Hận Lãng Bạc Tiểu thuyết lịch sử


Tiểu thuyết lịch sử
HẬN LÃNG BẠC (Tiểu thuyết lịch sử)

1.

 

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây nền độc lập.

(Nguyễn Trãi)

 

Chắc chắn phải có khoảng trống giữa các con chữ. Từ Triệu, Trưng(?), Lý, Trần xây nền độc lập? Là một nhà Nho, Nguyễn Trãi có xem trọng Trưng Trắc và Trưng Nhị không? An Nam chí lược, quyển sách sử đầu tiên của người Việt Nam còn lưu giữ được đến ngày nay lại không xem bà Trưng là anh hùng: Năm Kiến Vũ thứ 16 (40 sau công nguyên), đời vua Hán Quang Vũ, có người đàn bà Giao Chỉ tên là Trưng Trắc làm phản, năm thứ 19 (43), sai Mã Viện qua đánh dẹp yên, rồi dựng trụ đồng để làm giới hạn


nhà Hán.


Hậu Hán Thư ghi nhận cuộc chiến quyết định giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện diễn ra năm 42 sau Công nguyên tại Lãng Bạc. Lãng Bạc ở đâu? Có phải Hồ Tây như nhiều sách sử Việt Nam thường quả quyết không? Rõ ràng là không! Theo những nghiên cứu địa lý mới nhất, thời ấy mực nước biển khá cao so với ngày nay, phần lớn đồng bằng hai bên sông Hồng từ Sơn Tây trở xuống đều ngập nước. Nói Lãng Bạc là Hồ Tây thì không sai. Nhưng nó chính xác như một chiếc đồng hồ hỏng, hai lần chỉ đúng giờ mỗi ngày.

 

*

*     *

 

Mênh mang trời nước Lãng Bạc. Vài con thuyền độc mộc quây quần tung lưới ven bờ. Những cánh đồng xăm xắp thủy triều, loáng thoáng dăm ba đôi trâu đang cày ải, súc phèn. Dáng người Âu Lạc nhỏ bé song rắn rỏi. Đầu họ cúi thấp xuống đất mẹ như những gié lúa trĩu nặng, cần mẫn và lao khổ, nhưng đượm hương mùa mới. Đó hẳn là tinh cốt, túy chất của cuộc sống thanh bình giữa thôn xóm hiền hòa, xã hội nguyên sơ.

Dãy núi đằng Tây mờ ảo như một nét vẽ sơn thủy phóng khoáng và bao dung. Ngọn Tản Viên lừng lững bước khỏi khung tranh, trìu mến ngắm đàn con bé bỏng của mình đang mải mê mưu sinh.

Tiếng hát ngọt ngào đằm thắm, loang trải trên những gợn sóng lăn tăn, óng ánh đùa nắng. Ca từ phi thời gian day dứt như một dấu hỏi thấm đẫm nước mắt:

Ơ... hớ... hơ...

Lãng Bạc là Lãng Bạc nào 

Biển hồ sóng dậy cồn cào lời ca

Lãng Bạc là Lãng Bạc xa

Sông Đà núi Tản cha qua mẹ về

 

Ngàn năm non nước nguyện thề

Không dung giặc cướp, không mê bả quyền

Mê Linh trên bến dưới thuyền

Trưng Vương tuẫn tiết...

                                        Ai quên hận này...

Khổ thơ đầu dào dạt tình cảm, nhắc nhớ một thời người Âu Lạc gọi núi Tản là mẹ, sông Hồng, sông Đà là cha. Tục bắt rể nên cha phải qua. Người mẹ đi đâu rồi cũng trở về. Quê cha đất mẹ là vậy.

Khổ thứ hai nhịp rời, nhanh và dứt khoát. Bi tráng đến tột độ rồi buông lơi một câu hỏi, có thể làm rơi nước mắt ngàn đời.

Ai đang hát? Hay đó là hơi thở đất nước, truyền gửi cho người phụ nữ M’linh kiêu dũng sứ mạng mở đường lịch sử? Trưng Trắc nghe thấu tất cả. Bà đứng bên bờ Lãng Bạc đỏ quạnh, đau đáu nhìn về phía đông nam. Màu máu uất hờn trải tận chân trời. Có thể bà biết, dưới mặt nước ấy, hơn ngàn năm sau, phù sa bồi lắng cộng với biển lùi sẽ tạo nên mỏm cù lao phong thủy kim qui trường tồn. Con cháu bà sẽ mở ra một triều đại mới, thời đại mới, độc lập và tự chủ. Họ sẽ gọi nơi ấy là đế đô Thăng Long. Hình ảnh rồng bay tượng trưng cho Đại Việt, thoát thai từ tôtem Giao long, cá sấu, từng được đúc trên đồ đồng của văn minh Đông Sơn.

Điều làm nặng lòng Trưng Trắc là sự có mặt của Tô Định và sứ đoàn của y tại Long Uyên. Tô Định được Hán Quang Vũ tấn phong làm Thái thú Giao Chỉ năm 34 sau Công nguyên, song thực ra y chỉ vừa mới đến Long Uyên mấy năm nay thôi. Trước đó, khi mẹ cả Man Thiện chưa trao quyền cho bà Trưng, bên mép nước phía hạ lưu biển hồ Lãng Bạc, Tích Quang đã xây dựng một bến thuyền và dãy nhà tạm. Họ gọi đấy là thành Rồng cuộn (Long Uyên). Đến thời Đường, vì kỵ húy tên tục cao tổ Lý Uyên nên nó được đổi ra Long Biên. Đúng ra nhiệm vụ thám sát ôn hòa vùng "khuyết địa" phía nam nhà Hán của Tích Quang đã đặt nền móng cho kế hoạch thực dân, nếu không có loạn Vương Mãng làm chậm trễ.

Mùa Xuân năm 38, Tô Định và đoàn tùy tùng dăm trăm người của y cặp bến Long Uyên. Mệnh lệnh xấc xược đầu tiên của Tô Định là tập họp tất cả Lạc tướng xung quanh Long Uyên để nghe "thánh chỉ".

"Dưới gầm trời này, đất ở đâu cũng là đất của Thánh thượng, dân ở đâu cũng là dân Đại Hán - Tô Định gầm lên - Các người có biết đây là quận Giao Chỉ đã được Hán Vũ Đế xác lập không?".

"Tích Quang cũng từng nói như ông - Trưng Trắc nhỏ nhẹ nhưng dõng dạc - Từ Mẹ Tổ, chúng tôi chỉ biết gọi nơi mình sinh sống là Âu Lạc. Âu là đất. Lạc là nước. Âu Lạc là xứ sở của chúng tôi, không phải của người phương Bắc!".

"Khá khen cho Trưng Trắc già mồm. Ngươi nên biết sách Vũ Cống đã có từ Nam Hải. Sách Xuân Thu chép rằng nước Sở đã gồm thu Nam Hải thuộc Hoa Hạ. Cổ thư Sơn Hải kinh tiên Tần nói Tây Giang đổ vào Nam Hải. Cả biển nam này là của Đại Hán, rẻo đất trâu đầm Âu Lạc lý nào lại ở ngoài Đại Hán..." - Tô Định biện luận ra vẻ rất hùng hồn.

Trưng Trắc cười vang nhờ Lữ lạc tướng tiếp lời họ Tô: "Người Trung Quốc trăm năm trước cứ thấy sông rộng, nước nhiều liền gọi là biển. Nam Hải ở Vũ CốngXuân Thu là Trường Giang vậy. Nam Hải trong Sơn Hải kinh rõ ràng là Tây Giang chảy qua Phiên Ngung. Vua Kiến Đức và tể tướng Lữ Gia của triều đình Nam Việt lên thuyền ra sông lớn ngoài Phiên Ngung lập chiến khu, Lộ Bác Đức tấu về triều bảo họ vào biển Tây. Tô Thái thú lẽ nào chưa đọc những dòng ấy?"

Mặt Tô Định tái như gà cắt tiết.

Trong khi đó Lạc tướng Chu Diên nhìn Trưng Trắc bằng đôi mắt ngưỡng mộ và nể phục. Thật không uổng phí khi bà gửi gắm con trai mình đến M’linh làm chồng người phụ nữ hùng dũng và đảm lược kia.

Ban đầu, không Lạc tướng nào chịu tập họp theo lệnh Tô Định. Tuy nhiên Trưng Trắc đã cho sứ giả đến nhiều nơi thuyết phục. Bà muốn họ tận mắt chứng kiến dã tâm của những kẻ tự nhận là bề trên, là văn minh hơn người bản xứ. Bà muốn tương kế tựu kế, dùng chính diễn đàn của Tô Định để vạch rõ dã tâm của hắn. Trưng Trắc tin rằng với những luận cứ rạch ròi bà sẽ dễ dàng bẻ gãy luận điệu ngang ngược của tên Thái thú xấc xược này.

M’linh không xa Long Uyên, do đó các biện pháp trấn áp của Tô Định gây ảnh hưởng ngay lập tức đến đời sống và sinh hoạt tại M’linh. Phản ứng quyết liệt của Trưng Trắc biến bà thành cái gai  phải nhổ trong mắt
Tô Định.

Tô Định và các thuộc hạ đã chiêu dụ được không ít cư dân chung quanh Long Uyên làm tay sai. Những kẻ phản trắc, quên cội nguồn đã quay lưng lại với nền văn hóa của tiên tổ, a dua theo người Hán để cười vào tục bắt rể và chế độ mẫu quyền. Họ nghênh ngang ỷ thế vào những ông chủ mới có thuyền to, giáo sắt dài, ăn mặc bóng bẩy, lụa là xa hoa.

Gần đây, Tô Định lại ra lệnh cấm đánh cá suốt một dải Lãng Bạc và những vùng nước phụ cận. Nếu có chiếc thuyền độc mộc nào của dân Âu Lạc dám mạo hiểm buông câu, tung lưới thì lập tức bầy lâu thuyền buồm cao, cột lớn sẽ lao đến như bầy dã thú hung tợn nhất.

Trưng Trắc hiểu rõ rằng, nếu không tìm cách hóa giải kiểu "tằm ăn lá dâu" này, Tô Định sẽ dần dần nuốt trọn hồ Lãng Bạc mênh mông, gồm thu sông Hồng, sông Đà và sông Lô. Rồi sẽ đến ngày bọn hùm sói kia cũng sẽ sục mõm tới cả rừng cao núi xa của tổ tiên bà. Thử hỏi khi ấy, còn con dân Âu Lạc nào có thể sống yên ổn được chăng?

Tô Định làm gì, nghĩ gì với toàn bộ Âu Lạc, đều dựa trên nhãn quan và ứng xử trước Trưng Trắc và M’linh. Vô hình trung, M’linh vượt lên tuyến đầu kháng Hán. Lạc tướng Trưng Trắc và phó tướng Trưng Nhị đã được lịch sử giao trọng trách như thế.

Lịch sử không nên xét nét đúng sai ở trường hợp này. Người ta chỉ có thể tiếc rẻ. M’linh là điểm trũng của văn minh Âu Lạc, nơi chế độ mẫu quyền còn hiện hữu và vai trò của người đàn ông chưa được đặt đúng chỗ.

 

*

*     *

 

Trưng Trắc cảm thấy cô độc. Ban ngày chồng bà, A Thi, vẫn phải về Chu Diên. Đến đêm chàng mới là người của M’linh, của gia tộc Lạc tướng nhà bà. Trăm công ngàn việc rối như tơ nhện nên Trưng Trắc lại càng mong sớm có tin vui. Một đứa trẻ sẽ tạo lý do cho bà qua Chu Diên báo tin mừng và xin Lạc tướng thể tất để thường xuyên cho phép A Thi có mặt ở M’linh vào ban ngày. Hơn nữa, Trưng Nhị em gái bà dù sao cũng vẫn còn trẻ người non dạ. Trưng Trắc cần lắm một nam giới mạnh mẽ giúp sức bên cạnh.

Ngàn xưa đến nay trong phong tục Âu Lạc, trách nhiệm giáo dục và nuôi dưỡng con trẻ đều do một nhóm các bà mẹ đảm trách. Nó tự nhiên và nguyên thủy như gà mái ấp trứng chăm con, như hình ảnh hươu cái đa phu trên Trống Đồng. M’linh là xã hội lấy đại gia tộc bên đàng gái làm hạt nhân, chưa chia tách thành những gia đình qui mô nhỏ nhưng linh hoạt để bình đẳng và nâng cao vai trò người đàn ông. Trong môi trường trọng nữ, ý tưởng của Trưng Trắc đã có thể xem là cách mạng.

Nông nổi và lạc quan vốn có của tuổi trẻ Trưng Nhị luôn cho rằng chỉ cần vài buổi là có thể quét sạch mấy mống Hán quân tại Long Uyên. Trống đồng đã được trang bị khắp các buôn làng. Khi tiếng trống cái tại nhà sàn Lạc tướng gióng lên gấp ruổi, mọi quan Lang sẽ đáp lời. Ngàn mặt trống gọi sấm sẽ hòa vang thành lời hiệu triệu xuất quân rung chuyển non sông. Hổ sẽ gầm. Voi sẽ giậm chân. Hàng trăm thuyền độc mộc mang hình hài Giao long sẽ bủa lưới lửa xuống quân xâm lược đang đồn trú tại Long Uyên.

Trưng Trắc không sợ Tô Định. Bà nhìn xa hơn Trưng Nhị. Biết bao nhiêu đồng đã được dành dụm để đúc trống? Nhưng dù có thừa đồng đi nữa, gươm giáo bằng đồng làm sao sắc bén như đồ sắt? Lao tre, tên trúc dẫu bịt đồng, đâu thể đâm thủng được giáp dày khiên lớn của đại quân Hán từ biển sẽ tràn vào tiếp cứu Tô Định. Hình như Trưng Trắc đã lờ mờ hiểu rằng bà thua người Hán tự nền tảng. Mọi quan Lang trong M’linh của bà, xứ sở của bà, có thể luôn đoàn kết, nhất lòng đứng dưới mái nhà sàn cao vút của Lạc tướng M’linh. Nhưng Trưng Trắc không chắc rằng các Lạc tướng và quan Lang ở Chu Diên, Câu Lậu, Luy Lâu, An Biên và nhiều vùng khác, có hết lòng ủng hộ bà không? Dạo Tích Quang qua đây, nhiều Lạc tướng đã biết ở phương Bắc người ta tôn một người lên làm chúa thượng, thống lĩnh trăm họ, quyền lực tuyệt đối, vạn nhà trung thành. Áp dụng hình thức ấy người Âu Lạc mới có thể tập hợp sức mạnh, chống lại bất cứ kẻ thù nào.

Trưng Trắc tin tưởng bà có thể làm vua phương Nam. Song bà hiểu địa linh thì thiếu gì nhân kiệt. Nhà vua phải là người khiêm tốn, cao thượng, trong sạch, có tâm, có đức, có tài, sống vì dân mà chết cũng vì dân. Sức dân muôn thuở là vô địch, nhà vua phải sáng suốt vận dụng chân lý giản dị ấy trong mọi hoạt động xã hội, nhất là việc trị dân giữ nước. Nghe đâu cuối thời Tây Hán, vua quan Trung Nguyên cấu kết đè đầu cưỡi cổ nhân dân, sưu cao thuế nặng, cướp bóc tham nhũng, ăn chơi xa xỉ. Hậu quả là Vương Mãng đã soán ngôi Hán đế, thiên hạ loạn ly, đất trời nổi giận, tai ương dồn dập. Người chết kể đến ức, triệu.

Trưng Trắc luôn ghê tởm sự hèn nhát. Tỉ như mới đây thôi, bà Lạc tướng Khúc Dương đã thân chinh đến giao thiệp, cầu xin Tô Định cho phép đánh cá trên ngã ba Đuống. Hàng chục thuyền độc mộc của họ bị Lâu thuyền Hán đâm thủng, đánh chìm, cướp cả nguồn sống và sinh mạng ngư dân. "Phải mạnh mẽ và kiên quyết hơn, đó chính là phẩm giá làm người." - Trưng Trắc khẳng định như thế. Song song với việc kịch liệt phản đối Tô Định bà còn cử một số Giao long thuyền có vũ trang đến bảo vệ toàn bộ khu vực tây bắc biển hồ Lãng Bạc. Ngư trường ngàn đời nay của M’linh là vùng nước ấy. Sông Hồng chảy vào Lãng Bạc tại đây, chếch xuống phía nam là sông Đáy luồn lách giữa một vùng đầm lầy mênh mông. Nơi sông Đáy nhận nước từ Lãng Bạc thường được gọi là cửa Hát, vì trong các lễ hội trên mặt hồ, nam nữ hay chống sào dừng thuyền ven bờ và ca hát đối đáp với nhau bằng những giai điệu dân dã đầy sức sống, đậm chất phồn thực, ngày này qua ngày khác.

 

Cửa Hát cũng là nơi linh thiêng, gần như biên giới của trần thế và cõi âm. Giới thượng lưu M’linh và Chu Diên khi trăm tuổi, sẽ được khâm liệm vào chiếc quan tài hình thuyền, tái hiện chân thực Giao long thuyền mà họ từng sử dụng. Đoàn đưa tang phải khép một vòng trước cửa Hát, rồi mới đi sâu vào đầm lầy ven sông Đáy, chọn những gò nổi khô ráo để an táng người quá cố.

Hôm trước bà Lạc tướng Chu Diên có ghé thăm M’linh. Bà bảo với Trưng Trắc là thế giặc mạnh quá. Càng gần Long Uyên càng nhận ra sức ép kinh khủng. Bà cảm thấy hoang mang và bất lực.

"Giặc lúc nào chả mạnh. Không mạnh thì sao chúng có thể coi trời bằng vung, chuyên làm những việc trái đạo nghĩa. Vậy thì để tự vệ, Âu Lạc không được yếu. Làm yếu nước là có tội, là rước giặc vào nhà, đem voi giày mồ mả tiên tổ. Giặc đến, đầu tiên là lỗi ở ta. Ta không yếu giặc nào dám mạo phạm? Ta không sợ, mọi đe dọa chẳng có đất sống". Trưng Trắc khẳng khái nhận định.

"Nghe nói trên núi, Lạc tướng Bắc Đái, Kê Từ vẫn thản nhiên, ngày ngày ngả thịt thú rừng, uống rượu, ca hát nhảy múa. Họ bảo dẫu cùng là một Âu Lạc nhưng họ không thích ăn cá, không quan tâm đến biển hồ Lãng Bạc". Lạc tướng Chu Diên còn dẫn thêm nhiều bằng chứng để Trưng Trắc thấy rằng không phải nhất nhất người dân Âu Lạc đều có ý thức cảnh giác trước vận mệnh Âu Lạc.

"Tôi ước sao A Thi sẽ làm vua Âu Lạc. Chúng ta cần thay đổi rồi mẹ chồng à". - Trưng Trắc rút ruột nói - "Không theo kịp thời, đất nước nào cũng sẽ hèn yếu. Cổ hủ, bảo thủ và hài lòng là chúng ta đang thoái hóa và tự cô lập đấy. Nữ quân làm sao mạnh mẽ bằng nam quân. Tổ tiên ta không phải không biết điều này. Ngày hội đua thuyền rồng tế mẹ trời, trai tráng cầm chèo lúc nào cũng vượt trước một phần ba vòng đua".

Gương mặt Lạc tướng Chu Diên bỗng nhiên tối sầm lại. Trong một khoảnh khắc bà thấy Trưng Trắc nói rất có lý và bà cũng thấy mình đã phạm tội ngay khi hiểu ra những lời ấy. Về nhà, Lạc tướng vội giết gà tạ tội với quỷ thần về những ý nghĩ quá mới mẻ kia. Bà yêu A Thi nhưng bà sẽ không thể đánh đổi tình yêu ấy với bất cứ truyền thống nào.

 

*

*     *

 

Ở một thái cực khác, bà Lạc tướng Khúc Dương lại muốn xa lánh Trưng Trắc. Bà đến xin Tô Định thương tình, đừng cản dân chúng đánh cá. Bà làm như thế không phải vì bà yêu họ mà vì bà không muốn mất địa vị, quyền lợi và quyền lực hiện nay bà đang được hưởng. Bà sợ nỗi căm tức của nhân dân đối với Tô Định có thể bất ngờ quay ngược lại bà. Bao đời nay mẹ truyền, con nối, cháu chờ sẵn, gia tộc bà ăn trên ngồi trước đã quen. Bà chỉ lo gió giao mùa, bà không muốn vật đổi sao dời. Bà tin mỗi giọt máu trong người bà đã mang sẵn mầm di truyền cao quí, thiêng liêng và bất khả xâm phạm.

Tô Định khéo léo che giấu sự man trá trên gương mặt khi tiếp kiến Lạc tướng Khúc Dương. Y rất cần bọn đầu đen phản chủ xun xoe cầu cạnh, nhưng đấy mới chỉ là những vẩy ghẻ ruồi trên cơ thể Âu Lạc. Tô Định mong chờ những người như Lạc tướng Khúc Dương đã lâu. Họ là nội thương, là ổ bệnh vô phương cứu chữa của xứ sở này. Sự nghiệp của y thành hay bại phải nhờ lũ hèn hạ ấy chăng? Thoáng một chút tự mâu thuẫn trong đôi mắt lươn của Thái thú. Lạc tướng Khúc Dương đã nhai giập miếng trầu, khóe mép nhăn nheo của bà dần dần hiện lên những tia nước bọt đỏ như máu. Một con quỷ tởm lợm - Tô Định nhủ thầm. Y đang tự phỉ nhổ vào tinh thần thượng võ mà người Trung Nguyên hay rêu rao. Nhưng hết cách rồi, y phải dùng mọi thủ đoạn để hòng đạt được mục tiêu Quang Vũ giao phó. Từ nay trở đi, mãi mãi Tô Định sẽ cảm thấy mình lép vế và là tiểu nhân trước đối thủ chính của y, Lạc tướng M’linh Trưng Trắc.

 

Canh cánh bên lòng nỗi nhục của trang nam nhi tri chí, Tô Định đâm ra bực bội và hay cáu bẳn với tay chân. Càng hành động tàn ác, y càng sợ sệt hùng tâm của người Âu Lạc kết tinh trong con người Trưng Trắc.

Trưng Trắc nắm chắc những diễn biến thuận lợi cho bà đang sục sôi tại Long Uyên. Là một người khôn ngoan, bà thừa biết chính nghĩa tất mang lại sức mạnh. Đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Bà nên đem lẽ phải của người Âu Lạc đến mọi mái tranh, vách nứa, sưởi ấm từng trái tim quả cảm của lương dân. Lẽ phải sẽ thôi thúc những con người thụ động nhất và sẽ đánh động lương tri những kẻ vô tâm nhất... Lẽ phải đó sẽ thăng hoa thành tinh thần bất khuất của toàn bộ xứ sở này. Đó là vũ khí bách chiến bách thắng muôn năm của người Âu Lạc trước ngoại xâm, bất kể hôm nay hay mãi mãi về sau.

Chiều muộn, gió lên, biển hồ Lãng Bạc nhấp nhô những cơn sóng uất hận. Chúng chồm lên cả mây thấp và đẩy mặt trời nhanh lặn. Từng đoàn thuyền nối đuôi nhau về bến. Các khoang cá hắt lên ánh nắng xiên khoai rực rỡ. Niềm vui trào dâng trong từng lời chào hỏi của ngư dân dành cho vị thủ lĩnh yêu quý của mình. Có người còn mạnh dạn bưng đĩa trầu cánh phượng đến mời Trưng Trắc. Thái độ hàm ơn và tôn trọng của họ khiến Trưng Trắc ấm lòng. Bà đưa tay ra hiệu cho các tùy tùng cùng thưởng trầu. Mùi trầu vôi cay nồng rạo rực khắp bến sông. Các nữ tướng cười vang, môi họ đỏ như máu, má họ hồng như vừa uống rượu cần nhưng ánh mắt không hề sao nhãng.

Hộ hậu ngư dân là mấy chiếc thuyền rất to, mũi cong vút, khắc chạm hình tượng Giao long mạnh mẽ. Đuôi thuyền là bánh lái trang trí đầu chim Lạc. Giữa mỗi Giao long thuyền đều có bệ không cao lắm, tiền thân của lầu gác ở thuyền Hán. Cờ súy Âu Lạc thường đứng đó chỉ huy, có cung thủ hỗ trợ. Sàn thuyền, phía mũi đặt một chiếc trống đồng không tai, viền trống đính bốn đôi cóc đang giao hoan, chầu mặt trời trung tâm theo chiều ngược kim đồng hồ.

Giao long thuyền vừa cập bến, Trưng Nhị nhảy thoắt lên bờ cấp báo những diễn biến đáng lo ngại cho chị cả:

"Tô Định vừa hạ thủy thêm hai Lâu thuyền mới mà bọn Khúc Dương đã lén lút cung cấp gỗ quí để chúng dụng mộc. Các thuyền chiến của ta giả trang thương buôn đã báo lại với em như thế. Cơ cấu chiến binh của Tô Định bắt đầu có sự thay đổi. Y pha trộn nhiều tay chèo Âu Lạc vào đội ngũ Hán. Đám này chưa quen nếp áo xống phương Bắc nên thường mặc quần Hán nhưng lại cởi trần khi xuống thuyền. Vì là dân bản xứ, điều đáng lo ngại nhất là chúng rất rành rẽ sông nước Lãng Bạc để chỉ điểm lập công với Tô Định."

"Hôm nay em có bị gây hấn gì không?" - Trưng Trắc hỏi, ngữ âm của bà rất trầm.

 

"Có lẽ chúng bất ngờ với lực lượng của em nên còn ngại ngần, chỉ lảng vảng xa xa. Khi em đánh trống xua đuổi thì có đứa Hán đực còn dám đứng bên mạn Lâu thuyền vạch quần tiểu tiện để khiêu khích".

"Khốn nạn đến thế ư?" - Trưng Trắc bực dọc - "Thái độ rất nguyên sơ và lỗ mãng ấy chứng tỏ chúng quyết chiếm trọn Lãng Bạc bằng mọi giá. Cảnh đầu rơi máu đổ không còn xa nữa đâu. Chúng đã giở đến trò bỉ ổi cuối cùng rồi!".

"Em không sợ chết. Em chỉ sợ không được một trận sống mái với lũ xâm lược ngạo mạn và gian tham này." Trưng Nhị cao giọng nói với Trưng Trắc.

"Tối nay A Thi qua, chị sẽ bàn thêm với tất cả mọi người. Ai mà chẳng chết. Dòng dõi trâm anh chúng ta sẽ chết cho vinh quang Âu Lạc. Chết để tinh thần bất khuất trường tồn, muôn đời con cháu noi gương thì chẳng có gì mà phải đắn đo."

Trưng Nhị sóng bước bên chị gái trở về hành dinh Lạc tướng. Lén nhìn dáng đi và nét mặt phúc hậu nhưng quyết đoán của Trưng Trắc, cô thấy ấm áp và an toàn quá đỗi. Nếu không có gì thay đổi, Trưng Trắc sẽ tổ chức đại lễ rước chồng cho cô vào cuối năm nay. Nghĩ đến đây hai má Trưng Nhị chợt ửng lên, cử chỉ mất hết tự nhiên. Trong hàng chục chàng trai tuấn tú đã hát đối với cô ở lễ nghinh xuân vừa qua, không biết mẹ cả và Trưng Trắc đã chấm ai. Mọi người quá bí mật về chuyện này. Mấy năm nay mùa màng thuận lợi, Lạc tướng đã chuẩn bị cả một kho rượu cần cho sự kiện lớn của gia tộc. Chắc chắn đó sẽ là chuỗi ngày vui chưa từng có ở M’linh. Chín vò rượu hay chín mươi chín vò rượu sẽ được dùng cho cuộc chào rượu giữa hai họ? "Phép quân không bằng tuần rượu" là luật tục ngàn đời nay. Xong chào rượu sẽ đến chào cơm. Nhất định phải chín mươi chín mâm chứ không thể ít hơn!

"Nhà trai sẽ đem lễ vật gì đến nhà gái nhỉ?" Trưng Nhị thầm hỏi. Cô biết huyền thoại cổ xưa về voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao chỉ là vẻ đẹp của trí tưởng tượng siêu phàm. Một thiếu nữ đương thì phơi phới như cô ở M’linh thường mong mỏi được nhận thóc giống tốt, hạt mẩy, gạo mới thơm nức, một bộ váy thổ cẩm không có bất cứ tao chỉ nào bị nối và mấy món trang sức giản dị.

Trưng Nhị đột ngột trở nên thực tế, cô nhìn thấy chín chiếc gùi chứa toàn vũ khí bằng đồng được đoàn đưa hôn nhà trai đem qua, đặt dưới ngôi nhà sàn Lạc tướng M’linh. Đất nước đang có giặc, giấc mơ đôi lứa của cô phải cụ thể như thế mới xứng đáng với liệt tổ. Có lẽ cô nên đề nghị đánh trống đồng cáo bố giặc giã thay cho tục giã cối đón chồng.

Nhìn vào mắt em gái, Trưng Trắc chợt thấy nhói lòng. Bà thấu hiểu tất cả vì trong thiên tính lãnh tụ của bà có một đường thông nối với tiềm thức từng cá nhân Âu Lạc. Thiên tính đó sẽ truyền những lời nói của bà đến muôn dân với sức mạnh động viên và cuốn hút không thể hiểu nổi.

"Lạc tướng của em. Chị đừng quá lo lắng thế". - Trưng Nhị nhẹ nhàng an ủi Trưng Trắc. Hình như chị cô sinh ra là để hy sinh cho một cái gì đó lớn lao hơn cả thời đại của chính bà. Cái chết sẽ là phương tiện để bà đến với cõi bất tử chăng? Trưng Nhị tin tưởng rằng cô có thừa can đảm gạt qua một bên giấc mơ cá nhân nhỏ bé để luôn sát cánh với chị cả và anh rể của mình trong trận chiến một mất một còn với quân thù.

 

*

*     *

 

Ba chiếc trống đồng có tai treo được buộc lên thanh xà ngang ngoài hiên, phía đông ngôi nhà rông có mái hình thuyền của Lạc tướng M’linh. Khi gà đã đi tìm chỗ ngủ được hơn một canh giờ, mẹ cả Man Thiện ra lệnh cho bọn lực điền vạm vỡ gióng trống triệu tập toàn bộ các quan Lang và bô lão. Kế hoạch uống rượu bên bếp lửa trong nhà rông để bàn quốc sự phải thay đổi, vì người đến đông như trẩy hội. Cuối cùng, một đống lửa cao ngất được nhen ngoài trời, vòng người rộng bằng một quãng ném dao.

 

Gia nhân Lạc tướng khệ nệ bê vào chiếc đầu trâu đực chồm ra khỏi mặt nia. Đầu trâu vừa mới cắt, máu tươi rói nhỏ từng giọt dài xuống đất. Hai mắt trâu trợn ngược, mõm hất lên trời. Trưng Trắc bắt đầu hành lễ tế cáo. Trước hết bà cảm tạ trời đất năm nay cho mưa thuận gió hòa, cá đầy thuyền, chái bếp nhà nhà đầy ngô, góc sàn chất không hết các gùi gạo tẻ, gạo nếp. Sau đó bà mời tiên tổ về chứng kiến cảnh nước nhà đang lâm nguy trước họa ngoại xâm.

Khi Trưng Trắc nhắc đến Hán quân, bốn bề quan quân bỗng im lặng như tờ. Tiếng lửa tre nứa tí tách bập bùng cũng giảm âm, bớt sáng. Khói đùn cay mắt cả những em bé còn ẵm ngửa nhưng chúng cũng không dám khóc. Dơi treo mình trên cành cây, cú mèo nhắm mắt. Tất cả hình như ngưng đọng để nghe âm vang hùng thiêng sông núi vọng về.

A Thi đứng lên tuyên bố là người Chu Diên cũng đã sẵn sàng. Xung quanh Luy Lâu, Long Uyên, đến những vùng biên ải như An Định, Hữu Tu Quan đều nhất nhất chờ lệnh Lạc tướng M’linh, chờ lửa hiệu bên cửa Hát, chờ tiếng trống đồng đánh theo nhịp dồn, liên tu bất tận. Cả Âu Lạc sẽ ra trận, sẽ không đội trời chung với bè lũ xâm lăng Hán triều.

Trưng Trắc cảm ơn chồng, cảm ơn những sứ giả từ khắp Âu Lạc đã tụ hội quanh bà, cảm ơn các bô lão không quản tuổi cao sức yếu, trèo đèo lội suối đến động viên con cháu. Bà nói giết Tô Định không khó. San bằng Long Uyên lại càng dễ hơn, bà chỉ sợ lòng người không giữ mãi được quyết tâm. Sau khi xử lý xong Tô Định, bà cùng muôn dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng Âu Lạc, phải chọn được minh quân và hiền tài để tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập, sống mái với quân Hán nhiều lần nữa vì chắc chắn chúng vẫn chưa hết lòng tham, dã tâm và sẽ đem tinh binh sang rửa hận.

Đêm khuya dần nhưng những luận bàn, kế sách cứ đưa ra không ngớt. Mắt người người long lanh chong lửa, thổi bạt đêm đen. Các phương sách hành động được chia sẻ, người nào việc nấy. Trưng Trắc chưa định ngày xuất quân. Bà hiểu rằng, trước tiên, cần xây dựng thế trận lòng người. Bà còn phải đi khắp Âu Lạc, gặp gỡ hết thảy Lạc tướng để chỉ ra cho họ lợi hại, tham vọng vô lường của Tô Định cũng như quân xâm lược Đông Hán. Sau rốt, bà sẽ chứng minh cho họ, chỉ có hình thức triều đình như người Hán, người Hồ, mới cứu Âu Lạc thoát khỏi nanh vuốt của con sói đói Bắc phương. Căn cơ là ở đấy, sự nghiệp của bà cũng ở đấy. Bà không đeo giấc mộng bá vương cho riêng mình. Chế độ mẫu quyền lạc hậu ở Âu Lạc phải được cởi bỏ, để nhân dân và sức sống trường tồn của Âu Lạc được ngụp lặn, tắm rửa trong mạch nguồn văn minh.

 

Nhân vật đầu tiên Trưng Trắc tiếp xúc là Khúc Dương Lạc tướng, kẻ luôn đặt lợi ích dòng tộc cao hơn lợi ích Âu Lạc.

"Khi nào có trống mẹ hẵng dạy đời bà già này nhé, Lạc tướng M’linh". Nghe như thế Trưng Trắc cảm thấy như bị tạt ngay một gáo nước lạnh vào mặt - "Các ngươi còn trẻ dại, biết đến đâu mà đòi trứng chọi đá".

"Lão Lạc tướng à". - Trưng Trắc cố giữ bình tĩnh - "Đàn hươu kết sừng thành rừng chông thì sợ gì sói dữ. Bà chưa tin tưởng, chúng tôi vẫn cứ đợi bà. Chỉ mong bà đừng tiếp tay cho quân thù, hại người Âu Lạc".

"Ta chỉ muốn yên ổn. Ta mua yên ổn cho con dân của mình, cớ chi lại gọi là tiếp tay cho quân thù".

"Tại sao chúng ta phải mua sự yên ổn trong chính ngôi nhà của mình?" - Trưng Trắc vẫn mềm dẻo - "Bà hãy lập đàn cúng hỏi Mẹ Tổ, xem người trả lời ra sao. Bà nghĩ rằng tên Hán quan vô lại Tô Định giết hết chúng tôi rồi sẽ để yên cho bà và dòng tộc bà chăng?"

Nghe đến tên Thái thú tàn bạo Tô Định, Lạc tướng Khúc Dương rùng mình. Nỗi khiếp nhược trùm phủ khuôn mặt già cỗi của ả. Trưng Trắc bất lực và không thể hiểu nổi. Trăm trứng của Mẹ Tổ đã có vài quả ung, quả thối chăng? Trưng Nhị uất quá, cô chỉ mặt lão Lạc tướng cảnh cáo trước khi ra về: "Bà sợ chết thì hãy ở yên đấy, trốn kỹ cuối hàng quân kháng Hán của chúng tôi và đừng dại dột bước qua đội ngũ bọn ăn cướp. Người Khúc Dương và dòng tộc bà sẽ xử bà mà không đợi đến chúng tôi đâu".

Rất may, không khí nặng nề ở Khúc Dương mau chóng bị xua tan khi Trưng Trắc gặp Lữ Lạc tướng, hậu duệ của Lữ Gia, thừa tướng Nam Việt. Tưởng cũng cần nhắc lại, năm 111 trước Công nguyên, Phiên Ngung thất thủ, vua Kiến Đức và Lữ Gia xuống thuyền đến Thuận Đức phía tây Phiên Ngung tìm cách tái tập hợp quí tộc Nam Việt, xây thành đắp lũy định tiếp tục chống cự. Chẳng bao lâu sau, chiến khu bị bọn Việt gian dẫn quân Hán đến tấn công, Kiến Đức và Lữ Gia đều bị bắt sống. Gia tộc họ Lữ chạy thoát cũng nhiều, sau đó họ đến Phong Châu hòa mình vào cuộc sống nơi đất mới với người bản xứ. Gần 150 năm trôi qua, xã hội mẫu quyền dung hợp chế độ phụ hệ, tạo nên đặc thù mẫu hệ trung gian, quyền thừa kế thuộc nữ giới nhưng Lạc tướng luôn là nam giới.

Lữ Lạc tướng học rộng hiểu nhiều, ông có một đội thuyền buôn nhỏ chuyên chở hàng hóa ven bờ xung quanh vịnh Bắc Bộ, đôi khi cũng xuống cả Cửu Chân.

"Thưa Lạc tướng Trưng Trắc," - Lữ Lạc tướng nói - "Tôi nhiệt thành ủng hộ công cuộc chống Hán của bà. Tiếc rằng Phong Châu người thưa thớt, chúng tôi huy động hết nhân lực cũng chỉ được ba ngàn quân, hơn trăm chiếc chiến thuyền, to nhỏ đủ loại".

 

"Góp gió thành bão, Lữ Lạc tướng đừng khách sáo," - Trưng Trắc vui ra mặt.

"Nhưng bà đừng lo, tôi có quan hệ bán buôn khá tốt với An Biên và Cửu Chân". - Lữ Lạc tướng nói tiếp - "Quí ông Đô Dương ở Cửu Chân có thể tập trung hàng ngàn chiến binh nhưng Giao long thuyền hơi ít".

"Tôi sẽ đến tận nơi gặp hai người ấy. Ngoài ra ông còn có cao kiến gì không?"  - Trưng Trắc hỏi.

"Bà phải đúc trống lớn, tuyên xưng là Lạc vương mới có thể tập hợp nhân dân Âu Lạc bên mình. Đó là thuận theo truyền thống. Mặt khác bà nên cân nhắc trao quyền dần dần cho nam giới, bắt đầu từ quan Lang đến tướng lĩnh trực tiếp cầm binh. Sứ giả của tôi rất mừng trước ý định của bà. Tiến hành cải tổ xã hội Âu Lạc là việc nên làm". Lữ Lạc tướng chứng tỏ ông đã suy nghĩ rất nhiều về vận mệnh Âu Lạc.

Hai chuyến đi tiếp theo của Trưng Trắc đến An Biên và Cửu Chân cũng gặt hái được những kết quả rất tốt đẹp. Sự đoàn kết đơm hoa đậu quả hơn cả dự định. Đô Dương đồng ý nhận tước Hầu, Lê Chân nguyện làm tướng, cả hai thề trung thành tuyệt đối với Trưng vương, dù bà chưa đúc trống mẹ.

Lãnh thổ Âu Lạc đã được tổ chức thành bốn trọng điểm quân sự dưới sự chỉ huy xuyên suốt của Trưng Trắc. Lạc hầu Đô Dương, tướng quân Lê Chân và Lữ Lạc tướng toàn quyền quyết định quân cơ khu vực xung quanh mình. Trước mắt, do lực lượng Hán quân còn mỏng, Trưng Trắc chưa cần huy động hết mọi người. Bà nhấn mạnh với đồng bào là họ nên chăm chỉ lao động sản xuất, tích cốc trữ lương, mài gươm đúc giáo, thao luyện sĩ khí, sẵn sàng cao độ, chờ tiếng trống mẹ của bà tập hợp khi đại quân của người Hán kéo sang.

Sự tồn tại của Tô Định ở Long Uyên chỉ còn tính từng ngày.

 

 

2.

 

Rất nhiều người Việt Nam hết mình yêu vẻ đẹp của kiến trúc Pháp tại Đà Lạt. Cô cũng vậy. Mỗi chiều mưa bụi rừng thông, tiếng dương cầm lẫn trong sương bay là là trên mái ngói rêu phong của ngôi biệt thự vườn xây theo kiểu Pyrénées và Basques, cô thường nghẹt thở. Hình như đó là một hội chứng đã được y văn ghi chép kỹ càng, mang tên một văn hào Pháp. Cô gọi đấy là nỗi nghẹn ngào thiên đường.

Cô đoán, anh sẽ cho rằng cô đồng bóng và nông cạn. Anh yêu Di Linh và Bảo Lộc hơn Đà Lạt bởi nó còn đọng nhiều dấu ấn bản xứ nguyên khai. Nói chung, nhìn vào lịch sử Lâm Đồng trăm năm trở lại đây, cô có thể suy đoán những gì đã diễn ra ở đồng bằng sông Hồng đầu Công nguyên. Djirinh và Blao đã được Hán - Việt hóa thành Di Linh và Bảo Lộc. Phải chăng Mi Linh trong Hán Thư, và sau đó là Mê Linh đã được người Hán ký âm từ M’linh? Ngôn ngữ của Hai Bà Trưng và ngôn ngữ người Thượng ở Tây Nguyên hình như cùng một nguồn Nam đảo. Bác sĩ Yersin chuyển ngữ Đaạ Lạch qua Dalat, sau đó tiếng Việt đơn âm tiết tách nó ra thành Đà Lạt như đang thấy. Đaạ cũng như Đak, Nác, Lạc và Đà trong sông Đà, nó chỉ sông, suối, địa bàn sinh tồn cốt tử của người Việt cổ. Người Mường cũng gọi nước là Đác. Từ cụ thể, tư duy phát triển đã trừu tượng hóa Đaạ, Đak, Lạc thành xứ sở, tổ quốc, quốc gia. Đaạ Lạch là xứ sở của người Lạch, cũng như Lạc Việt tương đương với Việt quốc.

Tư duy của nhân loại ở thảo nguyên và đời sống du mục lại hình tượng hóa đất, vùng đất, thành xứ sở, quốc gia. Đó là ý nghĩa của từ land trong quốc danh nhiều nước trên thế giới. Nằm nơi ngã ba của các nền văn hóa và ngôn ngữ, có lẽ trùng ngữ đất - nước là cách dung hòa, là dấu vết hợp chủng bắc - nam trong quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. Phản đề của phân ly là tái hợp. Phải chăng truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con là ẩn ý sâu sắc, là nhắn nhủ đoàn kết, là lời răn dạy tương thân tương ái của tiền nhân Việt cổ. Nếu xét trên nhận thức tuyến tính, câu chuyện Âu - Lạc là bề phải của huyền thoại tháp Babel nổi tiếng trong Kinh thánh Thiên chúa giáo. Hay nói cách khác ngạo mạn và chia rẽ là một.

"Tại sao em yêu thích lịch sử?" - Anh hỏi.

"Hình như nó giải đáp được rằng chúng ta từ đâu tới. Còn ý nghĩa của tồn tại nữa chứ. Ở góc độ nào đấy lịch sử sinh động hơn triết học." - Cô trả lời như một cái máy. Có lẽ anh không nhớ nhiều những kỷ niệm cô từng kể. Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại, tuồng như anh chỉ nói cho riêng mình, để tạo nên một lý do suy tư. Cô cũng như anh, say sưa đứng dưới chân Tháp Chàm. Với Tháp Chàm, cô luôn là du khách khát khao chiêm bái giá trị nghệ thuật xưa cũ.

Cô rất tiếc năm nọ, khi thăm quan bảo tàng lăng mộ Nam Việt Văn vương ở Quảng Châu, Trung Quốc, lúc đó cô chưa quen anh. Xúc động lan tỏa đến từng chân tơ kẽ tóc. Cô bỗng tin vào linh hồn và những lời truyền kể thông qua tiềm thức của cả một dân tộc, một cộng đồng. Cô tin vào thứ lịch sử nằm ngoài những thẻ tre, các tờ lụa của sử quan. Và hơn hết, cô thấy có gì đó rất tò mò đối với Văn vương Triệu Hồ.

 

*

*     *

 

Cô một mình đến Quảng Châu với mục đích thăm quan lăng mộ Triệu Văn Vương. Từ sân bay Bạch Vân cô về thẳng nhà nghỉ trường đại học Kí Nam. Sáng hôm sau, lên xuống mấy lượt xe buýt và tàu điện ngầm, cô đến cổng công viên Việt Tú. Đi bộ một thôi dọc phố Giải Phóng Bắc, băng qua đường hầm, cô dừng trước bức tường mặt tiền cao ngất của viện bảo tàng. Thật nguyên vẹn. Người Việt Đông chăm sóc di tích lịch sử rất khoa học.

Đêm. Ngồi ghế đá trong khuôn viên rợp cây xanh trước nhà nghỉ, khoan khoái tận hưởng không khí trong lành, cô tự hỏi "Hơn hai ngàn năm trước, đây là lãnh thổ của một nước cũng tên là Việt ư?"  Một ông lão râu tóc bạc phơ đi ngang, vừa cười vừa hỏi:

"Mai mi về Nam, sao hôm nay không tiện thể ghé ta chơi một chuyến?"

"Thưa... ông là..."

"Ta là ông nội của Văn Vương."

"Nhà ngươi... À không, lăng mộ của... ông gần đây ư?"

"Trường đại học này xây dựng bên triền địa danh Ngung sơn trong sách xưa."

Như có ma lực thôi thúc và mạnh mẽ hơn cả sự tò mò khiến cô líu ríu rảo bước theo Triệu Đà.

 

*

*     *

 

Lối vào mộ dốc và khá hẹp, dài tầm vài chục bước chân, vách đất dựng đứng. Theo lễ nhà Chu, chỉ thiên tử mới được làm đường khiêng quan tài vào mộ. Thời ấy ở Hoa Bắc, người ta đào mộ đạo rất rộng và sâu. Sau khi an táng, hai phần ba chiều cao mộ đạo được lấp cát và chèn đá hộc, một phần ba phía trên là đất nện. Nếu trộm viếng mộ, đào càng sâu thì chúng càng có nguy cơ tự chôn sống vì cát sụt lôi đá xuống. Thấy cô quan sát khá kĩ, Triệu Đà quay lại bảo:

"Ở đây cao và xa sông suối, không tìm được cát. Ta cho đào ngang, hút sâu vào lòng núi. An toàn không kém. Hai thiên niên kỉ có hề hấn gì đâu. Cửa nhà ta suốt bốn mùa và suốt ngày đều có thể nhìn thấy mặt trời"

"Ngươi... ông... năm nay bao nhiêu tuổi?"

"Ta về đây năm 137 trước Công nguyên. Ta sinh năm 234 tại Chân Định, nước Triệu. Nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc."

"Sao Đại Việt sử kí toàn thư đời vua Lê Thánh Tông ghi ông sống hơn trăm tuổi?"

"Chắc là nhầm đấy. Sách sử sao đi sao lại, có người vì lý do này nọ, có khi lại do sự biến thiên, loạn lạc. Về điểm này Sử kí của Tư Mã Thiên có khi là đáng tin cậy hơn, nhưng quá khúc chiết."

"Ngươi từng là phó tướng của Đồ Thư?"

 

"Ta xuống Lĩnh Nam đợt hai, sau khi dân Tây Âu đã giết Đồ Thư. Tần Thủy Hoàng rất ghét nước Triệu, vì ám ảnh bởi tuổi thơ khó nhọc tại Hàm Đan. Nhiều người Triệu bị Tần Thủy Hoàng bức ép đi xây Trường Thành và bắt xung lính thú Lục Lương. Thuở bé ta con nhà tử tế, được học ít nhiều. Sẵn chí tiến thủ, sau vài năm chinh chiến ta thành Huyện lệnh Long Xuyên...".

Bước qua hai cánh cửa đá to và nặng, Triệu Đà chỉ cho cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh một thạp đồng có hoa văn người chèo thuyền.

"Chịu khó nhé. Nhà cửa chật hẹp vì mái lợp đá nguyên tảng, không thể dùng các tấm lớn hơn". Sau khi đưa cho cô chén trà có ánh bạc, Triệu Đà yên vị vào chiếc yên ngựa bằng da nạm vàng, kê trên bó ngà voi rất to. Lão ta chậm rãi giới thiệu "nhà" mình:

"Đây là phòng khách. Phòng ngủ sát kề. Sau phòng ngủ là nhà kho. Có hai buồng chái tây và hai buồng chái đông. Ta đem theo hơn chục người tuẫn táng gồm lính gác, phục vụ, nấu bếp, nhạc công và mấy bà cung phi trẻ tuổi. Phải nói là tục lệ... dã man". Triệu Đà tỏ vẻ lấy
làm tiếc.

Gió nam mát rượi. Bộ quần áo ngọc may bằng chỉ tơ, treo trên móc áo gỗ chân đồng được chạm khắc tinh xảo. Văng vẳng và lao xao, dàn chuông buông lời âm u như những tiếng thở dài.

 

"Ban sáng, thăm mộ cháu nội ông, tôi thấy chiếc ấn vàng "Văn Đế Hành Tỉ", lại có ấn "Triệu Mạt" và ấn "Thái tử". Nhưng Tư Mã Thiên ghi nhận Văn đế tên Hồ mà?"

"À, thằng này mẹ người Việt, bà nội cũng người Việt. Ta đặt tên Hồ, nhưng trong hoàng gia hắn chỉ thích mọi người gọi hắn theo tiếng bản địa. Chữ Mạt dùng để kí âm.

"Triệu Hồ có phải là con Trọng Thủy không?"

Triệu Đà không đi thẳng vào câu hỏi.

"Hồ đĩnh ngộ, ta đúc cho ấn thái tử. Vì ấn thái tử cũ của Thủy là Kim ly hổ ấn (ấn vàng núm hình con lân), nên đành cho Hồ dùng Kim qui ấn (ấn vàng núm hình con rùa) theo đúng trật tự long - lân - qui - phượng."

"Vậy còn chuyện An Dương Vương và nỏ thần?"

"Dầu sao cũng có yếu tố truyền thuyết, lời truyền miệng dân gian".

"Thế Tây Âu Lạc ở đâu?"

"Theo ta Âu Lạc là kí âm của Đất nước, Xứ sở của người Việt bằng Hán tự. Người Việt ở Phiên Ngung, người Việt dưới mé sông Hồng, hay người Việt tại đất Mân đều gọi nơi mình sống là Âu Lạc. Khi Tư Mã Thiên viết Tây Âu Lạc, ông ta hàm ý phía tây Phiên Ngung, tức vùng Nam Ninh, Quảng Tây gần cửa biển Hợp Phố."

"Vậy ông chưa từng đặt chân đến sông Hồng?"

Triệu Đà đứng lên lấy chiếc hộp bạc tròn đựng thuốc của người Ả Rập cổ đưa cho cô xem:

 

"Những thương nhân từ Ba Tư đi thuyền đến đây có kể ít nhiều về mảnh đất hoang vu bên một biển hồ mênh mông, đỏ quạnh phù sa. Nơi ấy nhiều đầm lầy, ẩm thấp, dân cư thưa thớt, mùa mưa ngập lụt triền miên. Ta từ nước Triệu, chỉ quen cưỡi ngựa nên không có kinh nghiệm xây dựng đội thuyền viễn chinh."

"Còn thành Cổ Loa nữa chứ."

"Dịch Hu Tống chết, nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đã quật khởi kháng chiến và giết được Đồ Thư. Dạo Lữ Hậu chuyên quyền, ta bắt đầu dòm ngó sang hướng ấy nhằm mở rộng Nam Việt, sẵn sàng chống giặc. Trước nguy cơ bị thôn tính, An Dương Vương đã liên kết các bộ lạc Tây Âu Lạc, lợi dụng địa thế núi non, An Dương Vương đắp thành đất, dựng lũy gỗ nhiều vòng men theo vách núi, nhìn xa như một con ốc biển khổng lồ. Đó là thành Cổ Loa. Quân ta nhiều lần điêu đứng với những mũi tên đồng này". Triệu Đà chỉ vào bó tên màu vàng, cạnh chiếc nỏ dựng ở góc phòng - "Ta thu phục mãi không được. Hết cách, phải dùng kế ly gián. Một số tay chân ông ta nhận của cải đút lót đã đuổi theo chủ. Vị thủ lĩnh kiêu hùng chủ quan, thiếu cảnh giác ấy đã phải lên thuyền chạy ra biển, đem theo nhóm quí tộc thân cận."

"Ý ông là... vua An Dương Vương đến Đông Anh, Hà Nội ngày nay, đắp đê ngăn nước và sinh sống?"

 

"Có lẽ thế. Họ đem theo câu chuyện về Cổ Loa và những cuộc đụng độ với ta. Thời gian xóa nhòa tất cả".

"Ông sáng tác kịch bản này nhằm biện minh hành động xâm lược của ông?"

"Vị vương mới ở Tây Âu Lạc cũng ít chịu nghe lệnh ta. Năm 111 Phiên Ngung thất thủ, ông ta định chống nhà Hán. Hoàng Đồng là người Phiên Ngung cử qua giám sát Tây Âu Lạc. Sử kí viết "Tả tướng cũ của Âu Lạc chém Tây Vu Vương". Tây Vu nghĩa là vùng phía tây (Phiên Ngung), chứ không phải địa danh. Tây Vu và Tây Âu Lạc là một. Chữ Tây này vẫn tồn tại đến hôm nay trong nhiều tên gọi, ví dụ như Quảng Tây, Trung Quốc - một tỉnh giáp ranh với phía bắc nước Việt Nam".

"Cổ sử liệu ít, nhiều người đã chú rằng từ Tây Vu này là tên huyện," cô thầm nghĩ. Ngôi chùa nào cũng gọi hai bên là Tả vu và Hữu vu. Tây Vu được nhắc đến hai lần, năm 111 trước Công nguyên ở Nam Việt và 43 sau Công nguyên tại Âu Lạc. Khả năng Tây Vu là tên của một huyện thấp đến vô cùng.

 

*

*     *

 

Một thiếu phụ mặc áo lụa, tay diện vòng bạc, khắp người lấp lánh ngọc trai, ngọc bội, trâm vàng, bước ra từ buồng ngang phòng khách phía đông. Không nhìn cô, bà ta cúi xuống nói gì đó với Triệu Đà. Cô đọc được dòng chữ "Hữu phu nhân tỉ" trên chiếc ấn vàng bà ta đeo giữa ngực.

Người nhà đã chuẩn bị xong mọi thứ, đến giờ Triệu Đà ăn tối và xem vũ - nhạc, lão ta ngỏ ý mời cô cùng thưởng thức. Cẩn thận bước đi giữa rất nhiều đồ tùy táng, cô theo lão sang phòng lớn phía Tây.

Nhóm nhạc công nhỏ bé gần như bị lèn chặt bằng rất nhiều loại nhạc cụ: khánh đá, chuông đồng đủ kiểu, tù và ngọc thạch, đàn tranh cổ nước Tần, v.v...

Cung tơ dìu dặt, bước chân ngựa thong thả trên bình nguyên hoàng thổ. Bất ngờ tiếng tù và xung trận rúc lên. Chuyển động khẩn trương, dồn dập. Binh khí chạm nhau. Ngựa hí... Thanh âm chuông móc câu loang trên mặt cỏ. Mùi máu tanh... Tiết tấu rệu rã, sinh lực dũng sĩ đã hết. Nhạc nhỏ dần, nhỏ dần để chuyển điệu.

Róc rách nước chảy khe suối. Dàn khánh đá lung linh dưới ánh sáng của khay đèn mỡ cá bằng đồng. Chim hót, vượn hú, rừng rậm thâm u. Thấp thoáng sau lùm cây dại là những chiến binh... Ngựa sụp hố chông hí thảm thiết.

Âm thanh dạt ra như đồng cỏ lau ngút ngàn có người rón rén băng ngang. Điệu nhạc rộn rã như ngày càng đến gần tai người nghe. Lớp lớp chân trần giậm đất thập thình quanh đống lửa. Nhiều phụ nữ mặc khố hoa, ngực căng cong vút tựa sừng trâu.

 

Một gia nhân ôm vò rượu gạo có viết bốn chữ "Trường Lạc cung khí" đến rót vào chén ngọc cô đang cầm trên tay.

Hương từ đỉnh trầm len qua những khe trang trí hình kỉ hà quyện vào tà lụa hai vũ công. Nhân ảnh nhòe nhoẹt, chỉ còn lại cảnh đôi chim quấn quít với nhau trên bãi phù sa lúc thủy triều xuống. 

Thỉnh thoảng để thay đổi góc nhìn, cô lại hướng mắt vào hàng chục chiếc gương đồng bóng loáng treo trên vách đá. Một chiếc gương khá lớn nằm che gần hết lưỡi qua đồng bén ngọt. Thấp thoáng dòng chữ "Trương Nghi". Chiếc qua này chắc hẳn đúc ở công xưởng binh khí nước Tần, thế kỉ thứ tư trước Công nguyên.

 

*

*     *

 

"Ông tự nhận mình là người Triệu, người Tần, người Hán hay người Nam Việt?"

"Ta với Lưu Bang, chí chẳng khác nhau, địa lợi khập khiễng mới thành kẻ bắc người nam, kẻ mạnh người yếu. Ta xưng vương ngoại giao cho qua chuyện binh đao, sao gọi là người Hán được. Tần cường bạo dùng lửa để dập lửa, giết người cầu hiếu sinh, đốt thi thư nhằm ngu dân an bang, hạ sách lắm. Phần lớn đời ta uống nước Việt, ăn gạo Việt, nói tiếng Việt nhưng vẫn nhớ nơi chôn nhau cắt rốn. Tim, óc ai chẻ ra cân đong đo đếm bao giờ."

"Còn văn hóa Việt thì sao?"

"Ta chưa bao giờ phủ nhận người Việt, văn hóa Việt. Phải khẳng định văn minh, tổ chức chính quyền, công thức xã hội phương Bắc nảy nở trên nền tảng phụ quyền có lí do tồn tại và cắm rễ nơi này. Thực sự có những thứ ta đem đến đây rất hữu dụng, và ít nhiều vẫn chưa phải là mất đi hoàn toàn".

"Như ông nói, mà chắc chắn là bịa đặt, ông chưa đặt chân đến đồng bằng sông Hồng?".

"Hán Vũ Đế xâm lăng Nam 10000 Việt, bọn Việt gian Tô Hoằng cùng quan lang Đô Kê phản phúc vây bắt Kiến Đức, Lữ Gia. Còn bao nhiêu quí tộc, thân vương theo thuyền buôn, thuyền cá dong buồn về biển Nam mà nay người Việt Nam gọi là biển Đông cô  không tính ư? Làn sóng tị nạn ấy đã đem văn hóa nước Nam Việt đến bên dòng sông Hồng. Phía nam Ngũ Lĩnh, văn hóa tương giao, chủng tộc gần gũi, các bộ lạc rải rác, quân trưởng độc lập, chế độ mẫu hệ chủ đạo nên không có biên giới.  Khoa học lịch sử là gương mặt, là tư duy, là trình độ phát triển, là thước đo vận động của chính thời đại dung dưỡng nó. Ta mặc nhiên là quá khứ. Văn minh loài người chỉ mới mấy ngàn năm, tuổi ta bằng nửa số ấy. Ngành khảo cổ Trung Quốc gọi mộ Triệu Hồ là Tây Hán Nam Việt vương mộ Bác vật quán. Họ muốn đánh đồng triều đại độc lập ta dựng lên nằm trong kỉ Tây Hán, thời Tây Hán, kiểu Tây Hán và thuộc về nhà Tây Hán. Hãy để những chiếc đế tỉ nói lên sự thật.

Cô tròn mắt nghe những lời tâm sự lạ lùng của Triệu Đà. Nó vượt xa thời đại lão ta từng sống đến hai ngàn một trăm năm. Cô bỗng nhận ra rằng để nhìn quá khứ một cách khách quan và khoa học như nó vốn có, đi từ lịch sử truyền miệng mang bản chất tín điều đến lịch sử tiệm cận sự thật, là cả một quá trình gian khó và dài lâu.

 

*

*     *

 

Nắng phương nam chói chang. Người tiếp viên hàng không vén màn che cửa sổ và nhắc nhở mọi người kiểm tra thắt lưng an toàn trước khi máy bay hạ cánh. Cô giật mình về với hiện tại sau một giấc chiêm bao. Tất cả những đồ vật cô đã tận mắt chiêm ngắm nơi lăng mộ Văn Vương đều được tái hiện trong mơ, chung quanh kẻ xâm lược Triệu Đà và những người tuẫn táng. Có thể đây là một cách làm việc vô thức của một sinh viên năm cuối khoa Sử, nhằm điểm duyệt và ghi nhớ những phút giây xúc động khi đi thực tế.

 

 

 

 

3.

 

"Không hề có chút lý luận! Đùng cái em bảo Âu Lạc nghĩa là Đất Nước". Anh trêu cô.

"Mỗi quyển sử Việt em đã đọc đi đọc lại không dưới mười lần. Em có linh cảm như thế. Anh không giúp em mà còn giễu cợt ư?".

"Anh dùng thuật toán nhé. Nếu âm Âu có một vài ngữ nghĩa gần nhau thì khi thay Âu vào các từ đơn, từ kép trong cổ sử, nó sẽ không vô lý. Từ thủa xa xưa, đất Việt ở Giang Nam thường được viết là Ư Việt, Vu Việt. Ư và Vu đồng nghĩa, theo tự điển Thuyết văn đời Hán, U và Âu là biến âm và tương đương nhau trong nhiều trường hợp như Chu/Châu, Thu/Thâu, U sầu/Âu sầu... Đặc biệt là chữ Âu được ghép bởi hai chữ Khu (vùng đất) và chữ Ngõa (ngói)".

"Vậy nghĩa Đất của Âu có thể chứa trong chữ Khu chăng?"

"Em để ý nhé, người Việt cổ gọi mẹ là U hoặc Bu, họ cũng gọi Núi/Non là Rú. Trường ca Đẻ đất đẻ nước của người Mường cũng nhắc đến đồi U".

"Như vậy là có một mối liên hệ nhất định giữa Âu và các nghĩa Đất, Mẹ, Núi?".

"Tuyệt quá. Âu Cơ là bà mẹ cao quí. Âu Cơ dẫn năm mươi người con lên núi. Lạc, Nác, Nước, Đaạ, Đak, Đác, Đà đều chỉ sông, suối, vùng nước sinh tồn của Lạc Long Quân và năm mươi người con còn lại. Họ có chia ly không? Không, hai chủng người đã hợp huyết và cộng sinh ngôn ngữ, họ gọi xứ sở của họ bằng một từ ghép Non Nước, Đất Nước và cuối cùng nó đã được người Hán ký âm bằng Hán tự thành Âu Lạc".

Âu Lạc nghĩa là Đất Nước vẫn chỉ là giả thiết. Cô và anh không hề ảo tưởng về một khám phá vĩ đại. Tuy vậy giả thiết này nếu chứng minh được, giải quyết được rất nhiều vấn đề cổ sử mù mờ. Ít nhất nó cũng san phẳng dị biệt giữa Sử KýHán Thư ở địa danh Tây Âu Lạc và Tây Âu, nó cho thấy chúng là một, chúng chỉ vùng đất phía tây Phiên Ngung.

Nếu đã là trùng ngữ, Âu hay Lạc đều có thể đứng riêng để chỉ cương vực, lãnh thổ, và cao hơn hết là quốc gia. Đó chính là ý nghĩa như nhất của Âu Việt và Lạc Việt.

 

*

*     *

 

Một lâu thuyền của Tô Định chở được khoảng năm bảy chục người. Thực ra đây là loại thuyền Hán, phổ biến từ thời Tần, trên cơ sở phát triển kỹ thuật hàng hải ven bờ của người Bách Việt ở Giang Nam, đặc biệt tại bộ phận bánh lái. Hầm tàu là những khoang chứa hàng, lương thực, nước uống và phòng ở của binh lính. Boong chính thiết kế hai dãy mái chèo đâm ra khỏi mạn tàu. Tùy thuộc vào độ lớn của lâu thuyền, một mái chèo sẽ có một, hai hay nhiều người phụ trách. Giữa thuyền dựng vài tầng lầu thấp, gồm buồng lái, buồng chỉ huy và các khu vực sinh hoạt chung. Boong mũi cũng như boong lái bằng phẳng rộng rãi để tướng sĩ và tinh binh tác chiến khi lâm trận. Lâu thuyền thường cắm ba cột buồm lớn, điều chỉnh bằng ròng rọc gỗ, dù sơ khai nhưng rất linh hoạt. Vũ khí trang bị trên lâu thuyền khá đa dạng như pháo xa (súng bắn đá), lôi thạch (máng lăn đá nặng), thiết mâu (giáo sắt dài), qua, kích, gươm, cung tên... Đặc biệt nỏ đại được điều khiển bán tự động theo nguyên lý đòn bẩy cơ học, bắn một lần nhiều mũi tên, có thể tẩm dầu thực vật để phóng hỏa khi lâm trận. Súng bắn đá và máng lăn đá cực kỳ lợi hại, lực công phá rất lớn, chuyên dùng để phá vỡ vỏ tàu đối phương từ xa hoặc nhận chìm các thuyền nhỏ tìm cách áp mạn tấn công.

Lực lượng của Tô Định gồm năm trăm lính Hoa Bắc và một ít dân phu thu nạp từ Lĩnh Nam. So với quân Mã Viện sau này thì chẳng đáng là bao, nhưng hơn hẳn những gì Nhâm Diên và Tích Quang đã có.

Người ta hay tưởng tượng ở Âu Lạc phải hiện hữu nhiều làng lưu đày tội nhân Hán hoặc người Hán di cư, chạy loạn, làm hậu phương vững chắc tại chỗ cho Tô Định. Thời Vương Mãng, Hán nhân bỏ xuống phương Nam không ít, sách chép Giao Chỉ với ý nghĩa Giao Chỉ bộ, chứ không phải quận Giao Chỉ. Thủy thổ Âu Lạc rất khắc nghiệt, người xứ lạnh Hoa Bắc khó thích nghi. Tỉ lệ dân phi bản xứ ba đời ở Âu Lạc chẳng cao, nếu không rặt Lĩnh Nam tương đồng văn hóa, thì cũng là nhóm Hán có huyết thống Lĩnh Nam. Họ đã xem Âu Lạc là quê hương, bản quốc từ lúc chôn nhau cắt rốn. Dù Tô Định đặc biệt ân cần với họ, xoáy vào nỗi hoài vọng quê cha đất tổ ngàn đời, đề cao và chia sẻ nền tảng phụ hệ, kết quả vẫn chẳng đi đến đâu.

Vẻ ngoài Tô Định không gớm ghiếc như được mô tả bởi sự truyền miệng sau này. Dã tâm và lòng tham của y thì khỏi phải nói. Như tất cả lũ thực dân trên thế giới, Tô Định lọc lõi và thừa điêu toa để thu hút cái nhìn vừa ngưỡng mộ vừa sợ sệt từ một số nạn nhân của y. Mùa đông y mặc mấy lớp áo thụng rộng tay, đi ủng gấm. Mùa hè Tô Định gọn gàng và nền nã trong quần áo ngắn kiểu người Hồ, may bằng lụa Giang Nam thượng hạng. Thỉnh thoảng y đóng bộ quan phục uy nghiêm gồm áo mũ cân đai thêu thùa tỉ mỉ. Bình thường y đi đứng và ăn nói rất điềm đạm, kẻ cả. Chỉ khi nào nổi giận, nhất thời mất kiểm soát, y mới lộ nguyên hình, phùng mang trợn mắt, bừng bừng sát khí.

 

Sinh ra và lớn lên giữa thời loạn lạc, hành vi của Tô Định đầy ắp chất võ biền và vô học, khác hẳn các Thái thú đi trước. Nếu Nhâm Diên và Tích Quang ít điều tiếng, cố tránh oán hận, khéo lừa mị được một số người dân Âu Lạc thật thà, thì Tô Định luôn khiến họ khinh rẻ. Không có Tô Định, biết đâu Âu Lạc đã bị đồng hóa một cách êm ái, hoàn toàn phi bạo lực. Chưa biết chừng bị hại còn lầm lẫn, có lúc tưởng nhầm kẻ thù như người ban ơn, như trường hợp Nhâm Diên.

Nhâm Diên vốn được Quang Vũ đế sai sang Cửu Chân (nam Âu Lạc) trước Tô Định vài ba năm. Người Hán đã có tấu sớ cũ của Tích Quang ghi chép kỹ lưỡng về con người, đất đai, tài nguyên quận Giao Chỉ (bắc Âu Lạc). Nhiệm vụ của Nhâm Diên không khác Tích Quang. Cửu Chân là vùng bán sơn địa, đất cao ruộng cạn, giáp biển thông rừng, dân cư thưa thớt. Nhâm Diên đến, các Lạc tướng bất hợp tác. Y đành dựng trại chiêu phu tại Vô Biên.

Người Cửu Chân đi rừng thuần thục hơn cày cấy, lương thực chính không phải là gạo tẻ. Họ làm đất qua loa như cho trâu quần nát cỏ, rồi dùng dùi trỉa thóc giống. Chính vì vậy Nhâm Diên phải chạy ra Giao Chỉ mua gạo. Sau thấy quá nhọc bèn đúc cày, khẩn đất mới nuôi nổi mấy người lính thú và phu bản xứ. Thái thú Nhâm Diên quyết liệt bài bác hôn nhân mẫu hệ. Y dụ dỗ, tổ chức được ít đám cưới theo kiểu Hán.

 

Quí tộc bản xứ ở Cửu Chân rộng rãi, phóng khoáng, có khí tiết. Sinh hoạt như mọi nơi trong Âu Lạc. Họ rất quí trống đồng, lễ hội thường đánh trống, múa hát, uống rượu. Rượu Cửu Chân là hũ cơm ủ men và lá rừng cho ngấu sẵn, lúc uống đổ nước sạch vào, cắm cần trúc hút trực tiếp.

Nhâm Diên không dám chọc giận quí tộc Cửu Chân nên cư xử ra mặt biết điều. Các Lạc tướng chẳng mấy bận lòng. Bốn năm sau Nhâm Diên chạy chọt về triều. Trước khi được bổ làm quan nơi khác, y khuyến khích Hán Quang Vũ tiến hành nô thuộc Âu Lạc và quả quyết mảnh đất ấy giàu có không tưởng tượng nổi. Để bịa tạc chính nghĩa cho tham vọng kẻ cướp của chúng, Nhâm Diên kể lể đã dạy người Cửu Chân làm ruộng, giáo hóa Bắc lễ. Y không ngượng miệng xiên xỏ con người ở đấy sống mông muội.

Công việc đầu tiên của Tô Định tại Long Uyên là ngày ngày sai thuộc hạ dong buồm đi dọc biển hồ Lãng Bạc, lên tận ngã ba Bạch Hạc, nghênh ngang tuần tiễu. Lính tráng của y thường đứng hoặc ngồi trên boong mũi, dưới tán lọng đen, lấy gươm chỉ trỏ, đe nẹt, hoạnh họe các thuyền buôn, thuyền chài Âu Lạc. Không thấy những phản ứng có hệ thống từ người bản địa hoặc phản đối chính thức từ các Lạc hầu, Lạc tướng, Tô Định dấn thêm bước nữa bằng việc ra lệnh cướp bóc, trấn lột lương dân dưới mỹ từ thu thuế. Người Âu Lạc lúc bấy giờ chưa có nền thương nghiệp, họ chỉ trao đổi hàng hóa trực tiếp. Tô Định liền nghĩ ra cách bắt thuyền và ép họ phải chuộc lại bằng đồ đồng, ngà voi, sừng tê, ngọc trai, hương liệu, và gỗ quí, v.v...

Người dân Âu Lạc oán thán khắp nơi khiến các Lạc tướng đứng ngồi không yên. Nhiều vạn chài phải bỏ ngư trường gần Long Uyên, lánh lên thượng nguồn hoặc xuống hạ lưu. Phản ứng mạnh mẽ và cương quyết của Lạc tướng M’linh khiến Tô Định cảm thấy bất ngờ. Quá trình vơ vét của cải bị chững lại. Tô Định điên cuồng thúc giục quân lính tuần tra gấp ruổi, cần thì bỏ thuyền lên bờ, sục sạo vào những buôn bản nằm sâu trong đất liền. Giết chóc, hãm hiếp và đốt phá đã xảy ra. Với những ai đã mang nỗi sợ Tô Định trong chính bản chất hèn nhát của mình, tô thuế và cống nộp thường kỳ để cầu an là giải pháp mà họ nhanh chóng chấp nhận. Ách thực dân đã cắm rễ một cách cường bạo như thế xung quanh Long Uyên.

Các tàu buôn Trung Nguyên ghé qua Long Uyên liên tục. Lúc nào chúng cũng rời bến hướng về Hợp Phố hoặc Nam Hải với của cải, sản vật Âu Lạc chất khẳm mạn tàu. Những thứ ăn cướp ấy sau đó sẽ được chuyển tiếp theo đường bộ, thẳng đến đế đô Lạc Dương.

 

*

*     *

 

Sự lệch pha giữa nhận thức của Tô Định và Tích Quang là dễ hiểu. Dưới triều Hán, Tích Quang được nhìn nhận là một nhà Nho chính thống, y ý thức sâu sắc rằng, con người mới chính là tài sản thực sự trân quí của bất cứ đất nước nào. Mua chuộc được một bộ phận dân cư Âu Lạc, quí tộc là tốt nhất, thì sẽ thuộc địa hóa Âu Lạc thành công. Chẳng có trận chiến nào dễ dàng hơn khi nhà Hán xâm lăng Âu Lạc bằng chính những người lính Âu Lạc, Lạc tướng được cấp thao ấn (ấn đeo cổ), trở thành quan chức Hán. Họ sẽ thu thuế cho Thái thú, tổ chức khẩn hoang, khai mỏ, phá rừng, lật biển... đem hết của ngon vật lạ của xứ sở lên bàn tiệc thực dân, chia bôi với Thái thú. May thay, âm mưu thâm độc của Tích Quang bị loạn Vương Mãng hủy phá.

Quang Vũ đế tin tưởng giao cho Tô Định sứ mệnh mở rộng biên giới phía nam. Y tự nhận mình là người đi khai hóa, đem ánh sáng văn minh của Hán tộc chiếu rọi đến nơi rừng thiêng nước độc này. Song, Tô Định không sử dụng được nọc độc trong lời dặn dò của vua Hán. Năm trăm quân trên một đội Lâu thuyền Quang Vũ cử đến Âu Lạc đâu phải để đánh nhau và trấn lột trắng trợn. Nó chỉ là chất xúc tác phân hóa người Âu Lạc. Nó chứa những viên đạn bọc đường chỉ nên tặng giới quí tộc ăn trên ngồi trốc, không thiết tha với quyền lợi xứ sở. Nó mang hình ảnh bạo lực tượng trưng, chỉ đánh được đòn cân não vào những người nhút nhát, độc tài nhưng bạc nhược. Thất sách của Tô Định đã tung tóe, ngoài kia, dưới những thôn xóm Âu Lạc hiền hòa, có một người đàn bà dũng cảm đã chỉ mặt gọi tên y là kẻ cướp.

Vì hiểu sai lời Tích Quang, Tô Định đã hứa hươu hứa vượn với Hán đế sẽ làm cỏ Âu Lạc chỉ với năm trăm quân và võ mồm dọa nạt. Tô Định cứ tưởng đem Lâu thuyền án ngữ, tuần tra, cướp bóc dọc sông Hồng thì người Âu Lạc sẽ khiếp vía. Ai ngờ chỉ mỗi một Lạc tướng già ở Khúc Dương rón rén đến Long Uyên quị lụy. Còn lại, nhân dân Âu Lạc nói chung đang biến căm hờn thành sức mạnh. Sức mạnh ấy được dồn nén trong tiếng trống đồng uất hận, đêm đêm thổi lửa hun đốt tâm trí người Hán ở Long Uyên.

Nhìn chung Tô Định chỉ dám lộng hành và đạt được ý đồ của y ở một số vùng xung quanh Long Uyên. Cư dân nghèo Việt cổ, bị hình ảnh tề chỉnh của Thái thú và Hán quân làm mờ mắt. Họ bắt đầu vọng ngoại. Với đàn ông, họ mơ ước về một xã hội phụ hệ, nơi tiếng nói của họ được xem trọng ngang ngửa với sức khỏe và khả năng đi rừng, đánh cá, trồng trọt cũng như cày cấy. Với phụ nữ, họ bị vật chất mua chuộc, chóa mắt. Làm vợ quan quân Hán, họ không cần của hồi môn, không phải đầu tắt mặt tối gánh vác trách nhiệm gia đình, dòng tộc, lại còn được ăn ngon mặc đẹp.

 

Tô Định thừa hiểu chỉ một nhúm quân, y chẳng thể làm được gì, kể cả bảo toàn tính mạng chính mình. Y không rõ Tích Quang dựa vào đâu mà đã trình một bản tấu nhiều sai sót đến vậy. Tích Quang viết rằng ở cái xứ sở man di mọi rợ này con người nhát như sên, đụng chút là rụt cổ. Họ sống với nhau không có tôn ti trật tự.

Thì ra người Âu Lạc cũng kiên cường lắm. Mua chuộc mãi Tô Định cũng chỉ thu nạp được vài tên tay sai hạ đẳng. Văn hóa của Âu Lạc có kém gì văn hóa Trung Nguyên đâu. Họ đề cao vai trò phụ nữ. Đất nước họ dân cư thưa thớt, giàu có sản vật nên con người nhu mì, ít tranh giành đổ máu. Theo chuẩn mực vô vi, có thể nói Âu Lạc đã rất gần với xã hội lý tưởng của Lão Tử. Thế nào là tôn ti trật tự? Trật tự của Khổng Nho chăng? Hơn ai hết, Tô Định hiểu thuyết chính danh và tôn ti của chế độ Hán là dây thòng lọng vô hình. Nó sẽ tròng xuống cổ bất cứ ai, bất cứ dân tộc nào bị hút vào luận lý của nó. Tôn ti Hoa tâm không cho phép một thế lực nào đứng trên Hán đế. Lẽ chính danh đã từng ép Triệu Đà phải chấp nhận phong vương, bỏ mộng thiên tử một cõi.

Bị bẽ mặt bởi lời lẽ cứng cỏi và đanh thép của Trưng Trắc dạo nọ, Tô Định quyết định vớt vát bằng trò rung cây dọa khỉ. Y tổ chức một cuộc chọi trâu tại Long Uyên, rêu rao, tuyên truyền trâu Hán là vô địch. Tô Định đánh đố bất cứ con trâu Âu Lạc nào hạ được trâu của y. Phần thưởng cực lớn. Y ép mời các Lạc tướng nhưng Trưng Trắc từ chối nên không ai hưởng ứng.

Tô Định tuyệt đối tin tưởng cặp trâu hoang Cửu Chân y mua của lái buôn. Trâu đã thuần hóa ở đồng bằng sông Hồng nói chung hiền lành, sức vóc cũng hạn chế. Không có địch thủ, Tô Định rêu rao khắp hẻm trên ngõ dưới rằng quí tộc Âu Lạc rụt cổ hết cả rồi.

Ngày kia bỗng có một người dân nghèo Âu Lạc mặc khố ở trần, neo thuyền nan ở bến Long Uyên, tìm Tô Định nhận lời thách thức. Nghe nói ông chỉ là người đánh cá dạo ven sông nhỏ, sống cô độc lẻ loi, gương mặt xù xì như Giao long. Buồn ngủ gặp chiếu manh, Tô Định hồ hởi phát loa, gấp rút dựng trường chọi trâu chứa được cả ngàn người bên mép nước Lãng Bạc.

Sớm tinh mơ ngày đã hẹn, Tô Định chuốc rượu sơ sơ cho đôi trâu của y nóng máu. Cả hai con trâu đều hừng hực sức khỏe, da đồng, lông móc, một khoang bốn khoáy, hàm đen, răng trắng muốt, lông dày như cỏ gừng, nhọn tựa lông nhím. Chúng mang đầy đủ tố chất cực hiếm của một con trâu chọi thượng hạng: ức rộng, cổ dài, mập tròn, lưng phản dày cui, đùi săn chắc và cuồn cuộn bắp thịt, sừng đen như mun, chếch lên trời như hai cánh cung, mắt đen có ánh láy của than đá, tròng mắt hằn đỏ gân máu.

Mặt trời đứng bóng mới thấy thấp thoáng thuyền nan. Địch thủ của trâu Tô Định hóa ra chỉ là một con nghé lông xám còi cọc, đầu trùm kín vải đen. Hán quân thấy thế cười sằng sặc. Người Âu Lạc thất vọng, hoang mang. Tô Định nghiến răng:

"Khá khen thay tên thảo khấu kia. Mi dám lấy mạng sống bọt bèo của mình giỡn mặt ta ư?"

"Thái thú quá lời". - Ông lão khá điềm tĩnh - "Trâu nhỏ của tôi sẽ đả bại hai con thú đang mặc áo Hán vẽ lưỡng nghi của ông chỉ trong tích tắc. Phần thưởng như đã hứa sẵn sàng chưa đấy?".

"Láo thật! Trâu đại Hán được gọi là bò nước, thánh thượng ta gửi qua đây truyền giống cho Âu Lạc là thiện ý trời biển. Thách đấu chẳng qua để chỉ ra sự ươn hèn và cố chấp của xứ sở này. Sau trận thư hùng ta sẽ thả đôi trâu quí sống tự do trên ruộng đồng quanh Long Uyên cho chúng vung vãi ân sủng phương Bắc". Cả đấu trường ồ lên kinh ngạc. - Tô Định nói tiếp - "Nếu con nghé ốm đói kia chỉ đến đây dạo chơi, ta sẽ phanh thây chủ nhân của nó".

Đôi trâu "giả Hán" đang lồng lộn trong chuồng. Số là Tô Định bí mật sai lính dùng búi cật nứa sắc nhọn và mỏng xuyên ngang phía trên tinh hoàn trâu. Phần thừa lòi ra ngoài trông như nhúm lông bình thường nhưng nó sẽ chạm quẹt vào bẹn trâu. Sự cọ xát ấy cắt dần bó dây thần kinh nhạy cảm nhất ở một con trâu đực. Hậu quả là trâu nổi điên, chỉ chực phá chuồng. Nó sẽ lao đến bất cứ địch thủ nào, mong huyết chiến hòng quên đi cơn đau âm ỉ.

Con nghé ngây thơ vốn đã bị bỏ đói hai hôm. Dưới tấm vải trùm đầu, người ta buộc sẵn một lưỡi liềm cong vút, sắc như nước. Vào cuộc đấu, nhìn thấy trâu đực trong ánh sáng chói chang, nghé cứ tưởng đó là mẹ mình. Lập tức nó khéo léo tránh đòn rồi đuổi theo trâu của Tô Định, rúc mõm vào giữa hai đùi sau tìm vú. Lưỡi liềm oan nghiệt nhưng cực kỳ biến hóa và thông minh đã lần lượt phơi ruột cả hai con trâu mộng của Tô Định.

Mọi việc diễn ra nhanh như chớp. Tô Định chưa kịp bừng tỉnh để kết tội chủ nghé ăn gian, vi phạm luật chơi của y, đấu trường đã vỡ tung. Muôn người vây lấy con nghé reo hò, hân hoan đón chào chiến thắng. Nghé con bụng vẫn cồn cào, nhìn xác trâu đực biết không phải mẹ, nó họ lên một tiếng rồi ba chân bốn cẳng chạy thẳng ra khỏi trường đấu.

Hán quân không tìm được kẻ có khuôn mặt Giao long để phanh thây. Vị hàn sĩ bí ẩn đã biến thành một con Giao long to chưa từng thấy, trườn xuống bến Long Uyên, bơi về bờ bồi phía nam của biển hồ Lãng Bạc. Lính tráng của Tô Định đã thì thầm và quả quyết với nhau sau lưng y như vậy.

Người Âu Lạc như mở cờ trong bụng. Họ bảo con nghé kia là thú hiến tế của Trưng Trắc cho vị thủy thần cai quản biển hồ Lãng Bạc hồi đầu năm. Ngay cả thủy thần cũng đã nổi giận với tội ác của Tô Định. Y không còn chốn dung thân tại xứ sở này.

 

*

*     *

 

Tô Định mất ngủ triền miên. Y giật mình thức giấc nhiều lần trong đêm vì bị ám ảnh bởi những tiếng hô quyết chiến bị dồn giấu trong đêm đen Âu Lạc. Tiếng trống đồng sâu hút dội vọng trên mặt nước bến Lâu thuyền Long Uyên ám ảnh Tô Định. Hơn một ngàn năm sau sứ giả nhà Nguyên sang Đại Việt cũng vì hoảng hốt như thế mà thốt lên bằng thơ: "Kim qua ảnh lý đan tân khổ / Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh", nghĩa là "Nhìn rừng giáo gươm mà đau khổ / Nghe tiếng trống đồng sợ đến
bạc tóc
".

Nhiều hôm khuya khoắt, Tô Định xõa tóc, mang hài trắng, vận quần áo lót trắng, từ giường tuột xuống, đi lang thang dọc bến Lâu thuyền như một bóng ma. Y không mộng du. Chính sự sợ hãi đã khiến đôi chân của y đi theo bản năng đến gần soái hạm. Tuy nhiên trên soái hạm Tô Định còn trằn trọc kinh khủng hơn. Sóng Lãng Bạc ì oạp luôn vần vũ mạn thuyền, nghe như tiếng xua đuổi, nguyền rủa Hán quân. Con thuyền chao động không ngừng nghỉ, các mộng gỗ nghiến vào nhau kèn kẹt căm hờn.

 

Tô Định cảm thấy cả cái kiến, con muỗi của xứ sở này cũng ghét cay ghét đắng y. Y đến đâu chúng cũng bám theo hành hạ. Đàn vạc trắng ngày xưa hay rảo bước bên bãi bồi Long Uyên kiếm ăn hình như cũng biết tránh xa quân thù tàn bạo. Suốt bến thuyền, cả đêm dài không nghe một tiếng cá quẫy, không thấy một bọt tăm của các loài thủy vật trồi lên đớp bóng...

Những lúc khủng hoảng nhất, Tô Định thường đánh thức tất cả lính tráng dậy và ra lệnh đốt lửa để xua tà ma ám khí. Y hỏi các tay sai người Âu Lạc về ý nghĩa từng hồi trống. Mặc dù được giải thích cặn kẽ là trống xuất binh sẽ dồn dập, liên hồi, gần như không ngừng nghỉ, không giống như các hồi trống nhắc nhở cảnh giác gần đây, Tô Định vẫn không hết nghi ngờ mà còn nọc bọn tay sai ra tra khảo về tội trá hàng làm nội gián cho người Âu Lạc.

Hình ảnh bệ rạc của Tô Định càng làm cho tinh thần quân Hán hoang mang, chí khí hao tổn. Nói cho cùng lính thực dân cũng chỉ là nạn nhân của chính trị thực dân bá quyền mà thôi. Quân chính qui của Tô Định toàn là nông nô Hoa Bắc, không hợp phong thổ Âu Lạc, sốt rét, ngã nước khiến tuần nào cũng mất đi vài mạng. Phu chèo thuyền, phục vụ, đa số được Tô Định tuyển chọn tại Nam Hải, chẳng xa lạ với khí hậu ẩm thấp nên ít nhiều hiểu tình cảnh của người Nam nên đâm ra chán nản. Tâm trạng chung của họ là ngán ngẩm biên thú, thương quê, nhớ nhà. Quân doanh Hán râm ran tin đồn Tô Định bị ma ám. Đây đó ở bến Long Uyên đã nghe tiếng sáo Cai Hạ oán thán của Trương Lương thuở nào. Ngặt nỗi đường về phương Bắc xa xăm, rừng thiêng nước độc, nếu không, chắc là đám Hán quân cũng đã vứt bỏ giáo gươm, rã ngũ, bỏ mặc Tô Định một mình xoay xở ở nơi rừng thiêng nước độc này.

Thói đời, những kẻ yếm thế, bị dồn vào chân tường lại càng hung hăng, khát máu, thích gây gổ và can qua. Tội ác của Tô Định cứ thế ngày càng dày hơn, nước biển hồ Lãng Bạc cũng không thể rửa sạch.

 

 

4.

 

Trong một bài khảo cứu cô đã viết: "Tại Âu Lạc, người giàu có nhất, mạnh mẽ nhất trong làng được suy tôn là quan Lang. Một cách tương đối, đứng đầu trăm làng là Lạc tướng, ngàn làng là Lạc hầu, vạn làng là Lạc vương. Ngoại trừ quan Lang và Lạc tướng có những ràng buộc xa gần về huyết thống, địa lý và thần quyền; các nấc bậc quyền lực còn lại liên kết khá lỏng lẻo. Nó không có những nguyên tắc chế định thông thường như của nhà nước phong kiến quân chủ, bởi chưa từng chia sẻ với nhau một tổ chức xã hội, chính trị hay tôn giáo. Đa thần cũng là lý do phân tán quan trọng, dù họ cùng thờ mặt trời (trong khuôn khổ nguyên sơ nhất). Cái vỏ phong kiến của ngôn ngữ Hán đã đánh lừa người đọc hàng ngàn năm sau, khi tiếp cận với những ghi chép về Âu Lạc trong Hán sử".

"Điểm sáng đáng để ý nhất của Âu Lạc có lẽ là tinh thần đoàn kết của các Lạc tướng và nhân dân trước họa ngoại xâm. Luôn xuất hiện một thủ lĩnh đứng lên đóng vai trò Lạc vương khi chiến tranh vượt khỏi tính chất cục bộ trong bản thân Âu Lạc. Truyện cổ tích Thánh Gióng chứng tỏ điều đó. Muôn nhà đã góp cơm cho người anh hùng lớn nhanh như thổi. Hình ảnh và hành động của ông vua cho bắc loa cầu hiền chống giặc khá mờ nhạt, e rằng chỉ là tính biểu tượng. Giặc tan thì vai trò của Thánh Gióng cũng hết, ông phải bay về trời. Mô típ này vẫn còn bảng lảng trong niêu cơm ăn mãi không hết của chàng Thạch Sanh ở rể. Truyện Thạch Sanh ghi nhận nhiều chi tiết giao thời giữa chế độ phong kiến phụ quyền (ngôi vua truyền cho con trai ruột) và quân trưởng mẫu hệ (ngôi vua truyền cho chồng trưởng nữ). Như vậy, vua Hùng và An Dương Vương rất có thể đã từng thực hữu. Sự biến mất của vua Hùng có thể được giải thích bằng truyện cổ tích Thánh Gióng. Với An Dương Vương thì dễ hiểu hơn, ông đã phải chạy ra biển khi thất bại".

Có một sử gia nước ngoài đã mạnh dạn khái quát hóa lịch sử trung đại Việt Nam cơ bản là những diễn biến tranh chấp vùng miền. Lập luận của cô có thể được xem là làm rõ nguồn gốc khía cạnh ấy không? Sự việc phức tạp hơn tên gọi của nó. Cô hoàn toàn chọn đúng đối tượng tham khảo khi nghiên cứu các bộ tộc Tây Nguyên. Anh khuyên cô nên đặt câu hỏi nghiêm túc và cầu thị đối với bất cứ khám phá về cổ sử nào.

"Thế kỷ hai mươi, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề tình cờ nói ra những lời giản dị nhưng có sức mạnh vô lường: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". - Anh gợi ý.

"Đúng thế". - Cô hào hứng - "Những lãnh tụ có công dựng nước và giữ nước thường có đường thông nối ý thức của họ với tiềm thức dân tộc và nhân dân, thậm chí nhân loại. Họ luôn biết phải nói cái gì, lúc nào và nói ra sao để đánh thức thời đại. Truyền thống yêu nước và đoàn kết chống xâm lược của người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa như thế. Nó là bản năng, chứ không thể gọi là bản chất đơn thuần".

 

*

*     *

 

Để giương cao ngọn cờ kháng Hán, chống thực dân, ngoài việc vận động, giác ngộ nhân dân cũng như tầng lớp quí tộc, Trưng Trắc còn phải bắt buộc tiến hành đại lễ đúc chiếc trống đồng to nhất trong lịch sử Âu Lạc. Theo truyền thống ngàn đời, chỉ có sở hữu trống mẹ, Trưng Trắc mới được thần linh ban cho sức mạnh, lòng quả cảm và chính nghĩa. Toàn thể con dân Âu Lạc sẽ hướng về Trưng Trắc khi trống mẹ được gióng lên, và rồi ngàn trống con sẽ đáp lời đoàn kết.

Nhân lực, vật lực của M’linh tập trung cao độ vào việc đúc trống. Ngoài Chu Diên, người An Biên, Luy Lâu, Cư Phong và nhiều nơi khác, đã hết mình ủng hộ M’linh về tinh thần cũng như vật chất. Lạc tướng An Biên gửi chì và thiếc. Lạc tướng Cư Phong cử mười thợ đúc trống lành nghề nhất đến góp sức. Chu Diên tặng năm trăm cân vụn đồng nguyên chất. Luy Lâu cung cấp đất sét tốt nhất để làm khuôn trống, v.v..

Đầu tiên người ta nhào đi trộn lại đất sét, lọc tới lọc lui để lấy hết tạp chất. Chất lượng của đất sét được đánh giá bằng trực quan của một người thợ đúc trống gần trăm tuổi. Bột sét phơi khô sẽ được hòa trộn với một lượng tro, trấu mật truyền. Hỗn hợp này dùng để tạo hình khuôn trống. Sau khi phơi khô, khuôn trống được nung tạm và đưa vào công đoạn khắc hoa văn chìm. Vì chiếc trống quá to, khuôn trống phải chia ra làm bốn mảnh ghép. Mấy chục nghệ nhân mất gần một con trăng, chi li, tỉ mỉ trên từng đường nét, tiểu tiết, từ sợi lông trĩ đến đôi mắt cặp cóc giao hoan quanh mặt trống. Trống của người M’linh luôn khắc mười tám con chim Lạc (chim kiếm ăn dưới nước, mỏ dài, chân cao) tượng trưng cho người cha, và mười tám con hươu sao tượng trưng cho người mẹ. Hươu sao là động vật đa phu, dưới nhãn quan phụ hệ đa thê người ta cho rằng hươu cái đa dâm và mạnh về sinh lý là có cơ sở.

Cốt trống cũng được đúc và nung như khuôn ngoài, nhưng do mặt trong trống không trang trí nên chỉ cần mài gọt cho thật phẳng. Ngoài ra độ dày mỏng của trống còn phụ thuộc rất nhiều ở việc tạo tác cốt (lõi) trống. Chỉ cần sai lạc một chút, ứng suất co ngót khi đồng nguội sẽ làm vỡ hoặc nứt trống và sẽ không tạo được thanh âm như
yêu cầu.

Với trống nhỏ, khuôn liền hoặc hai mảnh, chỉ cần ốp khuôn vào cốt ngay trên mặt phẳng dương và cố định sơ sài, là có thể rót đồng nóng chảy vào. Với chiếc trống mẹ của Trưng Trắc, các nghệ nhân phải đề ra phương án đào một hố đất rộng bằng ba khuôn trống. Cốt trống đặt xuống, khuôn trống phủ ngoài, sau đó người ta sẽ đầm chặt đất ngang mặt khuôn để cố định khuôn trống. Giữa cốt trống và khuôn trống, tránh sự xê dịch, phải bố trí một số nêm gỗ mỏng nhẹ. Loại gỗ này đáp ứng yêu cầu sẽ cháy hoàn toàn khi tiếp xúc với đồng nóng chảy, tro than của nó sẽ bị đùn ra ngoài bằng các lỗ thông hơi nằm sâu dưới lòng đất.

 

Đồng được nấu trong một chảo đất nung cực lớn. Nó có quai buộc dây xích vắt lên dàn giáo, để có thể nghiêng chảo rót đồng nóng chảy vào khuôn đúc. Tổng cộng một tấn rưỡi đồng vụn nguyên chất, hai tạ thiếc, và già một yến chì đã được sử dụng. Tỉ lệ đồng - thiếc - chì độc đáo của Âu Lạc kết tinh trong trống đồng là một minh chứng cho thấy ngành luyện kim nơi này có những đột phá ở tầm nhân loại. Chì giúp cho trống có độ dẻo dai nhất định, khó vỡ. Thiếc làm các chi tiết trống mịn màng, trơn bóng và tạo nên những hiệu ứng âm thanh vang rền. Ngoài ra một số vàng bạc cũng được thêm vào thành phần kim loại đúc trống Trưng Trắc. Đây là quà tặng của quí tộc Cửu Chân để tỏ lòng tôn kính Lạc tướng M’linh.

Trọng lượng cuối cùng của trống mẹ Trưng Trắc chỉ khoảng gần ba tạ, nguyên liệu lớn như vậy là do yêu cầu đặc biệt của nhân dân Âu Lạc. Việc đúc trống không thể thất bại, kim loại phải được nấu chảy đúng lửa và rất lâu, để các tạp chất pha lẫn tách ra, loại bỏ cùng xỉ đồng. Lời mở là vậy, thực chất thì Trưng Trắc muốn kín tiếng, lượng đồng thừa hoặc kém chất lượng bà dùng để đúc vũ khí. Mũi giáo, rìu chiến có vai, kiếm, dao găm, mũi tên, v.v... được chế tạo từ hơn một tấn đồng đủ để trang bị cho cả ngàn tân binh.

Ngoài các loại vũ khí thông thường, Trưng Trắc đã cho đúc và thử nghiệm thành công mũi giáo gắn vào đầu Giao long thuyền. Đây là kết quả làm việc của nhiều bộ óc nông dân Âu Lạc. Mũi giáo nhọn, cạnh sắc, to bằng bàn tay người lớn, dài cỡ chiếc rựa đi rừng, có ngạnh hai bên. Đây sẽ là nông cụ, thay thế được cho chiếc cày truyền thống và ngược lại cày cũng có thể dùng làm mũi giáo nếu mài sắc.

Gắn mũi giáo vào đầu Giao long thuyền, dưới mặt nước khoảng hai tấc, chiến binh Âu Lạc đã có một vũ khí lợi hại tấn công Lâu thuyền Hán. Thật vậy, lực chèo đẩy kết hợp với sức nước và quán tính tương hỗ sẽ giúp Giao long thuyền dễ dàng đâm sâu mũi giáo vào thân Lâu thuyền khi cận chiến. Ngạnh của mũi giáo có nhiệm vụ giữ Giao long thuyền dính chặt vào Lâu thuyền. Độ dao động của hai con thuyền trên mặt nước sẽ tự sinh ra hủy lực đủ mạnh, phá rộng lỗ thủng Lâu thuyền và nhấn chìm nó. Nếu Giao long thuyền chất đầy rơm rạ, cỏ khô (những thứ phẩm của ruộng đồng), nó sẽ trở thành một trong những quả thủy lôi nguyên thủy. Âu Lạc đã kết hợp lao động với vệ quốc nhịp nhàng và uyển chuyển như thế. Đuổi được giặc dữ hay không, chính là nhờ những người nông dân chân đất vác cày ra trận. Họ luôn sẵn sàng chấp nhận hy sinh tính mạng của mình và mãi mãi ẩn danh dưới cái tên chung Âu Lạc anh hùng.

Ngày rót đồng vào khuôn là một đại lễ của Âu Lạc. Chín ông trâu được ngả thịt tế trời. Mười tám cụ cóc vàng hiến tiết đổ vào nồi đồng nóng chảy, để hồn thiêng sông núi tụ về trong trống. Mười tám cặp nữ - nam quì sau lưng Trưng Trắc, A Thi và bảy trưởng lão M’linh, tất cả khấu đầu khi trống đồng khắp các buôn làng tấu lên trời tâm nguyện tự do thiêng liêng của người Âu Lạc.

Hợp kim đồng nóng chảy lóa mắt được rót vào khuôn. Các ống tre thông hơi cắm sâu tận đáy khuôn phả khói trắng như hơi thở dịu dàng của mẹ đất. Không hề có tắc nghẽn xảy ra. Khi nước đồng thừa tràn qua mặt khuôn cũng là lúc từng nét mặt người Âu Lạc dãn ra, hạnh phúc rạng ngời. Họ sẽ tiếp tục lễ hội chín ngày chín đêm để chờ hồn đất nước, anh linh tiên tổ lắng vào thân trống.

 

*

*     *

 

Việc Trưng Trắc mời A Thi quì cạnh bà trong buổi lễ đúc trống đồng, dân M’linh khá bất ngờ, nhưng nhất thời họ chưa phản ứng vì không khí quá thiêng liêng. Muôn đời nay người đàn ông không có vai trò chính trị trong các gia tộc. Còn trai trẻ họ phải làm những công việc nặng nhọc. Được chọn làm chồng, ban đêm họ đến ở nhà vợ, ban ngày vẫn phải trở về nơi chôn nhau cắt rốn cày ải, trồng tỉa, săn thú, đánh cá... Khi già cả, họ được họ hàng ruột thịt nuôi nấng, nhưng cũng chỉ như cái bóng, ít người tôn trọng. Con của họ coi cha như người dưng vì họ không nuôi nấng, giáo dưỡng chúng. Nếu chết trẻ, em trai của họ phải thay anh làm chồng chị dâu. Thậm chí ở những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng may vợ chết, họ được liệt kê trong danh sách tài sản sẽ được phân chia cho các hàng thừa kế.

Tô Định đã lợi dụng tấn công luật tục đặc thù này như một nhược điểm của người Âu Lạc. Đó là lí do nhiều trung niên xung quanh Long Uyên ngả theo y, trở thành tay sai trong đội ngũ quân Hán.

Chẳng phải ai cũng có cái nhìn sáng suốt như Trưng Trắc. Bà nhận ra rằng thói tục trọng nữ khinh nam không còn hợp thời nữa. Xóa bỏ bất công, sức mạnh nội tại của Âu Lạc mới có cơ hội khởi sắc. Sức mạnh tự thân là yếu tố quan trọng nhất để một cộng đồng, một quốc gia khẳng định tiếng nói của mình.

"Hỡi các chị em!" - Trưng Trắc hô hào phụ nữ M’linh - "Hãy trả lại cho đàn ông quyền lực của họ. Họ sẽ cùng chúng ta bảo vệ mảnh đất này khỏi lũ sói hung ác phương Bắc. Hãy tưởng tượng một mai bọn tóc dài mặt trắng kia làm chủ M’linh. Số phận của tất cả chúng ta cũng như nhau mà thôi. Đàn ông trở thành nô bộc, lính đánh thuê. Đàn bà trở thành con hầu, vợ lẽ, suốt đời ẩn mặt trong chái bếp".

 

Già Mị, bà thầy mo uy tín nhất M’linh kiên quyết phản đối ý tưởng quá mới lạ của thủ lĩnh. Gia đình nào nghe lời Trưng Trắc ban ngày giữ con rể ở lại, liền bị thầy mo đến trước cửa hát sử thi đưa tang. Người Âu Lạc tin rằng ma quỉ sẽ nương theo những lời ca huyền bí, gieo rắc bệnh tật, ốm đau, thậm chí bắt cả linh hồn người ta.

Già Mị chỉ tránh xa nhà rông Lạc tướng. A Thi bắt đầu lưu lại đây thường xuyên hơn. Thầy mo và Lạc tướng là hai khung cốt độc lập, cùng nâng đỡ đời sống cộng đồng của xứ sở này. Nếu Già Mị tự xưng là sứ giả mà thần linh gửi đến nhân gian thì Trưng Trắc được cho là con trực huyết của mẹ trời quyền năng, một hình thức sơ khai của khái niệm "thiên tử". Lạc tướng sử dụng trống đồng có hình mặt trời tỏa ra các tia sáng trong khi thầy mo luôn đeo túi bùa bí ẩn, tay chuông, tay dao trừ tà.

 Ai ai cũng tin túi bùa của Già Mị giam cầm, khống chế hồn ma xác quỷ. Cụ thể, nó chứa một tập hợp hỗn độn những đồ vật quí hiếm và cổ xưa như đá cuội nhiều màu bóng lộn, gỗ hóa thạch, rìu đồng gỉ xanh, răng đại dã thú như hổ, lợn. Người ta truyền kể rằng, Già Mị có một cặp nanh nhọn yêu tinh còn nguyên vết máu khô, chữa bệnh rất linh nghiệm. Để sở hữu nó, bà ta phải liều thân đi vào rừng thẳm dụ con đười ươi chúa ra khỏi hang. Hành vi cố hữu của nó là nắm chặt hai cánh tay kẻ đi lạc, nhắm mắt, ngửa mặt lên trời, nhe răng cười từng tràng mời gọi ma quỷ. Khi trăng lên, chúng sẽ hỉ hả chia nhau thịt người. Già Mị đeo sẵn hai ống tre to. Đợi yêu tinh nhắm mắt, bà ta nhẹ nhàng rút tay khỏi ống tre và dùng con dao thần trong túi bùa hạ thủ nó. Cặp nanh gớm ghiếc tươi mới đã đưa Già Mị trở thành thầy mo chúa trùm M’linh. Nhà giàu xa gần, thậm chí các Lạc tướng xung quanh M’linh cũng rất tôn trọng và tín nhiệm bà ta, thỉnh thoảng vẫn mời bà ta vượt sông lớn, rừng thẳm sang trừ tà, chữa bệnh. Đến nơi, Già Mị đổ cả túi bùa vào âu nước lấy từ mạch suối tinh khiết nhất vùng. Bà ta ngậm nước phun khắp nhà có ma, vừa rung chuông vừa đọc đoạn sử thi bắt ma quỷ. Sau đó người ốm uống nước ấy, ma quỷ sẽ bị trục xuất khỏi thân xác và chỗ cư trú của con bệnh.

Trưng Trắc khá đau đầu và nan giải với quyền lực bí ẩn của Già Mị. Vấn kế Lữ lạc tướng, bà liền dựng một ngôi nhà sàn rộng bên suối, cách tổng hành dinh của mình không xa. Bà sai thuộc hạ đón tất cả những người bệnh nặng ở M’linh về đấy chăm sóc, bỏ qua hủ tục của Già Mị. Ngoài việc thực hành vệ sinh và chú trọng dinh dưỡng, lương y dùng hoàng thổ sát trùng, chọn lọc nhiều cây cỏ quí sắc lấy nước thuốc cho bệnh nhân uống. Họ cũng áp dụng dược toa độc đáo của Âu Lạc: đào đất có hóa tính làm thức ăn chữa nội thương. Kết quả, nhiều người bệnh phục hồi hoàn toàn, nhiều căn bệnh bị tiêu diệt tận gốc rễ.

Già Mị cuối cùng đành phải nhún mình đến gặp Trưng Trắc, mong thỏa hiệp với Lạc tướng:

"Trống mẹ sắp được thượng nghinh, tôi gọi ngài là Lạc vương được không ạ?".

"Ôi Già Mị đấy hả. Bà đến đây tôi mừng lắm!". Trưng Trắc niềm nở chào đón thầy mo - "Chúng ta phải ở bên nhau trước giặc dữ, bà hiểu tôi không?"

"Tôi sẽ thêm vào sử thi những dòng thơ tôn vinh tân Lạc vương. Tôi sẽ đọc vang trong các lễ cúng từ dựng nhà mới đến khai mạch nước, xuống đồng... Người Âu Lạc sẽ tự hào có bà, sẽ đoàn kết bên sự nghiệp của bà. Nhưng...". Già Mị cố ý nhấm nhứ thăm dò Trưng Trắc - "Nhưng Lạc vương phải...".

"Ta không trả treo với bà đâu. Ta chẳng cầu lợi riêng. Vận mệnh xứ sở có thể đem ra thương lượng ư?". Trưng Trắc chặn ngay thói con buôn tư lợi phổ biến của thầy mo - "Một ngày một buổi, không thể bứng gốc hủ tục lạc hậu mê tín đã ăn vào tận xương tủy dân ta. Từ nay bà không được chống việc làm quang minh chính đại của ta nữa. Bà vẫn có thể thực hành những lễ cúng truyền thống, bà vẫn có thể đến thăm người bệnh. Hãy dùng thần linh động viên họ vượt qua khó khăn. Nhất thiết không được bỏ bê cách chữa trị thực chất của các lương y mà ta đã mời về".

Già Mị không mong gì hơn. Bà khấu đầu tạ ơn Trưng Trắc vì đã không chấp nhất chuyện cũ. Thậm chí Già Mị còn tìm mọi cách để duy trì vương vị cho Trưng Trắc bằng tuyên truyền thần khải mê tín một cách thái quá. Bà ta không ý thức được rằng chính bà ta đã làm hại Âu Lạc bởi lòng trung thành ngờ nghệch, ít nhiều đáng thương hại của bà.

Không ít cam go, cuối cùng Trưng Trắc đã thổi vào cuộc sống M’linh luồng sinh khí mới. Trai tráng lao động hăng say, luyện cung tập kiếm hồ hởi, sẵn sàng sống chết bảo vệ làng mạc, quê hương. Song, M’linh không sống biệt lập. Quan hệ hôn nhân của họ trải khắp Âu Lạc. Trưng Trắc tốn không ít công sức để vượt qua trở ngại này nhưng mọi thứ vẫn giậm chân tại chỗ. Bà chỉ thắng lợi có giới hạn tại Chu Diên khi Lạc tướng Chu Diên mở lòng, cho phép A Thi có mặt tại M’linh thường xuyên hơn.

Chín ngày sau khi rót đồng vào khuôn trống, người M’linh tiến hành lễ bái trống và gióng thử. Trai gái nhà giàu khắp nơi lũ lượt kéo đến. Thay vì cầm theo thoa bạc, trâm vàng gõ vào mặt trống rồi tặng lại chủ nhân theo tục lệ cổ, họ đem sang toàn vũ khí mới, nào dao găm, đầu giáo và các mũi tên đồng. Tín hiệu hưng binh diệt thù đã thông suốt từng ngọn cỏ, hốc cây Âu Lạc.

Hố đất đúc trống được dọn sạch. Dỡ khuôn trống ra, một chiếc trống đồng không tì vết, sáng loáng xuất hiện. Những trai tráng khỏe mạnh nhất M’linh chung vai khiêng trống đến gốc cây đa cổ thụ hàng trăm tuổi rồi trân trọng treo trống lên cao. Giờ phút quan trọng đã điểm. Nếu trống đánh không kêu, không vang thì mọi lời cầu nguyện của người M’linh xem như không được đất trời ủng hộ.

Mẹ Man Thiện trao cho Trưng Trắc chiếc dùi dài, đầu bọc lụa đỏ. Trưng Trắc cúi đầu nhận lãnh, cảm ơn mẹ. Và trước sự kinh ngạc của mọi người, bà dùng hai tay nâng dùi trống đưa cho A Thi. Bà nói:

"Hãy đánh trống đi A Thi. Ta đã nghe tiếng gió đập vào mặt trống, âm u vang lên lời thiêng ngàn năm sông núi. Việc đúc trống đã thành công mỹ mãn. Mẹ đất đã nghe thấu nguyện ước của Âu Lạc. Cha nước đã thổi hùng khí Giao long vào từng thớ đồng. Trời cao đã nén sấm chớp dưới các hoa văn kia".

Xúc động tột độ, A Thi quì xuống tạ ơn Mẹ Man Thiện, các bô lão và toàn thể người dân M’linh cũng như quan khách. Ông hùng dũng bước lên, giáng những hồi trống linh hoạt và tràn đầy uy lực.

Ai cũng bảo tiếng trống đã vang xa, vượt qua mười tám ngọn núi, chín mươi chín thác nước, đến bên Lạc vương huyền thoại. Người đã truyền cho kẻ đánh trống sức mạnh vô địch, để đạp sóng dữ ngàn khơi, để cưỡi Giao long, vung gươm thần giết giặc.

Ngày lễ trọng đại nhất của Âu Lạc là tiết Đoan Ngọ. Thời điểm này trùng với Hạ chí Dương lịch, mặt trời ở gần bắc bán cầu nhất, giữa trưa còn gọi là chính Ngọ là lúc nó nằm thẳng trên đỉnh đầu mọi người. Xuất phát từ tục thờ Mặt trời tối cổ, người Âu Lạc đồng hóa Mặt trời với nữ tổ của mình, họ gọi là bà Trời. Đoan Ngọ là ngày nóng nhất trong năm, là sinh nhật của bà Trời, các lễ hội ăn mừng trải rộng suốt nửa tháng ròng.

Mùng năm tháng Năm Âm lịch, năm 40 sau Công nguyên, Âu Lạc tổ chức một lễ hội đua thuyền Giao long lớn chưa từng có trong lịch sử tại thượng lưu biển hồ Lãng Bạc. Ba mươi sáu đội đua nam - nữ của chín Lạc tướng tham dự. Mỗi thuyền đua mười tám tay chèo. Trưởng nhóm cầm nhịp bằng trống đồng ở giữa thuyền. Tất cả các tay chèo đều cắm lông trĩ ngũ sắc trên đầu, buộc băng đỏ ngang trán. Nam mặc khố, cởi trần. Nữ bận áo hai vạt ngắn, váy thổ cẩm.

Chín Lạc tướng ngồi trên chín thuyền lớn, lễ phục gọn gàng, các tùy tướng và hộ quân của họ gồm hai đội đứng hai bên. Ngoài cung tên không thể thiếu, vũ khí họ mang theo đa phần dài và nhẹ như lao, chĩa, giáo. Thuyền của Trưng Trắc to nhất, dài nhất, trên ấy đặt chiếc trống đồng lớn nhất Âu Lạc vừa đúc xong. Đặc biệt, đầu tất cả thuyền đua và thuyền Lạc tướng đều trùm một tấm lụa đỏ, để giấu lưỡi giáo có ngạnh.

Người xem đua thuyền đông như một luồng cá biển. Đứng trên bờ đa phần là trẻ con, người già, sức khỏe không cho phép ngồi thuyền còn thì tất cả các cư dân xuống hết các loại phương tiện nổi, từ độc mộc đến thuyền nan. Họ bơi ra giữa hồ, tập hợp xung quanh đoàn thuyền Giao long, hò hét ủng hộ.

Vị bô lão Chu Diên hơn trăm tuổi, gương mặt đẹp như một mắt gỗ hóa thạch, tóc trắng lẫn vào mây, được vinh dự bước lên đài khai hội. Bà đã móm, tiếng nói không thể vang xa nên chỉ ra dấu. Đầu tiên bà thẳng người, đưa hai tay về phía trước, song song với mặt đất. Vạn người im lặng tựa một ao bèo. Tiếp theo, bô lão ngửa hẳn mặt lên trời, tay mở một vòng rộng, miệng thì thầm gọi Mẹ Tổ Mẹ Tiên. Muôn ngàn giọng nói hòa làm một, cất theo nhịp nhàng: Mẹ ơi, Cha ơi... Âu Lạc trường tồn...

Già Mị đeo mặt nạ thần sấm, đi guốc gỗ, đầu đội mũ vải cong nhọn như sừng trâu, mặc bộ áo dài nhiều thân màu đen, cài khuy ở sườn. Chuông rung, chiêng đổ, bà cầm giọng cho hàng chục thầy mo hát lên những lời mở đầu của thiên sử thi mở đất, mở nước, tôn vinh Mẹ Tổ.

Một cột khói to trên bờ ùn ùn báo hiệu. Trống cái tại thuyền Trưng Trắc hùng tráng cất giọng. Hàng trăm trống con đánh bồi theo. Mười tám cặp thuyền nữ - nam đâu lưng xuất phát, tiếng trống lấy nhịp đanh chắc, tiếng hô vận thở đều sin sít.

Đua thuyền Giao long Âu Lạc tương đối khác so với các nơi, do tác động của hình thế sông nước ở đây. Hai đội nữ và nam sẽ chèo ngược chiều nhau. Khi họ khép một vòng tròn ngoài cửa Hát, coi như đã đến đích. Thuyền nữ đầu tiên và thuyền nam đầu tiên gặp nhau sẽ được chọn là cặp thuyền thắng cuộc. Họ ăn mừng bằng cách té nước, chúc tụng những điều tốt đẹp. Sau đó từng cặp trai gái lao xuống mặt hồ, bơi quấn nhau trong điệu múa tượng trưng Giao long hợp hoan, đầy biểu trưng phồn thực của văn minh Đông Sơn.

Đoàn đua gần như vây bọc người xem và chín Giao long thuyền của Lạc tướng, như một quả trứng khổng lồ. Độ bao quát của mỗi cá nhân với sự kiện thật toàn vẹn. Hơn thế nữa, từng người luôn có cảm giác mình là trung tâm của lễ hội. Chỉ cần so sánh cấu trúc đua thuyền này với một trận bóng đá hiện đại, ta thấy trí tưởng tượng và thao tác của người Âu Lạc vượt xa con người hai ngàn năm sau, ở một góc độ nhất định nào đó.

 

*

*     *

 

Mười tám cặp thuyền đua đã gặp nhau, điệu múa Giao long hợp hoan đang ở thời điểm tưng bừng nhất, cuối trời bỗng xuất hiện những cánh buồm đen. Bảy Lâu thuyền của Tô Định đang hung hăng chém sóng sấn tới lễ hội của người Âu Lạc. Trưng Trắc cho chuyển điệu trống cảnh giác. Người dân hoang mang, thuyền khán giả sôi như ong vỡ tổ. Tuy nhiên trật tự mau chóng được tái lập. Trống lệnh sẵn sàng ứng chiến phát ra. Chín Giao long thuyền của các Lạc tướng tạo nên đôi cánh che chở cho lương dân. Một số thuyền vũ trang trực sẵn trong bờ cũng lao ra, giáo nhọn tua tủa, cung được lắp tên, sẵn sàng ứng chiến.

Ý thức rõ ràng về chủ quyền Âu Lạc, Trưng Trắc chỉ gián tiếp bắn tin cho Long Uyên về lễ hội Đoan Ngọ này. Bà coi đó là việc làm khôn khéo và mềm dẻo, không mất mát oai linh lãnh tụ và chính nghĩa của Âu Lạc. Nhưng Tô Định lại xem đây là hành vi coi thường y. Khi Giao long thuyền và Lâu thuyền tiến đến sát nhau ở khoảng cách có thể khẩu đàm, Tô Định hằn học:

"Khá khen thay cho M’linh Lạc tướng. Lệnh cấm của ta ở vùng nước này đã bị các ngươi xúc phạm. Ta bị xúc phạm nghĩa là Thánh thượng đại Hán của ta đã mang nhục".

"Tô Định, ngươi không được hỗn xược!" - Giọng nam trầm đầy tự tin của A Thi rắn rỏi vang lên như thép. Ông chỉ thẳng về phía Hán quân - "M’linh đã có trống cái. Trời đất đã trao cho Trưng Trắc sứ mệnh của Lạc vương huyền thoại. Ngươi phải quì xuống nếu muốn nói chuyện với vua của một nước độc lập, như từng phải quì trước bệ rồng Lạc Dương của Hán đế nhà ngươi!".

 

Gương mặt mất ngủ của Tô Định dài ra, tái dại. Y đảo mắt xung quanh một lượt, ước lượng nhanh tình thế. Y tự kìm nén, tránh thúc đẩy căng thẳng vượt tầm kiểm soát.

"Người Hán cút đi! Người Hán cút đi!..." - Không ai bảo ai, biển người Âu Lạc thét vang. Hán quân xanh mặt. Tô Định nổi da gà. Y biết nếu y thốt ra một lời nữa thôi, chín chiếc Giao long thuyền gắn giáo nhọn trên mũi sẽ xông vào xé xác đoàn Lâu thuyền Hán. Hàng ngàn cung thủ sẽ tưới mưa tên vào Hán quân. Lao dài, giáo nhọn sẽ xiên Tô Định như xiên cá.

Tô Định đứng cao hơn A Thi và Trưng Trắc vì Lâu thuyền là một phương tiện thực dân đồ sộ để đi biển lớn, đến xâm lăng chiếm 10000 óng những mảnh đất giàu có và hiền lành như Âu Lạc. Nó khác hẳn Giao long thuyền mộc mạc hiền hòa, chỉ dùng đối phó với sông nước bất trắc, chứ không phải đối đầu với bọn xâm lăng man rợ.

Song, độ cao vật lý chỉ là tương đối. Tô Định thấy mình nhỏ bé và quá hèn mọn trước Trưng Trắc, A Thi hoặc bất cứ chiến binh Âu Lạc nào. Nếu có phép thuật, có lẽ y đã biến thành một con kiến, nhảy xuống biển hồ Lãng Bạc, bám vào cọng rác nào đó để trốn chạy về Long Uyên.

Trưng Trắc dễ dàng đọc được nét mặt thất thần của Tô Định. Tuy vậy, bà không muốn thấy máu chảy trong ngày sinh nhật Mẹ Tổ cao quí. Bà tin rằng một thủ lãnh khôn ngoan là người biết tránh xung đột khi chưa cần thiết. Bà mong mỏi hóa giải sức mạnh của đế quốc Hán, hơn là quan tâm đến chiến thắng nhỏ nhoi trước mắt.

Do đó, cái nhìn của Trưng Trắc hướng về Tô Định vừa mạnh mẽ kiên quyết, vừa dịu dàng hòa hoãn. Tô Định cố bấu víu vị thế vượt trội của Hán tộc trong ý thức chủ quan của y. Vẫn chưa hết run sợ cùng với đám Hán quân đang run rẩy sau lưng, Tô Định đành bất lực khoát tay ra hiệu Lâu thuyền quay bánh lái rút lui.

Khi đoàn Lâu thuyền chỉ còn là những chấm nhỏ cuối tầm mắt, mặt biển hồ Lãng Bạc vẫn dội lên lời hờn căm: "Bọn xâm lược Hán cút đi... Bọn xâm lược Hán
cút đi...".

 

 

5.

 

Cô không thích thuật ngữ "người Giao Chỉ". Nó lúc nào cũng gợi lên trong cô những ác mộng đêm đen Bắc thuộc. Anh tuyệt đối thông cảm và thấu hiểu nỗi lòng cô. Từ Hàn Phi Tử, Hoài Nam Vương đến Tư Mã Thiên, họ đều ghi nhận thời tối cổ (Thần Nông, Nghiêu Thuấn, Thương Ân); đến cận cổ (Thương Chu, Tần Hán), lãnh thổ Hoa Hạ phía nam giáp Giao Chỉ, chứ không bao gồm Giao Chỉ. Trên bản đồ khảo cổ học Trung Hoa, đất đai tiên Tần chỉ là khu vực nhỏ hẹp hai bên trung lưu Hoàng Hà. Do đó Giao Chỉ rất dễ hiểu, chính là khái niệm nói về vùng đất phía nam của Hoa Hạ và không thuộc Hoa Hạ. Khi đi xâm lược Nam Việt, các đoàn quân Hán đã dừng lại ở Phiên Ngung, và sau đó hàng trăm năm, không có bất cứ một Thái thú nào được bổ nhiệm tại quận Giao Chỉ.

Anh đã bị thuyết phục bởi lý lẽ mạch lạc cô đưa ra nhưng rất tiếc anh không phải là một sử gia chính thống có quyền năng và tiếng nói. Anh tin xứ sở của Hai Bà Trưng đã có độc lập hoàn toàn trước khi Mã Viện nam chinh. Nhâm Diên, Tích Quang và Tô Định chỉ cầm đầu những nhóm sứ đoàn nhỏ lẻ, không đánh giá hết sức mạnh của Âu Lạc, muốn cưỡng chiếm nó bằng cái giá rẻ mạt nhất. Chúng thất bại là tất yếu.

 

*

*     *

 

Sau cuộc chạm trán ngày Đoan Ngọ với Lạc vương Trưng Trắc, Tô Định vừa đau, vừa nhục và cảm thấy bế tắc hơn bao giờ hết. Dã tâm của y đã lộ rõ đối với tất cả con dân Âu Lạc. Tô Định tiếc nuối vì không tham khảo kỹ lưỡng hơn nữa sách lược thâm hiểm mang gương mặt khai hóa của Nhâm Diên và Tích Quang.

Giờ đây, chỉ có bạo lực mới duy trì được bạo lực và tội ác Tô Định đã thi hành. Y chợt nảy ra một ma mưu quỷ chước mà nền chính trị Hán thường áp dụng thành công trong nhiều tình huống đó là tách bó đũa ra để bẻ gãy từng chiếc một. Tô Định vẫn còn tưởng bở rằng Âu Lạc chỉ là một chiếc đũa yếu ớt do đó y vẫn còn hy vọng vào kế sách thâm độc này. Cùng lúc đó chế độ mẫu quyền chậm tiến Âu Lạc không thể ngày một ngày hai chuyển đổi lập tức dưới tiếng trống đồng Trưng Trắc. Sức ì và tâm lý bảo thủ là rất hiển nhiên, Tô Định tự nhủ rằng y cần khoét sâu thêm thói ích kỷ và tư lợi cố hữu của một bộ phận quí tộc Âu Lạc.

Cận công viễn giao là con bài tẩy Tô Định bắt đầu
sử dụng.

Với những vùng đất xung quanh Long Uyên, y hành quân, càn quét, cướp phá, giết chóc liên tục. Thậm chí có làng, quân Hán hầu như chém giết tất cả trẻ em, ông già bà cả, phụ nữ đã có chồng con, chỉ chừa đàn ông trung niên, nam thanh nữ tú vừa chớm trưởng thành. Bằng cách vạch ra những tử huyệt trong chế độ mẫu quyền, Tô Định không ngừng tuyên truyền, lôi kéo người Âu Lạc đến với văn minh phụ hệ Hán tộc. Chẳng hạn cha con người Âu Lạc không có tình thân vì từ bé đứa con không được cha nuôi nấng dạy dỗ, nó chỉ thuộc về họ ngoại. Lớn lên, đứa bé nhiều khi rất vô tình, thuê chính cha mình làm kẻ hầu hạ, nếu chẳng may người ấy nghèo khổ, không chốn nương thân. Không ít người đàn ông Âu Lạc thật thà, cứ tưởng Tô Định hết lòng bênh vực, đứng về tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội, bèn rủ nhau đầu quân cho Tô Định ngày càng nhiều.

Với những vùng xa xôi hẻo lánh, chưa biết đến sự dã man của Tô Định, y dùng chiến lợi phẩm để mua chuộc, kết giao và hứa hẹn quyền lợi kinh tế. Y lại giả vờ đề cao văn hóa bản địa, những ưu việt của chế độ mẫu quyền, nhằm khai thác mâu thuẫn giữa Trưng Trắc đang chủ trương tinh thần cách mạng, đổi mới, tôn trọng nam quyền, và những người bị trói buộc, giam cầm trong luật tục xưa cũ của Âu Lạc.

Bất kể gần xa, Tô Định vỗ về yêu quí những Lạc tướng, quan Lang tham lam, thích ăn chơi sa đọa và đối xử khắc nghiệt với chính thuộc dân của họ. Y chuốc và làm mê ngủ bọn gian tham ấy với rượu mạnh của người Hán, lụa trơn từ Giang Nam, ngọc quí Hợp Phố, sơn hào hải vị Nam Hải. Đặc biệt Tô Định hứa sẽ trang bị vũ khí sắc bén bằng sắt thép, trui rèn tận phương Bắc cho bất cứ quí tộc bạo tàn Âu Lạc nào xem nhân dân thấp cổ bé miệng như kẻ thù đối với quyền lợi của họ.

Chế độ mẫu quyền đã bị Tô Định hiểm độc âm mưu tiêu diệt bằng cách ly gián như thế. Thôn tính đất đai và con người chưa đủ, một cuộc cưỡng chiếm rất khó nhận ra và tác hại vô cùng to lớn của nó, trong bất cứ chiến dịch thực dân nào, đó là xâm lăng văn hóa. Sử học ghi nhận rằng, chỉ sau vài thế hệ sống dưới ách nô lệ người Hán, nhân dân Âu Lạc nói chung đã không còn nhớ Đoan Ngọ là sinh nhật Mẹ Tổ của họ, là ngày cực dương, nực nội nhất trong năm. Các lễ hội đua thuyền vẫn diễn ra, sông nước vẫn là nơi người ta tụ họp để mong nóng bức dịu đi phần nào. Các loại bánh nếp nguội buộc chỉ ngũ sắc vẫn được gói, dâng lên bàn thờ hoặc làm quà cho nhau; mô hình Giao long thuyền vẫn được chế tác, đem cung nghinh thần thánh và linh hồn tiên tổ, hoa trái vẫn được đặt lên bè lá và thả xuống sông, hồ, để cầu an, khấn nguyện. Nhưng... một chữ nhưng rất lớn, đầy ẩn nghĩa. Nhưng nguồn gốc Đoan Ngọ đã bị khoác lên những cái tên xa lạ. Nào là viếng Khuất Nguyên nước Sở trầm mình ở Mịch La, ghi nhận Ngũ Tử Tư chết thảm tại Ngô, hay tưởng nhớ Câu Tiễn luyện binh... Nền văn hóa Hoa Hạ đã cố gắng thống trị văn hóa các nước giáp biên Trung Hoa một cách tinh vi như vậy, nó làm cho cơ hội độc lập
thực sự của những nước này trở nên rất mong manh và mờ nhạt.

Mùa hạ sau tiết Đoan Ngọ năm 40, trời đất có lẽ cũng nổi giận với Tô Định tham tàn. Âu Lạc hạn hán nặng. Ruộng đồng khô cằn. Mặt đất nứt ra từng mảng. Dịch bệnh tràn lan. Mực nước biển Đông xâm nhập đến tận hạ lưu biển hồ Lãng Bạc, tôm cá chết nổi lềnh bềnh khắp Long Uyên.

 

Phải chăng lòng người oán thán vì Âu Lạc chưa có ai đứng lên phất cờ đuổi giặc, quét sạch bất công? Phải chăng ý chí các anh thư liệt nữ đã bị lung lạc? Sự thật là Lạc vương Trưng Trắc đang ốm nặng. Lao tâm, lao lực suốt tháng ngày, bà đã đổ bệnh trong khi mọi người đang chờ bà phát lệnh cho ba quân thẳng tiến đến Long Uyên. A Thi thay vợ gánh vác rất nhiều việc, nhưng lòng người Âu Lạc vẫn chưa thông. Có Lạc tướng cổ hủ đến nỗi còn khẳng định rằng chỉ hội quân chống giặc xâm lược Hán khi Trưng Trắc dẫn đầu!

Cuối cùng Trưng Trắc cũng phải cố sức gượng dậy, cùng Trưng Nhị tuyên cáo sẽ lập đàn cầu mưa, hỏi Mẹ Trời căn cớ. Bà ước sẵn, bất kể mưa hay không, đại quân của bà cũng tiến về Long Uyên hỏi tội Tô Định. Bà cần lý do tập hợp binh lực khắp nơi, mà không gây kinh động, làm giật mình con cọp dữ Tô Định đang hòng nghiến ngấu, người Âu Lạc.

Đàn cầu mưa cao chín trượng, dựng ở cù lao nhìn ra cửa Hát. Bốn đội trai tân, mỗi đội mười tám người thay nhau khấu đầu quì lạy liên tục mỗi ngày. Ba mươi sáu ngọn đuốc cắm trên đàn, cháy suốt nhờ mỡ rái cá. Bảy mươi hai con thuyền Giao long của các dũng binh nối đuôi nhau kết thành một vòng tròn giữa sông. Mỗi canh giờ, sau điểm khắc của trống đồng, lính tráng bịt miệng, giả làm tiếng cóc kêu chín mươi chín tiếng. Bình minh và hoàng hôn hằng ngày, Trưng Trắc bước tám mươi mốt bậc thang lên đàn, hướng mắt về mặt trời van nài: "Mẹ Tổ ơi, chúng con cần mưa!".

Mãi đến ngày thứ ba, xế chiều, hình như các lời cầu khấn đã đánh động lòng trời, đột nhiên gió đông mát rượi thổi tới. Cóc trong mọi ngóc ngách, bờ bụi Âu Lạc bắt đầu nghiến răng kèn kẹt. Đến tối muộn thì mây đen không biết từ đâu ùn ùn kéo về. Sấm nổ liên hồi. Chớp giật nhoáng nhoàng, sét đánh vỡ và cháy bùng một chiếc Lâu thuyền của giặc Hán tại bến Long Uyên. Đang hò hét quân lính dập lửa, Tô Định bỗng nghe lồng lộng trong gió, trong mưa, tiếng trống mẹ Âu Lạc gấp ruổi, dồn dập phát lệnh xung trận. Cuối trời tây, ánh đuốc đỏ thẫm một vùng.

Tô Định chợt hiểu sự nghiệp của y đã đến ngày tiêu vong. Chỉ còn mỗi mạng sống để níu giữ, y run sợ líu ríu khép đùi giấu vết nước đang loang ướt đáy quần và sai tên lính hầu ném lọng che mưa đi. Tô Định mong càng ít quan binh nhìn thấy cảnh tượng hèn mạt sợ hãi đến nỗi ấy càng tốt.

Tô Định quẫn cuống, không thể kêu gào lính tráng lên thuyền bỏ chạy, nhưng không ai bảo ai, Hán quân hiểu chúng phải làm gì. Chạy, chạy thục mạng, chéo lái, chéo sóng, chéo buồm để Lâu thuyền đi xiên gió. Ba, bốn, năm... càng nhiều người càng tốt vận một tay chèo, cật lực đua ra biển.

 

Khi đại quân của Trưng Trắc đến Long Uyên thì lửa đã trùm kín doanh trại Tô Định. Dân thường Âu Lạc xung quanh Long Uyên đã nổi dậy, tràn vào bắt ngụy quân và châm lửa thiêu cháy tất cả. Nghe tiếng trống mẹ bên tai, người người chạy đến bến nước hô vang "Lạc vương vạn tuế! Trưng Trắc vạn tuế!".

Không dừng lại, Trưng Trắc chỉ hướng cho đoàn Giao long thuyền tiếp tục đuổi theo quân Hán. Mưa ngày càng nặng hạt. Sấm mỗi lúc một to. Các thủy binh vẫn không ngừng tay trống. Thuyền của họ nhỏ, tốc độ không cao bằng Lâu thuyền nhưng âm thanh luôn tìm đường đi ngắn nhất. Cuối cùng Tô Định cũng chạy thoát, nhưng tiếng trống đồng Âu Lạc đã làm y mất ngủ cả đời, bạc hết râu tóc trong chốc lát. Hán quân về đến Hợp Phố, điểm danh thì thấy có đến một phần ba đã vỡ mật chết vì sợ.

 

 

6.

 

Tất nhiên chồng của bà Trưng không phải tên Thi Sách, mà là Thi. Các sử gia thế kỷ 20 đã chứng minh được việc nhầm lẫn tai hại này. Người Âu Lạc hình như chưa có họ, cho nên Trưng Trắc nhiều khả năng là chức danh, chứ không phải tục danh của Lạc tướng M’linh. Cô và anh đã đi đến thống nhất ý kiến về điểm này.

Họ đã tham khảo rất kỹ lưỡng nhiều tư liệu lịch sử nhưng không thể chấp nhận cách giải thích cho rằng tên gọi Trưng Trắc và Trưng Nhị là xuất phát từ nghề dệt lụa truyền thống Việt Nam. Điều này thật khó được giải thích là cách gọi trại đi của trứng chắc, trứng nhì là hai loại tổ kén sâu tằm. Trong các mộ táng, mộ thuyền thời Hai Bà Trưng, người ta chỉ thấy các loại vải bông, gai, đay. Dấu vết của lụa tơ tằm chưa xuất hiện như một sản phẩm phổ thông bản địa vào thời Hai Bà Trưng.

Truy lục tài liệu dân tộc học của người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia, cô phát hiện một điều rất lý thú. Nền văn hóa của tộc người này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang (Lạc tướng?). Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik (Trưng Trắc?), tất cả các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (Trưng Nhị? - Tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi).

"Cái lý thú của lịch sử là ở những chi tiết chông chênh như thế. Nó chẳng khẳng định và cũng sẵn sàng chờ đợi những phản bác hợp lý. Nó treo lửng lơ. Nó chỉ dành cho những người thực sự yêu thích và khát khao khám phá quá khứ để tìm hiểu". Anh động viên cô. Thời Hai Bà Trưng, hiến sử gốc còn lưu lại không đầy một ngàn chữ, chia cắt rải rác ở hàng chục quyển sách Hán văn. Không thể không tìm hiểu Hai Bà Trưng trong tâm thức dân gian, giữa những truyền kể đời này qua đời khác, song phải luôn cảnh giác với cảm tính dân tộc, những lệch pha nhận thức giữa các thời đại và trên hết là cái bẫy của ngôn ngữ phụ hệ trong cả Việt sử lẫn Hán sử.

"Khảo cổ Việt Nam đã phát lộ không ít mộ nam thủ lĩnh ngoài khu vực Mê Linh, nó có mâu thuẫn với giả thiết về chế độ mẫu quyền không nhỉ?" -  Anh hỏi cô.

"Trong xã hội mẫu quyền, quyền lực chính trị và ưu tiên thừa kế đều được nắm bởi nữ giới, ngoại tộc. Phát triển tiếp lên, nội dung mẫu hệ không mâu thuẫn với sự có mặt của nam thủ lĩnh, nữ giới chỉ còn duy trì lợi thế thừa kế. Sau rốt là phụ hệ, sự chuyển giao toàn bộ hai nội dung đặc thù trên, có lẽ không thể diễn ra ngày một ngày hai. Tình trạng xôi đậu, cài răng lược trong cơ cấu xã hội giữa các vùng miền Âu Lạc là khó loại trừ. Do đó giả thiết chế độ xã hội mẫu quyền ở M’linh sẽ chưa thể bị các phát hiện khảo cổ Việt Nam cho đến nay đánh đổ". Anh hoàn toàn nhất trí với lập luận mạch lạc của cô.

 

*

*     *

 

Chiến thắng nhanh như chẻ tre, dễ dàng như trở bàn tay, với Trưng Trắc nói riêng và người Âu Lạc nói chung, rõ ràng là chứng giám của lòng trời cho khát vọng tự do và chính nghĩa của họ. Trên tột đỉnh vinh quang, Trưng Trắc bỗng phân vân ngẫm nghĩ đến nhiệm vụ cấp bách đã trù dự. Thương nhân Âu Lạc từ phương Bắc trở về vui mừng bảo rằng chưa đợi vua ra lệnh, Hán quan đã vội đóng chặt cửa biên giới. Ở nhiều vùng xung quanh sở trị Hợp Phố, tiếng vang trống đồng Âu Lạc đã khích lệ họ nổi dậy, đánh đuổi kẻ cai trị tàn bạo.

Lúc đang bị Tô Định đe dọa, ai cũng chia sẻ với Trưng Trắc quyết tâm bằng mọi giá cải tổ cơ cấu xã hội Âu Lạc. Người người tuyệt đối tin tưởng khi thực thi cải cách, đổi mới, sức lực và trí tuệ nam giới Âu Lạc sẽ có cơ hội được giải phóng, sẽ thành hạt nhân kháng thể thực dân, vun đắp sự trường tồn và thịnh vượng của đất nước. Tiếc thay, chiến thắng Long Uyên cuối mùa hè năm 40 đã làm cho quí tộc Âu Lạc tự mãn. Những người từng ủng hộ A Thi chấp chính có lý do trù trừ. Những người phản đối A Thi thì hả hê. Một đế quốc lớn vào bậc nhất gầm trời nhân loại đã bại vong dưới tay họ, cho nên họ bỗng trở nên thủ cựu và ngạo mạn một cách dễ hiểu. Các thầy cúng dưới sự chỉ đạo của Già Mị, mật truyền với từng người dân về sứ mệnh mà Mẹ Tổ đã trao cho Trưng Trắc, và chỉ Trưng Trắc mà thôi. Họ cho rằng chiến thắng trước Tô Định là của riêng cá nhân Trưng Trắc, là cơ sở chính thống vĩnh viễn của bà.

A Thi ước ao chế độ vương pháp mẫu hệ. Phái nam trong gia tộc nên điều hành nền chính trị của vương quốc. Có thêm phụ hệ thì tốt, giải phóng sức lao động và phân chia hợp lý tài sản xã hội khiến nhà nhà giàu có hơn, đất nước hưng vượng hơn. Triều đình Âu Lạc phải là nơi tập hợp sức mạnh muôn dân, là biểu trưng cho ý nguyện độc lập của cả một dân tộc. Biết đâu nếu A Thi không phải chồng của Trưng Trắc, có thể ông cũng đã làm binh biến.

Sau rốt, chiến thắng Long Uyên đã trở thành gánh nặng cho người Âu Lạc. Càng ảo tưởng về sức mạnh của mình, người dân càng chủ quan.

Mùa thu năm 40, Trưng Trắc xưng vương (Lạc Vương). Lạc tướng khắp Âu Lạc quay đầu về M’linh bái vọng vua bà. Hợp Phố và An Biên cung tiến lãnh tụ mới của họ vàng bạc châu báu không biết bao nhiêu mà kể.

Trước đây người dân Âu Lạc nói chung không phải đóng thuế. Dân làng chỉ góp công sức và sản vật cho những hội hè lễ tiết do quan Lang tổ chức. Họ hoàn toàn được tự quyết định có làm thuê cho quan Lang hay không. Ắt phải có chèn ép, áp bức trong quan hệ giàu nghèo này, nhưng mức độ không đến nỗi trầm trọng. Quan Lang tự nguyện nộp một phần rất nhỏ thu nhập của mình cho Lạc tướng. Bộ máy hành chính của Lạc tướng gọn nhẹ, gia tộc Lạc tướng cũng phải lao động như mọi công dân khác. Các Lạc tướng quan hệ bình đẳng, giao lưu, trao đổi mang tính chất hữu nghị.

Vương quốc Âu Lạc thành hình, Lạc Vương Trưng Trắc phải duy trì lực lượng vũ trang nhất định đề phòng người Hán. Các chi họ trong gia tộc của bà chiếm nắm nhiều vị trí quan trọng trong triều đình sơ khai. Họ gây sức ép bắt Trưng vương phải đánh thuế thu tô, từ sông hồ biển cả đến rừng sâu. Người ta đánh đồng quốc khố với kho lẫm của một gia tộc, một phe phái. Dinh thự, công quán xa hoa, to lớn không cần thiết, được dựng lên vội vàng. Nhân dân Âu Lạc bất ngờ và chán nản, nhiều Lạc tướng lợi dụng danh nghĩa Trưng vương đã tận thu, tận gom của cải vật chất. Họ nộp lên thì ít, giữ lại cho bản thân thì nhiều. Tô Định bị đánh đuổi, nhưng nọc độc của y rơi rớt lại đã thấm vào tim gan không ít quí tộc Âu Lạc. Họ chuộng lụa, thích ngọc trai, rượu Hán, nên đã đè đầu cưỡi cổ dân thường, dùng sản vật đổi hàng xa xỉ với thuyền buôn.

Trưng vương gần như làm không xuể trong vai trò mới, bà cảm thấy không đủ sức cai quản bộ máy quan liêu cồng kềnh, dễ dàng đẩy đưa con người đến tư lợi, tham lam. Trớ trêu thay bộ máy này lại do chính bà đang đứng đầu. Bà đã từng nhất quyết không đội trời chung với ngoại xâm nhưng khi nội thù mang khuôn mặt ruột thịt thì bà cảm thấy thật nan giải.

 

 

*

*     *

 

Trận mưa quét sạch Hán quân đã tưới đồng rửa ruộng cho Âu Lạc, song mùa màng năm ấy trễ nải vì người người còn mải tung hô Trưng vương. Lễ hội, tiệc tùng thâu đêm suốt sáng xao động rừng núi, biển cả. Trống đồng nóng hổi vì dùi nện liên tu bất tận hoan điệu. Có lẽ âm ba ấy đã kéo ba chiếc thuyền buôn Ả Rập buông neo tại cửa Hát giang. Chủ thuyền, một Hồ nhân cao to vạm vỡ, râu quai nón, nước da bánh mật đến M’linh ra mắt Trưng vương.

Tuy thất vọng vì kho lẫm Âu Lạc trống hoác, lúa gạo không đủ để mua bán đổi chác, chủ thuyền vẫn gợi ý:

"Thưa Lạc vương. Âu Lạc hiện nay dân số đã đông đúc, đồng ruộng nương rẫy màu mỡ, trên rừng dưới biển sản vật dồi dào. Chúng tôi từ Ả Rập tới đây để buôn bán. Cứ cuối hè, đầu thu thì nương buồm ghé Âu Lạc rồi Nam Hải. Đầu đông chúng tôi sẽ quay về nhà. Dám mong Lạc Vương cho phép hằng năm chúng tôi ghé bến Hát giang, trao đổi hàng hóa".

"Nghe nói rợ Hồ có bệnh truyền nhiễm, ta rất lo lắng cho muôn dân".

 

"Thưa Lạc vương, những lời ấy chỉ là sàm ngôn. Thủy thủ chúng tôi đều dầu dãi phong ba, sức khỏe dẻo dai. Xin Lạc vương đừng nghe kế hiểm bế quan tỏa cảng, tự trói mình để nộp mạng cho giặc đói, giặc dốt và cuối cùng là giặc ngoại xâm".

"Vậy ngươi hãy phân tích thử lợi hại của việc giao thương này xem".

"Thưa Lạc vương tôn kính. Trước mắt, chúng tôi sẽ lấy đồng vụn, sắt thỏi đổi gạo, cá muối, gỗ quí, da cá sấu, v.v... của quí quốc. Nhà buôn nào cũng phải biết nơi cung cấp bất cứ thứ hàng hóa gì Âu Lạc thiếu như hương liệu, thuốc chữa bệnh. Chúng tôi cũng có thể chuyển giao các bí quyết canh nông tân tiến, giống tốt đây đó hoặc mật truyền công nghệ chế tạo vũ khí đa dụng cho quốc phòng".

Một quan Lang già cả bước lên, vặn hỏi thương nhân: "Sắt thì tốt đấy, Âu Lạc thiếu sắt để rèn giáo đúc gươm. Còn đồng thì mạn thượng du chúng tôi đã có mỏ. Các thứ khác của ngươi không thiết thực với đời sống Âu Lạc thanh bình".

Chủ thuyền nhỏ nhẹ: "Thưa Lạc vương, thưa bá quan. Sắt đâu phải chỉ để sản xuất vũ khí. Người Âu Lạc hãy thay thử cày đồng bằng cày sắt xem, chỉ sợ các bồ thóc vốn có không chứa đủ lúa mới gạo thơm. Không có cách nào tự bảo vệ và duy trì hòa bình tốt hơn việc đẩy mạnh buôn bán, xây dựng quân đội vững vàng. Lò đúc vũ khí sắc bén bằng sắt của nước Tần hôm nào, không những đã đưa quân đội của Doanh Chính trở nên bách chiến bách thắng, mà còn đẩy nền nông nghiệp và giao thương của họ lên hàng đầu Trung Nguyên. Sức mạnh quân sự ở trình độ cao sẽ kéo theo con thuyền quốc gia hưng vượng, điều đó khó phủ nhận".

"Hoang tưởng! Từ thời Mẹ Tổ chúng tôi đã dùng cày đồng, trừ những năm hạn hán, có khi nào Âu Lạc bị đói đâu. Sắt lại  hay bị gỉ, một chiếc cày sắt trụ được mấy mùa gặt? Lại phải thay. Tốn kém lắm". Quan Lang dụng lý.

"Lạc vương có biết những gì đang diễn ra tại Hợp Phố, Nam Hải không?". - Người Ả Rập rất kiên trì đối thoại.

"Ta đã truyền dặn thuyền buôn nhỏ của Lữ lạc tướng để ý đến chuyện này nhưng đến nay họ vẫn chưa về". - Trưng Nhị nói.

"Người Âu Lạc có thể tiếp kiến Thái thú Hán không? Chúng tôi làm được điều đó. Thậm chí, chỉ cần một món quà lạ, tôi đã từng diện kiến vua Hán và thù tạc cùng hết thảy những vị có chức cao nhất của Hán triều. Được buôn bán nơi đây, chính chúng tôi sẽ góp phần giữ gìn bình yên cho quí quốc. Nắm được động thái quân Hán, Âu Lạc sẽ luôn ở thế chủ động trong mọi tình huống".

 

Tiếp theo một nhà buôn lại kể tỉ mỉ chuyện Châu Nhai, Đạm Nhĩ:

"Ngoài biển Đông, năm Nguyên Phong cách đây hơn một trăm năm mươi năm, sau khi diệt Nam Việt, Hán Vũ đế đặt hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ. Đất này vốn là nơi ông tổ tôi thường xuyên qua lại mua ngọc trai. Thái thú Hán vơ vét tàn bạo còn hơn cả Tô Định. Bị mất thị trường, ông tổ tôi bí mật ủng hộ người bản thổ. Chừng ba mươi năm họ nổi dậy giết Hán quan sáu lần. Năm Thủy Nguyên thứ năm, Chiêu Đế phải thu nhỏ qui mô thực dân, bãi quận Đạm Nhĩ gộp vào Châu Nhai. Lại thêm ba mươi năm nữa trôi qua, cụ tôi tiếp tục quan hệ chặt chẽ với các thủ lĩnh kiên cường. Có lần họ đuổi sạch Hán quan bảy năm, có khi đoàn kết chín huyện giết không còn một mống.

Ông nội tôi kế sách hay hơn. Một mặt ông hết lòng giúp đỡ người Lê, Lạc; một mặt vào tận triều đình Trường An vận động nhiều kẻ tai to mặt lớn. Trăm năm trước, Hán Nguyên Đế muốn phát đại binh thực dân triệt để. Ông nội tôi đem vàng bạc châu báu mua đứt đại thần Giả Quyên Chi. Y khuyên vua Hán hãy bỏ Châu Nhai vì đâu phải chỉ nơi đó có ngọc, xuất quân tốn kém vô lường, chẳng lợi lộc gì. Phò Mã Đô úy ở phe chủ chiến chống đối quyết liệt. Hắn nói Châu Nhai, Đạm Nhĩ đặt quận lâu rồi, không đánh khác gì chứa chấp Man Di, tạo tiền lệ cho cả phương Nam làm phản. Hắn lôi sự nghiệp nam chinh vĩ đại của Vũ Đế áp lực, đòi xử họ Giả. Ông nội tôi tiếp tục cạy cục vài nơi, kết quả Chiêu Đế bãi binh, bỏ Châu Nhai.

Người Lê, Lạc có mấy chục năm thanh bình tự do, buôn bán phát đạt. Chỉ tiếc vua đời sau tha hóa, quan lại hư đốn bỏ bê vận nước. Bọn tham lam nhũng lạm, lũ khư khư lòng riêng nắm hết thực quyền. Đến nay xứ ấy đã vĩnh viễn là quận huyện của nhà Hán. Muôn dân sống đời nô lệ lầm than".

Trưng vương cân nhắc, bà sai mở tiệc đãi đằng trọng hậu các thương gia, hỏi han kỹ càng thêm nhiều điều nữa. Một số Lạc hầu già tỏ vẻ không vừa ý. Họ bảo người Hán đã bạt vía đến trăm năm, bọn rậm râu coi ra cũng chẳng tốt đẹp gì. Ai dám chắc chúng sẽ không bán đứng Âu Lạc cho người Hán khi cần, hoặc giấu một âm mưu thống thuộc khác. Thái thú mắt lươn hay mũi lõ đều là kẻ thù của người Âu Lạc.

"Tất nhiên chúng ta đừng nên đuổi hổ cửa trước, đón báo ngõ sau". - Lữ lạc tướng phân trần - "Không thể có việc phó mặc nước nhà cho ngoại bang thao túng. Người Âu Lạc phải luôn tỉnh táo, làm chủ chính mình, trui rèn bản lĩnh trong quan hệ bang giao".

Mặc dầu có A Thi và Trưng Nhị ủng hộ nhưng ý kiến của Lữ lạc tướng vẫn bị một số Lạc hầu dè bỉu. Cuối cùng phe thủ cựu thắng thế. Trưng vương hẹn người Ả Rập mùa hè sau ghé lại kinh đô M’linh. Bà tin tưởng thời gian sẽ giúp bà thu xếp lòng người. A Thi mời đoàn thương thuyền lưu lại nghỉ ngơi, và tiếp tế lương thực, nước uống để họ tiếp tục hải trình. Các thương nhân được tự do thăm thú mọi nơi. Họ cũng khôn khéo vận động thêm được một số quan Lang, Lạc hầu cấp tiến và vài bô lão nhân hậu.

Dẫu kỳ công nhưng kết quả chẳng như ý muốn, người Ả Rập không nhìn thấy chút hứa hẹn nào với bộ máy hành chính xung quanh Trưng vương. Đôi khi đàm phán chưa thông, Lạc hầu tên Bầm phụ trách quốc khố đã yêu cầu những khoản đút túi riêng hết sức vô lý và trơ trẽn. Bế tắc chồng lên bế tắc.

Lữ lạc tướng cám cảnh, trong một lúc cao hứng đã đặt bài vè chế nhạo bọn quan lại sâu bọ và tối tăm thiển cận như sau:

Mụ Bầm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Bầm rằng Bầm chẳng lấy trâu

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè

Bầm rằng Bầm chẳng lấy mè

Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim

Bầm rằng Bầm chẳng lấy lim

Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi

Bầm rằng Bầm chẳng lấy mồi

Phú ông xin đổi nắm xôi, Bầm cười.

 

 

*

*     *

 

Gặt hái duy nhất mà đoàn thương thuyền Ả Rập cảm thấy thỏa mãn trong dịp này là đã được tắm mình trong lễ hội trăng thu nguyên khai. Nó chưa bị khoác lên những vỏ bọc lòe loẹt thiếu bản sắc dân tộc, sau quá trình đồng hóa của thực dân. Người Âu Lạc xem trăng biểu trưng cho đêm tối, nước, lụt lội và hơn hết là người cha. Ở đối tính khác đấy là mặt trời, nóng nực, lửa, đất, hạn hán và là người mẹ.

Hình ảnh đua thuyền và giã gạo trên mặt trống đồng đã tái hiện hai lễ hội quan trọng nhất trong năm của người Âu Lạc.

Đoan Ngọ trong thời điểm đầu mùa mưa, họ đua thuyền, té nước, cầu mưa. Họ mong cha mẹ gặp nhau, thổi làn gió phồn thực lên mùa màng. Ở góc độ nào đó nó là lễ thượng điền cổ điển, nhân dân ra ruộng, xuống vườn, cầu mong ấm no.

Khoảng giữa thu, cha nước mẹ đất sẽ chia tay. Cuối mùa mưa, cũng là thời điểm thu hoạch, hạ điền. Lúa nếp mới vừa chín tới được gặt về rang sơ, sau đó họ dùng chày cối giã dẹp thành cốm. Khi lúa Ba trăng cấy tháng Năm, gặt tháng Tám đã vào bồ, nhân dân Âu Lạc tổ chức lễ mừng cơm mới. Họ luôn khấn nguyện cảm ơn trời đất, tổ tiên đã ban cho phúc lộc và an bình. Lần lượt trong làng, sau nhà này đến nhà kia làm lễ. Trai gái túm năm tụm ba dắt nhau thăm hỏi các gia chủ, khi đi môi đỏ trầu không, khi về má hồng men rượu. Họ cười nói, đùa giỡn râm ran khắp đường ngang, ngõ dọc. Mọi người uống rượu thật nhiều, chia thịt xẻ cá rồi ăn cho bằng hết niêu cơm lớn. Vừa ăn vừa chúc tụng nhau rất thân tình.

Giữa kỳ lễ cơm mới, ngày trăng tròn nhất sẽ được chọn làm đại lễ cúng trăng. Người ta ra bãi đất bằng phẳng, quây quần cả làng xóm dưới ánh trăng. Trống đồng khi ấy trở thành một nhạc cụ giữ nhịp. Các đội nhạc công khèn và sáo xếp một vòng tròn, vừa tấu những giai điệu vui tươi, vừa nhảy nhót hân hoan.

Mâm cúng trăng, cúng cha, ngoài món cốm không thể thiếu còn có thêm hoa quả, cơm mới, xôi... Trai gái nắm tay múa hát, cặp nào luyến nhau sẽ tự biết hẹn hò tình tự ngoài bãi hoặc trên đồi. Trẻ con chia quà giành bánh rộn rã và nghêu ngao hát:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,

Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.

Cha còn cắt cỏ trên trời,

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Các bô lão ngắm trăng tiên đoán mùa tới. Nếu trăng sáng vằng vặc, trời mát dịu ắt sẽ may mắn bội phần. Trăng có vết thì phải cảnh giác sâu bệnh.

 

Người dân lao động chơi trăng lành mạnh và trong sáng bao nhiêu, thì ngược lại quí tộc cầu kỳ, kiểu cách bấy nhiêu. Đồng bóng và mê tín nhanh chóng ngự trị tại M’linh từ khi nó trở thành vương đô Âu Lạc. Càng tha hóa người ta càng muốn bám víu vào thứ gì đó có vẻ cao siêu, nhằm hợp thức hóa địa vị và thủ đoạn làm giàu. Âu Lạc đa thần cho nên quí tộc tổ chức cúng tế triền miên. Giới thầy cúng, thầy mo ra sức lũng đoạn tâm linh, bày hết trò này đến trò nọ, ngày càng phức tạp và đa sự. Đồng cốt đua nhau luyện ca tập vũ, sáng tác thi từ, thêm da đắp thịt cho các thần tích. Họ phát triển trí tuệ và mỹ cảm, đáng tiếc là chúng chỉ phụng sự những hoạt động văn hóa hạn hẹp, không đóng góp được gì nhiều cho nền văn hóa và chính trị non trẻ Âu Lạc.

Sinh hoạt của quí tộc Âu Lạc cũng là bình thường, nếu họ biết tiết chế và chọn thời điểm thích hợp. Trong khi nghệ thuật cung đình bác học tại nhiều quốc gia đã thăng hoa rồi trở thành giá trị xã hội đại chúng, thì ở kinh đô M’linh, sự phát triển lệch lạc nhưng gấp ruổi của văn hóa tín ngưỡng, để làm đẹp lòng giới quí tộc mới nông cạn và thiếu hiểu biết, đã phá hủy nét đẹp truyền thống. Những lời ca điệu múa phồn thực đẹp đẽ thể hiện khát khao hạnh phúc chân thành, thịnh vượng chính đáng bị quên lãng. Những giai điệu bi tráng ca ngợi đức hy sinh và công lao tiên tổ bị, bóp méo. Thay vào đó là những lời ca điệu nhạc học đòi rẻ tiền, thiếu văn hóa, nhiều khi còn dâm dật và ô uế.

Lạc hầu Bà Nường tổ chức cúng trăng trên nhà sàn chứ không phải ngoài sân rộng. Tư dinh của Bà Nường rộng mênh mông, tiếng trống đầu này và tiếng chiêng đầu kia gặp nhau giữa nhà, nơi có bảy bếp lửa nối liền nhau sáng rực. Các vị khách ngoại quốc được ân cần mời mọc. Trai đinh trẻ khỏe bưng rượu, bê thức ăn, dâng cơm... kể ra hàng mấy chục. Già Mị đứng chủ đồng, tám người giúp việc, họ được trả công hai con trâu, sáu vò rượu và mười gùi nếp cho những buổi tiệc thâu đêm suốt sáng như thế.

Chuông rung, khèn sáo hòa âm. Già Mị mặc áo dài xanh đỏ, đầu chít khăn cắm lông trĩ, một tay chuông, một tay quạt mo phe phẩy, miệng hát:

Bà trời đi ngủ rồi a

Cha trăng chưa qua

Trai nào còn thức

Nhớ ta nhớ ta nhớ ta

 

Mương dài tăm cá

Mộng lúa cựa mình

Nhà ta đầy rượu

Chỉ không có tình ư hư


Trâm vàng khánh bạc

Lung la lung leng

Lửa ấm sưởi khèn

Góc nhà cối úp

 

Công đã rỉa lông

Tóc đâu tổ quạ

Đêm vẫn còn xa còn xa

Tay ai làm gối...

Già Mị cứ hát một khổ lĩnh xướng, đám giúp việc phụ họa theo mấy câu, vừa nhảy vừa rên rỉ. Khách khứa cũng góp tiếng. Rượu hết vơi lại đầy, tiếng người ngày càng khàn đục, mất âm thiếu chữ. Người người rũ rượi lả lơi. Gia nhân co chân, dựa tường ngáp vặt. Đàn gia súc bên ngoài giậm vó thình thịch vì mất ngủ.

Cuộc tắm rượu kéo dài đến khi gà gáy.

Cuối thu năm 40, vừa đuổi xong giặc, ruộng nương bê trễ mà lễ cúng trăng lại xa xỉ. Trăng quầng rất xui, không mưa to cũng bão lớn, đáng lý mọi người phải dặn nhau tích cốc phòng cơ, nhưng nỗi niềm chiến thắng át đi tất cả. Vui thì rất vui nhưng khách Ả Rập vẫn không giấu được sự ngao ngán, vì càng ngày họ càng hết hy vọng mở ra cánh cửa thương mại phồn thịnh lâu dài trên mảnh đất anh hùng này.

 

 

*

*     *

 

Gió nam cứ yếu dần, mùa đông đã thở hơi lạnh trong tâm tưởng những thiếu phụ ngồi bên song cửi. Đoàn thương thuyền Ả Rập đành tiếc rẻ dong buồm ra khơi. Nếu không đủ sức đến Nam Hải, họ sẽ ghé Hợp Phố thu mua trân châu, sừng tê... trước khi gió đông bắc giục họ trở về xứ sở ngàn lẻ một đêm của Sheherazade.

Người Âu Lạc vừa lỡ một chuyến tàu hưng vượng mà Triệu Đà từng tận dụng được một thời gian, nhưng con cháu ông ta đã phí bỏ. Lữ Lạc tướng đã nói như thế với Trưng vương. Ông và A Thi trao đổi rất nhiều với nhau trên chủ đề này. Họ đều nhận thấy Âu Lạc là trái độn giữa hai nền văn minh Đông và Tây, vị thế của nó hơn hẳn Phiên Ngung. Do đó cơ hội là vô cùng nhưng thử thách cũng không nhỏ. Nếu vượt lên được, Âu Lạc sẽ mạnh mẽ vô cùng. Họ có quyền chọn lựa những ưu việt của Hán hoặc Hồ để ươm trồng trên mảnh đất của riêng mình.

"Tinh cốt của Nho giáo không xa lạ mấy với xã hội Âu Lạc đâu A Thi". - Lữ Lạc tướng giảng giải - "Vua của Khổng Tử được gọi là con trời. Ông đề cao nhân. Người không có nhân là cái cây thối rễ, bô lão ta vẫn dạy thế, đúng chưa nào?".

 

"Mẹ ta, Lạc tướng Chu Diên cũng thường nói câu ấy".

"Một việc làm cực kỳ quan trọng của Khổng Tử là xây dựng đội ngũ biết đọc chữ phi quí tộc cho vương quốc. Ông mở trường lớp, chiêu nạp học trò bình dân. Ông là người đầu tiên ở phương Đông xóa bỏ đẳng cấp trên phương diện chữ nghĩa. Tức là mọi người được bình đẳng tiếp cận sách vở". - Lữ Lạc tướng mở lòng.

"Ồ. Nước ta vẫn chỉ có thầy mo thầy cúng, chưa có người đọc sách nhỉ?". - A Thi hồ hởi.

"Nếu kẻ đọc sách giống kiểu như thầy cúng, hoặc quan tham, sẽ dẫn đến tình trạng lưu manh hóa. Lúc ấy họ không dẫn dắt con người đến chân lý, mà nô lệ họ giữa những điều giả trá". - Lữ Lạc tướng dẫn vấn đề đi hơi xa. A Thi tỏ vẻ khó nắm bắt. Ông gật gù:

"Khổng Tử có định ra cách chọn vua không?"

"Ông ấy chỉ lập ra một chuẩn đạo đức chi tiết cho Thiên tử. Giết vua là tội lớn nhất, nhưng vua bất nhân thì phải phế. Khổng Tử ủng hộ bạo lực cải cách rất kín".

"Còn người Hồ, nghe bảo vua của họ cũng là thầy cúng?".

"Không phải, thầy cúng số một của vương quốc là giáo chủ, gần như ngang hàng với vua". - Lữ Lạc tướng nói - Ở ta có quá nhiều thần, thần sông, thần biển, thần rừng, thần cây, thần bếp, thần núi... Vua của các thần ta lại gọi là Mẹ Trời. Nếu học theo người Hồ thì Mẹ Trời sẽ bị thay bằng một đấng tối cao, chí tôn. Đấng ấy được nhân cách hóa chi tiết, y gần gũi với người hèn, kẻ dại, thông tri và giác ngộ nhân sĩ, quí tộc. Như thế thì vẫn phải làm cách mạng".

"Ta hiểu rồi". - Mắt A Thi sáng lên - "Người Âu Lạc nên tôn thờ một người vừa là lãnh tụ, vừa là giáo chủ".

A Thi đã đề ra một ý tưởng táo bạo trong thời đại của ông. Tiếc rằng ý tưởng đó chỉ trở thành hiện thực mãi hai trăm năm sau, trên chính mảnh đất Âu Lạc ở trường hợp Sĩ Nhiếp. Sau Sĩ Nhiếp, văn minh Hoa Hạ đã thắng thế và văn hóa Âu Lạc đã phát triển dưới ảnh hưởng nặng nề của phương Bắc. Đó chính là lý do khiến họ không thể mau chóng vươn lên thành một dân tộc lớn mạnh ở tầm thế giới.

Lòng Trưng vương ngổn ngang. Bà không đủ sức mạnh nội tại như một trang nam nhi để lãnh đạo vương quốc trẻ tuổi này. Bà bất giác muốn được như Lucius của La Mã. Theo trần thuật của các thương nhân Ả Rập, cách thời đại Trưng vương gần năm trăm năm, La Mã cộng hòa đứng trước nguy cơ diệt vong. Các bô lão đã yêu cầu trại chủ Lucius cầm quân vệ quốc. Lucius phải bỏ lại quê nhà chiếc cày đã lên nước bởi mồ hôi của ông để ra trận. Sau nửa tuần trăng, quân thù sạch bóng, ông thanh thản trở về công việc đồng áng.

Lucius là biểu tượng cho sự chính trực và đức hạnh của chính trị gia. Trưng vương đồng cảm với nhân vật này, bản thân bà cũng không thèm khát quyền lực. Tô Định chạy rồi, bà chỉ muốn trở lại M’linh, làm một người mẹ, người vợ truyền thống. A Thi nhận ngôi vương, hay bất kỳ Lạc tướng nam giới nào khác, bà cũng thuận theo. Sự mê tín vào hào quang chiến thắng dưới tên tuổi Trưng Trắc của đông đảo quần chúng, đã không cho phép bà thoái lui. Trưng Trắc mắc kẹt ở đấy như một Giao long bị ném vào rừng thẳm, thả trên núi cao.

Quả thật A Thi thông tuệ, mạnh mẽ và sắc sảo hơn bà. Ông không cần dẫn chứng gã Lucius xa xôi đó. Ông bảo vợ rằng, tổ tiên của họ đã có Lucius trước cả người La Mã nhiều thế kỷ. Đó là Thánh Gióng, là Phù Đổng Thiên Vương của Âu Lạc. Câu chuyện đa tầng, đa nghĩa đâu kém những gì những thương nhân đã kể. Trước giặc Ân tham tàn, cậu bé Gióng ba tuổi của làng Phù Đổng đã vụt lớn lên, nhận trách nhiệm xông pha nơi đầu tên ngọn lao. Giặc tan, ngài không đánh bóng mình và thực thi tư tưởng công thần. Ngài cưỡi ngựa, bay thẳng lên trời. Thiên anh hùng ca ấy đẹp hơn bất cứ một tuyệt tác La Mã nào.

Đáng tiếc là đa số quí tộc và bô lão Âu Lạc không nhìn thiên anh hùng ca Thánh Gióng như cách của Trưng vương và A Thi. Giáp mặt quân thù ai cũng cần chính nghĩa, quyết tâm, ý chí và dũng cảm, còn với quê hương hòa bình, phải thêm đức hy sinh lợi quyền bản thân và dòng tộc.

 

Âu Lạc với đỉnh cao Đông Sơn, nằm trong văn minh Bách Việt, cũng có thể là nơi phát tích của văn minh Bách Việt. Khi Bách Việt bị Hoa Hạ thôn tính, Âu Lạc biên viễn thụ động nằm ngoài lề của mọi biến chuyển tích cực. Nó khép mình hờ hững với an nguy và không biết rằng sự chủ quan sẽ phải trả giá.

 

*

*     *

 

Ở Cửu Chân xa xôi cách trở, Đô Dương về kinh hơi muộn. Đoàn thuyền Lạc hầu của ông đến chúc mừng vua bà khi người Ả Rập vừa đi. Đô Dương hết sức lạc lõng giữa những ngày vui bất tận của quan quân Trưng vương. Những kẻ ác mồm bảo ông ghen tị với chiến thắng mang tên Trưng Trắc.

Lữ Lạc tướng khuyên Đô Dương trở về nam, lấy danh nghĩa Lạc hầu hiệu triệu quần chúng, rút kinh nghiệm M’linh, xây dựng quân đội và thành quách, vỗ về sức dân, tính kế lâu dài cho cả Âu Lạc. Cả Đô Dương và Lữ Lạc tướng đều biết trước ngôi vương ngắn ngủi của Trưng Trắc chỉ có hư danh và những lễ hội say sưa. Đại bộ phận người Âu Lạc tiếp tục thống khổ bên bờ ruộng của mình. Quan lại và một số chiến binh có công trạng lên ngôi, mong ước đời nối đời được cung phụng, hầu hạ. Họ tha hóa từng ngày, trong sự xa hoa đẫm máu và nước mắt lương dân.

Trước khi xuống thuyền, Lữ Lạc tướng tấu với Trưng vương rằng: "Tính chuyện một đời chỉ cần tiền tài, lo trước mười đời phải tích lũy quyền lực, còn nếu lo cho trăm đời đã là lo chung cho thiên hạ, nên mở cửa cầu học, tế thế kinh bang, đãi ngộ hiền sĩ và loại bỏ sâu mọt...".

Từ Cư Phong, Đô Dương tập hợp tất cả Lạc tướng của Cửu Chân, định thống nhất phương hướng. Ông lại chạm trán với chia rẽ và hời hợt. Một số người biết những gì đang xảy ra tại M’linh đã tỏ vẻ nghi ngờ tấm lòng Đô Dương. Kẻ ở non cao thì mơ hồ, chống đối cái mới một cách quyết liệt. Cuối cùng chỉ có Lạc tướng Vô Thiết, Dư Phát và Vô Biên đoàn kết xung quanh Đô Dương.

Lực mỏng, người thưa, Đô Dương vẫn cố gắng qui tụ được gần một vạn chiến sĩ và năm trăm Giao long thuyền. Ông chỉ có hơn một năm chuẩn bị nhưng dựng được hai chiến lũy tại Dư Phát và Cư Phong, cùng một căn cứ sâu trong rú ngàn. Chu Bá là dũng tướng mà Đô Dương hết lòng dạy dỗ, nâng đỡ. Năm 42, Đô Dương đem quân ra bắc theo lệnh Trưng vương, Chu Bá ở lại giữ Cửu Chân.

Tháng mười năm 43, Mã Viện tiến vào Cửu Chân, Chu Bá ngoan cường chống cự, quyết không hàng. Hán quân tổn thất nặng nề. Chiến lũy Dư Phát vỡ, Chu Bá bỏ vào rừng sâu trường kì kháng chiến đến cuối đời và lạc mất giữa dòng lịch sử Việt Nam. Tên tuổi ông hiện vẫn khiêm nhường và ít được mọi người biết đến.

Đô Dương bám trụ ở Cư Phong không được lâu. Mùa đông năm 43, gia tộc cùng tay chân thân tín của ông buộc phải lên thuyền, nương theo gió mùa đông bắc ly hương xuống phía nam. Có thể Đô Dương chính là Thái tổ của người Minangkabau hiện cư trú tại Indonesia và Malaysia. Cộng đồng thị tộc mẫu hệ ấy vẫn nhắc nhở nhau rằng, tổ tiên họ từng căng buồm tìm kiếm tự do từ một vùng biển Việt Nam. Lối sống và sinh hoạt của họ dù trải qua gần hai ngàn năm, vẫn có gì đó tương đồng đến kinh ngạc với thời đại Hai Bà Trưng. Các ngôi nhà sàn có mái hình Giao long thuyền Đông Sơn vẫn ngạo nghễ trước mưa gió nam đảo. Một trong những câu chuyện dân gian nổi tiếng nhất của người Minangkabau là sự tích nghé giết trâu.

 

 

7.

 

Phải chăng quan sát qui luật chuyển động từ Đông sang Tây hằng ngày của mặt trời, người Hoa Hạ đã đặt ra mốc Cửu Châu? Nếu ta áp nghĩa Cửu là mặt trời ở đây thì sẽ bật ra sự thống nhất xuyên suốt trong nội hàm tên gọi nước Nhật: Cửu Châu (Xứ sở của mặt trời), Nhật Bản (Gốc của mặt trời), Phù Tang (Theo truyền thuyết cổ phương Đông có cây dâu rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần Mặt Trời nghỉ ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ Đông sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi Mặt
trời mọc).

Cô bảo Thiên văn học là một ngành quá hẹp, cô tin anh chứ chưa thể hiểu anh. Anh cảm ơn rồi nói rằng có lòng tin mà chưa hiểu đến cùng đích cũng tốt thôi. Sử quan Á Đông xưa đều là những nhà thiên văn thực hành, cho nên tìm hiểu cổ sử mà mù tịt thiên văn thì đáng tiếc lắm.

Anh luận ra từ qui luật chuyển động hằng năm của mặt trời, trên hướng nam tính từ các kinh đô cổ Trung Quốc, sẽ xuất hiện ít nhất hai mốc mang nghĩa "gốc của mặt trời" áng chừng. Ít nhất hai mốc là vì, khác với hướng đông (đi qua Cửu Châu) văn minh Hoa Hạ luôn tiến về phía nam, càng ngày càng hiểu hơn vùng đất phương nam. Các "gốc của mặt trời" có thể cũng dịch chuyển và thay đổi để chính xác hơn.

Hai mốc ấy đã nằm yên trong Hán sử nhiều ngàn năm, đó là Cửu Nghi và Cửu Chân. Chân nghĩa là gốc như "qui chân" là trở về gốc. Một cách đại khái, Cửu Chân ra đời như khái niệm vùng xích đạo ngày nay. Nó nằm trong một hệ thống có tính thuyết phục cao. Sử quan Hoa Hạ đã quan sát bầu trời, quan sát qui luật chuyển động tương đối của mặt trời và trái đất để đặt ra những khái niệm xuyên suốt và tiếp nối: Giao Chỉ (vùng đất tiếp giáp phía nam Hoa Hạ), Cửu Nghi/Cửu Chân (gốc của mặt trời, xích đạo), Nhật Nam (bán cầu nam).

Người Hán mường tượng khái niệm Nhật Nam trên logic nếu đi về phương nam, qua gốc mặt trời (Cửu chân/ Xích đạo), đến một nơi nào đó, bóng mặt trời sẽ nằm ở phía nam của mọi vật. Khi ấy nếu xây nhà cửa, để đón ánh nắng ấm áp, người ta phải quay cửa chính về phía bắc.

Quá trình chuyển hóa khái niệm thành địa danh cố định cũng là quá trình nam tiến, bành trướng của văn minh Hoa Hạ về phương nam.

 

*

*     *

 

Lại nói về Tô Định khi đến Hợp Phố, thần hồn nát thần tín, đổ bệnh liệt giường. Quân Hán vỡ mật chết không ít. Bọn Thái thú phương nam nghe tin rụng rời, lệnh đóng cửa biên giới, cắm trại chỉnh đốn sĩ khí. Ngựa trạm báo gấp về triều, Quang Vũ điên tiết đập vỡ một cặp lục bình men quí cạnh thư án.

Mãi đến mùa hạ năm 41 Tô Định mới rón rén vào thành Lạc Dương. Y tự trói và nộp mình dưới bệ rồng. Hôm ấy trời nóng bức, đêm trước Quang Vũ lại quá chén và bày trò ca múa khuya khoắt với mỹ nữ nên thần thái rất kém. Trong người uể oải, vua bèn phất tay đuổi Tô Định ra. Số là Tô Định từng thông đồng với Thái thú Hợp Phố và Nam Hải, bớt xén của ăn cướp từ Âu Lạc, chia chác với nhau. Khi bại trận, y phải trút hết hầu bao đút lót những người xung quanh Hán Quang Vũ, mong tránh họa tru di. Vương thái giám bị mua chuộc, đã cắt cử một vũ đoàn toàn gái đẹp bắt từ Lĩnh Nam, rút hết sinh lực hoàng đế trước khi cho Tô Định vào.

Cuối cùng, nhờ Vương thái giám khéo che chắn, tâng công Tô Định đã dâng nhiều của ngon vật lạ từ Âu Lạc suốt mấy năm, Hán Quang Vũ tha chết, chỉ phế y về làm thứ dân, đuổi ra khỏi kinh thành.

Thoát chết, Tô Định vội dọn nhà về quê cũ, tay lam tay làm việc đồng áng. Càng đổ mồ hôi nhiều thì giấc ngủ của y càng dễ đến. Mỗi lần nghe tiếng đồng va chạm Tô Định thường giật nẩy mình, đến bữa nuốt không trôi. Vì vậy trong nhà y, mọi đồ vật gia dụng bằng đồng như mâm, chậu, âu, xô đều bị giấu tiệt.

Cuối đông, chợt nhớ đến lạc thú Lĩnh Nam và da cá sấu, ngọc trai, sừng tê Âu Lạc, vua Hán lại sai tả hữu cho tìm Tô Định hỏi han. Nghe tin, Tô Định sợ quá, tự làm gãy một chân, rồi nói thác với Quang Vũ rằng đi cày bị
bò xéo.

 

Y tấu: "Người Âu Lạc rất ngoan cường, luật tục khác nhiều với Trung Quốc. Nghe đồn Trưng Trắc đã xưng vương, oai hùng trải đến Cửu Chân và cả những vùng man mọi của Hợp Phố. Thời bình, dân tình lam khổ vì quí tộc lười nhác, biến thái, nhũng lạm sa đọa. Nhưng lạ là, nếu bị ngoại bang bức ép, lập tức đất nước ấy sẽ kết ngay thành một khối như nhất. L 11517 ần này xuất quân phải lựa lão tướng nhiều thủ đoạn, đã trải trăm trận thắng, mới mong chế được hùng tâm nơi địa linh nhân kiệt". Nghe xong, vua Hán nghĩ ngay đến Mã Viện.

Lịch sử có những điều lặp lại hết sức trùng hợp. Mã Viện vốn họ Triệu, cùng thượng tổ như Triệu Đà. Y vốn là con cháu của Triệu Xa, tướng nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu Xa mang hiệu mã phục quân, tiện lấy luôn họ Mã để tách chi tộc.

 Cầm binh từ thời ngụy Vương Mãng, hoạn lộ của Mã Viện gập ghềnh trên chiến trường, nhưng cả hai triều đại đều nể vì tài năng của y. Đầu Đông Hán, Viện phò vua bày bao trận hiểm, chức tước đến Thái trung đại phu. Sau đó nhiều lần y lại lập công lớn khi chinh Tây, đánh Khương, lãnh ấn Thái thú Lũng Tây. Sự nghiệp lớn của Mã Viện là cướp nước người, thủ đoạn khó ai bì.

Được Triệu vời nam tiến, Mã Viện tuy đã già nhưng vẫn không từ nan. Máu tham lập công nổi lên bừng bừng. Vua Hán cả mừng trao ấn, phong Viện làm Phục Ba tướng quân, cử Lưu Long phó phụ, ra lệnh cả hai tuyển binh mãi mã xuống Nam Hải hội quân cùng Lâu thuyền tướng Đoàn Chí. Đoàn Chí trước đó đã tuân chỉ đóng thuyền, bắt lính hơn vạn người ở Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô chờ Mã Viện. Gần hai vạn quân vừa đến Hợp Phố, bỗng Chí ngã nước chết. Viện được giao toàn quyền. Y cho thuyền chạy ven biển, phá núi mở đường, vẽ địa đồ, ghi chú tài nguyên Âu Lạc. Vì lương thảo hạn chế, đi đến đâu gặp làng gặp bản là Mã Viện đều tấn công, cướp bóc và bắt thêm dân phu.

Đến Long Uyên, quân số của Mã Viện đã vọt lên hai vạn rưỡi với hơn một ngàn Lâu thuyền lớn nhỏ đủ loại.

 

*

*     *

 

Mùa xuân năm 42, những ngày lễ mừng năm mới của Âu Lạc dài như vô tận. Không biết bao nhiêu tre vầu đã bị chặt để làm nêu. Quan lại M’linh tranh nhau xem ai dựng nêu cao nhất, ai chôn nhiều nêu nhất. Hai năm liền mất mùa, dân thường đói kém, vậy mà trâu bò bị giết để hành lễ không biết bao nhiêu mà kể. Mặc dù Trưng vương đã ra lệnh nghiêm cấm mọi hoạt động quá trớn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực nhưng lệnh ấy chỉ có tác dụng không quá tầm mắt, tầm tai của bà.

 

Những gốc tre già cao vút, gióng đều và thẳng tắp thường được chọn làm nêu. Người ta đập giập ngọn tre thành xơ, rũ dài như bông. Cạnh đó treo móc một túi vải đựng bầu rượu, vôi, trầu cau để mời tổ tiên về với con cháu. Bông tre lao xao trong gió là dấu hiệu các linh hồn đang có mặt. Mỗi gốc nêu sẽ hiến tế một con trâu. Nó bị buộc sẵn vào rào nọc ngắn trồng xung quanh chân nêu. Nọc gỗ khắc hoặc vẽ hoa văn và những hình chim thú trông rất vui mắt và linh hoạt.

Cây nêu tượng trưng cho chiếc cầu nối trời và đất, nó cũng là mốc dấu ghi nhận cương vực của một cộng đồng nhỏ. Khi nêu đã dựng, mọi công việc trong làng xã phải dừng hết lại. Tập trung dưới cây nêu, người ta không cảm thấy đơn độc, dễ dàng trút bỏ mọi phiền muộn cũ, cùng nhau hướng đến tương lai, cầu mong vạn sự hanh thông, tốt đẹp. 

Mở lễ, mọi người vây tròn gốc nêu, chiêng trống gõ nhịp xung trận. Một trai đinh khỏe mạnh cầm con dao to và sắc vừa múa may vừa đuổi con trâu chạy quanh gốc nêu. Lần lượt bốn chân con trâu bị hạ đứt gân khuỷu. Khi nó gục xuống, nữ chiến binh tài ba nhất được chủ nhà trao cho ngọn giáo thiêng của dòng tộc để đâm một phát dứt khoát vào tim con vật.

Thịt trâu tươi đặt lên lá chuối đem đến bàn hành lễ có chín ché rượu vây quanh. Thầy mo bôi một ít máu trâu lên chân gia chủ rồi khấn niệm, đọc sử thi ca ngợi công đức gia tiên và cầu mong sức khỏe, thịnh vượng cho gia chủ.

Toàn bộ khách mời được thưởng thức thịt nướng và uống rượu trong tiếng chiêng trống dập dìu. Khách càng đông, trâu thay nhau bị giết càng nhiều. Ché hết nước lại được đổ đầy. Rượu nhạt thì người ta thay ché hoặc dùng rượu khách khứa đem đến. Cảnh tượng tưng bừng náo nhiệt. Tối mịt, cuộc chơi lại được dọn vào nhà sàn. Người say kẻ tỉnh nằm chồng ngồi chất ca hát, đùa nghịch thâu đêm.

Trưng vương không vui suốt tuần trăng mới. Bà luôn luôn bồn chồn và linh cảm một tai họa đang đến gần. Tất nhiên bà không biết Mã Viện đã hội quân tại Hợp Phố. Chỉ cần một chút tấm lòng với nước non, ai cũng thấy những gì diễn ra một năm rưỡi qua tại Âu Lạc chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp.

Lữ lạc tướng từ lâu đã bỏ về Phong Châu ẩn dật. A Thi, Trưng Trắc và Trưng Nhị rất buồn. Nỗi buồn chung vì nước của họ càng cô độc thì càng thăng hoa, trở thành niềm bi thiết, đại diện cho lương tri những người Âu Lạc yêu quí xứ sở của mình, đau đớn trong dự cảm thê lương.

"Nàng không có lỗi". - A Thi an ủi Trưng vương - "Tiền lệ của tổ tiên là Thánh Gióng phải về trời. Lạc vương dẹp xong giặc, ngoài lòng kính trọng đời đời truyền kể, các ngài vẫn dần tan lẫn vào lối sống cũ".

 

"Giặc Ân khác giặc Hán nhiều lắm. Nhâm Diên, Tích Quang, Tô Định nối nhau liên tục quấy nhiễu chúng ta hai đời. Kẻ sau gươm giáo luôn nhiều hơn kẻ trước. Sao không ai chịu hiểu như ta?". - Trưng vương thở dài.

"Tôi hiểu. Trưng Nhị hiểu. Đô Dương, Lê Chân và Lữ lạc tướng cũng thế". - A Thi nói - "Nhưng chúng ta bất lực. Ý trời chăng?".

Trưng vương kể cho A Thi nghe giấc mơ kỳ lạ của bà những ngày gần đây. Nó cứ lặp đi lặp lại, rỗng toang, không có mở đầu và kết thúc nhưng cố kết chặt chẽ như một đoạn sử thi:

Trong ngôi nhà rông mái hình thuyền

 của Lạc vương

Không có cửa, không có cả cầu thang

Tiếng chiêng tiếng trống quay tròn

Bà thầy mo đang hát sử thi

Kể về một thầy mo khác, đang hát sử thi

Trong ngôi nhà rông mái hình thuyền của

Lạc vương khác

Không cửa, không cầu thang

Tiếng chiêng tiếng trống quay tròn

 

Tiếng chiêng tiếng trống quay tròn

Không ai biết thầy mo hát gì

Bà kể về một thầy mo khác nữa?

 

Chẳng rõ A Thi hiểu giấc mơ ấy như thế nào. Ông hỏi Trưng vương: "Chúng ta có kịp tát ao tù không?".

"Hết mùa gió này, nếu may phúc quân Hán chưa kéo sang, A Thi hãy ra biển đón gió Nam nhé". Trưng vương có vẻ không tin sự sắp xếp của mình sẽ suôn sẻ. Hè năm ngoái bà cứ hoài ngóng những thuyền buôn Ả Rập. Họ đã không ghé M’linh. Kho lẫm chưa đầy, Trưng vương vẫn có ý bớt ăn giảm mặc, dành dụm để đổi sắt. Giờ đây bà không muốn đợi nữa. A Thi phải cất công đi tìm họ vậy.

Trưng vương tiết kiệm cả trong đám tang và lễ bỏ mả mẹ mình cuối năm ngoái. Sau lễ cúng trăng năm 40, mẹ Man Thiện trút hơi thở cuối cùng. Tiếng cối xuyên qua các bản làng báo tin người thủ lĩnh già nua vĩ đại, mẹ của Lạc vương Trưng Trắc không còn nữa.

Một cây gỗ không to lắm được khoét làm quan tài hình thuyền. "Trẻ làm ma, già làm hội" nhưng chỉ ba con trâu bị làm thịt để tế lễ. Người Âu Lạc nhìn thấy sự sống nơi cái chết nên tang ma dù có than khóc, cũng có nhảy múa ca hát, rượu chè say sưa.

Đúng theo di nguyện của mẹ, Trưng vương không tổ chức đại tang tốn kém. Ngày đưa bà Man Thiện về phía tây, đoàn Giao long thuyền khép một vòng trước cửa Hát. Đồ tùy táng đủ dùng, nhà mồ vừa phải. Già Mị bảo: "Đường đường Lạc vương giàu nhất Âu Lạc, bà nên thưa với mẹ sẽ trông nom cơm nước mồ mả chín năm". Trưng vương nhất quyết gạt đi: "Nước chưa hẳn đã yên, nhà chắc là không ổn. Mẹ ta đã muốn sớm lên trời chừng nào hay chừng ấy, để cùng tiên tổ độ trì cho vận mệnh Âu Lạc".

Lễ bỏ mả, một hàng rào quét vôi trắng đơn sơ được dựng lên quanh mộ. Nhà cúng phên tre, vách nứa giản dị. Gia tài bà Man Thiện mang đi kém hẳn một quan Lang nghèo nhất. Không có vò đồng, vại thiếc, không có kiếm cung, chỉ duy nhất một chiếc trống đồng nhỏ tượng trưng. Trưng vương làm thịt một con trâu, bày vài ché rượu nhỏ. Tiếng trống mẹ gióng lên nghe như tiếng than khóc. Người dự đông như kiến, Lạc hầu, Lạc tướng đủ mặt cả. Lạ là họ không xấu hổ trước gương sáng Trưng vương mà còn thì thầm dè bỉu sự nghèo nàn của lễ dứt tang. Trưng Nhị không nhận hàng thuyền đầy cống vật, cô bảo họ hãy mang về lo cho quân sĩ và dân nghèo.

Trưng vương định dùng lễ tang này để cảnh tỉnh, khuyên nhủ người Âu Lạc về họa Bắc phương. Trước mặt các các Lạc hầu, Lạc tướng, các bô lão và người đến dự lễ dứt tang, trước khi thả một con gà vào rừng theo tục lệ đưa người quá cố về bên kia thế giới, bà vừa khấn vừa khóc:

"Hỡi thần chết. Ta không có nhiều của cải cho người. Trống đồng để đánh giặc. Lao tên dùng giết thù. Hãy đón mẹ ta đi. Vì mất mẹ, em ta chưa kịp lấy chồng. Ta chưa sinh được con. Ai sẽ nối dòng chống giặc dữ giúp ta? Các Lạc hầu ư? Các Lạc tướng ư? Khi nào họ mới dứt cơn say? Khi nào họ bớt hè bớt hội? Từ hôm nay cơm cúng ta sẽ dùng nuôi dũng sĩ, rượu ngon ta sẽ thưởng quan hiền. Thần chết hãy thông cảm với ta. Nhà dột sợ mưa, nước nghèo tất họa".

"Mẹ ơi! Người hãy lên trời, hãy đi gặp linh hồn những Lạc vương muôn năm cũ. Mẹ hỏi giúp con Lạc vương hôm nay phải làm gì? Hãy đánh thức giùm con khí thiêng sông núi. Hãy báo cho con khi nào giặc tới...".

 

*

*     *

 

Giặc lại đến rồi. Tiếng trống mẹ của Trưng vương tại M’linh cất lên những nhịp báo động u sầu. Quan Lang, Lạc tướng, Lạc hầu cứ như đang say ngủ, rời rạc và bải hoải sai nô thuộc đánh trống trả lời. Các tiếng trống không còn rền vang và nhất tề như hai năm trước. Có lẽ hoan điệu hưởng lạc, tụng ca chiến thắng từ mùa thu năm 40 đã ngấm vào hồn trống, đã lên gỉ xanh trong lòng trống. Những tia mặt trời giữa mặt trống mòn hằn, sâu hoắm, ngao ngán như một cái miệng bô lão Âu Lạc đã rụng hết răng, vừa nhai trầu giã nát vừa ngáp. Chen trong âm thanh lộn xộn ấy, đặc biệt không thể chấp nhận là những tiếng rè nặng nhẹ khác nhau, tùy thuộc vào chiếc trống bị nứt ở mặt hay ở vai, ở eo hoặc ở chân. 

 

Cái hồn nhiên của một dân tộc hiền hòa lộ ra rất nhanh. Chiến binh Âu Lạc cuối cùng cũng lên thuyền, tập trung đông đảo tại cửa sông Hát. Người người chen vai, tâm tình như đang trẩy hội! Nam nữ hớn hở đưa duyên cứ như chợ tình đang mở trên biển hồ Lãng Bạc! Họ tưởng Mã Viện cũng xoàng như Tô Định nên rất coi thường. Trưng vương phải chạy như con thoi khắp nơi để chỉnh đốn lại hàng ngũ, từ Lạc tướng đến các tay chèo bắp tay nhão nhoẹt vì nát rượu. Mặt khác bà cử người cấp báo đến Cửu Chân, Phong Châu, An Biên kêu gọi các Lạc tướng, Lạc hầu sẵn sàng điều quân hỗ trợ.

Từ sông Mã, Đô Dương vượt biển đến An Biên hội quân với Lạc tướng Lê Chân và năm ngàn nữ binh kiêu dũng của bà. Tổng cộng cánh quân ngoài biển có bảy tám trăm Giao long thuyền và gần vạn rưỡi chiến binh.

Thật ra Mã Viện có thể tấn công Trưng vương ngay khi đội ngũ của bà chưa tề chỉnh, song từng là một con cáo già chinh Nam dẹp Bắc, y sợ những gì mình thấy chỉ là hư trương. Mã Viện cho quân gấp rút khôi phục bến Long Uyên, xây dựng hành dinh, trại lính lớn gấp năm mười lần những gì Tô Định đã làm. Y bố phòng nghiêm nhặt một vùng đệm an toàn, cấm tiệt mọi xung đột dù nhỏ nhất với chiến thuyền Âu Lạc. Bất kể sáng tối, đi tuần gặp thuyền binh Âu Lạc, quân Mã Viện luôn bỏ chạy. Thường thường thuyền Âu Lạc đuổi theo gần đến Long Uyên, thấy cờ xí rợp trời, Lâu thuyền trùng trùng điệp điệp thì rờn rợn rút lui. Không bao lâu sau, lính tráng của Trưng vương mất hết cảnh giác, nhiều khi thấy Mã quân mon men đến gần nghiêng ngó cũng chẳng thèm đuổi.

Tính toán kỹ lưỡng mọi đường đi nước bước, Mã Viện đặt mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt chủ lực của Trưng vương trước tiết Đoan Ngọ năm 42 để tránh dớp xấu của Tô Định. Hơn nữa y cũng biết rằng ngày sinh Mẹ Tổ, dân Âu Lạc sẽ tụ hội cả về Lãng Bạc, chẳng thể coi thường. Mã Viện đếm từng ngày, chờ Trưng vương nôn nóng, bất cẩn.

Năm ấy mùa hè đến sớm, mưa đến sớm. Thời tiết khắc nghiệt, nước ngập mênh mông. Nắng nóng thiêu da cháy thịt. Chướng khí ngùn ngụt bốc lên, tạo thành một chiếc lồng kính chụp xuống biển hồ Lãng Bạc và các vùng xung quanh. Đây là hiện tượng trầm áp nhiệt đới, bầu trời mờ đục như khói giăng, đất nứt, nước bốc hơi nhưng nhiệt lượng bị phong tỏa không thoát được, bức bối chẳng bút nào tả xiết. Quân lính hai bên ngã nước, dịch bệnh, chết chóc tràn lan. Chim trời nhiều khi đang bay đột nhiên xoãi cánh, rơi chết lộp bộp xuống đầm lầy.

Trưng vương bất lực nhìn quân sĩ mất dần nhuệ khí, hàng ngũ xộc xệch. Bà biết rất khó chờ thêm một buổi nào nữa. Bà biết rằng mình đâu phải là tướng được rèn luyện qua trải nghiệm thực tế. Chồng bà, A Thi cũng vậy. Họ không lượng được sức mạnh thật sự của Mã Viện. Sông Hồng bị cứ điểm Long Uyên chia cắt, liên lạc với An Biên khó khăn. Mấy chiếc thuyền giả trang đánh cá đem tin tức từ An Biên đến cho Trưng vương đã bị Mã Viện cầm bắt. Thủy lộ sông Đáy an toàn hơn nhưng nước rất cạn, đầm lầy vòng vèo, lam sơn chướng khí hừng hực, do đó quân lệnh thưa thớt và không kịp thời.

"Vậy là nàng vẫn quyết tấn công Mã Viện?" - A Thi hỏi Trưng Trắc.

"Chàng nhìn thấy thất bại của ta?"

"Ta chỉ lo sợ thôi".

"Ta không sợ. Ta không lo sợ". - Trưng Trắc đi một vòng quanh đống lửa lớn bên mép nước. - "Nếu ta không phát lệnh xung phong thì hàng vạn quân này cũng sẽ tan rã. Trò nhấm nhứ của họ Mã thật lợi hại".

Khi nghe An Biên đã sẵn sàng, Giao long thuyền của Đô Dương và Lê Chân đang tiến về Long Uyên, Trưng vương vô cùng mừng rỡ:

"Tướng sĩ ơi, ta phải đánh thôi. Đánh để con cháu đời đời lấy đó làm gương, lấy dũng khí và lòng kiêu hãnh này làm bửu bối giữ nước. Mai này có thể dân ta sẽ nai lưng làm nô lệ. Mai này có thể chúng sẽ phá nát giang sơn của tiên tổ, sẽ đốt ra tro hàng ngàn thôn làng xóm bản. Nhưng ta biết khí chất anh hùng sẽ chảy trong huyết quản con dân Âu Lạc muôn đời. Sẽ có lúc nó sống lại mãnh liệt, biến thành mưa gió, sấm chớp, bão dông quật xuống đầu lũ cường bạo, để giành lại phẩm giá của con người tự do. Chiến thắng cuối cùng ắt phải thuộc về con dân Âu Lạc."

"Ngài sai lầm rồi, thưa Trưng vương". - Lữ Lạc tướng lắc đầu - "Khi chưa có kế hoạch cụ thể chúng ta đã vội triệu vời Đô Dương ra An Biên. Theo mật ước, họ sẽ tấn công Long Uyên rạng sáng mai. Nếu ta án binh bất động lúc này, khác nào mời họ vào cho hổ xé xác. Mà nếu ta nhất định đánh thì lại càng thất sách vì quan quân đang mệt mỏi do thời tiết khắc nghiệt, sĩ khí hao tổn, cầm chắc bại vong".

"Hay tạm chờ Đô Dương và Lê Chân mở màn trước. Ta vẫn nghĩ bao vây Long Uyên từ hai phía sẽ tốt hơn". - A Thi góp lời.

"Đũa cả lại đẩy tiên phong cho đũa con, đấy không phải cách của bậc vương hầu". - Trưng Nhị thẳng thắn góp ý, hoàn toàn không có ý coi thường A Thi - "Chúng ta sai lầm từ buổi đầu, quyết định dàn trường trận bảo vệ từng thước đất kinh đô M’linh không thực tế. Mã Viện phải bám vào cái phao Long Uyên vì y là kẻ lạ. Với chúng ta, khắp Âu Lạc này, chỗ nào cũng có thể trở thành hành đô kháng Hán, bờ bụi nào cũng có thể xem như chiến lũy, người dân nào cũng là một chiến sĩ từ trong bản năng".

Mọi người lặng im. Trưng Nhị nói quá đúng. Khi những cánh buồm đen của Mã Viện vừa chấp chới quần tụ gần Long Uyên như một bầy diều hâu đói xác chết, ai ai cũng quẫn cuống, mất hết bình tĩnh. Những kẻ ích kỷ nhất quan trường M’linh đã can dự quá sâu vào lệnh hội quân của Trưng vương. Chúng không có mặt tại cửa Hát đêm nay. Chúng rời khỏi hàng ngũ và kinh đô rất nhanh, ngay khi nhận thức được thất bại không thể tránh khỏi.

Trống điểm canh não nề buông những tiếng động khô khốc vào thinh không. Đêm oi nồng. Chẳng một sợi gió hiếm hoi nào lạc đến cuộc hội đàm của tướng sĩ Âu Lạc. Nước triều đang lên, rất mạnh, nhắc nhở Trưng vương rằng, bà không còn thời gian để đắn đo suy tính hơn thiệt mà phải đánh.

Trống lệnh sẽ cất nhịp dồn, người Âu Lạc định hút thuyền Hán về hết thượng lưu biển hồ Lãng Bạc, trong khi Đô Dương đánh úp Long Uyên.

Lịch sử có thể thay đổi hoàn toàn chỉ với một chữ nếu. Nếu lúc trước người Âu Lạc mở lòng với thương nhân Ả Rập, nếu họ đã thay đồng bằng sắt để đúc gươm, rèn giáo, nếu họ khiêm nhường một tí sau chiến thắng mùa thu năm 40, nếu quan trường M’linh loại bỏ được lũ hèn mạt... Âu Lạc có thể đã không phải trải qua tám trăm năm tăm tối dưới ách thống trị Bắc phương. Gần với Trưng vương lúc ấy hơn cả, nếu bà biết Đô Dương và Lê Chân vẫn còn cách biển hồ Lãng Bạc nửa ngày đường, biết đâu Mã Viện sẽ ôm hận dưới đáy nước.

 

*

*     *

 

Rạng sáng một ngày cuối xuân năm 42, hơn ba vạn nam nữ binh lính Âu Lạc ở trên gần hai ngàn Giao long thuyền được lệnh tiến vào biển hồ Lãng Bạc. Vì do thám tốt, khi tiếng trống cái của Trưng vương phát tín hiệu xung trận thì Mã Viện đã sẵn sàng.

Lâu thuyền dàn đội hình thành chữ V xuôi, lợi dụng mạn thuyền cao định áp chế Giao long thuyền thấp hơn, hầu mong bao vây và nghiền nát quân Âu Lạc. Không có cảm tử thì sẽ không thể phá vỡ đội hình Lâu thuyền, A Thi cho vài mươi chiếc Giao long thuyền đã ngụy trang kỹ rơm rạ và chất dễ cháy, tự nguyện xông vào giữa hàng ngũ Hán. Khi chữ V khép lại, cảm tử quân châm lửa rồi bỏ thuyền lặn ra ngoài. Theo chiều nước và gió, hỏa Giao long thuyền trôi về cánh trái chữ V, đe dọa nghiêm trọng hàng trăm Lâu thuyền địch. Mã Viện hoảng hốt phất cờ hiệu và nện trống dưới ánh đuốc, cho phép Lâu thuyền tản ra nhưng hàng chục chiếc đã bị bắt lửa.

Như vừa nhận một cái tát vào mặt, y giận run người. Y chuyển qua tấn công theo một cung tròn. Ở thế gần như mặt đối mặt này, máy bắn đá kém tác dụng, máng đá hai bên mạn vô dụng. Các Giao long thuyền tiên phong chia ra một đội năm ba chiếc tấn công một Lâu thuyền. Giao long thuyền gắn mũi giáo ngầm dưới nước lãnh nhiệm vụ đâm thủng mạn thuyền Hán và đốt thuyền mình làm mồi lửa. Các thuyền còn lại áp mũi và lái, vừa bắn mồi lửa lên buồm và boong giữa thuyền Hán, vừa quăng móc câu, thang dây tràn lên cận chiến. Nỏ liên châu của quân Hán tuy sức công phá lớn nhưng thao tác chậm, bị cung Âu Lạc khống chế tốt. Ngược lại, kiếm sắt Hán khá lợi hại, nhiều móc câu, thang dây của ta bị vô hiệu hóa chỉ bằng một nhát chém.

Thuyền Hán cháy đỏ góc trời tây Lãng Bạc, át cả ánh dương đang lên ở phía đông. Tuy vậy vì phải dùng nhiều Giao long thuyền mới hạ được một Lâu thuyền, thế trường trận đã thấy Âu Lạc sẽ đuối. Mã Viện phất cờ, đánh trống xếp lại đội hình chữ V, hắn quyết bao vây toàn bộ Giao long thuyền Âu Lạc.

Đánh rắn phải đánh giập đầu. A Thi xếp đặt một đội thuyền cừ khôi do chính ông chỉ huy, chờ cơ hội tấn công soái thuyền của Mã Viện. Mười thợ lặn mạnh mẽ nhất Âu Lạc, bí mật xuống nước đục đáy thuyền. Rất tiếc vỏ thuyền giặc làm bằng gỗ tứ thiết (cứng như sắt) tốt nhất Lĩnh Nam, nên các thợ lặn đã thất bại. Năm Giao long thuyền đầu gắn lưỡi giáo có ngạnh vận hết lực chèo lao vào, đều bị máy bắn đá đập vỡ. Tên và lao vù vù xé gió, cắm lởm chởm trong ngoài soái thuyền, Mã Viện phải ra lệnh hạ hết buồm tránh bùi nhùi lửa.

 

Thấy chủ tướng bị áp chế, một số Lâu thuyền xung quanh ra sức ứng cứu. Chúng dùng hết sức đánh những Giao long thuyền đang cố gắng áp sát mạn thuyền Mã Viện. Chỉ mỗi thuyền của A Thi tiếp cận được soái thuyền địch, nếu không kể hai thợ lặn quyết tử bám vào bánh lái, dùng rìu tước bỏ khả năng quay trở của nó. A Thi và ba võ sĩ giỏi nhất M’linh cuối cùng cũng trèo được lên boong soái thuyền. Không ngờ địch đã cho liên châu đợi sẵn. Những mũi tên bọc sắt oan nghiệt xuyên vào lồng ngực phu quân của Trưng vương. Mặt trời đã chói chang trên biển hồ Lãng Bạc tự lúc nào.

Trống đồng Âu Lạc vẫn dồn dập dùi xung trận nhưng một trong những vị dũng tướng kỳ tài nhất của họ đã vĩnh viễn ra đi. Mã Viện hung hãn chặt đầu A Thi treo trên cột buồm cao nhất. Đôi mắt ông trừng trừng như muốn thu hết cảnh trận chiến đang hồi lâm nguy. Quân Hán không dám nhìn ông. Người Âu Lạc thấy ở đôi mắt A Thi tia sáng động viên, khích lệ và lời nhắn nhủ phải chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Ánh dương đỏ rực cũng phải nấp sau đôi mắt A Thi.

Tin dữ vọng về. Trưng Trắc nuốt nước mắt. Nếu đang ở trên bờ, gia tộc bà phải gõ cối, nổi chiêng báo tang A Thi. Giữa biển nước, Trưng vương đành mượn dùi trống từ tay một người lính. Bà muốn tự khiển binh, tự gióng lên những tiếng căm hờn tận đáy lòng. Tiếng trống của bà vẫn đầy dũng khí, vẫn quyết liệt, vẫn mang mệnh lệnh tấn công không ngừng nghỉ. Chiến binh Âu Lạc cắn môi, trợn mắt, chắc tay chèo, vững tay lao, hết lớp này đến lớp khác xông ra tử chiến với quân Hán .

Chiến trận giằng co và dàn trải. Dân chài Âu Lạc khắp nơi nghe trống giục vội kéo đến tiếp sức. Bất kể già trẻ lớn bé, họ xung phong bằng tất cả những gì có thể nổi trên mặt nước trong đời sống sông rạch thường nhật của mình. Thuyền nan, thuyền thúng, mủng, bè nứa tràn ngập một góc mặt biển hồ Lãng Bạc, tiếng hô giết giặc xao động tràn vào phía quân Hán.

Khi Trưng Nhị nắm lấy cánh tay rã rời của Trưng vương, khuyên bà nhìn nhận rõ tình hình, nên tính kế bảo toàn lực lượng, trời đã đứng Ngọ. Các Giao long thuyền vẫn quây lấy Lâu thuyền, những cột khói từ thuyền giặc vẫn không ngừng mọc ra, tua tủa chĩa lên từ mặt biển hồ Lãng Bạc. Bỗng nhiên, từ phía đông, tiếng trống đồng của Lạc hầu và Lạc tướng vọng đến. Đô Dương và Lê Chân bị lạc vào bãi cạn trên đường hành quân, họ chậm hơn nửa ngày so với kế hoạch. Đến nơi, lập tức hơn một vạn quân đánh dốc vào Long Uyên.

Mã Viện quá lọc lõi. Y đã phòng bị kỹ lưỡng, năm ngàn quân tinh nhuệ tại Long Uyên không bị bất ngờ. Khói đen ngùn ngụt, khói trắng báo nguy trên hỏa đài giục Mã Viện thu quân.

 

Quân Hán chết vô số kể. Cũng không ít người lính Âu Lạc phải bỏ mình.

Nước biển hồ Lãng Bạc đã chuyển sang màu máu. Máu Âu Lạc khắc khoải quê hương bị ngoại xâm giày xéo, bầm tím căm thù giặc dã. Máu giặc Hán hồng màu nhớ quê hương bản quán, đen nỗi uất hận bị đế quốc Hán ném vào vòng sinh tử vì lòng tham và dã tâm nô thuộc
xứ người.    

 

*

*     *

 

Được khích lệ bởi tiếp viện, quân Âu Lạc đuổi riết theo Mã Viện. Long Uyên dẫu bị kẹp bởi hai gọng kềm rắn rỏi nhưng vẫn cầm cự được. Thế trận giằng co đến tối mịt.

Đô Dương và Lê Chân đến vương thuyền bái kiến Trưng Trắc.

"Nước bắt đầu xuống. Nên chăng chúng ta kết tất cả Giao long thuyền lại về phía thượng lưu, quyết tung ra trận hỏa công cuối cùng". - Lê Chân hỏi ý Trưng vương.

"Không ổn. Long Uyên nằm bên bờ lở. Cách bến vài tầm lao có xoáy nước đẩy ra giữa dòng rất mạnh. Hỏa lực sẽ bị cuốn cả vào đấy rồi tản mát hết". - Trưng Nhị nói - "Tôi e rằng chúng ta phải kết thúc cuộc tấn công giữa đêm nay, sức người sắp cạn".

 

"Lạc hầu, ngài có ý gì không?". - Trưng vương hỏi
Đô Dương.

Óc phân tích và tổng hợp nhạy bén của một nam thủ lĩnh đã cho Đô Dương kết luận rằng quân Âu Lạc càng rút lui sớm thì càng đỡ tổn thất. Người Âu Lạc phải tính đến một cuộc kháng chiến dài lâu. Nhìn gương mặt mệt mỏi, hết sức u buồn và tang tóc của Trưng vương, Đô Dương ngập ngừng, không dám nói ra.

Trưng vương hiểu hết. Dù phải gồng mình với nỗi đau xé ngực, bà vẫn đủ tỉnh táo hoạch định chiến lược. Quyết định bỏ M’linh được ban ra. Toàn bộ quân chủ lực di chuyển lên căn cứ Cấm Khê. Trưng vương khuyên Lê Chân và Đô Dương lui ra biển. Tại An Biên họ phải chấn chỉnh binh lực, đóng thêm thuyền chiến, chiêu nạp lính mới chờ phản công. Trưng vương dặn dò họ rất kỹ, trong trường hợp bà tử trận, Đô Dương được nắm toàn bộ vương quyền Âu Lạc. Ông nhất thiết lui ngay về Cư Phong dựng cờ độc lập, tập hợp quí tộc Âu Lạc, quyết giành lại tự do cho xứ sở.

Trưng Trắc giao trống mẹ thiêng liêng cho Đô Dương, bà lợi dụng bóng đêm di chuyển lên thượng lưu sông Hồng.

 

 

 

 

 

 

8.

 

"Tại sao kim đồng hồ quay từ trái sang phải? Tại sao kim đồng hồ luôn quay từ trái sang phải". Cô đi tới đi lui, thì thầm tự hỏi không dứt. Anh cười ngất như đang xem một màn tấu hài ngộ nghĩnh. Thực ra chưa bao giờ anh đặt câu hỏi như vậy. Chắc chắn cô sẽ là con người của sử học, vì cô biết nghi vấn từ cái gần gũi, quen thuộc và na ná giống chân lý trở đi.

"Anh nhìn này!" Cô chỉ ra sân, nơi một cây cau ta vươn thẳng lên trời. Bóng cau đổ xuống hướng tây bắc vì đang là buổi sáng. "Em giỏi chưa?" Cô hét lên. Anh ngớ người. Hóa ra bóng cau sẽ như chiếc kim đồng hồ, dịch dần từ trái sang phải nếu cô quay lưng về hướng nam. Chiều muộn bóng cau sẽ chỉ về hướng đông bắc. Nó du hành trên một cung tròn gần 180 độ góc.

Đúng rồi, xưa thật xưa con người dùng bóng nắng để đo thời gian. Với những vùng đất nằm cao hơn chí tuyến bắc, vĩ độ 23 độ rưỡi trở lên, bóng nắng luôn luôn nằm ở phía bắc các cây cột chỉ thị. Mặt trời di chuyển từ đông sang tây, bóng nắng thì ngược lại. Chiếc kim đồng hồ hiện đại có nguồn gốc như thế.

 

Anh bỗng nhớ lại những bài học thiên văn của một người đi biển. Bóng nắng kia nói lên rất nhiều thứ. Này nhé, giữa trưa bóng nắng luôn chỉ hướng chính bắc. Bóng nắng giữa trưa ngày Hạ chí ngắn nhất, ngày Đông chí dài nhất. Ở những vĩ độ khác nhau, độ dài ngắn của bóng nắng giữa trưa cũng khác nhau. Nếu dùng các cây cột chỉ thị cùng độ cao, người ta có thể tính ra khoảng cách hai nơi, sau khi ghi chép và so sánh bóng nắng trong một quãng thời gian đủ dài.

"Vậy... vậy thì..." - Cô lắp bắp - "Phải chăng chiếc cột đồng của Mã Viện là cột chỉ thị đo bóng nắng để tính khoảng cách giữa kinh đô Hán và Âu Lạc? Nó được người Hoa Hạ chế tạo từ thời Chu, có tên là Thổ khuê". Sự nghiêm túc của cô mới đáng quí làm sao. Hai ngàn năm rồi, sách vở thất lạc, khoa học thiên văn bí truyền nhưng có nhiều thành tựu của người Trung Hoa đã mai một. Khám phá của cô rất khó được khẳng định chắc chắn nhưng nó sẽ là một giả thuyết mới mẻ đáng nêu ra mỗi khi nhắc tới cột đồng Mã Viện. Nghiên cứu kỹ các thiên Địa lý chí của Sử ký, Hán thưHậu Hán thư, so sánh chúng với bản đồ thực địa hôm nay, ta sẽ thấy độ chính xác của các khoảng cách Nam - Bắc bao giờ cũng ấn tượng hơn Đông - Tây. Đo khoảng cách Nam - Bắc dễ hơn vì chỉ cần mặt trời giữa trưa. Đo khoảng cách Đông - Tây phức tạp lắm, phải chọn mặt trời bình minh và hoàng hôn hoặc quan sát các chòm sao ban đêm.

 

*

*     *

 

Bẻ gãy được quân chủ lực Âu Lạc, phá hủy rất nhiều Giao long thuyền, tuy tổn thất không nhỏ nhưng Mã Viện tự xem đã thắng lợi bước đầu. Lợi dụng thời cơ Trưng vương đang rút ra xa, quân Hán bắt đầu tranh thủ bình định các vùng xung quanh Long Uyên như Khúc Dương, An Định, Luy Lâu, Chu Diên và M’linh. Từng thôn xóm Âu Lạc chống cự quyết liệt. Quan Lang và các chiến binh gan dạ chiến đấu đến cùng. Không dụ hàng được thì Mã Viện giam họ, chờ ngày giải về nước báo công. Rừng núi Âu Lạc mênh mông, gỗ quí bạt ngàn, Mã Viện nhanh chóng đóng bù hoặc đại tu tất cả những Lâu thuyền đã cháy và hư hỏng.

Mã Viện áp dụng chính sách lấy người Âu Lạc trị người Âu Lạc. Một số quí tộc hèn cũ của triều đình M’linh đầu Hán được bổ nhiệm làm tân Lạc tướng, được cấp ấn đồng đeo cổ. Đây mới chính là hơn nửa sức mạnh của Mã quân. Hàng vạn người phương Bắc sẽ chỉ còn lại một núi xương vô hại, sau vài tháng ở Âu Lạc, vì lương thảo trữ dưới Lâu thuyền rất hạn chế. Cướp bóc trắng trợn chẳng thể bền, dân Âu Lạc sẽ bỏ hết lên rừng, để vườn không nhà trống cho Mã Viện. Mã Viện luôn khắc ghi lời dạy của vua Hán: chính thể nô lệ là đại kế, quí tộc nô lệ là trung kế, dân thường nô lệ là hạ sách, chẳng chóng thì chầy họ sẽ nổi dậy. Trung kế của Mã Viện là mũi tên xuyên đến nhiều đích ngắm. Quân Hán bức ép dân lành, cung phụng đầy đủ lương nhu cho Hán quân suốt hơn một năm, đến tận ngày Mã Viện hồi kinh.

Cấm Khê là vùng bờ nam sông Hồng, đoạn gần thượng lưu, tiếp giáp với cánh đồng dưới chân núi Ba Vì. Trưng vương đã chọn hành đô cho mình ở đây từ khi Mã Viện mới đến Long Uyên. Do địa thế đầm lầy, rạch hẹp chằng chịt, Lâu thuyền của Mã Viện rất khó tấn công. Nếu nguy biến, người Âu Lạc dễ dàng rút lui vào rừng sâu, vận động chiến tranh du kích.

Vấn đề nảy sinh là, cơ cấu quân sự Âu Lạc khá lỏng lẻo dưới ngôi vị Lạc vương. Trừ người M’linh trước sau vẫn theo Trưng vương, một số Lạc tướng không chịu nổi cuộc sống kham khổ trong chiến khu đã dần dần nhụt chí và tìm cách dẫn người của mình trốn về, khiến binh lực Cấm Khê hao hụt từng ngày.

Mã Viện một mặt tiến hành công cuộc thực dân dưới xuôi, mặt khác duy trì bao vây Cấm Khê. Không có một trận đánh lớn nào xảy ra mà chỉ là những cuộc càn quét rất giới hạn, hư trương thanh thế tối đa, tàn phá có tính toán các cơ sở kinh tế, hậu cần của chiến khu. Sách này y đã từng áp dụng cực kỳ thành công trước đó mười năm, tại vùng núi Bắc Sơn, Lũng Tây, đất nước của
người Khương.

Sức cùng lực kiệt. Đầu năm 43 Trưng vương lên kế hoạch phá vây sau khi cố gắng liên lạc với Lữ Lạc tướng và Đô Dương.

Bà dự định đi xuống Cửu Chân, gầy dựng lại lực lượng cứu nước. Lữ Lạc tướng từ Phong Châu sẽ dùng bộ binh quấy nhiễu Luy Lâu, M’linh, Chu Diên nhằm thu hút sự chú ý của Mã Viện khỏi sông Hồng và biển hồ Lãng Bạc. Đô Dương cùng Lê Chân từ biển vào, vờ tấn công Long Uyên nhưng mục đích là nhập được đoàn Giao long thuyền của Trưng vương với mình.

Lữ Lạc tướng dẫn ba ngàn quân bộ xuyên rừng từ Phong Châu xuống đồng bằng. Quân Phong Châu được chia nhỏ thành những phân đội độc lập do các cừ súy dẫn dắt. Ban ngày họ hòa mình vào làng mạc Âu Lạc, đêm đến mới vận động đốt phá trại lính và cứ điểm của người Hán. Mã Viện rất đau đầu. Y điều chuyển một số ngụy Lạc tướng và ngụy binh tín cẩn đến các điểm nóng. Lũ bán nước thể hiện ngay lòng trung thành với chủ bằng cách tích cực làm chỉ điểm. Du kích quân hoạt động mất hiệu quả thấy rõ, họ còn bị ngụy quân phục kích ngược, tổn thất khá nghiêm trọng.

 

Trước hôm Trưng vương rời Cấm Khê ra biển, Lữ Lạc tướng gom tàn quân gần ngàn người, đánh một trận cảm tử vào Luy Lâu. Ông giết ngụy Lạc tướng, đốt sạch hành dinh sở trị của người Hán. Mã Viện nắm sát tình hình, chỉ cử ba ngàn Hán quân từ Long Uyên đến phản công. Lữ Lạc tướng tử vong tại trận tiền, quân Phong Châu tan rã. Những người bị bắt, không một ai đầu hàng, họ chấp nhận bị đày đến Linh Lăng.

Hạ lưu Lãng Bạc, Đô Dương và Lê Chân khiêu chiến. Họ dùng thuyền nhỏ cơ động dụ Lâu thuyền đuổi theo đến những bãi cát ngầm. Lâu thuyền nào mắc cạn đều bị nướng thành tro. Nhìn cách đánh của Đô Dương và tình hình du kích trên bờ, Mã Viện đoán Trưng vương sắp mở cửa máu ra biển. Một mặt y vờ trúng kế Đô Dương, giả như tập trung hết lực lượng đối phó, mặt khác chuyển hết quân bao vây Cấm Khê về khu vực cửa Hát đón lõng Hai Bà Trưng.

Trưng vương lạc trong vòng vây của đoàn Lâu thuyền hùng hậu do chính Mã Viện chỉ huy tại cửa Hát, nơi sông Đáy thông vào biển hồ Lãng Bạc.

 

*

*     *

 

Hai Bà Trưng bỏ mình. Nhân dân Âu Lạc mất đi ngọn cờ chống ngoại xâm bất khuất. Các ổ kháng chiến lẻ tẻ khắp nơi nhanh chóng tan rã. Tháng Chín năm 43, Mã Viện tập trung hai ngàn Lâu thuyền, gần ba vạn quân đánh An Biên, giết Lê Chân. Sau đó y thẳng tiến vào Cửu Chân. Các cứ điểm của Lạc hầu Đô Dương như Vô Thiết, Dư Phát, Cư Phong lần lượt bị phá vỡ. Những người con ưu tú nhất, kiên cường nhất của Âu Lạc không thể chống đỡ bạo quân. Họ đành thuận gió Đông bắc đã nổi, giương buồm về phương nam.

Âm mưu tiêu diệt tận gốc rễ văn hóa bản địa và mầm mống phản kháng, theo đúng chính sách xuyên suốt của Hán triều, Mã Viện đã tịch thu hàng ngàn trống đồng trong các bản làng Âu Lạc. Y đập nát trống, nấu chảy đồng rồi đúc ngựa gửi về Lạc Dương nịnh hót Thiên tử. Y dựng trụ đồng làm Thổ khuê đo bóng nắng, xác định chiều rộng, chiều dài mảnh đất vừa chiếm được và vẽ nó vào địa đồ Đại Hán. Cực nam Cửu Chân, Mã Viện cắm mốc đồng làm dấu biên giới mới, ngông nghênh khoác lác
rằng một ngày đế quốc Hoa Hạ sẽ làm chủ cả miền đất viễn nam.

Mã Viện đã đốt phá không biết bao nhiêu ngôi nhà rông cao vút, có mái hình thuyền, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và chính trị đặc thù của xã hội bản địa. Y cấm mọi cuộc hôn nhân mẫu quyền, mẫu hệ. Y chuẩn bị lưu đày đến Linh Lăng hơn ba trăm thủ lĩnh, quí tộc đã nhất quyết không khuất phục nhà Hán.

Ngày tiếp chỉ vua Hán phong tước Hầu, thực ấp ba ngàn hộ, Mã Viện ngả trâu mổ bò khao thưởng quân sĩ. Ngà ngà say Mã Viện bắt đầu khóc. Y nức nở: "Thế Du, em trai ta từng khuyên rằng kẻ sĩ ở đời, áo cơm vừa đủ là tốt. Xe chỉ cần loại nhỏ, ngựa nên chọn con gầy, làm một chức quan tàng, giữ ấm hương khói mộ phần tổ tiên, hòa hợp với xóm làng, thế là mãn nguyện. Muốn hơn chỉ tự làm khổ tấm thân thôi".

Trong cơn say, Mã Viện bỗng thấy cuộc đời y chẳng qua là một giấc mộng bẽ bàng. Còn trẻ, chăn dê nuôi ngựa ở thảo nguyên Bắc Địa, Viện từng tự đắc mình mang chí lớn, phóng khoáng. Gầy được gia sản hàng ngàn thú nuôi, y nghĩ đeo chúng hoài thành ra nô lệ vật chất, bèn chia hết cho anh em, họ hàng, rồi về Trung Nguyên theo binh nghiệp. Đến khi chua chát nhận rõ chân tướng tư tưởng "thay trời hành đạo" của Thiên tử nhà Hán, Viện hiểu mọi sự đã lỡ làng. Là tay chân của vua, đại tướng của triều đình, y lại âm thầm tiếc nuối cuộc sống vô lo và thanh bạch của một gã chăn dê. Mâu thuẫn quá sức và trái khoáy ấy, đã chụp xuống con người Mã Viện sự mệt mỏi, chán chường không lối thoát.

Chiến công lớn nhất của Mã Viện không phải là dẹp loạn, bình thiên hạ mà là xâm lăng, cưỡng chiếm, nô lệ và đồng hóa các dân tộc nhỏ xung quanh Trung Nguyên. Nếu ở Tây Khương y chưa nhận ra sự vô lý của chiến tranh thực dân, thì tại Âu Lạc, đứng trước gương tiết liệt của hai dũng nữ Trưng Trắc, Trưng Nhị; Mã Viện phản tỉnh và hiểu rõ sự vô nghĩa của sự nghiệp mình hằng theo đuổi. Một nửa quân số Hán đã bỏ mình nơi rừng thiêng nước độc vì bị người bản xứ giết hoặc dịch bệnh. Bao nhiêu gia đình ở hai phía tan nát, vợ mất chồng, con lìa cha. Một nấm mồ vĩ đại bị giấu dưới mặt nước Lãng Bạc âu sầu và lạnh lẽo, muôn năm không một nén hương
sưởi ấm.

Chuyển biến lạ lùng của Mã Viện đã làm hết thảy quân Hán ngạc nhiên. Chủ tướng của chúng ra lệnh chấm dứt giết chóc. Không những thế y còn cho lính tiến hành những công trình thủy lợi dân sinh, như đào kênh dẫn nước, khơi thông rạch lầy, tháo úng đồng ruộng. Phải nói trước đây Mã Viện cũng từng sửa chữa thành quách, dẫn thủy nhập điền nhưng chủ yếu cho di dân Trung Nguyên tại Kim Thành, đất cũ của người Khương. Ở Âu Lạc, qui mô Mã Viện làm rất lớn, phục vụ luôn người bản địa.

Năm 44 Mã Viện trở về kinh sư. Ngoài chiến lợi phẩm và đặc sản Âu Lạc bắt buộc phải có để dâng vua Hán, y chất thêm mấy âu thuyền đầy hạt giống, cây trái, hoa quả quí hiếm phương Nam. Từ Hợp Phố đến Ngũ Lĩnh chuyển qua đường bộ, Mã Viện bí mật thả bớt tù nhân. Y cấp lương thực, nông cụ và giống tốt để họ tùy cơ tìm về cố quốc, hoặc tái định cư trong cương vực văn hóa Lĩnh Nam không mấy xa lạ với người Âu Lạc. Đây là lí do một vài nơi tại Lĩnh Nam hiện nay vẫn còn một vài di tích đền thờ Mã Viện.

Cuộc chinh phục Âu Lạc là chiến dịch lớn nhất trong sự nghiệp của Mã Viện, xét theo qui mô động binh, thành quả đạt được. Có lẽ vì thẹn với liệt nữ, họ Mã đã không thổi phồng chiến tích và kể tỉ mỉ chi tiết như thói thường nơi quan trường Hoa Hạ. Chính vì vậy mà câu chuyện về Mã Viện ở Hậu Hán thư đề cập rất tiết lược các diễn biến Nam chinh, nó trở nên nhỏ bé khác thường với các ghi chép về chiến công trước và sau đó của Viện. Khi bạn cũ Mạnh Kí chúc mừng Mã Viện trở về từ Âu Lạc, y cúi đầu, nói cho qua: "Xưa Lộ Bác Đức đặt bảy quận, xét công chỉ phong mấy trăm hộ; nay ta thấp kém, công ít thưởng nhiều, sao có thể lâu dài đây?".

Chăn êm nệm ấm Lạc Dương không làm Mã Viện nguôi ngoai, ác mộng Âu Lạc thường xuyên ám ảnh. Nghỉ chưa đầy tháng, nghe nói rợ Hồ cướp phá Phù Phong, Viện quyết xin vua ra trận nhằm khuây khỏa. Năm sau hồi gia, tâm bệnh cũ lại hoành hành, ai hỏi Viện cũng giấu. Phò mã là Lương Tùng đến tận giường Viện thăm nom, y cũng chẳng thèm mở miệng, lại luận rằng Lương Tùng là bậc con cháu, phải giữ đúng tôn ti. Do đó họ Lương trở nên ghét cay ghét đắng Mã Viện.

Tận cùng nỗi đau cá nhân trước tên tuổi hai liệt nữ Trưng Trắc và Trưng Nhị, Mã Viện bỗng nhiên bị giáng một đòn chí tử từ nhận thức bản thân về nền chính trị bành trướng Hoa Hạ. Khởi đi từ lời dạy bảo "Tôn Chu nhượng Di" của Khổng Tử, khởi đi từ trung tâm vũ lực Tần - Hán, vua chúa và quan lại Hoa Hạ mặc nhiên gán nhận mình là trung tâm đa giá trị của thế giới. Chủ nghĩa Hoa tâm khẳng định văn hóa Trung Nguyên là đỉnh tối cao giữa thiên hạ. Nó tự biên tự diễn một cách gượng ép và vô lý trong vỏ bọc lễ giáo phong kiến phụ hệ. Bằng cách phủ nhận sự tồn tại của các trung tâm văn minh khác, chủ nghĩa Hoa tâm khoác cho mình chiếc áo chính danh để hành ác, để nô dịch cả nhân dân Hoa Hạ trong những cuộc động binh xâm lăng không ngừng nghỉ.

Tần Thủy Hoàng xúc tiến và Hán Vũ đế đã hoàn thành cơ bản cuộc cưỡng chiếm văn minh Bách Việt. Chưa đủ hào khí và đầu óc quang minh chính đại nhằm biến giác ngộ thành lẽ sống, Mã Viện chìm đắm trong bể khổ, chẳng khác gì một đứa con vừa hờn căm cha mình đã giết mẹ, vừa tìm cách chạy tội cho ông.

Với nhiều bộ não thực dân bẩm sinh của người Hán trong hàng ngũ Mã quân, hành động của Mã Viện là không thể hiểu được, nếu không muốn nói là phản bội lợi ích Hán tộc. Nhất thời, Mã Viện còn oai lực, uy tín, nên chưa ai đả động đến hắn.

Năm 49, Mã Viện hơn sáu mươi tuổi lại đi về phương Nam. Phó tướng Cảnh Thư muốn theo đường sông đánh nhanh, giết nhanh, diệt chủng. Viện chần chừ rồi chọn thế núi đồn trú hy vọng kháng chiến quân tự tan rã, y sẽ bớt tội ác. Đêm nghe trống của người Lĩnh Nam, Viện dựng tóc gáy, mộng thấy Trưng Trắc rủa xả, ngã lăn khỏi chiếu. Giật mình tỉnh dậy, Viện nhớ tới những ngày khốn quẫn, lam sơn chướng khí tại Âu Lạc, đi mười trở về năm, sáu, thê lương chẳng bút nào tả hết. Lại thêm lo sợ nguy cơ thất bại, vua Hán trừng trị, công lao cả đời hoang phí một khắc, Mã Viện chẳng thiết ăn uống, người ủ rũ rồi nhiễm gió độc. Cảnh Thư nhờ tâm phúc đưa vua tấu thư tố cáo Viện dẫn Hán quân vào con đường chết, dịch bệnh hoành hành, tổn hao không biết bao nhiêu lính. Lương Tùng được lệnh đến trách mắng, phế chức thống lĩnh của Viện. Có người nhìn thấy đang đêm Mã Viện rủ tóc, đi chân đất, khổ sở đứng phân bua phải trái trước rừng trúc uyển chuyển lướt gió như một đoàn nữ quân. Mấy hôm sau Viện chết.

Đến lúc ấy Cảnh Thư mới cấu kết với phò mã Lương Tùng tố cáo Mã Viện, tư lợi, giấu giếm chiến lợi phẩm chinh Nam làm của riêng. Có thêm tướng cũ của Viện dẫn bằng chứng, đọa đày quân sĩ, Hán Quang Vũ nổi giận thu lại ấn Tân Tức Hầu, tuyệt đường con cháu thừa tự. Gia đình họ Mã sợ quá, chỉ dám làm ma sơ sài, chôn tạm xác khô Mã Viện ở một chỗ hoang vu phía tây Lạc Dương, người quen kẻ sơ lo vạ chẳng ai dám viếng. Mãi đến năm 78, nhờ con gái họ Mã lên ngôi hoàng hậu, năm lần bảy lượt khấu đầu xin xỏ, vua Hán bèn gửi cờ tiết phục chức Mã Viện, cho thụy Trung Thành Hầu.

 

 

9.

 

Lòng biển hồ Lãng Bạc, nơi Hai Bà tử tiết, hơn một ngàn năm sau được phù sa bồi đắp thành xã Đồng Nhân, Thanh Trì. Người ta truyền tụng rằng có hai bức tượng đá ngoài bãi Nhĩ Hà ban đêm thường cháy lên những ánh lửa rạng ngời. Lý Anh Tông nghe đồn, liền xa giá đến làm lễ cầu mưa, khấn niệm quốc thái dân an, lập tức được như ý. Vua vội vàng cung nghinh hai tượng đá vào bờ, dựng đền Trưng Vương, bốn mùa hương khói.

 

*

*     *

 

Rạng sáng một ngày mùa xuân năm 43, đoàn Giao long thuyền của vua bà Âu Lạc lặng lẽ nép vào bờ nam sông Hồng, xuôi nước triều, dự định chia hai nhánh ra biển. Nhánh một rẽ xuống sông Đáy, đa số là thuyền nan nhẹ vì nước rất cạn. Nhánh hai liều lĩnh lướt nhanh qua Long Uyên.

Trưng Trắc và Trưng Nhị câm lặng ngồi bên nhau. Thuyền đã sắp đến cửa Hát giang. Mỗi người rẽ một ngã để tăng độ an toàn. Không phải sự bất trắc của chuyến đi làm họ kín tiếng. Rời xa nơi chôn nhau cắt rốn bao giờ cũng làm con người nôn nao khó tả. Khó tả hơn nữa là họ phải ra đi trong tình huống chưa cứu được đất nước. Ý chí quật khởi và niềm tin phục quốc chưa bao giờ cùn cỗi trong tâm tưởng Trưng Trắc và em gái bà, phó vương Trưng Nhị, song tình cảm đoạn ly không khỏi ai oán,
trầm lắng.

Khi gió Lãng Bạc đã mơn man đoàn Giao long thuyền, Trưng vương nắm chặt tay em gái bịn rịn. Bà khóc. Trưng Nhị vốc một nắm nước Lãng Bạc để rửa lệ của chị mình. Không ai biết bà định so sánh lệ hận của quốc gia Âu Lạc với nước mắt Trưng vương, hay muốn những giọt nước mắt ấy tìm gặp linh hồn A Thi và hàng ngàn chiến binh đã bỏ mình vì đất mẹ.

Có tiếng gà gáy khuya, lạc lõng xa xăm đâu đó dưới một mái nhà sàn M’linh. Trưng Nhị héo hon. Loài gia cầm kia hình như cũng hiểu nỗi niềm tự do của mảnh đất này. Tự do, với Trưng Nhị chỉ đơn giản là được sống và lao động dưới bầu trời thanh bình. Tự do để được là chính mình không bao giờ có được nếu còn những kẻ xâm lăng mang tư tưởng Đại Hán. Giấc mơ đôi lứa đã xa rời Trưng Nhị mãi mãi, kể từ ngày những chiếc Lâu thuyền giặc căng buồm đen làm chủ biển hồ Lãng Bạc.

Những mái chèo cắm vào nước không gây nên một tiếng động. Trăm con thuyền bồng bềnh lướt giữa mây và sương. Đoàn quân hàng ngàn người im lặng. Không hẳn vì họ sợ mai phục hay sợ lộ. Có lẽ trước khi sắp mất nước, họ muốn lắng nghe hơi thở của từng ngọn cỏ, nhánh rong rêu quê hương. Ngày mai, ở chân trời xa tít nào đó, họ vẫn còn nói được, song thật khó nghe lại lời thầm thì của đất mẹ tự do.

Đã không trở về vẹn nguyên hình hài. Nhưng họ vẫn trở về ở một ý nghĩa nào đấy, nhiều thế kỷ sau, trong tầng tầng lớp lớp các thế hệ Âu Lạc xả thân ra trận vì độc lập và tự do cho đất mẹ.

Chưa tròn cuộc chia phôi, ba quân Âu Lạc còn đưa mắt tìm nhau trong bóng tối, bỗng bốn phía xung quanh họ, lửa đuốc, tiếng trống, tiếng chiêng của quân Hán áp đến. Đường cùng, người Âu Lạc bật lên dũng mãnh gấp mấy lần bình thường. Tên bay, lao phóng, đạn đá giáng xuống, gươm khua vun vút... Những tiếng thét vỡ tan lồng ngực... Có tên giặc phải tên trúng giáo vẫn trợn tròn mắt ngạc nhiên. Chúng không hiểu đoàn quân tưởng mệt mỏi nhiều tháng nay lấy đâu ra sức chống cự kinh hãi đến thế.

Thêm một lần nữa mặt trời chói lọi lại mọc lên từ phía đông biển hồ Lãng Bạc. Đó là một ngày buồn nhất trong lịch sử Âu Lạc. Thêm rất nhiều máu của người Âu Lạc hòa vào màu nước Lãng Bạc. Vua bà Trưng Trắc và phó vương Trưng Nhị bị bắt.

Hán quân trói thúc họ lại với nhau rồi giải hai Bà lên boong soái thuyền. Đầu tiên Mã Viện giả vờ lên giọng đạo đức, cuống quít la mắng tả hữu rồi sấn đến, tự tay mở trói cho hai Bà.

"Lạc vương ơi, sao bà nỡ để xảy ra nông nỗi này". Mã Viện bắt đầu múa lưỡi thuyết hàng tù binh - "Hãy bước vào vòm trời Hoa Hạ, Bà sẽ tiếp tục làm vua nhỏ xứ này. Dân Âu Lạc vẫn là dân của Bà...".

"Nhưng đất nước Âu Lạc sẽ là quận huyện của Đông Hán?". - Trưng vương nhếch mép cười khinh bỉ - "Và một năm Âu Lạc chỉ hai lần triều cống thôi nhỉ? Giết hết tê ngưu, lật đáy biển Đông cũng chưa vừa lòng tham Hán đế. Lâu lâu người Hán viễn Nam chinh, chặt trụi cây rừng để đóng thuyền nhé, già trẻ lớn bé xung quân hết nhé...".

"Nhưng gia tộc Bà sẽ đời đời no ấm, con cháu trực huyết của Bà mãi mãi ăn trắng mặc trơn, ngồi mát bát vàng". - Mã Viện giở giọng khả ố.

 

"Như Lưu Bang ấy nhỉ? Ngươi lầm ta với Hạng Vũ chăng?" - Trưng vương trợn mắt nhìn Mã Viện.

Trưng Nhị bước lên dõng dạc:

"Chúng ta không hèn như Hạng Vũ, trần tục tựa Lưu Bang. Kẻ thua thì tự cao trách ngựa, mắng trời. Người thắng lại hả hê tính kế hưởng lạc. Ngươi biết huyền thoại An Dương Vương chứ? Người Âu Lạc không quen quyền biến và biện hộ cho sự thất bại. Kẻ thù nguy hiểm nhất của An Dương Vương ngồi sau lưng ông. Làm hại Âu Lạc, làm bại Âu Lạc lúc đó chính là sự chủ quan của chính người Âu Lạc. Chúng ta phải chỉ rõ cho con cháu muôn đời biết để mà lường. Chúng ta trót mất nước vì hạnh mỏng. Muốn chém đầu, treo cổ hay nhận chìm thì làm mau đi, đừng phí lời!".

"Khá khen thay cho nữ tặc". - Biết không thể lay chuyển được hai Bà, Mã Viện dè bỉu - "Thấy cái chết mà không tránh, hỏi có thuận lẽ trời không?".

"Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng ta, những người mất nước và các ngươi, lũ cướp nước, sự hy sinh là lẽ đương nhiên. Chỉ chắc chắn rằng cuối cùng xứ sở này sẽ chiến thắng". - Trưng vương đối đáp mạch lạc. Hai Bà đâu ngờ rằng hai mươi thế kỷ sau, chiến sĩ phục quốc Hoàng Văn Thụ ung dung ra pháp trường Tương Mai, ông nói lời cuối cùng với quan tòa của thực dân Pháp gần giống như những gì vua bà Trưng Vương đã thốt ra với Mã Viện. Dòng máu quí báu của liệt nữ đã không thất lạc trong suốt quá trình di truyền đằng đẵng, tròn một ngàn chín
trăm năm.

Mã Viện thất vọng. Hai người đàn bà này giá trị hơn mười vạn quân. Nếu họ đầu hàng, khắp hang cùng, hẻm núi Âu Lạc sẽ nhanh chóng qui thuận Hán triều. Ngàn năm sau cũng chẳng ai làm phản, vì họ lấy đâu ra chính nghĩa và can đảm, mua ở đâu được tấm gương lịch sử chói ngời này? Nghĩ đến đấy, Mã Viện biết rằng kèo nài thêm chỉ tốn thời gian. Chứng kiến khí tiết của hai Bà, y bỗng thấy mình nhỏ bé và hèn mọn xiết bao. Ở dốc bên kia tuổi tri thiên mệnh, Mã Viện đã sớm "nhi nhĩ thuận," nghe là hiểu. 

Trước sự ngạc nhiên đến cùng cực của quân Hán, Mã Viện không dám ngăn cản hai Bà trở lại Giao long thuyền. Mặt nước Lãng Bạc đứng yên. Lồng lộng bóng trời xanh mây trắng. Trưng vương trỏ tay dõng dạc nói to: "Này Mã tặc! Ngươi tưởng ngươi thắng ư? Ta và ngươi còn gặp lại nhau trong những lời truyền kể muôn năm sau. Nếu không tự biết tĩnh trí tu thân, cùng lắm ngươi chỉ được nhắc đến dưới bóng râm bất tử của vua bà Âu Lạc này thôi".

"Ta căm thù nước Hán và người Hán!". - Trưng Nhị chen lời. Trưng Trắc âu yếm nhìn em gái, bà khe khẽ
lắc đầu:

 

"Người công chính và có bản lĩnh không bao giờ ghét tổ quốc của tha nhân, tránh khích động thù hận giữa người và người em ạ. Dân Trung Nguyên cũng là nạn nhân của nền chính trị Lạc Dương. Chủ nghĩa Hoa tâm độc địa ấy không có tiền đồ, trước sau nó cũng vùi dân tộc Hán vào ly loạn và giết chóc mà thôi. Hãy phỉ nhổ Hán đế và những tên tay sai như Mã Viện là đủ rồi".

Mã Viện xót xa nhìn hai nữ tướng. Y chợt hiểu hình thái xã hội Âu Lạc là thế giới lý tưởng của Lão Tử, của Thế Du em trai y. Mã Viện đã đang tâm hủy hoại thiên đường của những con người chất phác nơi đây. Lòng tham vô đáy của Hán đế đã biến giấc mơ khanh tướng, chinh phục và bành trướng của họ Mã thành ác mộng. Vĩnh viễn từ đó trở đi, với dân tộc Âu Lạc, với nhân loại tiến bộ, Mã Viện là kẻ tội đồ không bao giờ xứng đáng được tha thứ.

 

*

*     *

 

Trên bệ cao Giao long thuyền, hai chị em Trưng Trắc ngẩng cao đầu đứng sát bên nhau. Trưng Trắc phóng tầm mắt một lượt xung quanh rồi ngước mặt lên hét to: "Đất này của Mẹ Tổ, trời này của Mẹ Tiên. Mười năm người Âu Lạc chưa giành lại được thì họ sẽ chiến đấu trăm năm, ngàn năm nhằm khẳng định lẽ phải. Làm sao đao kiếm của bọn xâm lăng có thể lấy đi được lòng can đảm và khí tiết của chúng ta".

Giọng Trưng Trắc vang động khắp non sông. Thời gian ngừng lại khi Hai Bà Trưng buông mình xuống đáy Lãng Bạc, gần ngã ba cửa Hát.

Mã Viện thở dài. Y sai tìm mọi cách vớt Hai Bà để chôn cất nhằm giảm bớt sự căm thù của nhân dân, song hoài công vô ích. Có lẽ thể phách Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tan lẫn vào hồn thiêng núi sông Âu Lạc.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86423


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận