Hồn Ma Sành Điệu Chương 24


Chương 24
Tôi theo Ed ra cửa, rồi quay lại lo lắng nhìn Sadie lần cuối. Tôi chỉ muốn chắc là cô vẫn ổn. Nhưng cô thậm chí chẳng để ý đến tôi.

Nó thật hoành tráng. Nó thật lộng lẫy. Nó đẹp gấp triệu lần bức tranh ở ngôi nhà đó.

Tôi đã ngồi trước bức chân dung của Sadie ở Phòng tranh Chân dung London hai tiếng rồi. Tôi không dứt ra được. Cô đang nhìn ra phòng tranh, vầng trán phẳng, đôi mắt đen như nhung, giống như một nữ thần đẹp nhất mà bạn từng trông thấy. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng của Cecil Malory trên da cô quả là vô song. Tôi biết thế vì vừa nghe thấy một giáo viên nghệ thuật nói với lớp của mình nửa tiếng trước. Rồi tất cả bọn họ đều thay phiên nhau leo lên để xem liệu mình có thể phát hiện ra bức chân dung nhỏ xíu trên chuỗi hạt không.

Chắc tôi đã gặp tới hàng trăm người đến ngắm cô. Thở dài vì mãn nhãn. Mỉm cười với nhau. Hoặc chỉ ngồi xuống ngắm nhìn.

“Chẳng phải cô ấy thật đáng yêu sao?” Một người phụ nữ tóc đen mặc áo mưa mỉm cười với tôi và ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc ghế dài. “Đây là bức chân dung tôi thích nhất trong cả phòng tranh này.”

“Tôi cũng vậy.” Tôi gật đầu.

“Tôi tự hỏi cô ấy đang nghĩ gì?” người phụ nữ suy tư.

“Tôi nghĩ cô ấy đang yêu.” Tôi lại nhìn lên đôi mắt rạng ngời của Sadie; vẻ ửng hồng trên đôi má của cô. “Và tôi nghĩ cô ấy thật sự, thật sự, thật sự hạnh phúc.”

“Có lẽ cô nói đúng.”

Trong một khoảnh khắc cả hai chúng tôi cùng im lặng, chỉ say sưa ngắm cô.

“Cô ấy có ảnh hưởng tốt tới ta đúng không?” người phụ nữ nói. “Tôi thường tới ngắm cô ấy vào giờ ăn trưa. Chỉ để làm mình phấn chấn lên. Ở nhà tôi cũng có một tấm áp phích chụp cô ấy. Con gái tôi đã mua cho tôi. Nhưng không thể sánh được với bức tranh thật phải không?”

Cổ họng tôi chợt nghẹn thắt lại, nhưng tôi vẫn cố mỉm cười đáp lại. “Không. Không thể sánh với bức tranh thật được.”

Khi tôi nói, một gia đình người Nhật đến gần bức tranh. Tôi có thể thấy người mẹ đang chỉ vào chuỗi hạt cho con gái mình. Cả hai đều thở dài hạnh phúc, rồi đứng tư thế y như nhau, tay khoanh lại, đầu nghiêng sang, và cứ thế ngắm cô.

Sadie được tất cả những con người này tôn thờ. Hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn người. Vậy mà cô không hề biết gì cả.

Tôi đã gọi cô cho tới lúc khản cả tiếng, liên tục, bên ngoài cửa sổ, ngược xuôi con phố. Nhưng cô không nghe thấy. Hoặc cô không muốn nghe. Thình lình tôi đứng bật dậy và xem đồng hồ đeo tay, tôi phải đi thôi. Đã năm giờ rồi. Đã đến giờ hẹn của tôi với Malcolm Gledhill, người quản lý các sản phẩm sưu tập.

Tôi trở lại tiền sảnh, báo tên mình cho nhân viên lễ tân và chờ giữa đám học sinh phổ thông Pháp lúc nhúc cho tới khi một giọng nói cất lên từ phía sau, “Cô Lington?” Tôi quay lại thì thấy một người đàn ông mặc sơ mi tím thẫm, râu màu hạt dẻ và có túm lông chĩa từ trong lỗ tai ra, mắt long lanh cười tươi rói với tôi. Trông ông ta giống ông già Noel trước khi về già, và tôi không khỏi thấy mến ông ta ngay lập tức.

“Chào ông. Vâng, tôi là Lara Lington.”

“Malcolm Gledhill. Đi lối này...” Ông ta dẫn tôi qua một cánh cửa náu phía sau bàn lễ tân, leo vài nhịp cầu thang và bước vào một phòng làm việc nằm trong góc nhìn ra sông Thames. Những tấm thiệp và tranh chép la liệt khắp nơi, kẹp lại trên bàn, được dựng lên dựa vào sách và tô điểm cho chiếc máy tính khổng lồ của ông ta.

“Nào.” Ông ta đưa cho tôi một tách trà và ngồi xuống. “Cô tới đây gặp tôi về bức họa Cô gái đeo chuỗi hạt phải không?” Ông ta nhìn tôi vẻ cảnh giác. “Qua lời nhắn của cô tôi cũng chưa rõ vấn đề là gì. Nhưng rõ ràng là... cấp bách đúng không?”

OK, có lẽ lời nhắn của tôi hơi quá khích. Tôi không muốn phải kể toàn bộ câu chuyện với một nhân viên lễ tân mà tôi chẳng biết là ma nào, vậy nên đơn giản tôi cứ nói là về chuyện Cô gái đeo chuỗi hạt và là vấn đề sống còn, việc khẩn quốc gia và an ninh đất nước.

Ờ thì, trong thế giới nghệ thuật, có lẽ nó là tất cả những điều đó.

“Nó khá cấp bách.” Tôi gật đầu. “Và điều đầu tiên tôi muốn nói là cô ấy không chỉ là một ‘cô gái’. Cô ấy là bà dì của tôi. Nhìn đây.”

Tôi lục túi lấy ra tấm ảnh chụp Sadie lúc ở viện dưỡng lão, đeo chuỗi hạt.

“Hãy nhìn chuỗi hạt này,” tôi nói thêm, khi đưa nó sang.

Tôi biết tôi thích tay Malcolm Gledhill này mà. Ông ta phản ứng theo một cách cực kỳ thỏa đáng. Mắt ông ta phồng lên. Má ông ta hồng lên vì kích động. Ông ta ngước nhìn tôi rất nhanh, rồi lại nhìn tấm ảnh. Ông ta săm soi chuỗi hạt trên cổ Sadie. Rồi ông ta dặng hắng như thể đang lo là mình đã quá lộ liễu.

“Có phải cô định nói...” cuối cùng ông ta lên tiếng, “rằng bà cụ trong này là ‘Mabel’ trong bức tranh?”

Tôi thật sự phải chấm dứt hẳn cái vụ “Mabel” này.

“Tên bà ấy không phải là Mabel. Bà ấy ghét cái tên Mabel. Bà tên là Sadie. Sadie Lancaster. Bà ấy sống ở Archbury và bà ấy là người tình của Stephen Nettleton. Bà ấy là lý do khiến ông ấy bị đưa sang Pháp.”

Im lặng, ngoại trừ tiếng thở ra của Malcolm Gledhill, hai má ông ta như hai quả khí cầu đang xẹp xuống.

“Cô có bằng chứng gì chứng minh không?” cuối cùng ông ta nói. “Bất cứ tài liệu nào? Bất cứ tấm ảnh cũ nào?”

“Bà ấy đang đeo chuỗi hạt đúng không nào?” Tôi thoáng cảm thấy mình sẽ thất bại. “Bà ấy đã giữ nó suốt cuộc đời mình. Ông còn cần thêm bao nhiêu bằng chứng nữa?”

“Chuỗi hạt đó có còn không?” Mắt ông ta lại lồi ra. “Cô có nó không? Bà ấy còn sống không?” Khi ý nghĩ mới mẻ này nảy ra trong đầu ông ta, mắt ông ta gần như nhảy ra khỏi tròng. “Vì chuyện đó sẽ rất...”

“Bà ấy vừa qua đời, tôi e là vậy.” Tôi cắt lời ông ta trước khi ông ta trở nên quá kích động. “Và tôi không có chuỗi hạt. Nhưng tôi đang cố gắng tìm ra nó.”

“Ồ.” Malcolm Gledhill lôi một chiếc khăn tay in hình cánh hoa ra và lau vầng trán đẫm mồ hôi. “Rõ ràng là trong trường hợp như thế này thì cần phải có một cuộc điều tra và nghiên cứu thật cẩn thận trước khi chúng tôi có thể đi tới bất cứ một kết luận dứt khoát nào...”

“Đó là bà ấy,” tôi cả quyết.

“Vậy thì, nếu có thể, tôi sẽ chỉ cho cô đến gặp tổ nghiên cứu của chúng tôi. Họ sẽ xem xét cẩn thận tuyên bố của cô, nghiên cứu tất cả những bằng chứng có được...”

Ông ta cần diễn trò cửa quan này cho đúng cách. Tôi có thể hiểu điều đó.

“Tôi rất muốn được nói chuyện với họ,” tôi nói lịch sự. “Và tôi biết họ sẽ đồng ý với tôi. Đó là bà ấy.”

Đột nhiên tôi phát hiện ra một tấm thiệp Cô gái đeo chuỗi hạt được dán trên chiếc máy tính của ông ta bằng keo dính Blu-Tack. Tôi gỡ nó ra và đặt bên cạnh tấm hình Sadie chụp ở viện dưỡng lão. Trong khoảnh khắc chúng tôi đều im lặng nhìn vào cả hai tấm hình. Trong một tấm thì đôi mắt kiêu hãnh, rạng rỡ; trong tấm kia đôi mắt già nua, chùng xuống. Còn chuỗi hạt thì vẫn óng ánh, một tấm bùa bất biến liên kết hai tấm hình.

“Bà dì cô mất khi nào?” cuối cùng Malcolm Gledhill lên tiếng, giọng đã dịu đi.

“Mấy tuần trước. Nhưng bà cụ đã sống ở viện dưỡng lão từ những năm 1980, và bà không biết gì mấy về thế giới bên ngoài. Bà không hề biết Stephen Nettleton đã trở nên nổi tiếng. Bà không hề biết đã nổi tiếng. Bà cứ nghĩ bà là một người vô giá trị. Và đó là lý do vì sao tôi muốn cả thế giới này biết tên bà.”

Malcolm Gledhill gật đầu. “Ờ, nếu tổ nghiên cứu kết luận rằng bà ấy chính là người mẫu trong bức chân dung... thì tin tôi đi, cả thế giới sẽ biết tên bà. Tổ marketing của chúng tôi cũng mới làm một số nghiên cứu, và hóa ra bức tranh Cô gái đeo chuỗi hạt này là bức chân dung được biết đến nhiều nhất ở phòng tranh. Họ muốn phát triển thông tin về tiểu sử của bà ấy. Chúng tôi xem bà ấy là một tài sản cực kỳ có giá trị.”

“Thật sao?” Tôi đỏ mặt vì tự hào. “Bà ấy hẳn sẽ muốn được biết chuyện đó lắm.”

“Tôi có thể gọi một đồng nghiệp vào để xem tấm ảnh này không?” Mắt ông ta sáng lên. “Anh ta đặc biệt quan tâm tới Malory và tôi biết anh ta sẽ cực kỳ quan tâm tới tuyên bố của cô...”

“Chờ đã.” Tôi giơ một bàn tay lên. “Trước khi ông gọi ai khác vào, có một vấn đề nữa tôi cần phải nói chuyện với ông. Riêng tư. Trước hết tôi muốn biết làm sao ông lại có được bức tranh này. Nó thuộc về Sadie. Nó là của bà ấy. Làm sao ông có được nó?”

Malcolm Gledhill hơi đờ ra một chút xíu.

“Tôi đã nghĩ là tới một lúc nào đó vấn đề này sẽ xuất hiện,” ông ta nói. “Theo cuộc gọi của cô tôi đã tới tìm lại hồ sơ và tra lại tất cả các chi tiết của dữ liệu thu được.” Ông ta mở một hồ sơ nãy giờ vẫn nằm trên bàn, và giở một tờ giấy cũ ra. “Bức tranh đã được bán cho chúng tôi vào những năm 1980.”

Bán ư? Làm sao nó có thể bị bán đi được?

“Nhưng nó đã bị mất trong trận hỏa hoạn cơ mà. Không ai biết nó ở đâu cả. Kẻ quái nào lại bán nó cho các ông?”

“Tôi e là...” Malcolm Cledhill ngừng lại. “Tôi e là người bán lúc đó đã yêu cầu rằng mọi chi tiết của dữ liệu này phải được giữ kín.”

“Giữ kín ư?” Tôi tròn mắt nhìn ông ta trong cơn phẫn nộ. “Nhưng bức tranh là của Sadie mà. Stephen đã trao nó cho bà ấy. Bất cứ ai giữ nó đều không có quyền bán nó. Ông nên kiểm tra lại những chuyện này!”

“Chúng tôi có kiểm tra rồi,” Malcolm Gledhill nói, hơi có vẻ chống chế. “Toàn bộ nguồn gốc hồi đó được cho là chính xác. Phòng tranh đã có đầy đủ thời gian để xác định rằng bức tranh là của người có quyền được bán. Thật ra, có một lá thư được ký trong đó người bán đã thực hiện tất cả những đảm bảo đúng đắn. Tôi mang theo nó ở đây.”

Mắt ông ta vẫn dán vào tờ giấy trên tay. Hẳn ông ta đang nhìn vào tên của kẻ đã bán bức tranh. Chuyện này thật bực mình hết chỗ nói.

“Bất kể người đó đã nói với các ông điều gì thì họ cũng đã nói dối.” Tôi quắc mắt với ông ta. “Và ông biết gì không? Tôi là một người trả thuế và tôi cung cấp tiền cho các ông hoạt động. Thực chất, theo cách nào đó, tôi nắm số phận của các ông. Và tôi tới đây yêu cầu được biết ai đã bán nó cho các ông. Ngay bây giờ.”

“Tôi e là cô đã lầm,” Malcolm Gledhill nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi không phải là một phòng tranh thuộc sở hữu công và cô không sở hữu chúng tôi. Tin tôi đi, tôi cũng muốn làm sáng tỏ vấn đề này y như cô vậy. Nhưng tôi bị ràng buộc bởi thỏa thuận phải giữ bí mật của chúng tôi. Tôi e là mình không làm gì được.”

“Thế nếu tôi quay lại với cảnh sát và luật sư thì sao?” Tôi chống nạnh. “Nếu tôi báo là bức tranh là món hàng bị đánh cắp và buộc ông phải tiết lộ cái tên đó thì sao?”

Malcolm Gledhill nhướng cao đôi lông mày rậm rịt. “Hiển nhiên, nếu có yêu cầu của cảnh sát chúng tôi sẽ hoàn toàn chiểu theo.”

“À, thôi được. Sẽ như vậy. Ông biết không, tôi có bạn bè làm trong ngành cảnh sát,” tôi nói thêm vẻ hiểm ác. “Thanh tra James. Ông ấy sẽ rất thích thú được nghe chuyện này. Bức tranh đó thuộc về Sadie và giờ nó thuộc về bố và chú tôi. Và chúng tôi sẽ không khoanh tay ngồi nhìn đâu.”

Tôi cảm thấy cực kỳ kích động. Tôi sẽ làm cho ra nhẽ mọi chuyện. Tranh ảnh không thể cứ tự dưng lù lù xuất hiện được.

“Tôi có thể hiểu được những nỗi lo lắng của cô.” Malcolm Gledhill ngập ngừng. “Tin tôi đi, phòng tranh coi vấn đề quyền sở hữu hợp pháp cực kỳ nghiêm túc.”

Ông ta không nhìn vào mắt tôi. Mắt ông ta vẫn liên tục đảo qua đảo lại trang giấy trên tay. Cái tên nằm trên đó. Tôi có thể nhào qua bàn, vật ông ta ngã xuống đất, và...

Không.

“Vâng, cảm ơn ông đã tiếp tôi,” tôi nói trịnh trọng. “Tôi sẽ liên lạc lại.”

“Được thôi.” Malcolm Gledhill đóng tập hồ sơ lại. “Trước khi cô đi, tôi có thể gọi cho đồng nghiệp của tôi Jeremy Mustoe không? Tôi chắc là anh ta sẽ rất thích được gặp cô để xem tấm ảnh của bà dì cô...”

Lát sau, một người đàn ông gầy còm, yết hầu rất to, mặc một chiếc áo cổ tay đã sờn, vào phòng, nghiền ngẫm tấm ảnh bà Sadie và khẽ nhắc đi nhắc lại, “Tuyệt vời.”

“Để tìm ra bất cứ điều gì từ bức tranh này là chuyện cực kỳ khó,” cuối cùng Jeremy Mustoe nói, ngước lên. “Có quá ít ghi ghép hay các tấm ảnh từ hồi đó và khi các nhà nghiên cứu trở lại ngôi làng thì nó đã trải qua mấy thế hệ rồi và chẳng ai có thể nhớ bất cứ điều gì. Và đương nhiên người ta đã giả dụ rằng người mẫu thật sự tên là Mabel...” Anh ta nhăn trán. “Tôi nghĩ là một luận văn xuất bản hồi thập niên 1990 cho rằng một cô giúp việc cho gia đình Nettleton là người mẫu của Malory, và rằng bố mẹ ông ta đã phản đối mối quan hệ bất chính của họ vì lý do đẳng cấp, chuyện đó đã khiến ông ấy bị đưa sang Pháp...”

Tôi muốn bật cười. Có ai đó đã dựng lên một câu chuyện hoàn toàn sai lạc và gọi nó là nghiên cứu?

“Có một cô nàng Mable thật,” tôi kiên nhẫn giải thích. “Nhưng cô ta không phải là người mẫu. Stephen gọi Sadie là ‘Mabel’ để chọc bà ấy. Họ là tình nhân của nhau,” tôi nói thêm. “Đó là lý do tại sao ông ta bị đưa sang Pháp.”

“Thật thế ư?” Jeremy Mustoe ngước lên và nhìn tôi chăm chú với một vẻ thích thú mới. “Vậy... liệu có phải bà dì của cô cũng chính là ‘Mabel’ trong những lá thư không?”

“Những lá thư!” Malcolm Gledhill kêu lên. “Đương nhiên! Tôi quên mất những thứ đó. Đã lâu lắm rồi kể từ lần cuối tôi xem chúng...”

“Thư ư?” Tôi hết nhìn Malcolm lại nhìn Jeremy. “Thư nào?”

“Trong kho lưu trữ của chúng tôi có một tập thư cũ do Malory viết,” Jeremy Mustoe giải thích. “Một trong rất ít tập tư liệu thu hồi được sau khi ông mất. Không rõ là liệu toàn bộ số thư hoặc có lá thư nào đã được gửi đi không, nhưng rõ ràng là có một lá đã được gửi và bị trả lại. Không may là địa chỉ đã bị gạch đi bằng mực xanh đen, và dù dùng đến cả công nghệ hiện đại nhất, chúng tôi cũng không thể...”

“Xin lỗi phải cắt lời anh,” tôi ngắt lời anh ta, cố gắng giấu sự bối rối lo âu. “Nhưng... tôi có thể xem chúng không?”

 

 

Một giờ sau tôi bước ra khỏi phòng tranh, đầu óc quay cuồng. Khi tôi nhắm mắt lại, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là những dòng chữ dài loằng ngoằng, đã mờ, trên những trang giấy viết bé tí.

Tôi không đọc toàn bộ thư từ của ông ta. Có cảm giác chúng quá riêng tư, và tôi chỉ có vài phút để xem. Nhưng tôi đọc đủ để hiểu. Ông ta yêu Sadie. Ngay cả sau khi ông ta đã sang Pháp. Ngay cả sau khi ông ta nghe tin cô lấy một người khác.

Sadie đã dành trọn đời mình để chờ đợi câu trả lời cho một câu hỏi. Và giờ đây tôi biết ông cũng vậy. Mặc dù mối tình đó đã xảy ra hơn bảy mươi năm trước, mặc dù cả Stephen và Sadie đều đã chết và chẳng ai còn có thể làm được gì cho chuyện của họ, tôi vẫn thấy đau khổ nhức nhối khi sải bước trên vỉa hè. Thật quá bất công. Thật quá sai trái. Lẽ ra họ phải được ở bên nhau. Rõ ràng là có ai đó đã ngăn không cho những lá thư đó tới tay Sadie. Có lẽ là đấng sinh thành cổ hủ tàn nhẫn của cô.

Thế là cô cứ ngồi đó mà chẳng hề biết sự thật. Ngỡ là mình đã bị lợi dụng. Quá kiêu hãnh để đi theo ông ta và tự mình tìm ra sự thật. Cô đã chấp nhận lời cầu hôn của Anh Chàng Mặc Gi Lê như một hành động trả thù ngu ngốc. Có lẽ cô hy vọng Stephen sẽ xuất hiện tại nhà thờ. Ngay cả trong lúc chuẩn bị cho lễ cưới, hẳn là cô vẫn hy vọng, chắc chắn thế. Và ông ta đã làm cô thất vọng.

Tôi không thể chịu nổi. Tôi muốn quay về đúng lúc đó để làm cho mọi chuyện trở nên tốt đẹp. Giá như Sadie không lấy Anh Chàng Mặc Gi Lê. Giá như Stephen không sang Pháp. Giá như bố mẹ cô không bao giờ bắt quả tang họ. Giá như...

Không. Thôi đừng có “giá như” nữa. Chẳng ích gì. Ông ta đã chết lâu rồi. Cô cũng đã chết. Câu chuyện đã kết thúc.

Một dòng người bước đi qua tôi trên đường tới ga Waterloo, nhưng tôi chưa cảm thấy sẵn sàng quay trở lại căn hộ nhỏ của mình, tôi cần một chút không khí trong lành. Tôi cần một chút viễn cảnh. Tôi lách qua một đám du khách, tiến thẳng tới cầu Waterloo. Lần cuối cùng tôi ở đây, những đám mây buông thấp và xám xịt. Lúc ấy Sadie đứng trên lan can. Tôi đã hét lên trong gió mạnh một cách tuyệt vọng.

Nhưng tối nay thật ấm áp và êm dịu. Sông Thames xanh ngát chỉ có vài gợn sóng trắng lăn tăn. Một chiếc du thuyền lững lờ đi qua và có hai người đang vẫy tay về phía Con mắt London.

Tôi dừng lại ở ngay chỗ lúc trước và nhìn đăm đăm ra xa, về phía tháp Big Ben. Nhưng tôi không nhìn hẳn vào một thứ gì. Tâm trí tôi đang đắm chìm trong quá khứ. Tôi cứ nhìn thấy những dòng chữ nguệch ngoạc, lỗi thời của Stephen. Tôi cứ nghe thấy những lời lẽ kiểu ngày xưa của ông. Tôi cứ hình dung ra ông, đang ngồi trên đỉnh vách đá ở Pháp, viết thư cho Sadie. Thậm chí tôi còn nghe thấy tiếng nhạc Charleston hăm hở, như thể một ban nhạc thập niên hai mươi nào đó đang chơi...

Chờ một phút.

Một ban nhạc thập niên nào đó đang chơi.

Đột nhiên tôi tập trung vào cảnh tượng bên dưới. Cách vài trăm mét trên đường Jubilee Gardens, người ta đang tụ tập trên một bãi cỏ rộng. Một sân khấu đã được dựng lên. Một ban nhạc đang chơi liên khúc nhạc jazz. Mọi người đang nhảy. Đương nhiên rồi. Đó là một lễ hội nhạc jazz. Buổi vũ hội mà họ đã phát tờ rơi cho chúng tôi khi tôi cùng Ed tới đây. Buổi vũ hội mà tôi vẫn đang cầm vé, gấp trong ví.

Trong một lúc tôi cứ đứng đó trên cầu, nhìn cảnh tượng ấy. Ban nhạc đang chơi điệu Charleston. Các cô gái trong trang phục thập niên hai mươi đang nhảy trên sân khấu, diềm váy và hạt đính cứ nhấp nháy. Tôi có thể thấy những đôi mắt sáng rỡ, những bước chân nhấp nhảy và những chiếc lông vũ nhấp nhô. Và đột nhiên, giữa đám đông tôi nhìn thấy... tôi nghĩ là tôi thoáng thấy...

Không.

Tôi sững sờ mất một lúc. Rồi, không để bộ não mình kịp nghĩ xem nó đang cố gắng nghĩ gì, không để một tia hy vọng nào bập bùng lóe lên, tôi quay lại và bắt đầu điềm tĩnh bước đi trên cầu, xuống bậc thang. Không hiểu sao tôi lại bắt được mình không vội vã, hay chạy. Tôi cứ đi từ từ về phía tiếng nhạc, thở khó nhọc, hai bàn tay siết chặt.

Có một biểu ngữ căng bên trên rạp hát và những quả bóng bơm khí màu bạc buộc túm lại thành từng chùm, một người thổi kèn trumpet mặc chiếc áo gi lê lấp lánh đang đi đi lại lại, độc tấu một cách điệu nghệ. Khắp xung quanh người ta tụ lại, xem các vũ công nhảy điệu Charleston trên sân khấu, và trên một cái sàn nhảy bằng gỗ đặt trên cỏ, người ta đang tự mình nhảy - một số mặc quần jean và một số mặc trang phục được gọi là của thập niên 1920. Mọi người đang mỉm cười đầy ngưỡng mộ và chỉ trỏ vào những bộ trang phục đó, nhưng tôi thấy trông họ thật nhí nhố. Kể cả những cô gái mặc váy flapper trên sân khấu. Họ chẳng qua chỉ là những kẻ bắt chước, với những chiếc lông giả và những viên ngọc trai bằng nhựa, những đôi giày hiện đại và lối trang điểm của thế kỷ hai mốt. Trông họ chẳng giống đồ thứ thiệt tẹo nào. Chẳng giống một cô gái thập niên hai mươi chính hiệu. Chẳng giống...

Và tôi đứng sững lại, tim vọt lên cổ. Tôi đã đúng.

Cô đang lơ lửng bên cạnh bục dàn nhạc, nhảy cuồng nhiệt. Cô mặc bộ váy vàng phai, quấn một dải băng đồng tông quanh mái tóc sẫm. Trông cô càng giống hồn ma hơn bao giờ hết. Đầu cô hất ra sau và mắt cô nhắm nghiền vì tập trung và trông cô như thể đang quên đi cuộc đời. Người ta đang nhảy qua người, giẫm lên chân và thúc cùi chỏ vào người cô, nhưng cô thậm chí không hề nhận thấy.

Có Chúa mới biết cô đã làm gì, những ngày vừa qua.

Khi tôi nhìn, cô biến mất sau hai cô gái mặc áo jacket jean đang cười khanh khách làm tôi sợ hết hồn. Tôi không thể để mất cô lần nữa. Không thể sau tất cả chuyện này.

“Sadie!” Tôi bắt đầu len qua đám đông. “Sadie! Là tôi, Lara đây!”

Tôi lại thoáng thấy bóng dáng cô, mắt cô mở to. Cô đang nhìn khắp nơi. Cô đã nghe thấy tiếng tôi.

“Sadie! Đằng này!” Tôi vẫy tay điên cuồng và vài người quay lại nhìn xem tôi đang hét lên với ai.

Đột nhiên cô nhìn thấy tôi và toàn thân cô bất động. Vẻ mặt cô không thể hiểu được và khi lại gần cô, tôi chợt cảm thấy hiểu. Bỗng dưng cách nhìn nhận về Sadie của tôi đã thay đổi sau mấy ngày vừa rồi. Cô không chỉ là một cô gái. Thậm chí cô không chỉ là thiên thần hộ mệnh của tôi, nếu quả đúng cô đã từng là thế. Cô là một phần của lịch sử nghệ thuật. Cô nổi tiếng. Vậy mà thậm chí cô không hề biết gì về chuyện đó.

“Sadie...” Tôi ngừng lại bất lực. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. “Tôi xin lỗi. Tôi đã tìm kiếm cô khắp nơi...”

“Ờ, làm gì có chuyện cô nhọc công tìm kiếm!” Cô đang mải nhìn khắp lượt cả ban nhạc và có vẻ không cảm động tẹo nào trước sự xuất hiện của tôi. Dù không muốn thế, tôi vẫn cảm thấy cơn phẫn nộ quen thuộc lại nổi lên.

“Có! Tôi mất mấy hôm đi tìm, nếu cô muốn biết! Gọi, hét, tìm... cô không biết là tôi đã phải trải qua những chuyện gì đâu!”

“Thật ra tôi có biết. Tôi đã nhìn thấy cô bị lôi ra khỏi rạp chiếu phim.” Cô cười tự mãn. “Trông rất buồn cười.”

“Cô đã ở đó ư?” Tôi tròn mắt nhìn cô. “Thế sao cô không trả lời?”

“Tôi vẫn còn bực.” Hàm cô siết lại kiêu hãnh. “Lúc đó tôi thấy không việc gì tôi phải làm thế.”

Đúng là Sadie. Lẽ ra tôi phải nhận ra rằng cô sẽ oán giận tôi vài ngày.

“Ờ. Tôi đã đi khắp nơi. Và tôi đã có cuộc hành trình khám phá ra trò. Tôi cần phải kể cho cô nghe về nó.” Tôi đang cố tìm cách khéo léo đề cập tới chủ đề Archbury, Stephen và bức tranh, nhưng đột nhiên Sadie ngẩng phắt đầu lên và nói, hơi nhún vai miễn cưỡng, “Tôi đã nhớ cô.”

Tôi sửng sốt tới mức bước trẹo chân. Tôi cảm thấy nhói đau ở mũi và lúng túng xoa.

“Ờ... tôi cũng thế. Tôi cũng nhớ cô.” Theo bản năng, tôi dang hai tay ra ôm lấy cô - rồi nhận ra là chuyện đó thật vô nghĩa, tôi lại bỏ tay xuống. “Sadie, nghe này. Tôi có chuyện phải nói với cô.”

“Và tôi có chuyện phải nói với cô!” Cô xen ngang với vẻ mãn nguyện. “Tôi biết tối nay cô sẽ tới. Tôi đã chờ cô.”

Trời ạ. Cô thật sự nghĩ mình là một vị thần toàn năng.

“Cô không thể biết trước được,” tôi nói kiên nhẫn. “Thậm chí tôi còn chẳng biết mình sẽ tới. Tôi chỉ tình cờ đi tới khu vực này thôi, tôi đã nghe thấy tiếng nhạc, tôi đã đi lang thang...”

“Tôi biết mà,” cô khăng khăng. “Mà nếu cô không xuất hiện thì tôi cũng sẽ đi tìm cô để bắt cô tới. Và cô có biết tại sao không?” Mắt cô sáng lên lấp lánh và cô ngó nghiêng khắp đám đông.

“Sadie.” Tôi cố gắng làm cho ánh mắt của cô tập trung tại một vị trí. “Làm ơn nghe tôi nói đi. Tôi có điều rất, rất quan trọng phải nói với cô. Chúng ta cần tới chỗ nào đó yên tĩnh, cô cần phải nghe tôi nói, đó là một chuyện rất sốc...”

“Ờ, tôi có một điều rất quan trọng phải cho cô xem!” Thậm chí cô còn không thèm nghe tôi nói cho chính xác. “Kia rồi!” Đột nhiên cô chỉ với vẻ đắc thắng. “Đằng kia! Nhìn kìa!”

Tôi nhìn theo ánh mắt cô, nheo mắt khi cố tìm hiểu xem cô đang nói về cái gì... và tim tôi thắt lại vì hoảng sợ.

Ed.

Anh mặc áo khoác đứng bên lề sàn nhảy. Anh cầm một cái cốc nhựa đựng gì đó, xem ban nhạc biểu diễn và thỉnh thoảng gõ cồm cộp bên này bên kia theo điệu nhạc như thể do buộc phải làm vậy. Trông anh chẳng nhiệt tình chút nào, tôi suýt nữa thì muốn cười phá lên, nếu tôi không đồng thời cũng muốn teo lại và núp trong một cái hộp nhỏ ở đâu đó.

“Sadie...” tôi ôm lấy đầu. “Cô đã làm gì thế?”

“Tới nói chuyện với anh ta đi!” Cô khẽ ra hiệu cho tôi.

“Không,” tôi nói hoảng hốt. “Đừng có ngớ ngẩn!”

“Đi đi!”

“Tôi không thể nói chuyện với anh ấy được. Anh ấy ghét tôi.” Tôi nhanh chóng quay đi và núp sau một đám vũ công trước khi Ed kịp nhìn thấy bóng dáng tôi. Chỉ cần nhìn thấy anh cũng đủ khiến mọi loại ký ức mà tôi muốn quên tiệt đi lại ào về. “Mà sao cô lại bắt anh ấy tới đây?” Tôi thì thào với Sadie. “Cô đang cố đạt được điều gì hả?”

“Tôi cảm thấy có lỗi.” Cô nhìn tôi với ánh mắt trách cứ, như thể tất cả là do lỗi của tôi vậy. “Tôi không thích cảm thấy có lỗi. Nên tôi quyết định làm một chuyện gì đó.”

“Cô đã tới hét vào tai anh ấy.” Tôi lắc đầu không tin được.

Đây là tất cả những gì tôi cần. Rõ ràng là cô đã khuân anh tới đây bằng cách cưỡng ép. Có lẽ anh đã định hưởng một buổi tối yên tĩnh dễ chịu và giờ anh lại thấy mình đang đứng trong một lễ hội nhạc jazz xuẩn ngốc nào đó một mình, giữa hàng đống những đôi nhảy. Có lẽ anh đang phải trải qua buổi tối tồi tệ nhất trong đời. Và giờ cô muốn tôi nói chuyện với anh.

“Tôi cứ nghĩ anh ta là của cô chứ. Tôi nghĩ tôi đã phá hỏng mọi chuyện. Chuyện gì đã xảy ra thế?”

Sadie hơi nao núng, nhưng đầu vẫn ngẩng cao. Tôi có thể thấy cô đang nhìn Ed qua đám đông. Trong mắt cô có một ánh khao khát nhẹ nhàng, ngắn ngủi, rồi cô quay đi.

“Rốt cuộc không phải là típ của tôi,” cô cả quyết nói. “Anh ta quá... sống. Và cô cũng thế. Hai người rất hợp nhau. Đi đi nào! Mời anh ta nhảy đi.” Cô lại cố đẩy tôi về phía Ed.

“Sadie.” Tôi lắc đầu. “Tôi thật sự cảm kích trước việc cô đã cố gắng làm. Nhưng tôi không thể tự dưng sấn sổ tới làm lành với anh ta được. Không phải nơi phải lúc. Giờ chúng ta có thể đi đâu đó nói chuyện chứ?”

“Đương nhiên là đúng nơi đúng lúc rồi còn gì!” Sadie vặc lại, bực bội. “Đó là lý do vì sao anh ta tới đây! Đó là lý do vì sao cô tới đây!”

“Đó không phải lý do tôi tới đây!” Tôi nổi giận. Tôi ước mình có thể tóm lấy vai cô mà lắc. “Sadie, cô không hiểu à? Tôi có chuyện cần phải nói với cô! Và cô phải tập trung. Cô phải lắng nghe. Quên chuyện Ed và tôi đi. Đây là chuyện về cô! Và Stephen! Và quá khứ của cô! Tôi đã tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra! Tôi đã tìm thấy bức tranh!”

Quá muộn, tôi nhận ra ban nhạc jazz đã tạm nghỉ. Mọi người ngừng nhảy và có một anh chàng đã lên sân khấu diễn thuyết gì đó. Ít ra anh ta cũng đang cố gắng diễn thuyết, nhưng cả đám đông lại quay ra nhìn tôi đang hét như một con điên với khoảng không trống rỗng.

“Xin lỗi.” Tôi nuốt nước bọt. “Tôi... không định quấy rối. Xin mời tiếp tục.” Hầu như không dám, tôi len lén nhìn về phía chỗ Ed đang đứng, hy vọng đến quẫn trí là anh đã chán mà bỏ về rồi. Nhưng không có cái may mắn đó. Anh đang đứng đó, cùng với những người khác nhìn tôi chằm chằm.

Thậm chí tôi còn muốn teo bé lại nhiều hơn nữa. Da tôi bắt đầu gai lên vì xấu hổ khi anh đi qua sàn nhảy về phía tôi. Anh không mỉm cười. Anh có nghe thấy tôi vừa nhắc đến tên anh không?

“Cô đã tìm thấy bức tranh ư?” Giọng Sadie chỉ là một tiếng thì thầm và mắt cô dường như đột ngột trũng xuống khi cô nhìn tôi chằm chằm. “Cô đã tìm thấy bức tranh của Stephen ư?”

“Đúng,” tôi thì thào, một tay che miệng. “Cô phải xem nó, nó đẹp tuyệt diệu...”

“Lara.” Ed đã tới bên tôi. Nhìn thấy anh đột nhiên tôi nhớ lại vụ Con mắt London, và đủ mọi loại cảm giác khiến tôi nổi gai ốc lại bao trùm lấy tôi.

“Ồ. Ừm, chào anh,” tôi thốt ra, khó thở.

“Nó ở đâu?” Sadie cố giật cánh tay tôi. “Nó ở đâu?”

Trông Ed có vẻ cũng ngượng nghịu như tôi. Tay anh cứ thọc mãi vào trong túi và cái cau mày lại hằn sâu ở chỗ đó như mọi khi. “Vậy là cô đã tới.” Anh thoáng nhìn vào mắt tôi, rồi lại lảng đi. “Tôi không chắc liệu cô có tới không.”

“Ừm... ờ...” tôi hắng giọng. “Tôi chỉ nghĩ là... anh biết đấy...”

Tôi cố gắng nói cho mạch lạc nhưng gần như không thể khi có Sadie nhảy nhót xung quanh để thu hút sự chú ý của tôi.

“Cô đã tìm hiểu được chuyện gì?” Giờ cô đang ở ngay trước mặt tôi, giọng the thé và hối thúc. Như thể cô vừa chợt tỉnh ra và nhận ra là tôi có thể có chuyện gì đó thật sự quan trọng đối với cô. “Kể cho tôi nghe đi!”

“Tôi sẽ kể cho cô nghe. Đợi đã.” Tôi cố gắng nói thật khẽ, từ bên khóe miệng của mình nhưng Ed quá thính. Anh không để lọt khỏi tai điều gì.

“Kể với tôi chuyện gì?” anh nói, ánh mắt lướt khắp mặt tôi chăm chú.

“Ừm...”

“Kể tôi nghe đi!” Sadie yêu cầu.

OK. Tôi không thể đối phó với chuyện này. Cả Sadie và Ed đều đang đứng trước mặt tôi, vẻ mặt chờ đợi. Mắt tôi cứ đảo điên cuồng từ khuôn mặt này sang khuôn mặt kia. Bất cứ lúc nào Ed cũng có thể quyết định rằng tôi thật sự là một con điên và bỏ đi.

“Lara?” Ed tiến lên một bước về phía tôi. “Cô ổn chứ?”

“Vâng. Ý tôi là không. Ý tôi là...” tôi hít một hơi. “Tôi những muốn nói với anh rằng tôi xin lỗi vì đã kết thúc cuộc hẹn của chúng ta vội vã như thế. Tôi xin lỗi vì anh đã nghĩ tôi lừa anh vào một công việc nào đó. Nhưng tôi không làm vậy. Thật sự tôi không làm. Và tôi rất mong là anh tin tôi.”

“Ngừng nói chuyện với anh ta đi!” Sadie nổi giận bừng bừng, nhưng tôi không nhúc nhích. Ánh mắt nghiêm túc, đen thẫm của Ed đang rọi vào mắt tôi và tôi không thể dứt khỏi nó.

“Tôi thật sự tin cô,” anh nói. “Và tôi cũng cần phải xin lỗi cô. Tôi đã phản ứng thái quá. Tôi không cho cô một cơ hội. Sau đó tôi đã hối tiếc. Tôi nhận ra rằng mình đã ném đi một thứ gì đó... một tình bạn... nó thật...”

“Gì cơ?” tôi thốt lên.

“Đẹp.” Một ánh nhìn dò hỏi xuất hiện trên mặt anh. “Tôi nghĩ chúng ta đã có một thứ gì đó thật đẹp. Phải không?”

Đây là khoảnh khắc gật đầu và nói, “Đúng”. Nhưng tôi không thể để nó dừng ở đó. Tôi không muốn một tình bạn đẹp. Tôi muốn có lại cảm giác đó, khi tay anh ôm lấy tôi và hôn tôi. Tôi muốn anh. Đó là sự thật.

“Anh muốn tôi chỉ là... bạn anh sao?” Tôi ép mình phải nói ra câu đó và ngay lập tức nhìn thấy sự thay đổi trên mặt Ed.

“Thôi đi! Nói chuyện với tôi này!” Sadie quay sang Ed và rít chói lói vào tai anh. “Không nói chuyện với Lara nữa! Đi đi!” Trong một lúc anh lại có cái nhìn xa xăm đó, và tôi có thể thấy là anh đã nghe thấy tiếng cô. Nhưng anh không đi. Mắt anh chỉ nhăn lại trong một nụ cười dịu dàng, ấm áp.

“Em muốn biết sự thật sao? Anh nghĩ em là thiên thần hộ mệnh của tôi.”

“Gì cơ?” Tôi cố bật cười, nhưng nó lại không phát ra đúng ý.

“Em có biết cái cảm giác khi có ai đó đâm sầm vào cuộc đời mình mà chẳng hề báo trước như thế nào không?” Ed lắc đầu nhớ lại. “Khi em hạ cánh xuống văn phòng của anh, anh chỉ nghĩ đại loại, ‘Cái đồ chết giẫm gì thế?’ Nhưng em đã làm anh thức tỉnh. Em đã đưa anh trở lại với cuộc sống vào đúng lúc anh đang chìm vào quên lãng. Em đúng là cái mà anh cần.” Anh ngập ngừng, rồi nói thêm, “Em đúng là cái mà anh cần.” Tiếng anh nhỏ đi và mờ dần; có điều gì đó trong ánh mắt anh khiến khắp người tôi nhoi nhói.

“Ờ, em cũng cần anh.” Giọng tôi hời hợt. “Vậy chúng ta sạch nợ nhé.”

“Không, em không cần anh.” Anh mỉm cười buồn bã. “Em đang sống rất ổn mà.”

“OK.” Tôi ngập ngừng. “Có lẽ em không cần anh. Nhưng... em muốn anh.”

Cả hai chúng tôi đều không nói gì một lúc. Ánh mắt anh quyện chặt vào ánh mắt tôi. Tim tôi đập dữ dội, tôi chắc là anh cũng nghe thấy.

Đi đi, Ed!” Đột nhiên Sadie rít lên the thé vào tai Ed. “Chuyện này để sau!”

Tôi có thể thấy Ed lưỡng lự khi nghe thấy tiếng cô, và đột nhiên tôi linh tính thấy điềm gở. Nếu lần này Sadie lại phá hỏng chuyện của tôi thì tôi sẽ, tôi sẽ...

Đi đi!” Sadie đang hét lên liên tục vào tai anh. “Bảo anh sẽ gọi cho cô sau! Đi đi! Về đi!”

Tôi nhức nhối vì tức giận cô. “Thôi đi!” Tôi muốn hét lên. “Để anh ấy yên!” Nhưng tôi bất lực. Tôi cứ phải đứng nhìn ánh sáng hiện lên trong mắt Ed khi anh nghe cô nói và nhận ra điều cô đang nói. Lại giống y như Josh. Cô lại phá hỏng mọi chuyện.

“Em biết không, đôi khi ta nghe thấy một giọng nói trong đầu mình,” Ed đột nhiên nói, như thể suy nghĩ đó chợt nảy ra trong đầu anh. “Giống như... một bản năng.”

“Em biết anh nghe thấy,” tôi nói đau khổ. “Anh nghe thấy một giọng nói và nó truyền một thông điệp bảo anh hãy đi đi. Em hiểu.”

“Nó bảo anh điều ngược lại.” Ed tiến lên và ghì lấy tôi trong vòng tay anh. “Nó bảo anh đừng để em đi. Nó bảo anh em là điều tốt đẹp nhất từng xảy ra với anh và tốt hơn là anh đừng có phá hỏng chuyện này.”

Và thậm chí tôi chưa kịp hít một hơi, anh đã cúi xuống và hôn tôi. Vòng tay anh quấn lấy tôi, mạnh mẽ, an toàn và kiên quyết.

Tôi đang ở trong trạng thái hoàn toàn không tin nổi. Anh không bỏ đi. Anh không nghe theo Sadie. Bất kể tiếng nói trong đầu anh là gì... nó cũng không phải của cô.

Cuối cùng anh dứt ra và mỉm cười với tôi, nhẹ nhàng vén một lọn tóc khỏi khuôn mặt tôi. Tôi mỉm cười đáp lại, hổn hển, cưỡng lại cám dỗ kéo anh xuống ngay lập tức để thêm một nụ hôn nữa.

“Em có muốn nhảy không, cô gái thập niên hai mươi?” anh hỏi.

Tôi muốn nhảy. Tôi muốn hơn cả nhảy. Tôi muốn dành cả tối nay và cả đêm nay với anh.

Tôi lén liếc Sadie. Cô đã lùi ra vài bước và đang cắm cúi nhìn giày, vai cô cong lên, hai bàn tay cô xoắn vào nhau thành một nắm rối rắm. Cô ngước lên và nhún vai, nhếch miệng mỉm cười buồn bã vì thất bại.

“Nhảy với anh ta đi,” cô nói. “Không sao. Tôi sẽ đợi.”

Cô đã đợi hết năm này qua năm khác để biết được sự thật về Stephen rồi. Vậy mà giờ cô lại sẵn sàng đợi thêm, chỉ để tôi có thể nhảy với Ed.

Tim tôi thắt lại. Nếu có thể tôi sẽ ôm chầm lấy cô.

“Không.” Tôi lắc đầu dứt khoát. “Đến lượt cô. Ed...” Tôi quay sang anh hít một hơi sâu. “Em phải kể với anh về bà dì em. Bà mới mất.”

“Ồ. OK. Chắc chắn rồi. Anh không biết.” Trông anh lúng túng giây lát. “Em muốn nói chuyện trong bữa tối chứ?”

“Không. Em cần phải nói ngay bây giờ.” Tôi lôi anh ra bên rìa sàn nhảy, xa ban nhạc. “Nó rất quan trọng. Tên bà là Sadie và bà yêu một người đàn ông tên Stephen vào hồi những năm 1920. Bà đã nghĩ rằng ông ấy là một gã khốn đã lợi dụng bà rồi quên phắt bà. Nhưng ông ấy yêu bà. Em biết điều đó. Ngay kể cả sau khi sang Pháp ông ấy vẫn yêu bà.”

Lời lẽ tuôn ra khỏi miệng tôi thành một dòng hối hả. Tôi nhìn thẳng vào Sadie. Tôi phải giải thích rõ ràng thông điệp của mình. Cô phải tin tôi.

“Làm sao cô biết?” Cô hếch cằm ngạo mạn hơn bao giờ hết, nhưng giọng nói thì run rẩy. “Cô đang nói về chuyện gì thế hả?”

“Em biết vì ông ấy đã viết thư cho bà từ bên Pháp.” Tôi nói với Ed để bắn sang Sadie. “Và vì ông ấy đã đưa mình vào chuỗi hạt của bà. Và vì ông đã không bao giờ vẽ thêm một bức chân dung nào nữa. Người ta đã nài nỉ ông những ông luôn luôn bảo, ‘J’ai peint celui que j’ai voulu peindre.’ ‘Tôi đã vẽ người duy nhất tôi muốn vẽ.’ Và khi nhìn bức tranh người ta sẽ hiểu ra vì sao. Vì sao ông lại không bao giờ muốn vẽ bất cứ ai khác sau Sadie?” Họng tôi đột nhiên se lại. “Bà là tạo vật đẹp đẽ nhất người ta từng thấy. Bà thật lộng lẫy. Và bà đeo chuỗi hạt... Khi anh nhìn thấy chuỗi hạt trong bức tranh thì anh sẽ hiểu tất cả. Ông ấy yêu bà. Mặc dù bà đã sống cả đời mà không hề biết điều đó. Mặc dù bà đã chết ở tuổi 105 mà vẫn không nhận được câu trả lời.” Tôi gạt giọt nước mắt chợt rơi xuống má.

Trông Ed hơi lúng túng không biết nói sao. Điều này chẳng đáng ngạc nhiên lắm. Một phút trước chúng tôi còn hôn hít. Phút sau tôi đã trút cả một tràng trời ơi đất hỡi về lịch sử gia đình lên đầu anh.

“Cô đã thấy bức tranh ở đâu? Nó ở đâu?” Sadie tiến một bước về phía tôi, cả người run rẩy, mặt trắng bệch ra. “Nó đã bị mất. Nó đã bị cháy cơ mà.”

“Vậy em có thân bà dì của mình lắm không?” Ed nói, cùng lúc.

“Em không biết bà khi bà còn sống. Nhưng sau khi bà mất em đã về Archbury nơi bà sống ngày trước. Ông ấy nổi tiếng lắm.” Tôi lại quay sang Sadie. “Stephen nổi tiếng lắm.”

“Nổi tiếng ư?” Trông Sadie hoang mang.

“Có cả một bảo tàng dành riêng cho ông ấy. Ông có nghệ danh là Cecil Malory. Khá lâu sau khi mất ông mới được phát hiện. Và bức chân dung cũng nổi tiếng. Nó đã được cứu và hiện đang ở trong một phòng tranh, mọi người đều thích nó... anh phải đi xem. Anh phải đi xem.”

“Ngay.” Tiếng Sadie rất khẽ, tôi hầu như không nghe thấy gì. “Làm ơn. Ngay bây giờ.”

“Nghe thật tuyệt,” Ed nói lịch sự. “Hôm nào chúng ta sẽ đi xem. Chúng ta có thể đi tới vài phòng tranh, ăn trưa...”

“Không. Ngay bây giờ.” Tôi cầm tay anh. “Ngay bây giờ.” Tôi liếc Sadie. “Đi nào.”

 

 

Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế bọc da, cả ba, thành một hàng im lặng. Sadie ngồi cạnh tôi. Tôi ngồi cạnh Ed. Sadie không nói gì từ lúc bước vào phòng tranh. Khi cô vừa nhìn thấy bức chân dung tôi nghĩ là cô sẽ ngất mất. Cô lặng lẽ lập lòe và cứ thế nhìn chăm chăm, rồi cuối cùng trút ra một hơi như thể đã nín thở cả tiếng.

“Đôi mắt tuyệt đẹp,” cuối cùng Ed nói. Anh vẫn nhìn tôi với ánh mắt cảnh giác, như thể anh không chắc phải làm gì trong tình huống này.

“Tuyệt đẹp.” Tôi gật đầu nhưng không thể tập trung vào anh. “Ổn chứ?” Tôi liếc nhìn Sadie lo lắng. “Tôi biết đây là một cú sốc thực sự đối với cô.”

“Anh ổn.” Ed nói nghe có vẻ không hiểu gì. “Cảm ơn em đã hỏi.”

“Tôi ổn.” Sadie mỉm cười vẻ mệt mỏi với tôi. Rồi cô lại quay lại với bức tranh. Cô đã bay lên sát nó, để xem bức chân dung của Stephen giấu trong chuỗi hạt của cô, và mặt cô thoáng méo đi vì cả tình yêu lẫn đau khổ đến mức tôi phải quay đi và để cho cô một khoảnh khắc riêng tư.

“Bên bảo tàng đã tiến hành vài nghiên cứu,” tôi nói với Ed. “Bà là chân dung nổi tiếng nhất ở đây. Họ sắp tung ra một dòng sản phẩm có bức tranh của bà trên đó. Kiểu như áp phích và cốc uống cà phê. Bà sẽ nổi tiếng!”

“Cốc cà phê.” Sadie hất đầu. “Thật thô bỉ kinh khủng.” Nhưng tôi thấy một tia kiêu hãnh lóe lên trong mắt cô. “Tôi còn xuất hiện ở đâu nữa hả?”

“Và cả khăn lau chén nữa, trò chơi ghép hình...” tôi nói như thể thông báo với Ed. “Đủ thứ. Nếu bà có lo lắng về chuyện không có chút dấu ấn nào với cuộc đời này...” Tôi để cho câu nói của mình lịm dần vào không khí.

“Em có một người thân nổi tiếng thật đấy.” Ed nhướng mày. “Gia đình em hẳn phải rất tự hào.”

“Giờ thì chưa,” tôi nói sau một lúc ngừng. “Nhưng họ sẽ tự hào.”

“Mabel.” Ed đang tham khảo cuốn sách hướng dẫn anh nằng nặc đòi mua ở lối vào. “Trong này có nói ‘Người ta cho rằng người mẫu tên là Mabel’.”

“Đó là họ nghĩ thế.” Tôi gật đầu. “Vì bức tranh đề ‘Mabel của tôi’ ở phía sau mà.”

Mabel?” Sadie quay ngoắt lại, trông kinh hoàng đến mức tôi phải phì cười.

“Em đã bảo họ đó chỉ là một trò đùa giữa bà ấy và Cecil Malory thôi,” tôi vội giải thích. “Đó chỉ là cái tên tếu của bà ấy, nhưng mọi người lại cứ nghĩ là thật.”

Trông tôi có giống một Mabel không?”

Một chuyển động làm tôi chú ý và tôi ngước lên. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Malcolm Gledhill đang bước vào phòng tranh. Khi thấy tôi, ông ta mỉm cười ngượng ngùng và chuyển chiếc cặp da từ tay này sang tay kia.

“Ồ, cô Lington. Xin chào. Sau cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay, tôi đã nghĩ là mình sẽ tới xem bà ấy lần nữa.”

“Tôi cũng thế.” Tôi gật đầu. “Xin được giới thiệu...” Tôi chợt nhận ra tôi sắp giới thiệu Sadie với ông ta. “Ed.” Tôi nhanh chóng chuyển tay sang hướng khác. “Đây là Ed Harrison. Malcolm Gledhill. Ông ấy chịu trách nhiệm về việc sưu tập.”

Malcolm ngồi xuống cùng ba chúng tôi trên chiếc ghế và trong một lúc tất cả cùng ngắm nhìn bức tranh.

“Vậy các ông đã có bức tranh này trong phòng tranh từ năm 1983,” Ed nói, vẫn đọc cuốn sách hướng dẫn. “Tại sao gia đình sở hữu nó lại từ bỏ nó? Một động thái kỳ lạ.”

“Câu hỏi hay đấy,” Sadie nói, đột nhiên tỉnh ra. “Nó là của tôi. Không ai được phép bán nó cả.”

“Câu hỏi hay đấy,” tôi lặp lại dứt khoát. “Nó là của cụ Sadie. Không ai được phép bán nó cả.”

“Và điều tôi muốn biết là, ai đã bán nó?” Sadie nói thêm.

“Ai đã bán nó?” tôi lặp lại.

“Ai đã bán nó?” Ed nhắc lại.

Malcolm Gledhill nhúc nhích không yên trên ghế.

“Như tôi đã nói hôm nay, cô Lington ạ, nó là một sự dàn xếp bảo mật. Khi chưa có ai tuyên bố sở hữu hợp pháp chính thức, phòng tranh không thể...”

“OK, OK,” tôi cắt lời ông ta. “Tôi hiểu điều đó, ông không cần phải nói với tôi. Nhưng tôi sẽ tìm cho ra. Bức tranh đó thuộc về gia đình tôi. Chúng tôi đáng được biết.”

“Vậy, để anh làm rõ điều này nhé.” Ed cuối cùng cũng tỏ ra thật sự quan tâm tới câu chuyện. “Ai đó đã đánh cắp bức tranh đúng không?”

“Chịu.” Tôi nhún vai. “Nó đã bị mất nhiều năm rồi, và rồi em tìm thấy nó ở đây. Tất cả những gì em biết là nó đã được bán cho phòng tranh vào giữa những năm 1980, nhưng em không biết ai đã bán.”

“Ông biết không?” Ed quay sang Malcolm Gledhill.

“Tôi biết.” Ông ta miễn cưỡng gật đầu.

“Ờ, ông không thể nói cho cô ấy biết ư?”

“Chưa... ờ... không?”

“Đây có phải là một bí mật quốc gia không?” Ed gặng hỏi. “Có phải nó liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt không? Có phải là an ninh quốc gia đang bị đe dọa?”

“Không hẳn thế.” Trông Malcolm lúng túng hơn bao giờ hết. “Nhưng trong thỏa thuận có một điều khoản về bảo mật...”

“OK.” Ed bắt đầu lấy lại cái lối nắm quyền chỉ đạo tình huống, cố vấn kinh doanh. “Sáng mai tôi sẽ thuê một luật sư đảm trách vụ này. Chuyện này thật phi lý.”

“Cực kỳ phi lý,” tôi phụ họa theo, dựa vào thái độ tự tin của Ed. “Và chúng tôi sẽ không tha thứ cho việc làm đó. Ông có biết chú tôi Bill Lington không? Tôi biết chú ấy sẽ dùng mọi nguồn lực để đấu tranh với... cái điều khoản bảo mật phi lý này. Đó là bức tranh của chúng tôi.”

Trông Malcolm Gledhill đúng là bị bao vây tứ phía.

“Thỏa thuận đã nói rõ ràng.” Cuối cùng ông ta cũng thốt ra được, rồi tiếng nhỏ dần. Tôi có thể thấy mắt ông ta cứ liên tục liếc vào cái cặp da.

“Hồ sơ ở trong đó phải không?” tôi nói, đột nhiên nổi hứng.

“Như tôi đã nói, nó ở trong đó,” Malcolm Gledhill thận trọng nói. “Tôi định mang đống giấy tờ về nhà để nghiên cứu. Bản sao, đương nhiên.”

“Vậy ông có thể cho chúng tôi xem bản thỏa thuận,” Ed nói, hạ thấp giọng. “Chúng tôi sẽ không mách lẻo đâu.”

“Tôi không thể cho hai người xem bất cứ thứ gì!” Malcolm Gledhill suýt rơi khỏi ghế vì khiếp sợ. “Chuyện đó, như tôi vẫn nhắc đi nhắc lại, là thông tin bảo mật.”

“Đương nhiên là thế.” Tôi cất giọng êm ái. “Chúng tôi hiểu điều đó. Nhưng có lẽ ông có thể cho chúng tôi một ân huệ nhỏ là kiểm tra hộ ngày thu nhận bức tranh không? Cái đó không phải bảo mật đúng không?”

Ed liếc tôi dò hỏi nhưng tôi vờ như không thấy. Một kế hoạch khác vừa nảy ra trong đầu tôi. Một kế hoạch mà Ed không hiểu.

“Nó là vào tháng Sáu năm 1983, tôi nhớ là thế,” Malcolm Gledhill nói.

“Nhưng chính xác là vào ngày bao nhiêu? Ông có thể xem nhanh cái thỏa thuận được không?” Tôi mở to mắt một cách ngây thơ với ông ta. “Làm ơn? Nó có thể sẽ rất có ích cho tôi.”

Malcolm Gledhill nhìn tôi ngờ vực, nhưng rõ ràng là không thể nghĩ ra bất cứ lý do gì để từ chối. Ông ta cúi xuống, bật nút chiếc cặp và lôi ra một tập hồ sơ giấy.

Tôi làm Sadie chú ý và lén hất đầu về phía Malcolm Gledhill.

“Gì cơ?” cô hỏi.

Vì Chúa. Vậy mà cô còn gọi tôi là rùa bò.

Tôi lại hất đầu về phía Malcolm Gledhill, giờ đang vuốt cho tờ giấy phẳng ra.

“Gì cơ?” cô sốt ruột nhắc lại. “Cô đang cố nói điều gì thế?”

“Đây rồi...” Ông ta đeo kính mắt vào. “Để tôi tìm xem ngày nào...”

Cổ tôi sẽ vẹo mất nếu tôi hất đầu thêm lần nữa. Tôi thật sự nghĩ là tôi sẽ chết vì thất vọng trong một phút nữa. Có một thông tin mà chúng tôi muốn biết. Ngay ở đây. Mở ra cho bất cứ ai là tạo vật vô hình giống ma đọc được. Thế mà Sadie vẫn cứ ngó tôi trân trân chẳng hiểu gì.

“Xem đi!” tôi nói, từ bên khóe miệng. “Xem đi! Xem đi!”

“À!” Mặt cô lộ vẻ bất chợt hiểu ra. Một phần triệu giây sau cô đã đứng đằng sau Malcolm Gledhill, ngó qua vai ông ta.

“Xem cái gì cơ?” Ed nói, nghe có vẻ bối rối, nhưng tôi hầu như không nghe thấy anh nói. Tôi đang mải miết nhìn Sadie khi cô đọc, cau mày, há hốc miệng - rồi ngước lên.

“William Lington. Anh ta đã bán nó lấy n 3c2b ăm trăm nghìn bảng.”

“William Lington?” Tôi tròn mắt nhìn lại cô một cách ngớ ngẩn. “Ý cô là... chú Bill?”

Hệ quả của những lời tôi thốt ra đối với Malcolm Gledhill là tột cùng và ngay tức thì. Ông ta ấp chặt lá thư vào ngực một cách dữ dội, mặt trắng bệch, rồi đỏ bừng, nhìn vào lá thư, rồi lại siết chặt lấy nó. “Cô - cô bảo sao?”

Tôi cũng đang phải vất vả tự mình tiêu hóa chuyện này.

“William Lington đã bán bức tranh cho phòng tranh này.” Tôi cố nói sao cho nghe dứt khoát, nhưng giọng của tôi lại phát ra yếu ớt. “Đó là cái tên trong vụ dàn xếp.”

“Dứt khoát là em đang đùa.” Mắt Ed lập lòe. “Chính chú em ư?”

“Lấy nửa triệu bảng.”

Malcolm Gledhill trông như muốn khóc òa. “Tôi không biết làm sao cô lại có được thông tin đó.” Ông ta khẩn khoản yêu cầu Ed. “Anh sẽ phải làm chứng cho tôi là tôi đã không hề tiết lộ bất cứ một thông tin nào cho cô Lington đấy.”

“Vậy cô ấy nói đúng?” Ed nói, nhướng mày lên. Điều đó dường như chỉ càng làm cho Malcolm Gledhill khiếp sợ hơn.

“Tôi không thể nói đúng hay không đúng... liệu...” Ông ta ngừng sững lại và lau trán. “Không có bất cứ tình huống nào mà bản thỏa thuận rời khỏi tầm mắt của tôi, không có bất cứ cơ hội nào tôi lại để cho nó lọt vào tầm mắt cô ấy...”

“Ông không cần phải làm thế,” Ed trấn an. “Cô ấy là nhà ngoại cảm mà.”

Đầu óc tôi đang quay cuồng thành những vòng tròn khi tôi cố gắng vượt qua cơn sốc và nghĩ thông suốt mọi chuyện. Chú Bill đã có bức tranh. Chú Bill đã bán bức tranh. Giọng bố cứ vang lên trong đầu óc tôi:... bỏ vào kho và để ở đó nhiều năm... Chả ai đủ can đảm để xử lý cả... Chính Bill đã sắp xếp phân loại tất cả... Nghĩ cũng lạ, nhưng hồi đó Bill lười nhác lắm.

Tất cả đã rõ ràng. Hẳn chú ấy đã tìm thấy bức tranh ngần ấy năm về trước, biết nó có giá trị và đã bán nó cho Phòng tranh Chân dung London với một thỏa thuận bí mật.

“Em ổn chứ?” Ed chạm vào cánh tay tôi. “Lara?”

Nhưng tôi không thể nhúc nhích được. Giờ tâm trí tôi đang chuyển động theo những vòng tròn còn to hơn. Những vòng tròn còn lộn xộn hơn. Tôi đang cộng hai với hai. Tôi đang cộng tám với tám. Và tôi thu được hàng trăm triệu.

Chú Bill lập ra Cà phê Lingtons vào năm 1982.

Cùng năm đó chú đã bí mật thu về nửa triệu bảng nhờ bán bức tranh của Sadie.

Và giờ, cuối cùng, cuối cùng... tất cả đều đã hai năm rõ mười. Tất cả đều đã rõ ràng. Chú ấy đã có năm trăm nghìn bảng mà không ai biết gì về nó. Năm trăm nghìn bảng mà chú ấy không bao giờ nhắc đến. Không hề trong bất cứ cuộc phỏng vấn nào. Không hề trong bất cứ buổi hội thảo nào. Không hề trong bất cứ cuốn sách nào.

Tôi thấy choáng váng. Tầm cỡ của chuyện đó cứ từ từ thấm vào. Cả câu chuyện là một sự dối trá. Cả thế giới nghĩ rằng chú ấy là một thiên tài kinh doanh đã khởi nghiệp từ hai đồng xu nhỏ. Nửa triệu bạc, chính xác hơn là thế.

Và chú ấy đã lấp liếm chuyện đó để không ai biết được. Hẳn là chú đã biết rằng bức tranh là của Sadie ngay khi nhìn thấy nó. Hẳn là chú ấy đã biết nó thuộc về bà. Nhưng chú đã để cả thế giới tin rằng đó là một người giúp việc nào đó tên là Mabel. Có lẽ chú ấy đã tự mình cung cấp cho họ câu chuyện đó. Nhờ thế, sẽ không có ai tới gõ bất cứ một cánh cửa nào của nhà Lington để hỏi về cô gái xinh đẹp trong bức tranh.

“Lara?” Ed đang vẫy tay trước mặt tôi. “Nói cho anh biết đi. Chuyện gì vậy?”

“Cái năm 1982.” Tôi ngước lên trong cơn mê mụ. “Nghe có quen không? Đó là lúc chú Bill sáng lập Cà phê Lingtons. Anh biết không? Với ‘hai đồng xu nhỏ’ nổi tiếng của chú ấy.” Tôi dùng tay làm dấu ngoặc kép. “Hay phải chăng thực tế là nửa triệu bảng đã giúp chú ấy khởi nghiệp? Điều mà không hiểu sao chú ấy lại quên đề cập đến vì trước tiên nó không phải là của chú ấy.”

Im lặng. Tôi có thể thấy các mảnh ghép được đặt vào đúng chỗ trong đầu Ed.

“Chúa ơi,” cuối cùng anh lên tiếng và ngước lên nhìn tôi. “Chuyện này rất lớn. Rất lớn.”

“Em biết.” Tôi nuốt nước bọt. “Rất lớn.”

“Vậy toàn bộ câu chuyện hai đồng xu nhỏ, những buổi hội thảo, sách, đĩa DVD, phim ảnh...”

“Nhảm nhí tất.”

“Nếu anh là Pierce Brosnan, anh sẽ gọi cho quản lý của mình ngay bây giờ.” Ed nhướng mày khôi hài.

Tôi cũng sẽ muốn cười nếu tôi không muốn khóc. Nếu tôi không quá buồn, tức giận và phát buồn nôn lên với việc chú Bill làm đến thế.

Đó là bức tranh của Sadie. Bán hay giữ là quyền của bà. Chú ấy đã lấy và sử dụng nó mà không hé một lời. Sao chú ấy dám làm thế? Sao chú ấy dám làm thế?

Tôi có thể thấy rõ đến ghê người một vũ trụ song song có ai đó khác, ai đó đàng hoàng tử tế như bố tôi, đã tìm thấy bức tranh và làm việc phải đạo. Tôi có thể thấy Sadie đang ngồi trong viện dưỡng lão, đeo chuỗi hạt, ngắm nhìn bức tranh đẹp đẽ của mình suốt tuổi già, cho đến khi tia sáng cuối cùng lịm dần trong mắt bà.

Hoặc có lẽ bà sẽ bán nó. Nhưng chính bà là người bán nó. Đó hẳn phải là vinh quang của bà. Tôi có thể thấy bà được đưa ra khỏi viện dưỡng lão đến xem bức tranh đang treo ở Phòng tranh Chân dung London. Tôi có thể thấy niềm vui được đem đến cho bà. Và tôi có thể thấy bà đang ngồi trên ghế, nhờ một văn thư tốt bụng đọc to lên cho bà nghe những bức thư của Stephen.

Chú Bill đã cướp mất của bà bao nhiêu năm có thể hạnh phúc. Và tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho chú ấy.

“Lẽ ra bà phải được biết.” Tôi không thể kiềm chế cơn giận của mình thêm nữa. “Lẽ ra Sadie phải được biết bà đã được treo ở đây. Bà ấy đã chết mà không hề biết gì. Đó là việc làm sai trái. Việc đó là sai trái.”

Tôi liếc qua Sadie đang lơ đãng không nghe cuộc nói chuyện như thể cô chẳng bận tâm. Cô nhún vai, như thể để xua đi tất cả cơn giận dữ và lo lắng của tôi.

“Cưng à, đừng lải nhải mãi về nó nữa. Chán ngắt. Ít ra thì giờ tôi cũng đã tìm thấy nó. Ít ra thì nó cũng đã không bị phá hủy. Và ít ra thì trông tôi cũng không béo như tôi vẫn nhớ,” cô nói thêm với vẻ hào hứng đột ngột. “Hai cánh tay tôi trông khá tuyệt vời phải không? Tay tôi lúc nào cũng đẹp.”

“Đối với gu của tôi thì quá khẳng khiu,” tôi không nhịn được đốp lại.

“Ít ra thì chúng cũng không như cái gối.”

Sadie bắt gặp ánh mắt của tôi và chúng tôi mỉm cười cảnh giác với nhau. Kiểu ra vẻ dũng cảm của cô chẳng thể nào qua mắt tôi được. Cô trắng bệch ra và lập lòe, tôi có thể thấy phát hiện này đã quật ngã cô. Cơ mà cằm cô thì lại hếch lên, cao và kiêu hãnh hơn bao giờ hết.

Malcolm Gledhill trông vẫn cực kỳ lo lắng. “Giá mà chúng tôi biết rằng bà cụ vẫn còn sống, giá như có ai đó báo cho chúng tôi...”

“Các ông làm sao mà biết được,” tôi nói, cơn giận nguôi đi một chút. “Chính chúng tôi còn chẳng biết đó là bà.”

Vì chú Bill đã không hé một lời. Vì chú ấy đã che giấu tất cả bằng một thỏa thuận giấu tên. Không lạ là tại sao chú ấy lại muốn có chuỗi hạt. Nó là vật duy nhất còn lại, liên kết Sadie với bức chân dung. Nó là vật duy nhất có thể tố giác trò gian lận khủng khiếp của chú. Bức tranh hẳn phải là một quả bom hẹn giờ đối với chú ấy, cứ lặng lẽ tích tắc suốt ngần ấy năm. Và giờ, cuối cùng, nó cũng nổ. Bùm. Tôi chưa biết sẽ phải làm như thế nào, nhưng tôi sẽ trả thù cho Sadie. Đã đến lúc rồi.

Cả bốn chúng tôi đều im lặng, từ từ quay mặt lại nhìn bức tranh lần nữa. Gần như không thể ngồi trong phòng tranh này mà rốt cuộc lại không ngắm nhìn nó.

“Tôi đã bảo cô rằng bà ấy là bức tranh nổi tiếng nhất trong phòng tranh này,” Malcolm Gledhill nói. “Hôm nay tôi đã nói chuyện với phòng marketing, và họ đã lấy bà làm gương mặt đại diện của phòng tranh. Hình ảnh của bà sẽ được sử dụng trong mọi chiến dịch.”

“Tôi muốn ở trên một thỏi son,” Sadie nói, đột nhiên quay lại với vẻ cả quyết. “Một thỏi son rực rỡ đáng yêu.”

“Nên đưa hình bà lên một thỏi son,” tôi nói cả quyết với Malcolm Gledhill. “Và ông nên lấy tên bà làm nhãn hiệu cho nó. Đó là điều mà chắc bà đã muốn.”

“Tôi sẽ xem xem chúng tôi có thể làm gì.” Trông ông ta hơi bối rối. “Đây thật sự không phải lĩnh vực của tôi...”

“Tôi sẽ báo cho ông biết bà còn muốn gì khác nữa.” Tôi nháy mắt với Sadie. “Tôi sẽ đảm nhận vai trò người đại diện không chính thức của bà kể từ bây giờ.”

“Tôi tự hỏi là bà đang nghĩ gì,” Ed đột ngột nói, vẫn ngước nhìn bà chằm chằm. “Bà có một vẻ mặt làm say lòng người.”

“Tôi cũng thường tự hỏi mình vậy,” Malcolm Gledhill hoan hỉ xen vào. “Bà ấy dường như có một cái nhìn vừa thanh thản vừa hạnh phúc... Rõ ràng có thể thấy, qua chuyện cô nói, bà đã có một mối liên hệ tình cảm nào đó với họa sĩ Malory... Tôi thường tự hỏi liệu ông ấy có đọc thơ của bà khi vẽ không...”

“Cái gã này thật là ngu kinh,” Sadie nói gay gắt vào tai tôi. “Rõ ràng là lúc đó tôi đang nghĩ. Tôi đang nhìn vào Stephen mà nghĩ ‘Mình muốn phang anh ta.’ ”

“Bà ấy muốn phang ông ta,” tôi nói với Malcolm Gledhill. Ed nhìn tôi với ánh mắt không tin nổi, rồi cười phá lên.

“Tôi nên đi thôi...” rõ ràng là Malcolm Gledhill thấy gặp chúng tôi như thế này trong một buổi tối là quá đủ rồi. Ông ta nhấc chiếc cặp da, gật đầu với chúng tôi rồi nhanh chân bước đi. Vài giây sau tôi có thể nghe thấy ông ta gần như chạy xuống cầu thang lát cẩm thạch.

Tôi nhìn Ed và toét miệng cười.

“Xin lỗi anh về trò nghi binh.”

“Không sao.” Anh nhìn tôi trêu chọc. “Vậy... tối nay có nghệ sĩ lớn thời xưa nào khác mà em muốn vén tấm mạng che mặt lên nữa không? Có công trình điêu khắc nào của gia đình đã bị mất không? Có khám phá bằng ngoại cảm nào nữa không? Hay là chúng ta sẽ đi ăn tối?”

“Đi ăn tối.” Tôi đứng dậy và nhìn Sadie. Cô vẫn ngồi đó, bàn chân để lên ghế và chiếc váy vàng buông phủ xung quanh cô, nhìn chằm chằm vào chính mình hồi hai mươi ba tuổi như thể muốn uống lấy chính mình. “Đi chưa?” tôi hỏi nhẹ nhàng.

“Chắc chắn rồi,” Ed nói, nhún vai xỏ áo khoác.

“Giờ thì chưa,” Sadie nói đầu không suy chuyển. “Cô đi đi. Tôi sẽ gặp lại cô sau.”

Tôi theo Ed ra cửa, rồi quay lại lo lắng nhìn Sadie lần cuối. Tôi chỉ muốn chắc là cô vẫn ổn. Nhưng cô thậm chí chẳng để ý đến tôi. Cô vẫn tê liệt. Như là cô muốn ngồi đó cả đêm với bức tranh vậy. Như là cô muốn bù lại toàn bộ khoảng thời gian cô đã mất.

Như là, cuối cùng thì cô cũng đã thấy cái cô kiếm tìm.

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/28491


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận