Nhật Xuất Đông Phương hiểu được sự nghi hoặc của A Hạ, không vội giải thích, mà hỏi lại:
- Nàng còn nhớ không, trước đây có một ngày, đêm khuya ta triệu tập trọng thần vào cung, thương lượng việc xuất binh Khuyển Nhung?
A Hạ xì một tiếng bật cười, trong ánh mắt không che nổi sự vui vẻ. Nàng đương nhiên từng nghe việc này, đêm đó Đại Khả Hãn tìm cái chết, muốn động binh, đi thảo nguyên tìm Nghĩa đệ. Thấy nàng cười gật đầu, Nhật Xuất Đông Phương lại hỏi:
- Nàng cũng biết, đêm đó mục đích của việc ta làm loạn là gì?
A Hạ đỏ mặt, ánh mắt mềm mại đầy vẻ quyến rũ, nhẹ nhàng gật đầu nói:
- Mượn nguyện vọng của Tống Dương vương gia, đề xuất hôn sự của thiếp…chàng đối tốt với thiếp, thiếp rất vui.
Không ngờ Nhật Xuất Đông Phương lắc đầu:
- Ta muốn lấy nàng làm chính thất, đây là việc không thể nghi ngờ, ai cũng không thể ngăn cản. Nhưng đêm đó dụng ý của ta là không phải như vậy.
Ánh mắt của A Hạ mê mẩn, nhìn Đại Khả Hãn.
- Tống Dương mất tích trên thảo nguyên, không ngoài hai kết quả, một là bình yên trở về, hai là chết tha hương.
Nhắc tới Tống Dương, vẻ mặt của Đại Khả Hãn cũng không thay đổi nhiều, chỉ một chút tinh mang xẹt qua trong mắt, chợt lóe lên:
- Lúc đó hắn tung tích không rõ, việc ta chỉ có thể làm là phái người lên thảo nguyên nghe ngóng, tìm người…nhưng ta tự hiểu rõ một việc: Ngộ nhỡ hắn thật sự đã chết trên thảo nguyên, người làm huynh trưởng như ta có thể làm được gì?
A Hạ vẫn có chút buồn bực, khẽ nhíu mày, chưa tiếp lời nói xen vào, Đại Khả Hãn đã tiếp tục nói:
- Đêm đó triệu tập quần thần tới, ta nói xuất binh lên thảo nguyên tìm Tống Dương chỉ là cái cớ, ta thực sự muốn thăm dò đó là: một ngày kia tin Tống Dương chết truyền về, ta có thể xuất binh báo thù hay không.
Khi Tống Dương sống chết chưa rõ. Đại Khả Hán sẽ không liều lĩnh động tới binh đao. Dù sao Tống Dương cũng không phải người bình thường, hoặc tận mắt nhìn thấy, hoặc nghe A Hạ thuật lại, Nhật Xuất Đông Phương hiểu được bản lĩnh của người huynh đệ kết nghĩa này của mình, nói mấy câu thật lòng, hắn cũng không tin Tống Dương thực sự đã chết trên thảo nguyên, lúc đó mạo hiểm xuất binh, lại rước lấy tai họa chiến tranh trong thời gian dài, kết quả Tống Dương lại bình yên trở về Nam Lý. Các võ sĩ Đại Mạc sẽ tạo phản chống lại quân vương hồ đồ Đại Khả Hãn này.
Nhưng nếu cái chết của Tống Dương là thật thì sao? Mình nên làm gì?
- Đêm đó ta chỉ muốn xem tâm tư của các đại thần, kết quả không nằm ngoài dự đoán, bọn họ không đồng ý…bọn họ sẽ không vì tìm người mà đánh nhau, đương nhiên cũng sẽ không ủng hộ ta xuất binh để báo thù.
Nhật Xuất Đông Phương giơ tay véo má A Hạ, nói tiếp:
- Vẫn chỉ là thử. Không thể cương, dù sao cũng có bậc thang, ta chính là nhắc tới việc lấy nàng.
A Hạ gật đầu, không biết nên nói gì. Chỉ an ủi nói:
- Tâm tư của Vương gia Tống Dương, thân thủ đều lựa chọn tốt nhất, lại tinh thông y thuật độc thuật, sẽ có có việc lớn gì, sớm muộn có thể quay về.
- Không về được nữa. Ta đã nhận được thư từ Yến Tử Bình, bọn họ tìm được mật thư nói Lang tốt truy sát Tống Dương đã hoàn thành nhiệm vụ… Hoàn thành nhiệm vụ, thằng ngốc cũng hiểu là chuyện gì. Chỉ là bây giờ vẫn chưa tìm thấy thi thể mà thôi, Tống Dương đã chết,.. Không cần đặt trong lòng.
Nhật Xuất Đông Phương thở dài một tiếng, lập tức chuyển:
- Mười ngày nữa, cung Trường Minh sẽ gặp đại hỏa, Thánh điện thiên cổ sẽ bị hủy hoại trong chốc lát.
Hồi Hột dựng nước tuy rằng lịch sử hơn trăm năm, nhưng giáo pháp thờ phụng hỏa thần đã lâu, kế thừa đâu chỉ ngàn năm..Thời cổ dân tộc Hồi Hột thường trú trong ốc đảo, trước sau cũng mất hơn trăm năm. Xây thành một cung điện rộng lớn thờ phụng Thánh Hỏa, mấy trăm năm sau thay đổi tuyến sông, ốc đảo rất nhanh trở nên hoang vu, Hồi Hột trước hết bất đắc dĩ phải rời khỏi. Cung Trường Minh không có cách nào mang theo, chỉ có thể ở lại trong sa mạc.
Sau này thực lực của Hồi Hột dần phát triển.. Lại trải qua hàng trăm năm, cuối cùng cũng thống nhất đại mạc, khai tông kiến quốc, thời gian này người Hồi Hột đã sớm sửa chữa xong thần điện mới đến cung Phụng Thánh Hỏa, cung Trường Minh năm đó lại phế mà không hoang, được cho là di tích vĩ đại mà tổ tiên để lại còn sót lại, đến nay đã hàng ngàn năm, tuy không có ý nghĩa tôn giáo nhưng cung điện đó vẫn là vật tổ của người Hồi Hột.
Chợt nghe thấy cung Vinh Minh cũng bị thiêu, A Hạ giật mình, toàn thân bất giác căng thẳng, người kia vỗ vai nàng, ra hiệu nàng trầm tĩnh lại:
- Gần đây ta sai Tháp Cách chuẩn bị, chính là việc này.
A Hạ ánh mắt lẳng lặng, nhìn Đại Khả Hãn:
- Chàng..tại sao lại phải đốt cung Trường Minh?
Sắc mặt Nhật Xuất Phương Đông trầm xuống, lắc đầu nói:
- Sai rồi, không phải ta đốt, là Khuyển Nhung trên đại mạc gây ra, Lang tốt hủy thần tích của tổ tiên ta, đây là nỗi nhục nhã lớn nhất của tất cả con dân Hồi Hột, ngoài lựa chọn khai chiến ra không có lựa chọn khác. Khi ta triệu tập tất cả các dũng sĩ tập kết chuẩn bị chiến tranh, nhà nàng sẽ xuất kích trước, rút trước, bất luận thành bại đều là lập đại công.
A Hạ cuối cùng cũng hiểu ý của Đại Khả Hãn, ông ta đã hạ quyết tâm khai chiến với vua Phương bắc, kiếm cớ để các đại thần ủng hộ, không tiếc thần điện của mình giá họa cho Khuyển Nhung.
Hiểu được dụng ý của Nhật Xuất Đông Phương, A Hạ chỉ cảm thấy tim như nhảy ra khỏi lồng ngực:
- Chúng ta đánh Khuyển Nhung…Thổ Phiên thừa cơ đánh lén thì làm thế nào?
- Trung thổ không phải chỉ có ba nước Hồi Hột, Thổ Phiên, Khuyển Nhung, phía đông Thổ Phiên có Đại Yến, đông nam có Nam Lý, yêu tăng Bác Kết cũng có băn khoăn của hắn..yêu tăng thật không muốn quan tâm, cùng lắm chính là đại loạn thiên hạ.
Nói xong, ông ta cười lên:
- Trong năm nước trung thổ, ai không sợ thiên hạ đại loạn nhất?
Tuy là hỏi nhưng không cần A Hạ trả lời, ông ta giơ tay chỉ vào mũi mình:
- Chỉ duy nhất có Hồi Hột ta.
Nhật Xuất Đông Phương nói như vậy tự có đạo lý riêng của ông ta, nếu thật sự có đại chiến, Hồi Hột có khả năng sẽ bị đánh bại. Nhưng những cường quốc khác muốn ông ta mất nước diệt chủng, không thể nghi ngờ khó hơn lên trời.. Hồi Hột là nước hoàng mạc, sa mạc mênh mông chính là chỗ dựa lớn nhất của họ, bất luận quân lữ của người Hán, Lang tốt trên thảo nguyên vẫn là tăng binh của Thổ Phiên, đều khó mà tác chiến trên sa mạc, ưu thế địa lý của Hồi Hột thực sự rất bất ngờ.
Như vậy chẳng khác nào một chân đứng trong thế bại trận, nếu phải chơi xiếc " ngọc nát đá tan", Hồi Hột vẫn thật sự không sợ nhất.
A Hạ đứng dậy, xuống giường, lần này lấy ra không phải là nước, mà là một bình rượu nho ngon, sau khi đưa vào tay Đại Khả Hãn lại hỏi:
- Xuất binh thảo nguyên, thống kích Khuyển Nhung, chỉ là vì báo thù cho Vương gia Tống Dương sao?
Đại Khả Hãn thíchrượu, uống một hơi là hết nửa bát, lúc này mới hả giọng, lắc đầu cười:
- Hành động theo cảm tính vùi lấp con dân vào nước lửa, đó là hành vi của hôn quân. Lần này đánh lang tốt, ta có ba dụng ý. Nói về điều thứ nhất, nàng biết, trên tay Tống Dương có một bảo vật, vì thế ta còn từng đưa nàng vào Phượng Hoàng thành mạo hiểm.
- Thi thể độc nguyên?
A Hạ đương nhiên nhớ việc này.
Nhật Xuất Đông Phương gật đầu:
- Ta và Tống Dương cùng hưởng mọi thứ, trưởng bối của hắn chính là người thân của ta, đương nhiên không thể có chủ ý đối với cỗ thi thể đó, nhưng Tống Dương đã chết. Khi hắn sống, những việc ta nên làm ta đều làm rồi. Bây giờ hắn không còn nữa, lời thề hỏa tâm ngọc chứng cũng đã tiêu tan, độc nguyên đó, ta sẽ lại đến lấy. Nhưng ta không thể phái người đi tìm, đi ăn cắp, đi cướp, ít nhất bây giờ sẽ không.
- Hiện giờ chủ quản của Yến Tử Bình là một quận chúa được hoàng đế Nam Lý ban hôn cho Tống Dương, sau khi Tống Dương chết, tâm nguyện lớn nhất của vị quận chúa này là báo thù, nàng ấy muốn ta có thể xuất binh giết lang tốt.Vậy thì ta liền xuất binh, nhưng sau đó ta sẽ yêu cầu nàng đưa ta cỗ thi thể đó.
Nhật Xuất Đông Phương mãi không quên được lạo dịch độc nguyên, nhưng ông ta căn bản không biết, thi thể của Vưu Thái Y chôn không lâu, sớm đã không còn tác dụng, nếu không làm sao đợi đến lúc ông ta cần, Yến quốc sư sớm đã ra tay trước rồi.
A Hạ hỏi:
- Đây là điều kiện xuất binh? Quận chúa Nam Lý đồng ý?
- Không, ta vẫn chưa nói với nàng ta. Đợi đánh Khuyển Nhung xong mới yêu cầu nàng ta.
A Hạ cau mày:
- Lúc đó, nàng ta sẽ đáp ứng?
Nhật Xuất Đông Phương bị A Hạ hỏi tới độ không còn kiên nhẫn:
- Con người ta làm việc, nàng không phải không biết. Mặc kệ chuyện gì, ta đều phải làm trước việc của ta, đến lúc đó ta đã đánh xong Khuyển Nhung, không thẹn với lòng, không định ức hiếp quả phụ mà huynh đệ để lại. Nàng ta nếu hiểu lí lẽ, chắc chắn sẽ giao độc nguyên cho ta, nếu không đáp ứng, ta lại phái người đi tìm, cướp đoạt cũng không muộn.
A Hạ nghe thế nào cảm thấy thế nào đây không phải là chủ ý cao minh, nhưng cũng không dám nói thêm gì.
Nhật Xuất Đông Phương lại đặt tay lên ngực A Hạ, vừa vuốt ve vừa nói:
- Nguyên do thứ hai là vì nàng. Bọn họ không phải nói nếu nhà nàng lập được công lớn, ta sẽ có thể cưới được nàng sao? Vậy thì ta cho nhà nàng lập công. Nhưng không đánh giặc, công lớn ở đâu được.
Không nhắc tới việc có tình nguyện hay không. Chỉ nói theo đạo lý, nguyên nhân đầu tiên Đại Khả Hãn đánh Khuyển Nhung vẫn miễn cưỡng hiểu được, dù sao "lạo dịch", đại sát khí này nếu có thể bị Đại Khả Hãn nắm giữ, thực lực của Hồi Hột lập tức có thể nâng lên một bậc; Nhưng đạo lý thứ hai của ông ta, vì giúp nhà A Hạ lập được công lớn mà khai chiến, chính là hành vi của một hôn quân..A Hạ khi nghe lí do này, sắc mặt do dự, khi nghe lí do thứ hai lại có vẻ mặt hưng phấn, dường như Nhật Xuất Đông Phương là một vị minh quân tuyệt thế.
A Hạ nhanh như bay liên tục gật đầu, truy hỏi:
- Nguyên nhân thứ ba thì sao? Text được lấy tại truyenyy[.c]om
Hai lí do trước Đại Khả Hãn nói chậm rãi, nhưng nói đến lí do thứ ba, ông ta đột nhiên ngậm miệng. Trầm mặc một lúc lâu, Nhật Xuất Đông Phương đột nhiên nói với A Hạ:
- Mặc quần áo vào, lấy rượu. Ba bát.
Người kia cũng không hỏi nhiều, giúp người tình mặc quần áo chỉnh tề, sau đó mình cũng mặc chỉnh tề, dùng bát vàng lấy mỹ tửu.
Nhật Xuất Đông Phương đứng trang nghiêm trong phòng, mấy bát rượu ngon bày trước mặt, bát thứ nhất bị ông ta từ từ đổ trên mặt đất, hai bát còn lại ông ta và A Hạ mỗi người một bát, bưng lên uống một hơi cạn sạch.
Theo rượu uống cạn, Nhật Xuất Đông Phương không nói nửa chữ, nhưng bát rượu ngon đầu tiên rải trên mặt đất là kính ai, ai cũng có thể hiểu..Kính Tống Dương một ly, Đại Khả Hãn đặt ly rượu xuống, lại nói tiếp:
- Con người Tống Dương, bên cạnh có không ít người, thực lực ở Nam Lý không nhỏ, hắn có chuyện đương nhiên sẽ có nhân vật lợi hại báo thù giúp hắn, vốn không cần đến ta ra tay… Nhưng hắn chết trên thảo nguyên.
- Lang tử nói đã tiễn đặc sứ Nam Lý qua rồi, nhưng chúng ta chưa thấy người, không cần hỏi nữa, sứ đoàn là bị Khuyển Nhung hại. Trước đó Tống Dương thoát khỏi sứ đoàn, nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi sự truy sát của lang tốt..Kẻ thù của hắn là ai? Là Khuyển Nhung. Kẻ thù không phải một người, mà là một nước, một thảo nguyên.
Nói tới đây, Đại Khả Hãn lại im tiếng, vẻ mặt bình tĩnh ánh mắt lặng lẽ, sau một lát đứng yên mới từ từ thở ra một hơi dài, cuối cùng nói với A Hạ nguyên nhân thứ ba để xuất binh thảo nguyên, từng chữ từng chữ một:
- Trên thế giới này, trong thiên hạ này, ngoài ta ra, không có ai có thể giúp hắn báo thù.
Nói đến cùng, căn nguyên của việc khai chiến vẫn là báo thù.
Từ Phiên Bang tới nhà Hán, trên đời Trung Thổ không biết đã trải qua bao nhiêu đời hoàng đế, quân vương, có một số người tạo phản chung đúc đại thế, nhiều hơn là "nối dõi", vừa sinh ra long bào đã liền thân. Vả lại mặc kệ bọn họ dùng cách gì, thông qua con đường nào để thành đấng tôn vương, nếu đi hỏi họ một câu: tại sao ngươi lại làm hoàng đế? Đế vương thì vô số, nhưng đáp án không ngoài hai từ: vì bản thân; vì lợi ích của thiên hạ.
Trong hai đáp án đó,hoàng đế thật sự có thể đặt trong lòng, nhìn thẳng thần linh, mặt không đổi sắc, nói ra đáp án thứ hai. Tự cổ chí kim liệu có được mấy người? Có thể đếm trên đầu ngón tay.
Có hoàng đế thông minh, sau khi vì mình có thể vững chắc trên long ỷ, vì cơ nghiệp của tổ tông vì lợi ích của con cháu, khi xử lý chính sự sẽ cần cù, chăm chỉ, bởi vậy trở thành một vị minh quân anh minh một đời, có những vị quân vương tính tình kiêu xa, chỉ vì lợi ích trước mắt, không quan tâm tới tai họa ngày mai, khiến cho thiên oán nhân giận, bị rơi vào cái danh hôn quân. Mà minh chủ cũng được, hôn quân cũng được. Xét tới cùng. Tất cả những gì họ làm, vẫn là vì bản thân họ, chỉ là biết nhìn xa trông rộng hay là thiển cận mà thôi.
Nhật Xuất Đông Phương tính tình ngay thẳng, tính cách phóng khoáng, được coi là một người tốt, nhưng ông ta làm hoàng đế cũng là vì bản thân ông ta. Thật tâm chưa từng nghĩ "vì dân phục vụ". Nếu trên chiến trường, ông ta có thể cùng với chiến sĩ đồng tộc kề vai sát cánh, chết cũng không uổng; nhưng ngồi trong cung vàng điện ngọc, ngàn vạn binh mã lại trở thành lợi thế, tiền vốn trong tay ông ta.
Ân nhân cứu mạng duy nhất, huynh đệ kết nghĩa chết tha hương. Nếu không quan tâm, ông ta thực không thể đối mặt với chính mình, về hậu quả sẽ rước lấy thế nào, ông ta không sợ, vì ông ta có tiền vốn này.
Trong giang hồ, người trọng nghĩa vạn dân kính ngưỡng; trên long ỷ, trọng tình nghĩa phần lớn là hôn quân.
Về Nhật Xuất Đông Phương có phải là hôn quân hay không để cho hậu thế bình xét, ông không quan tâm, ông chỉ cảm thấy. Tống Dương đã mấy lần cứu mạng mình, bây giờ mình là người duy nhất có thể giúp hắn báo thù, nếu không đánh một trận, Đại Khả Hãn này còn làm được gì nữa.
A Hạ cắn chặt răng, đôi mày quyến rũ trên khuôn mặt, duyên dáng quỳ rạp xuống trước mặt Nhật Xuất Đông Phương:
- Cầu xin Đại Khả Hãn, A Hạ nguyện cùng chiến sĩ nhà thiếp Đông tiến. Tiến lên thảo nguyên.
Tuy là cô nương, nhưng cũng là danh tướng anh hào, thân thủ của A Hạ, có thể đứng trong top 10 ở Hồi Hột.
A Hạ còn sợ người tình của mình không đồng ý để mình đi mạo hiểm, tiếp tục nói:
- Trận chiến này bất đồng đã qua. Có ý báo thù. Chàng là huynh đệ của Vương giaTống Dương, thiếp là người của chàng…cùng là người thân của vương gia Tống Dương. Chiến đấu báo thù, lần đầu tiên xuất chinh, lúc có người thân trên chiến trường. Huống hồ..Tuy trèo cao, nhưng thiếp và Tống Dương cũng là bạn.
Nhật Xuất Đông Phương vui vẻ gật đầu, nghỉ ngơi một lát, lại quay lại, bây giờ nói cho hết lời, ông ta lại muốn làm việc đứng đắn rồi, cười ha hả bước lên một bước:
- Nàng…đừng đứng dậy.
A Hạ đôi mắt quyến rũ, cười, đôi môi tươi đẹp.
Xuân sắc trong Thánh Hỏa cung hồi Hột vô cùng, trên đỉnh thần điện Thổ Phiên lạnh lùngảm đạm.
Khi quốc sư vào thành mặt trời đã lặn, Lạt Ma cử người mời lão tới Đáp Tháp cung gặp mặt. Đợi sau khi Quốc sư đưa Đạo Thảo lên đến tầng thứ bảy của kim đỉnh, lại bị người quản thần điện báo lại, Đại Lạt Ma vừa có việc, mời họ đợi bên ngoài đại điện.
Đợi đã mấy canh giờ, lúc này đêm đã khuya, Đại Lạt Ma vẫn không thấy bóng dáng, trong ánh sáng lờ mờ của khoảng không trong nhà, chủ quản chỉ dâng cho hai hai chén bụi hồ hồ, loại trà có vị rất lạ, sau đó không thấy lộ diện nữa.
Nước trà đặt tới bây giờ, sớm đã nguội lạnh rồi.
Quốc sư lơ đễnh, ngồi trên chiếu, nói chuyện câu được câu chăng với Đạo Thảo, khi bắt đầu thái độ của Đạo Thảo vẫn tự nhiên, nhưng đợi lâu quá, trong khóe mắt bỗng có một tia sát khí. Quốc sư thấy thế, ngữ khí vẫn là không vội không chậm:
- Ngươi như vậy không được. Nhưng không trách ngươi, nếu đổi lại là Tiểu Phi e là sớm đã nổi giận, ngươi là đệ tử của hắn, khó trách.
Đạo Thảo giọng nói rất nhẹ:
- Khinh người quá đáng.
Quốc sư không có ý kiến, lại nói:
- Nếu không có ta, chỉ một mình ngươi đợi, ngươi nên biết cách bình tĩnh đi.
Đạo Thảo sửng sốt, lập tức gật đầu: luận tới võ công, độc thuật bản lĩnh giang hồ Hoa Tiểu Phi gần với Yến Đỉnh, có thể xếp trong ba nhân vật đương thời. Có thể nhận được sự coi trọng như vậy của Hoa Tiêu Phi, Đạo Thảo đương nhiên không hề đơn giản. Lúc đầu trong Phượng Hoàng thành đại khai sát giới, xử xự bình tĩnh, sát thủ vô tình hơn nữa không tham lam, cũng đủ chứng minh sự lợi hại của y rồi.
Đạo Thảo không phải người thiếu kiên nhẫn. Theo như Quốc sư nói, nếu bây giờ chỉ là một mình Đạo Thảo đợi, đối phương cho dù làm khó dễ thế nào, y cũng sẽ không động khí. Nhưng Quốc sư ở ngoài thì không giống nữa, y là tủi khuất, tức giận thay cho trưởng bối, vì vậy mà động tới sát tâm.
- Cho nên ta mới nói, ngươi như vậy không được. Sự bình tĩnh thực sự, chính là ở chỗ biết kiềm chế tâm thần, không nên bị kích động bởi yếu tố khách quan. Ta dẫn ngươi đến không sai, nhưng với ngươi mà nói, ta cũng chỉ là nhất trọng hoàn cảnh mà thôi, ngươi không nên bị ta làm quấy tâm trạng.
Nói xong, quốc sư đột nhiên cười, lại vẫy tay nói:
- Nhưng chỉ là đạo lý ngoài miệng mà thôi, nói thì nói vậy, nhưng có mấy người làm được? Nếu đổi lại là người khác, ta cũng sẽ tức giận.
Đạo Thảo là người thân cận bên cạnh, biết "người khác" mà quốc sư nói là ai, nghe rồi cười, vẫn là sự cung kinh mà nói:
- Đa tạ sư bá chỉ giáo.
Lúc này ngoài cửa truyền đến động tĩnh, một đệ tử Mật tông đẩy cửa ra, Đại Lạt Ma không biết là vừa tỉnh ngủ hay ăn no, tóm lại bận rộn xong việc trên tay, truyền mời quốc sư.
Hai người đứng dậy, Đệ tử mật tôn giơ tay cản lại:
- Đại Lạt Ma chỉ gặp một mình quốc sư.
Đạo Thảo đang muốn dừng bước, quốc sư giơ tay nhẹ nhàng đẩy tay đệ tử mật tông:
- Ta đi tới đâu cũng đem theo hắn, hoặc là cả hai cùng đi, hoặc là xin cáo từ.
Đệ tử mật tông do dự một lát, không kiên trì nữa, dẫn cả hai người rời khỏi nhà.
Cửa chính của Kim đỉnh thần điện không biết mở từ bao giờ, Quốc sư và Đạo Thảo dược người dẫn thẳng tới trong, Đại Lạt ma ngồi ở giữa nhà, thấy quốc sư đến không đứng dậy, không nói, chỉ cười nhìn người đến.
Trên đại điện không chỉ có mình Đại Lạt Ma, Ô Đạt cũng ngồi đó, phụng sự ở bên.
Đệ tử mật tông dẫn đường đi trước một bước, thi lễ với Đại Lạt Ma trước, phục mệnh, rồi bước ra phía sau, ánh mắt lạnh lùng nhìn quốc sư:
- Đã gặp Đại Lạt Ma, tại sao không quỳ..
Nhưng lời của gã còn chưa dứt, đột nhiên một đầu ngã xuống đất.
Vẻ mặt của Đại Lạt Ma không thay đổi, vẫn không nói như vậy, Ô Đạt lại nhảy dựng lên, nhẹ nhàng tiến lên bên cạnh thân thể của sư đệ dò xét một lúc, rồi lắc đầu, hai tay chắp lại miệng lẩm bẩm đọc một đoạn siêu độ, rõ ràng người này đã chết.
Sau khi niệm kinh xong, Ô Đạt đứng thẳng người, thản nhiên hỏi quốc sư:
- Sư đệ là trúng độc bỏ mạng, Quốc sư cũng biết là ai gây nên?
- Là ta hạ độc, gã từng duỗi tay cản ta.
Phúc ngữ của Yến Đỉnh mang theo tiếng cười, nhẹ nhàng đáp:
- Đáng chết.