệ, không thông suốt dù trên người không dấu máu.
Chàng đoán rằng họ trúng chưởng thương.
Nhưng nếu không cởi áo họ ra, sao có thể nhận biết được thủ pháp mà chữa trị? Nghe hơi thở họ yếu dần, Tuấn Hạc cau mày lẩm bẩm :
- Lẽ nào thấy chết mà không cứu? Giữ được chút lễ nghĩa mà phế bỏ đạo nhân thì có xứng đáng là người quân tử hay không?
Nghe tâm yên ổn, Tuấn Hạc lật họ nằm sấp xuống, kéo áo lên xem, chàng hy vọng vết thương sẽ nằm ở phía sau như thế đỡ thất lễ hơn. Nhưng tiếc thay, hoàn toàn không có gì ca.
Chàng đành đỡ họ nằm ngửa trở lại. Nhớ đến Ôn Tiểu Băng, Tuấn Hạc bỗng ngần ngại.
Đồng ý rằng ngộ biến tùng quyền nhưng quan niệm tiết trinh thời bấy giờ rất khắc khe. Nếu những nạn nhân này không thông cảm, chàng khó mà từ chối hôn sự.
Nay Ôn Tiểu Băng vì chàng mà ngọc nát châu trầm, lẽ nào chàng lại đa mang thêm nữa?
Tuấn Hạc quyết định chữa trị cho thiếu nữ xấu xí kia trước, rồi nhờ nàng xoa bóp cho thiếu nữ áo hồng xinh đẹp. Có như thế, Tiểu Băng mới không trách chàng là người tham sắc.
Đã có chủ ý, Tuấn Hạc cởi áo ngoài và chiếc yếm đào của nạn nhân. Thân trên ngọc ngà hiện ra khiến chàng đỏ mặt. Người con gái thon gầy này lại đầy đặn, nở nang hơn bề ngoài.
Một dấu chưởng ấn xám xì nằm ngay giữa hai nhũ hoa. Tuấn Hạc quan sát và hồi tưởng lại Y kinh, chàng nhận ra đây là Khôi Yên Thủ của Thiên Sư giáo.
Chàng hít một hơi dài, cố trấn tĩnh tâm hồn, điểm vào các huyệt Trung Phủ, Thềm Tăng, Nhũ Trung, Bất Dung, Thần Phong. Trong đó có hai huyệt Nhũ Trung nằm ngay trên vú.
Sau đó, chàng ngồi xếp bằng, tả thủ đặt vào giữa hai vết thương, hũu thủ áp lên khí huyệt ở bụng dưới. Chân khí của chàng trút vào Chí Huyệt - lên đến vết thương - ngay huyệt Đản Trung - và chất độc bị tay trái hút ra ngoài.
Chỉ nửa khác sau, luồng chân nguyên hùng hậu của chàng đã trục hết độc tố, đả thông tâm mạch, chàng không dám nhìn tấm thân nõn nà, khêu gợi kia. Chính vì vậy chàng không biết rằng thiếu nữ áo đen đã tỉnh lại trước rồi. Nàng nhìn say đắm gương mặt anh tuấn của chàng, đôi dòng lệ tuôn trào. Và nàng kịp nhắm mắt lại trước khi chàng xả công.
Tuấn Hạc thấy vết chưởng ấn đã biến mất mà sao nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại. Chàng cắn răng xoa bóp các huyệt đạo trên ngực, cố dùng lửa tam muội hỗ trợ luồng chân khí của nạn nhân.
Thiếu nữ mặt nạm ngất ngây và hổ thẹn, đành phải tỉnh lại. Nàng nhìn Tuấn Hạc bằng cặp mắt ai oán và trách móc. Chàng nghe mặt nóng bừng, vội nói ngay :
- Tiểu sinh không nỡ để cô nương táng mạng nên đành vượt qua lễ giáo, mạo phạm đến ngọc thể Mọi sự sẽ giải quyết sau. Nay xin cô nương điều tức một lát để phục hồi công lực mà cứu nữ lang áo hồng kia.
Thiếu nữ áo đen bẽn lẽn mặc lại áo rồi hỏi :
- Vì sao công tử không ra tay cứu Doanh muội mà lại cứu ta trước?
Tuấn Hạc buồn rầu đáp :
- Tiểu sinh đã lỡ nặng mối chung tình với một người, đâu dám vương vấn cùng ai nữa. Nếu sau này nàng biết chuyện hôm nay, may ra tiểu sinh còn có cơ hội biện bạch.
Thiếu nữ hiểu ngay tâm trạng của chàng, mắt tóe lên những tia bí ẩn :
- Thì ra công tử cho rằng thiếp xấu xí, tất sẽ không dám với cao chứ gì? Công tử sai rồi, thiếp tuy gương mặt đen đũa nhưng lại là người cương liệt. Thân này đã bị công tử chạm đến, coi như đã thuộc về công tử. Nếu chàng chê bỏ, thiếp sẽ tự sát ngay.
Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Kẻ làm điều nhân không hề nghĩ đến hậu quả Nếu cô nương chịu phận lẽ mọn, tiểu sinh cũng chẳng dám chối từ trách nhiệm. Tiểu Băng là người nhân hậu tất sẽ lượng thứ cho chúng ta. Giờ xin cô nương theo lời chỉ dẫn của tiểu sinh mà chữa trị cho lệnh muội. Tiểu sinh sẽ truyền công lực qua người cô nương, bất tất phải điều tức nữa.
Thiếu nữ ranh mãnh nói :
- Thiếp đã quá mệt mỏi, e không làm đúng theo lời công tử chỉ dẫn, sao chàng không tự mình làm đi? Hai chị em thiếp thờ chung một chồng cũng chẳng sao. Tiểu Băng cô nương nào đó chắc cũng chấp nhận thôi. Cổ nhân có câu: Ngộ biến tùng quyền mà.
Tuấn Hạc nhăn mặt :
- Một mình cô nương cũng đã khiến tiểu sinh lỗi đạo với Tiểu Băng, xin hãy lượng thứ.
Thiếu nữ áo đen động tâm trước tấm lòng chung thủy, liếc chàng say đắm. ánh mắt nàng chất ngất yêu thương khiến Tuấn Hạc phải ngỡ ngàng.
Nàng ta cởi áo thiếu nữ kia, lúc quay lại thi thấy chàng đã nhắm nghiền mắt lại. Nàng phì cười :
- Đúng là hủ nho! Gặp người quốc sắc mà không biết thưởng thức.
Tuấn Hạc cắn răng không đáp, từ tốn chỉ cho nàng phương pháp trị thương. Thiếu nữ nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi nũng nịu nói :
- Thú thật với công tử là thiếp không tường vị trí các huyệt đạo. Mong công tử chỉ dẫn cho, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Chỉ nhìn thôi chắc cũng không đến nỗi nào? Lát nữa Doanh muội tỉnh lại, thiếp sẽ giấu kín việc ấy.
Tuấn Hạc sợ nàng điểm sai, nguy đến tính mạng nạn nhân, đành thở dài, mở mắt ra. Trọn vẹn thân trên cơ thể mỹ nữ lồ lộ như pho tượng ngọc. Tuấn Hạc cắn răng hướng dẫn, xác định vị trí đứng để nữ lang mặt nam điểm vào.
Gần khắc sau, thiếu nữ kia tỉnh lại. Nàng ngơ ngác nhìn người bạn gái và chàng trai tuấn tú kia. Nữ lang áo đen nháy mắt rồi khép vạt áo của nàng kia lại. Nàng vui vẻ đáp :
- Công tử có thể mở mắt rồi đấy. Doanh muội đã hồi tỉnh.
Tuấn Hạc thở phào, rút tay lại đứng lên, đi ra ngoài để hai nàng sửa sang xiêm áo.
Không hiểu họ đã nói gì với nhau mà tàn nửa nén hương mới gọi chàng vào. Tuấn Hạc bối rối khi thấy nữ lang áo hồng đỏ mặt, cúi đầu vân vê tà áo. Chàng đoán rằng nữ lang xấu xí kia đã kể lại chuyện trị thương.
Tuấn Hạc vòng tay nới :
- Tiểu sinh là Văn Tuấn Hạc, quê ở Giang Tây. Dám hỏi phương danh nhị vị?
Nữ lang mặt nam đáp ngay :
- Thiếp là Hàn Khiết Văn, còn đây là biểu muội Hàn Khiết Doanh. Công tử chắc là Văn nhị thiếu chủ của Văn gia bảo? Có việc gì mà lại đi ngang đây?
Tuấn Hạc lúng túng đáp :
- Tiểu sinh đi Ôn Châu có chút việc riêng.
Thiếu nữ áo đen nghiêm nghị nói :
- Chị em thiếp đã bàn bạc với nhau, đồng lòng xin làm tỳ thiếp. Sau này, nếu Ôn cô nương rộng lượng dung nạp mới dám nâng khăn sửa túi cho công tử, bằng như bị Ôn cô nương từ chối, sẽ bỏ đi ngay, không dám xen vào hạnh phúc của nhị vị. Công tử thấy thế nào?
Tuấn Hạc giật mình :
- Sao lại cả hai người như vậy?
Hà Khiết Văn mỉm cười :
- Chị em thiếp từ lâu đã nguyện cùng thờ một chồng để khỏi phải xa nhau. Khi gặp Ôn cô nương, bọn thiếp sẽ biện minh để nàng không trách công tử.
Tuấn Hạc cũng đang thầm áy náy vì câu lễ nghĩa, tiết trinh nên đành xuôi tay, chấp thuận :
- Nhị vị đã hết lời, tiểu sinh xin phụng ý. Việc duyên nợ cứ để cho Tiểu Băng định đoạt.
Hàn Khiết Văn kéo tay Khiết Doanh đến nghiêng mình ra mắt :
- Chúng thiếp bái kiến tướng công.
Chàng nhìn hai nữ nhân, thở dài thườn thượt. Khiết Văn cười hỏi :
- Tuy thiếp xấu xí nhưng Doanh muội xinh đẹp như tiên nga, công tử còn buồn chi nữa?
Tuấn Hạc bùi ngùi đáp :
- Tiểu Băng với ta tình thâm như biển, dẫu hai nàng kiều diễm hơn nữa cũng chẳng thể khiến ta quên được người xưa. Hơn nữa, hiện nay nàng trôi dạt phương nào ta cũng chẳng hay, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Khiết Doanh thò tay nhéo vào lưng Khiết Văn nàng nhột nhạt ưỡn người né tránh. Khiết Văn hỏi lại Tuấn Hạc :
- Dám hỏi có phải công tử đang đề cập đến Thiên Độc Thánh Nữ hay không?
- Chính là nàng, ta đi về Đông chuyến này cũng là để tìm Tiểu Băng.
Khiết Doanh đã mạnh dạn hơn, nàng thỏ thẻ :
- Thiếp nghe nói Ôn đại thư đã bỏ mình dưới sóng nước Trường Giang rồi mà?
Tuấn Hạc nói như đang hy vọng :
- Không đâu! Ta đoán rằng nàng thoát chết và trở thành Hoài Hạc bang chủ! Tháng trước, Tổng đàn của nàng ở Kim Hoa bị tấn công. Dấu vết để lại cho thấy Hoài Hạc bang đã rút lui, hoặc bị bắt đi về hướng này. Như thế, hung thủ có thể là Biến Hình môn.
Khiết Doanh biến sắc cãi ngay :
- Thiếp chính là một đệ tử của Biến Hình môn, có thể đoan chắc rằng không có việc ấy.
Khiết Văn cũng nói :
- Thiếp đã từng đến Kim Hoa và tình cờ đi ngang qua ngọn đồi Quý Khâu và gặp Bang chủ Hoài Hạc bang. Đó là một nam nhân.
Tuấn Hạc choáng váng, thẫn thờ :
- Thế là hết, ta còn biết dựa vào đâu để tìm Tiểu Băng nữa đây?
Khiết Văn mỉm cười :
- Thiếp vốn là tỳ nữ thân tín của Ôn tiểu thư, có mặt trên chiếc thuyền hoa hôm ấy nên có thể đoan chắc rằng nàng vẫn còn sống. Thánh nữ sinh trưởng ở Nghi Xương, bơi lội như cá kình, làm sao chết đuối dược?
Tuấn Hạc mừng rỡ nắm tay nàng hỏi dồn :
- Thật thế sao? Nàng hãy kể rõ sự việc hôm ấy cho ta nghe đi!
Khiết Văn nhăn mặt :
- Thiếp đói bụng lắm rồi, để vừa ăn vừa nói cũng được.
Nàng bước ra ngoài, rú lên cao vút. Lát sau, hai con tuấn mã chạy đến, trên yên còn đầy đủ hành lý.
Trời vẫn còn mưa dai dẳng, không biết lúc nào sẽ ngưng và chiều cũng đã buông. Khiết Văn dắt cả ba con ngựa vào miếu, cho chúng đứng ở nửa miếu tả. Dù dột nát nhưng cũng hơn ở ngoài trời mưa gió.
Tuấn Hạc gom gỗ mục nhóm lửa xong, gọi Tiểu Bạch vào. Chàng chỉ hai nàng rồi bảo :
- Tiểu Bạch, họ là tỳ thiếp của ta đấy.
Thần viên khệnh khạng vòng tay cúi đầu chào. Khiết Doanh thích thú bước đến vuốt ve Tiểu Bạch :
- Ôi chao! Sao tướng công lại nuôi được con vượn xinh đẹp và thông minh thế này?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Tiểu Bạch còn là sư huynh của ta đấy!
Thần viên đắc ý, vỗ ngực khọt khẹt liên hồi.
Khiết Văn tháo hai bọc hành lý, lấy thực phẩm bày trên tấm áo tơi. Họ là nữ nhân nên trữ toàn là bánh kẹo, mứt khô. May mà còn có một con gà nướng dành cho Tuấn Hạc.
Chàng định chia thịt cho họ thì Khiết Doanh bảo :
- Bọn thiếp chỉ ăn chút bánh mứt là đủ rồi. Tướng công cứ dùng đi.
Tiểu Bạch nếm thử chiếc kẹo hoa quế, gật gù khen ngon. Nó chưa bao giờ được ăn những thứ này.
Tuấn Hạc ăn xong mà hai nàng kia vẫn còn nhấm nháp. Chàng nhìn Khiết Văn bằng cặp mắt van nài. Nàng bật cười khúc khích :
- Tướng công cứ nhìn thiếp chăm chăm như vậy làm sao thiếp nuốt nổi?
Tuấn Hạc bâng khuâng vì nụ cười kia đầy ma lực và thân thiết. Mặt nàng loang lỗ những vết nam đen, nhưng môi đỏ như son, hàm răng đều đặn và trắng như ngọc, khi nàng cười, ánh mắt đầy vẻ đắm say, tình tứ. Chàng bâng khuâng nhớ đến Tiểu Băng.
Khiết Văn thấy dáng điệu ngơ ngẩn của chàng, giận dỗi nói :
- Thôi được! Thiếp chẳng thèm ăn nữa! Nếu không kể ngay chắc tướng công sẽ thầm trách thiếp.
Khiết Doanh bật cười :
- Ôn đại thư quả là tốt phúc!
Nói xong, nàng giật mình. Nhưng thấy Tuấn Hạc không có phản ứng, nàng thở phào nhẹ nhõm. Thực ra, câu này của nàng mang một ý khác Khiết Văn liếc nàng rồi kể :
- “Ngày ấy, Ôn tiểu thư bị Chấp Pháp nhị tướng bắt về Nghi Xương, ép gả cho Tích Ngọc Lang Quân Trương Ân Tuấn của Thiên Sư giáo. Tiểu thư thà chết cũng không chịu.
Giáo chủ bèn phong tỏa võ công của nàng và cho uống Thất Hồn Tán, đưa lên thuyền hoa.
Nào ngờ, trong đêm trước lúc thuyền rời bến, Giáo chủ phu nhân đã bí mật cho nàng uống một viên Thiên Độc đan và giải tỏa kinh mạch. Bà còn dặn dò Tiểu Băng cách hành động để thoát thân. Vì vậy, khi thuyền hoa sắp đến Đại Vân Hà thì tiểu thư vung chưởng đả thương Trương Ân Tuấn rồi lao mình xuống nước tẩu thoát. Thiếp cũng phóng theo nhưng hai bên lạc nhau nên không biết tiểu thư đã đi đâu Phần thiếp trở về Ôn Châu nương tựa biểu thúc là cha của Khiết Doanh. Nhưng thiếp có thể đoan chắc với tướng công rằng Thánh nữ vẫn còn sống”.
Tuấn Hạc mừng rỡ nói :
- Nàng còn sống là đủ rồi! Ta sẽ lặn lội khắp vùng Giang Nam để tìm cho được.
Khiết Văn bỗng hỏi :
- Thiếp có nghe Thánh nữ kể về nghi án Văn gia bảo. Chẳng hay tướng công đã giải quyết đến đâu rồi?
Chàng thở dài :
- Gia phụ đã thề độc rằng ông không phải là Văn Chí Khải, và hết mực yêu thương. Vì vậy, chuyện này tạm gác lại. Hiện nay, Văn gia bảo đang bị Thiên Độc giáo uy hiếp, ta phải tìm người giúp đỡ mới mong địch lại. Hà nhị nương đã bảo ta đến cầu hôn Thiếu môn chủ Biến Hình môn nhưng ta không hề có ý ấy. Ta chỉ lợi dụng chuyến đi này để tìm Tiểu Băng và Vạn Bác Hồ Tinh mà thôi.
Khiết Doanh bẽn lẽn hỏi :
- Nếu chàng không chịu cưới Cổ Doanh Doanh thì làm sao cứu được Văn gia bảo? Chàng thương nạp được bọn thiếp, sao không nhận luôn Thiếu môn chủ? Sau này, Ôn đại thư chắc cũng lượng thứ cho tướng công.
Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Ta gặp hai nàng là do duyên nợ, ràng buộc bởi chữ nhân. Còn việc cầu hôn để lợi dụng, Văn mỗ không làm được.
Chàng chợt thắc mắc :
- Ta quên chưa hỏi vì sao bọn cao thủ Thiên Sư giáo lại vây đánh hai nàng?
Khiết Văn sửng sốt :
- Họ là người của Thiên Sư giáo đấy sao? Gã họ Trương này quả là đốn mạt.
Khiết Doanh tiếp lời :
- Cách đây hơn chục dặm có một trấn lớn tên gọi Thanh Tuyền. Trưa nay, chị em thiếp đi ngang qua đấy thì gặp đoàn nhân mã của Tích Ngọc Lang Quân. Nghe nói gã mang lễ vật đến cầu hôn Thiếu môn chủ bổn môn. Khi thấy thiếp gã buông lời chọc ghẹo. Bọn thiếp nhẫn nhịn bỏ đi, nhưng không ngờ gã lại cho người đuổi theo để vây bắt.
Khiết Văn nghiêm giọng :
- Tướng công không muốn kết duyên với Cổ Doanh Doanh cũng chẳng sao. Tuy nhiên, chàng phải giết gã họ Trương kia. Trước là báo thù cho Thánh nữ, sau là phá vỡ âm mưu thống trị của Thiên Sư giáo. Nếu họ liên kết được với Biến Hình môn thì giang hồ sẽ đại loạn Ôn tiểu thư đã từng nói với thiếp về dã tâm của Trương giáo chủ.
Tuấn Hạc tư lự :
- Ta sẽ vì Tiểu Băng mà giết cái gã bại hoại ấy Còn chuyện võ lâm ta không dám lạm bàn.
Đã đầu canh một mà trời vẫn mưa như trút nước. Gió lạnh lùa qua khung cửa không cánh của tòa phế miếu.
Tuấn Hạc đi tìm thêm củi nhưng trong miếu chẳng còn khúc gỗ nào. Đống lửa thoi thóp kia không đủ sưởi ấm cho hai nữ nhân.
Thế mà hai nàng còn rủ nhau ra tắm rửa dưới trời mưa. Thay áo xong, họ run lên cầm cập Tuấn Hạc cau mày trách :
- Hai nàng mới thọ thương, dầm mưa làm gì?
Khiết Doanh thẹn thùng đáp :
- Bọn thiếp là nữ nhân, không chịu được cảm giác dơ bẩn.
Họ trải áo choàng xuống nền gạch nằm ôm nhau mà run rẩy. Tuấn Hạc cũng ngã mình xuống bên kia đống lửa. Chàng luyện thần công đến lớp thứ bảy, cơ thể tự điều hòa lúc nào cũng bình thường, nên không nghe lạnh, Tiểu Bạch nhảy tót lên xà gỗ vì nó chẳng bao giờ chịu nằm dưới đất.
Tuấn Hạc không ngủ được, thao thức suy nghĩ mãi. Chàng nghe tiếng rên của hai nữ nhân chạnh lòng nhớ đến kỷ niệm ngày nào. Tiểu Băng đã đem tấm thân nóng ấm để sưởi cho chàng. Nàng quả là người nhân hậu hiếm có. Nay hai nàng kia đã là tỳ thiếp của chàng, chẳng lẽ chàng lại để họ chịu cảnh giá lạnh như thế? Cơ thể họ, chàng đã đụng chạm đến thì còn giữ lễ nghi làm gì nữa?
Chàng lưỡng lự một lúc rồi bước sang phân khai hai người, chui vào giữa mà nằm. Họ thẹn thùng và sợ hãi vì tưởng chàng đã động tình.
Tuấn Hạc xiết hai nàng vào thân mình rồi trầm giọng :
- Ta gặp Tiểu Băng năm mới mười lăm tuổi, nhỏ bé và yếu đuối. Nàng đã không nề hà lễ giáo, ôm ta vào lòng mà sưởi ấm. Hai nàng yên tâm ngủ đi.
Nói xong, chàng đẩy chân khí lưu chuyển khiến cơ thể nóng rực lên. Hai nàng nghe ấm áp rụt rè ôm lấy chàng mà thiếp đi.
Nhưng Khiết Doanh chỉ nhắm mắt mà không ngủ. Từ đôi mắt đẹp, gióng lệ sung sướng ứa ra. Nàng vẫn tự hào mình là người quốc sắc, vì hoàn cảnh mà lấy Tuấn Hạc nên lòng khiên cưỡng. Nay thấy thái độ nhân hậu, quân tử của chàng, nàng vô cùng ngưỡng mộ. Mấy ai có thể ôm người ngọc trong lòng mà không nổi tà tâm?
* * * * *
Sáng ra, cơn mưa đã tạnh, vần thái dương ló dạng, chiếu những tia nắng ấm qua cửa miếu, như cười cợt hai nữ nhân kia. Họ đã thức giấc, thẹn thùng nhìn nhau.
Khi ba người rửa mặt xong thì Tiểu Bạch đã đi săn về. Nó vác một con lươn non - đã bị bẻ gãy cổ - quăng xuống sàn miếu, thọt khét để kể công lao.
Hàn Khiết Văn mừng rỡ, xách ra sau miếu.
Nơi đây có chiếc lu mẻ miệng đầy ắp nước nhờ cơn mưa đêm qua. Nàng vung kiếm chặt đứt hai đùi sau, cạo lông, rửa sạch rồi đem vào miêu.
Tuấn Hạc và Khiết Doanh đã phá hai cánh cửa sổ cuối cùng. Đêm qua, họ không dám đốt vì sợ mưa gió tạt vào. Số gỗ ấy vừa đủ để nướng hai đùi lươn.
Khiết Văn vừa chia thịt vừa hỏi :
- Tướng công chưa kể cho bọn thiếp nghe việc chàng rơi xuống vực thẳm mà không chết? Ôn tiểu thư đã tốn biết bao nước mắt vì tưởng chàng đã vong mạng.
Tuấn Hạc bèn kể lại cho họ nghe. Kể cả cuộc chiến với Thiên Độc giáo ở Động Đình hồ.
Khiết Văn mừng rỡ nói :
- Không ngờ chàng lại là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y. Bọn thiếp may mắn được gởi thân cho bậc anh hùng.
Chàng ngượng ngùng đáp :
- Ngoài võ công, ta chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ nào cả. Vì vậy, khi đối phó với bọn tà ma sẽ chịu thiệt thòi.
Khiết Doanh nổi hào khí :
- Bọn tiện thiếp tuy bản lãnh không bằng tướng công nhưng lại thông thuộc mọi thủ đoạn của phe hắc đạo, sẽ tận lực giúp chàng. Chỉ cần về đến Văn gia bảo, thiếp sẽ nói cho chàng biết Thiết Long kia là giả hay thực.
Tuấn Hạc đang rầu rỉ vì nghi án, nghe vậy lòng hoan hỉ vô cùng.
Ăn xong, họ khởi hành ngay, chiều hôm ấy đã đến Ôn Châu. Hai nàng dẫn Tuấn Hạc vào một trang viện đồ sộ ở cửa Tây. Họ bảo chàng đứng ngoài chờ một lát, để họ vào thưa chuyện với Hàn lão gia trước đã.
Ôn Châu nằm ở sát bờ biển Triết Giang nên khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi. Tuấn Hạc đứng trên chiếc cầu gỗ sơn son trước cửa trang viện, thưởng lãm phong cảnh.
Cơ ngơi này không có chiêu bài và được xây dựng theo một thiết kế lạ mắt. Tường vây chỉ cao đến ngực người lớn nhưng chung quanh lại có hào nước rộng hai trượng, thả sen và súng.
Làn nước trong vắt, nhìn rõ cả đàn cá chép đỏ hồng đang bơi lội. Cây cầu gỗ là lối xuất nhập duy nhất.
Cạnh bờ hào nước là hàng dương liễu rủ tóc soi bóng, khiến cảnh vật càng thêm phần mơ mộng.
Bỗng từ sau bức tường phía Nam, một chiếc thuyền con xuất hiện. Trên ấy có một cô gái tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc thắt bím. Tấm áo ngắn màu hồng nhạt kia chứng tỏ nàng không phải là tỳ nữ.
Cô gái vừa chào, vừa thò cánh tay trắng nuốt, hái những đóa sen, miệng ngâm nga một điệu hát vui.
Chợt phát hiện Tuấn Hạc đang đứng tựa lan can cầu nhìn mình. Cô gái thẹn thùng cúi mặt cho thuyền quay lại.
Tuấn Hạc nổi tính trẻ con, ngâm bài Việt Nữ Tử của Lý Bạch:
Da Khê thái liên nữ.
Kiến khách trạo La Hồi.
Tiếu nhập hà hoa khú.
Đương tu bất xuất lai.
Tạm dịch:
Gái da khê hái sen.
Thấy khách, hát quay thuyền.
Cười nấp vào sen lánh.
Thẹn thùng bước chăng lên.
Cô bé đi khuất rồi mà tiếng ca còn vọng lại.
Vừa lúc Hàn Khiết Văn bước ra đến, nàng vui vẻ hỏi :
- Tướng công cao hứng vì sắp được gặp nhạc phụ hay sao mà ngâm nga như vậy?
Tuấn Hạc ngượng ngùng chẳng biết đáp sao.
Chàng lầm lùi đi theo nàng vào trang.
Qua hết cây cầu nhỏ là một sân gạch rộng rãi, hoa cảnh rất nhiều. Cuối sân là một tòa khách sảnh hai tầng đồ sộ, đường nét giản dị, thanh thoát chứ không màu mè, cầu kỳ của đám trọc phú. Tuấn Hạc thầm ngưỡng mộ nhân cách của Hàn trang chủ.
Vào đến nơi, Tuấn Hạc thấy một lão nhân áo xanh lục tuần. Tướng mạo phương phi, tuấn tú, râu ba chòm đen nhánh, dù tóc đã hoa râm.
Cạnh ông là một phụ nhân tuổi sáu mươi, tóc bới cao, cài cây Phụng Đầu thoa bằng bạc.
(Quy định của triều Minh: Thứ dân không được dùng vàng trang sức trên đầu).
Gương mặt của phụ nhân này rất giống Hàn Khiết Doanh, chỉ già dặn hơn. Còn Hàn Khiết Doanh thì đứng sau lưng bà ta.
Hàn Khiết Văn hớn hở giới thiệu :
- Thúc thẩm! Đây chính là ân nhân của bọn hài nhi.
Tuấn Hạc kính cẩn vòng tay :
- Tiểu sinh Văn Tuấn Hạc, bái kiến Trang chủ và phu nhân.
Hai người ấy chăm chú nhìn chàng, nở nụ cười hòa dịu, Hàn trang chủ cười ha hả :
- Nghe danh nhị công tử đã lâu, không ngờ nay lại được hạnh ngộ. Lão phu đã nghe hai liễu đầu kia cáo tường sự việc, lòng vô cùng hoan hỉ. Giá mà công tử hạ cố, gọi ta và bà lão đây một tiếng nhạc phụ, nhạc mẫu thì còn gì sung sướng bằng.
Tuấn Hạc bối rối đến ngẩn người, chàng ấp úng thưa :
- Bẩm Trang chủ! Tiểu sinh biết ơn lòng ưu ái của nhị vị. Nhưng... chưa tìm được Ôn Tiểu Băng, kẻ hèn này không dám...!
Khiết Doanh đỏ mặt đỡ lời :
- Cha! Hài nhi đã nói tận tường, sao người còn ép uổng tướng công làm gì?
Hàn lão cười xòa :
- Phải phải! Ta vì quá nóng ruột nhận rể quý nên lỡ lời.
Hàn phu nhân khen ngợi :
- Văn công tử chung tình như vậy, quả là thế gian hiếm có. Xin mời an tọa.
Tiểu yến được dọn ra, chủ khách thù tạc vui vẻ. Vợ chồng Trang chủ càng lúc càng mến mộ chàng công tử văn võ song toàn.
Khi bàn đến việc giết Tích Ngọc Lang Quân Trương Ân Tuấn để trả thù cho Tiểu Băng, Hàn trang chủ cau mày bảo :
- Đây là địa phận của Biến Hình môn, họ Trương đến cầu hôn được coi là thượng khách. Nay công tử giết y thì chẳng phải đã giá họa cho Cổ môn chủ hay sao? Thiên Sư giáo có công đầu trong cuộc chiến đánh đuổi quân Mông Cổ, được triều đình sủng ái nên thế lực vô cùng hùng mạnh, Biến Hình môn chẳng cách nào địch lại được. Vì vậy, theo ý lão phu là công tử hãy tạm gác ân oán, tìm cách hạ nhục để y bẽ mặt bỏ chạy khỏi Ôn Châu là đủ rồi.
Tuấn Hạc cung kính vâng lời. Hàn Khiết Văn bỗng góp ý :
- Hiện nay cả Thiên Độc giáo và Thiên Sư giáo đều nuôi mộng xưng hùng, sao ta không bày kế ly gián để họ tương tranh? Nhị phu nhân của Thiên Độc giáo - Giang Lăng Thần Nữ - Có một người con riêng tên là Doãn Tự Vân Gã hai mươi sáu tuổi và được phong là Thiếu giáo chủ, tính tình háo sắc không kém họ Trương. Nếu Văn công tử hóa trang làm Doãn Tự Vân mà đánh đuổi Trương Ân Tuấn thì hai giáo phái kia sẽ hiểu lầm nhau. Lúc ấy, Thiên Độc giáo sẽ chẳng còn thời gian mà uy hiếp Văn gia bảo nữa.
Hàn trang chủ vỗ đùi khen phải. Ông bảo gia nhân đi điều tra xem Tích Ngọc Lang Quân hiện đang ở đâu. Gã đã đến được mấy hôm nhưng lại đưa thiếp hẹn đến ngày sáu tháng bảy này mới đế bái kiến và bàn chuyện hôn sự - ngày tốt nhất trong tháng - nghĩa là còn hai hôm nữa.
Trong thời gian chờ đợi, gã thản nhiên thăm thú các kỹ viện ở Ôn Châu. Gã cho rằng Biến Hình môn không dám từ chối và sẽ rất vinh hạnh được kết thông gia với Thiên Sư giáo.
Quả thực là Thiên Sư giáo - tức Đạo giáo - đã có công rất lớn với Chu Nguyên Chương. Mấy chục vạn nông dân nghèo khổ - theo họ Chu kháng Nguyên - đều là tín đồ Thiên Sư giáo. Bản thân Giáo chủ Trương Tỳ Vân cũng là cận tướng của họ Chu. Khi đại công cáo thành, Chu Nguyên Chương lên ngôi Thiên tử liền ban chức và phong chức tước cho những thủ hạ dầy công hạn mã. Nhưng Trương giáo chủ hiểu rõ bản chất tiểu nhân hẹp hòi, phản phúc của Chu Nguyên Chương nên không nhận sắc phong. Ông chỉ lãnh mấy vạn lượng vàng về Giang Tô xây dựng Tổng đàn, phát triển Thiên Sư giáo.
Sau này, Minh Thái Tổ lần lượt giết những người đã từng theo mình dựng nghiệp. Lúc ấy, bá quan mới khâm phục đầu óc của Trương giáo chủ. Tổng đàn của Thiên Sư giáo nằm ở huyện Cú Khúc, tỉnh Giang Tô. Vào thời Nam triều đạo sĩ Đào Hồng Canh đã tưng xây đạo quán trên núi Cú Khúc. Tương truyền trước đó - đời Tây Hán Canh Đế - ba anh em Mao Doanh, Mao Cổ, Mao Lý đã tu luyện thành tiên ở núi này, nên được tôn là tổ sư. Gọi chung là Tam Mao Chân Quân. vì vậy núi Cú Khúc cũng được đổi thành Tam Mao Sơn (gọi tắt là Mao Sơn) phái này còn có tên là Thượng Thanh phái.
Trương Tỳ Vân đến núi Cú Khúc, xây một tòa Đạo cung thật vĩ đại, gọi là Thượng Thanh cung. Trên đỉnh - Chung quanh sườn núi là hàng trăm kiến trúc để các giáo đồ thân tín cư ngụ. Họ là những cao thủ Đạo giáo đã từng theo ông chiến đấu với quân Nguyên.
* * * * *
Tối hôm ấy, bọn gia nhân về báo rằng Tích Ngọc Lang Quân đang trọ trong Chiết Giang đệ nhất khách điếm, cùng với mười bốn thủ hạ.
Hàng ngày, họ Trương la cà khắp chốn yên hoa, lâu quá, đổ trường. Muốn gặp chẳng phải chuyện khó.
Sáng hôm sau, Hàn Khiết Doanh dựa theo bức họa chân dung - mà Khiết Văn đã vẽ ra - hóa trang Tuấn Hạc thành Thiếu giáo chủ Thiên Độc giáo Doãn Tự Vân.
Bản thân hai nàng cũng dịch dung thành hai gã hán tử nhỏ thó, tháp tùng Tuấn Hạc.
Gần trưa, trinh sát cho biết Trương Ân Tuấn đang ăn nhậu trên tòa Ôn Châu đại tửu lâu.
Ba người lập tức khởi hành, ngay hông Tuấn Hạc giờ đây có thêm một thanh trường kiếm.
Bạch Viên phải ở nhà để bảo toàn lai lịch.
Để đóng vai họ Doãn, Tuấn Hạc phải cạo sạch bộ râu mép cho đúng dung mạo của gã.
Bộ y phục hai màu trắng xanh diêm dúa và chiếc quạt lụa nan xương tạo ra vẻ hào hoa phong nhã. Gia dĩ Doãn Tự Vân cũng rất anh tuấn Ba người ung dung xuống ngựa, bước lên lầu trên của tửu lâu. Họ chọn một bàn cách bọn Trương Ân Tuấn không xa. Họ Trương đang mãi mê chọc ghẹo ả ca nhi xinh đẹp nên không để ý đến.
Ả ca nhi đang ôm trong lòng một cây đàn tỳ bà có bốn dây. Loại đàn này được truyền từ Thiên Trúc vào miền Bắc Trung Hoa từ thời nhà Tấn. Và đến thời Bắc triều thì truyền xuống miền Nam. Còn có một kiểu đàn Ngũ Huyền tỳ bà nữa, nhưng đã thất truyền từ đời Tống.
So dây xong, ả gẩy đàn, hát bài Tử Sơn Hoa Tử của Nam Đường Trung Chủ Lý Cảnh:
Hàm Thiều Hương Tiêu, Thúy Diệp tàn.
Tây phong sầu khởi lục ba gian.
Hoàn dữ thiêu quang cộng tiều tụy.
Bất khan khan.
Tế vũ mộng hồi kê tái viễn.
Tiêu lâu xung triệt ngọc sinh hàn.
Đa Thiều lộ Châu hà hạn hạn.
Ỷ lan can.
(Dịch thơ)
Hương nhạt sen phai lá lục tàn.
Gió thương sầu gợn bóng hồ lan.
Cùng bóng Thiều quang chung ảm đạm.
Ngắm khân đang.
Mưa nhỏ mộng hồn về ải quốc.
Lầu con, sênh lạnh, tiếp tiêu ngừng.
Bấy nhiêu nước máy bao nhiêu hận.
Dựa lan can.
Giọng hát của nàng trong trẻo nhưng ảo não, diễn tả được hết nỗi buồn vời vợi của lời thơ, nhưng Tích Ngọc Lang Quân lại không thích như vậy gã cau mày mắng :
- Đang lúc bổn công tử vui vẻ, khoan khoái thế này, sao ngươi lại hát cái bài buồn như đưa đám đó?
Tuấn Hạc đang tán thưởng tài nghệ của ả ca nhi nên phật lòng trước thái độ dung tục của họ Trương. Chàng lạnh lùng hừ nhẹ, nhưng khi lọt vào tai Trương Ân Tuấn thì như tiếng sấm. Gã giật mình và điên tiết nhìn quanh rồi hậm hực hỏi :
- Kẻ nào vừa làm bẩn tai ta vậy?
Tuấn Hạc đứng lên, ra vẻ khinh miệt :
- Hạng phàm phu tục tử như ngươi làm sao thưởng thức được cái thần diệu của thi nhạc? Bài Tử Sơn Hoa Tử kia chính là kiệt tác văn chương thời nhà Đường. Tài cầm ca của vị cô nương đây cũng rất tài hoa, thế mà ngươi còn chê bai, thật đáng gọi là lỗ tai trâu.
Tích Ngọc Lang Quân giận tím mặt, nhưng là người gian hiểm nên gã phải hỏi lai lịch trước đã :
- Ngươi hãy xưng danh tính, kẻo không lại chết oan.
- Ta là Thiếu giáo chủ Thiên Độc giáo Doãn Tự Vân.
Trương Ân Tuấn ngửa cổ cười vang :
- Té ra ngươi là em vợ hụt của ta! Bổn công tử là Thiếu môn chủ Thiên Sư giáo đây.
Câu nói của gã đánh động mối thương tâm trong lòng Tuấn Hạc. Vì gã mà Tiểu Băng trôi dạt phương nào không rõ. Chàng cười nhạt :
- Ngươi chỉ là tên dâm tặc bại hoại, đâu có dây mơ rễ má gì với bổn thiếu gia?
Trương Ân Tuấn đỏ mặt vì nhục nhã, quát vang :
- Giết hắn cho ta.
Mười bốn tên thủ hạ của gã lập tức xông đến vây chặt và tấn công.
Hai nữ lang chẳng hề khách sáo, tung ngay đòn sát thủ. Khiết Văn rải độc phấn và Khiết Doanh rắc kim vàng. Đòn phủ đầu này đã loại ngay được bốn tên.
Tuấn Hạc thì rút kiếm lao vào hai gã trước mặt. Chiêu “Bất Kiến Bạch Đầu” - trong pho Cuồng Kiếm - để lại hai lỗ trên huyệt Mi Tâm của chúng. Cả hai ngã xuống và chết khi tóc vẫn còn xanh.
Trương Ân Tuấn chứng kiến chiêu kỳ tuyệt kia, giật mình kinh hãi. Nhưng gã cũng rất tự hào về bản lãnh của mình nên xông vào ngay.
Nếu không, đối phương sẽ giết chết thủ hạ của gã Tích Ngọc Lang Quân cũng là một tay kiếm sĩ lợi hại. Thanh kiếm của gã cũng hoa lệ, diêm dúa như chủ nhân. Vỏ kiếm bằng bạc, cẩn chín viên lam ngọc. Chuôi kiếm bằng vàng khối, khắc hoa văn tinh xảo. Lưỡi kiếm được đúc bằng thép Miến Điện, tỏa ánh xanh biếc. Với cây Kim Ngân bảo kiếm này, Trương Ân Tuấn đã giết gần trăm cao thủ, dương danh thiên hạ - khi tuổi mới ba mươi.
Gã được chân truyền pho Thái Thanh kiếm pháp của Trương giáo chủ, từ ngày xuất đạo chưa hề gặp đối thủ xứng tay nên không khỏi mục hạ vô nhân.
Trương Ân Tuấn gầm lên, bốc cao hơn trượng, bủa lưới kiếm xuống đầu đối phương.
Tuấn Hạc không đón chiêu kiếm mà lao thẳng vào hàng ngũ bọn thuộc hạ. Tả thủ vẽ nửa chiêu “Tam Dạ Hàn Tinh”. Chưởng kình xuyên qua màn kiếm quang, giáng vào ngực một tên. Đồng thời, mũi kiếm lướt nhanh vào cổ họng tên thứ hai.
Tích Ngọc Lang Quân mất mục tiêu, sa xuống lao vào lưng kẻ dịch. Thanh kiếm xé gió, phát ra những tiếng ngân nho nhỏ.
Tuấn Hạc quay ngoắt lại đón chiêu, tiếng thép chạm nhau chan chát. Họ Trương nghe hổ khẩu tê chồn, kinh ngạc không hiểu vì sao đối phương kém mình nửa con giáp mà công lực lại thâm hậu hơn. Gã cắn răng vận toàn lực, đem hết sở học ra thi thố.
Tuấn Hạc cũng phấn khởi dùng pho Cuồng Kiếm mà đối phó. Đây là dịp để chàng rèn luyện thêm kiếm pháp. Trong bốn năm ở dưới vực thẳm, chàng dùng cành cây thay kiếm nên không phát huy được hết uy lực của pho tuyệt học. Nay gặp kẻ có kiếm pháp cao cường, là dịp để chàng thử nghiệm.
Mười tám chiêu của pho Cuồng Kiếm có thể biến hóa thành ngàn chiêu và chiêu nào mãnh lực cũng tựa cuồng phong và nhanh như thiểm diện. Càng đánh, chàng càng thông thuộc, và ngược lại, họ Trư 100b ng càng tơi bời thiểu não.
Búi tóc trên đầu gã đã bị tiện đứt, bộ trường bào màu lam bàng gấm Hồ Châu thượng hạng bị rách nát te tua.
Sáu tên thủ hạ sợ Thiếu giáo chủ bỏ mạng, liền để hai tên cầm chân Khiết Văn và Khiết Doanh, còn bốn tên xông vào hỗ trợ cho họ Trương. Họ là cao thủ có hạng trong Thiên Sư giáo nên võ công rất cao siêu. Tuổi của họ đều ở khoảng ngũ tuần nên công lực cũng chẳng kém. Chính vì vậy mà Tuấn Hạc rơi vào thế hạ phong.
Bọn Thiên Sư giáo dùng phép xa luân chiến, thay phiên nhau tấn công và không đón những đòn trực diện. Khi Tuấn Hạc xông đến phía ai thì kẻ ấy lùi xa và đám còn lại sẽ tập kích.
Lúc đầu, vì thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên Tuấn Hạc lúng túng. Nhưng cuối cùng, chàng cũng tìm ta cách giải phá. Chàng thi triển pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải đến độ chót, lướt nhanh như bóng u linh thành một vòng tròn. Thân hình chàng chỉ còn là cái bóng mờ.
Bất chợt, chàng nhảy xổ vào một gã. Chiêu “Đông Phong Đoạn Liễu” chỉ gồm có chín kiếm ảnh, uy hiếp thượng bàn đối phương. Gã kia vội múa tít trường kiếm chống đỡ nhưng chỉ chạm vào ma ảnh. Kiếm của Tuấn Hạc âm thầm lướt ngang hông gã, không chờ kẻ địch ngã xuống, chàng vung tả thủ giáng một chưởng vào ngực y. Cả thân hình to lớn ấy, văng vào gã thứ hai. Đồng thời, chàng đã nương theo cái xác ấy mà tiến lên. Tên hán tử rậm râu này đang bối rối vì đâm trúng đồng bọn liền bị một kiếm vào mắt phải.
Trương Ân Tuấn căm hận gầm lên, ôm kiếm lăn xả vào chiêu kiếm của gã cực kỳ hiểm độc.
Tuấn Hạc đang ung dung đẩy bạt trường kiếm của tên hán tử gầy gò, chân lực dồn vào thân kiếm, chỉ còn một nửa nên thất thế. Kim Ngân kiếm rạch một đường dài trên ngực Tuấn Hạc.
Trương Ân Tuấn đang đắc ý thì chàng trợn mắt quát vang, xuất chiêu “Nộ Phát Xung Quan”.
Đúng như tên gọi, đường kiếm chứa đầy nộ khí nên mãnh liệt vô song, chiêu thức đơn giản nhưng đối phương không sao cản nổi. Trương Ân Tuấn trúng liền ba kiếm vào ngực, rú lên đau đớn rồi tung mình qua cửa sổ mà đào tẩu.
Ba thủ hạ của gã cũng phóng theo.
Khiết Doanh ném cho gã tiểu nhị - đang núp dưới gầm bàn trong góc lầu - nén bạc mười lượng rồi gọi Tuấn Hạc và Khiết Văn rút mau.