VERONICA MACDOUGALL đã có mặt trong gian phòng họp rộng lớn. Cô bé mặc chiếc quần jeans xanh có nếp nhăn và chiếc áo lạnh ngắn tay màu lông chuột. Mái tóc đỏ xoăn tít của cô rối bù. Những quầng quầng thâm sưng húp dưới cả hai mắt cho tôi biết cô bé đã mất ngủ một thời gian.
Veronica bình thản nhìn chúng tôi khi chúng tôi tự giới thiệu vòng quanh chiếc bàn họp lớn mặt kính làm bằng gỗ dái ngựa bên trong cái mà NYPD gọi là “Tòa nhà lớn.” Sau đó thanh tra trưởng Andrew Gross giới thiệu cô bé. “Veronica là một cô gái trẻ rất dũng cảm,” ông nói. “Cô bé sẽ tự kể câu chuyện của mình.”
Cô bé hít nhanh một hơi dài. Mắt cô là hai hạt trân châu màu xanh nhỏ bé và chúng chứa đầy nỗi khiếp sợ. “Đêm qua cháu đã viết ra chút gì đó. Tự cháu viết. Cháu sẽ trình bày, và sau đó nếu muốn các cô chú có thể đặt câu hỏi.”
Thanh tra cảnh sát Gross lịch sự xen vào. Ông là người vạm vỡ có bộ ria rậm màu xám và tóc mai dài. Thái độ của ông hơi uể oải. “Sẽ ổn thôi, Veronica. Dù thế nào chăng nữa thì cháu cũng muốn làm việc này. Tuy nhiên điều tình cờ xảy ra rất quý đối với chúng tôi. Cứ thong thả cháu ạ.”
Veronica lắc đầu và trông có vẻ rất, rất do dự. “Cháu ổn mà. Cháu cần làm việc này,” cô bé nói. Sau đó cô bắt đầu câu chuyện của mình.
“Ba cháu là người mà các cô chú gọi là bậc trượng phu. Ba cháu cũng tự hào về điều đó lắm. Ông trung thành với bạn ông, nhất là với những cảnh sát khác. Ông là “người vĩ đại” như thế, đúng không? Vậy thì, ở đây còn một khía cạnh khác về ông. Mẹ cháu đã từng rất đẹp. Mười năm nay mẹ cháu đã tăng tới ba mươi pao. Mẹ cháu cần đồ đẹp. Ý cháu là, về mặt vật chất mẹ cháu cần những thứ như quần áo và giày dép. Người đẹp vì lụa mà.
“Mẹ cháu không phải là người thông minh nhất trên đời, nhưng ba cháu nghĩ ông là người như vậy và đó là lý do ông đối xử tàn nhẫn với mẹ cháu. Vài năm trước ông bắt đầu uống nhiều. Và rồi ông bắt đầu trở nên tiều tụy, ông bắt đầu đánh mẹ cháu. Ông gọi mẹ cháu là ‘thùng tô nô,’ và ‘bao cát’. Như vậy ông có tử tế hay không?”
Veronica dừng lại và nhìn quanh phòng; cô bé kiểm tra phản ứng của chúng tôi trước những gì cô nói. Phòng họp im lặng một cách kỳ lạ. Không ai trong chúng tôi có thể quay đi khỏi cô bé và sự giận dữ toát lên trong đôi mắt xanh kia.
“Đó là lý do hôm nay cháu đến đây. Điều đó lý giải làm sao cháu có thể làm điều khủng khiếp này - tố giác cha đẻ của mình, để phá vỡ Luật im lặng thiêng liêng của cảnh sát.”
Cô bé dừng lại và một lần nữa bướng bỉnh nhìn chúng tôi. Tôi không thể rời mắt khỏi cô. Không một ai trong phòng có thể. Việc này có quá nhiều ý nghĩa: sự tuyệt giao đến từ một thành viên gia đình.
“Ba cháu không hề nhận ra rằng cháu thực sự thông minh hơn ông nhiều, và cháu còn tinh mắt. Có lẽ cháu học được điều đó từ ông. Cháu nhớ khi cháu chừng mười tuổi gì đó, cháu chỉ biết cháu cũng sẽ làm cảnh sát. Khá mỉa mai hả? Các cô chú không nghĩ là vớ vẩn chứ?
“Khi cháu lớn hơn, cháu nhận ra - quan sát thấy - rằng ba cháu có nhiều tiền hơn lẽ ra ông có thể. Thỉnh thoảng ông cho mẹ con cháu làm một ‘cuộc hành trình tội lỗi’ tới Ailen, có thể là vùng Caribê. Và ông luôn luôn có tiền cho bản thân mình. Áo quần thật bảnh, những bộ đồ khác thường mua từ hiệu Barneys và Saks. Cứ cách năm lại một chiếc xe mới. Một chiếc thuyền buồm màu trắng tuyệt đẹp bỏ neo trong vịnh Sheepshead.
“Mùa hè năm ngoái vào một đêm thứ Sáu ba cháu say mềm. Cháu nhớ là ngày thứ Bảy ông rời khỏi nhà để đến trường đua Aqueduct cùng đám tay chân thám tử của ông. Ông cuốc bộ đến nhà bà cháu cách nhà cháu vài dãy phố. Cháu đi theo ông đêm đó. Ông quá say xỉn nên thậm chí không thể phát hiện ra.
“Ba cháu đến một nhà kho cũ nằm ở phía sau nhà của bà cháu. Khi đã vào bên trong, ông dọn chiếc bàn làm việc và vài tấm ván gỗ mỏng. Cháu không thể nói chính xác ông đang làm gì, vì thế ngày hôm sau cháu quay trở lại và nhìn vào phía sau những tấm ván. Trong đó có tiền - nhiều lắm. Cháu không biết số tiền ấy từ đâu ra, đến giờ vẫn không. Nhưng cháu biết đó không phải là lương thám tử của ông. Cháu đếm được ngót ngét hai mươi ngàn đôla. Cháu lấy vài trăm đô và ông cũng không hề phát hiện ra.
“Sau vụ đó cháu bắt đầu hay quan sát hơn. Mới đây, một lần nữa, vào khoảng tháng trước, ba cháu và bạn ông đã toan tính chuyện gì đó. Đám lâu la của ông ấy mà. Điều đó quá rõ ràng. Họ luôn đàn đúm với nhau sau giờ làm việc. Một đêm cháu nghe thấy ông nói gì đó về Washington D.C. với bạn ông, Jimmy Crews. Sau đó họ đi biệt tới bốn ngày.
“Ông về nhà vào chiều ngày thứ tư. Đó là ngày sau vụ bắt cóc người của hãng MetroHartford. Ông bắt đầu ‘ăn mừng’ vào khoảng ba giờ và ông vui vẻ đến bảy giờ. Đêm hôm đó ông đánh vỡ xương gò má mẹ cháu. Ông rạch mắt mẹ cháu và ông đã có thể móc nó ra. Ba cháu đeo chiếc nhẫn có dấu ấn ngớ ngẩn của Đại học St. John’s. Đội bóng Redmen - giờ là Red Storm, cô chú biết đấy. Đêm đó cháu đến nhà kho của bà và thấy có nhiều tiền hơn. Cháu không thể nào tin được điều đó. Ở đó có rất nhiều tiền, toàn là tiền mặt.”
Veronica Macdougall thò tay xuống dưới gầm bàn và nhấc lên một chiếc ba lô màu xanh lợt, loại lũ trẻ vẫn đeo tới trường. Cô bé mở ba lô. Cô lôi ra vài tập giấy bạc và cho chúng tôi thấy tiền. Mặt cô bé đượm đầy tủi hổ, đau buồn.
“Đây là mười ngàn bốn trăm đôla. Chúng ở ngay trong nhà kho của bà cháu. Ba cháu đã để chúng ở đó. Ba cháu đã tham gia vào vụ bắt cóc ở Washington. Ông nghĩ ông tài cán lắm.”
Cuối cùng, chỉ sau khi đã kể hết cho chúng tôi những gì ba cô đã làm, Veronica Macdougall mới mất bình tĩnh và òa khóc. “Cháu rất tiếc,” cô bé tiếp tục nói. “Cháu rất, rất tiếc.” Tôi nghĩ cô bé đang tạ lỗi vì những tội ác của cha mình.
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !