Chương 1 Trời vừa rạng, gió mạnh đập vào đám cây dương Cuối tháng Mười năm 1914, ba anh em cùng nhau phi ngựa từ Choteau, Montana đến Calgary ở Alberta nhập ngũ trong Thế chiến (Mỹ không tham gia cho đến năm 1917). Một ông lão da đỏ thuộc bộ lạc Cheyenne tên là One Stab đi theo họ để dắt ngựa về, vì mấy con ngựa này thuộc loại thuần giống và cha họ cho là chúng còn non, không thích hợp cho các anh con trai cưỡi ngựa ra trận. Ông lào One Stab biết mọi lối tắt ở vùng bắc dãy Rockies nên họ đi qua những vùng hoang vu, phần lớn xa đường cái và khu dân cư. Họ ra đi trước lúc rạng đông, trong chuồng ngựa người cha cầm cây đèn dầu hoả boa quanh bằng da bò rừng, tất cả đều im lặng và lúc chia tay, ông ôm chặt các con, ngọn đèn hắt ánh hồng trong đám khói trắng mảnh đến tận rui nhà.
Trời vừa rạng, gió mạnh đập vào đám cây dương, những chiếc lá bay vèo qua đồng cỏ cao và cuốn tròn lại. Lúc họ lội qua dòng sông đầu tiên, gió xoáy rứt lá bông, đập chúng vào các tảng đá. Họ dừng lại ngắm một con đại bàng bị trận tuyết đầu mùa trên núi xua xuống đang hoài công săn đuổi đàn vịt trời trong những lùm cây thấp. Ngay cả trong thung lũng này họ cũng có thể nghe thấy tiếng rú của gió đập vào các tảng đá lạnh lẽo bên trên các hàng cây. Đến trưa họ băng qua dải phân cách và ngoảnh lại nhìn nông trại lần chót. Mấy anh em đăm đăm ngắm nhìn cảnh vật chẳng hề bớt đẹp chút nào trong gió rét căm căm mang không khí trong sạch, dù đã ở xa hai mươi dặm nông trại trông vẫn đẹp và gần gũi. Tuy nhiên, lão One Stab không thích sự uỷ mị và tỏ ra khinh khi ra mặt lúc họ băng qua những con đường sắt của Bắc Thái Bình Dương. Đi xa thêm chút nữa, lúc nghe thấy tiếng tru ai oán của một con sói giữa trưa, họ giả vờ như không nghe thấy vì tiếng sói tru ban ngày bị coi là điềm gở nhất. Họ ăn trưa ngay trên lưng ngựa như để thoát khỏi âm thanh tang tóc và không muốn ngồi bên rìa trảng, vì có thể âm thanh bi thiết ấy lại vọng đến. Alfred, người anh cả, đọc lời cầu nguyện trong lúc người anh thứ hai là Tristan lầm bầm nguyền rủa rồi thúc ngựa vượt Alfred và lão One Stab. Samuel là người con út mải nhìn ngắm hệ động thực vật xung quanh. Anh là con cưng trong gia đình, mới mười tám tuổi đã học đại học Harvard được một năm về các phương pháp thực hành của Agassiz [1] ở Bảo tàng Peabody. Lúc One Stab dừng lại bên rìa một đồng cỏ lớn để đợi Samuel đuổi kịp, tim lão ớn lạnh khi thấy con ngựa lang từ cánh rừng lao ra và chàng kỵ sĩ đeo lên mặt nửa cái đầu lâu bò rừng đã bạc trắng và tiếng cười ròn rã của anh vang khắp đồng cỏ, vọng đến chỗ ông già da đỏ. Ngày thứ ba của cuộc hành trình, gío đã lặng và không khí ấm áp, sương mù mùa thu làm cho mặt trời sầm lại. Tristan bắn chết một con hươu làm Samuel phẫn nộ, anh chỉ ăn thịt hươu và lễ phép với anh trai. Alfred trầm ngâm và giữ thái độ tránh né như mọi khi, chỉ thầm tự hỏi sao One Stab và Tristan có thể ăn nhiều thịt hươu đến thế. Anh thích thịt bò hơn. Khi Tristan và One Stab ăn đến bộ gan, lúc đầu Samuel cười và nói anh là người ăn tạp, rồi cuối đời sẽ thành loài ăn cỏ, nhưng Tristan đúng là một loài ăn thịt thật sự, có thể ăn suốt ngày, cưỡi ngựa suốt ngày, uống rượu suốt ngày, cũng như chơi gái suốt ngày. Tristan cho một người tá điền phần con hươu còn lại, ông ta cho họ ngủ nhờ đêm ấy trong cái nhà kho tồi tàn, họ thích ngủ ở đấy hơn trong căn nhà tuềnh toàng, buồng ngủ đầy trẻ con và sặc mùi nước tiểu. Nững người nông dân không sở hữu đất đai có một đặc điểm chung là họ không hề biết ở Châu Âu đang có chiến tranh, nhiều người thậm chí không biết Châu Âu nằm ở đâu. Bất ngờ, trong bữa tôi, Samuel cảm thấy mến cô con gái đầu lòng của ông chủ nhà, anh trích dẫn một đoạn thơ của Heirich Heine bằng tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ của cô. Ông bố bật cười, còn bà mẹ và cô con gái lúng túng rời bàn ăn. Lúc tảng sáng khi họ ra đi, cô gái tặng Samuel chiếc khăn quàng cô đã thức suốt đêm để đan cho anh. samuel hôn tay cô, hẹn sẽ viết thư và tặng cô chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng làm bùa hộ mệnh. One Stab nhìn thấy họ, lúc ấy ông lão đang ở bãi quây gia súc, thắng yên cho mấy con ngựa. Lão vớ lấy bộ yên của Samuel như vớ lấy số phận bất hạnh lúc nào cũng ở tầm xa nhất và đen tối nhất của giống đàn bà. Pandora[2], Medusa[3], các Bacchantes[4], những Fury[5] đều là đàn bà tuốt, cho dù các nữ thần bé nhỏ nọ nằm ngoài khái niệm về nhục dục. Ai gây ra cái chết hơn bọn chúng, những kẻ có ảnh hưởng đến Trái đất hoặc trái tim người đẹp? Họ phi suốt quãng đường còn lại đến Calgary trong cảnh hoa lá sum suê của mùa hè Indian ngắn ngủi. Trong một quán rượu bên đường đã xảy ra một việc tồi tệ vào lúc họ buộc ngựa, kiếm chai bia rửa miệng cho đỡ bụi bặm. Chủ quán không cho lão One Stab vào bên trong. Samuel và Alfred cãi lý với chủ quán, đúng lúc Tristan vừa cho ngựa uống nước xong bước vào. Hiểu ra đầu đuôi câu chuyện, anh nổi điên lên đấm đá túi bụi vào ông chủ quán lực lưỡng. Anh quăng một đồng vàng cho người gác cổng đang bồn chồn cầm khẩu súng lục, vớ một chai whiskey và một xô bia, rồi cả bọn nghỉ chân ăn uống dưới bóng cây ngoài trời. Alfred và Samuel nhún vai, họ đã quen với kiểu hành xử này của Tristan từ lâu. One Stab thích vị bia và whiskey nhưng ông lão chỉ súc miệng rồi nhổ toẹt xuống đất. Lão là người Cheyenne, nhưng đã sống ba chục năm trong hạt Cree và Blackfoot, và chỉ quyết say sưa khi nào trở về Lame Deer trước khi từ giã cõi đời. Ngụm nhổ của lão làm Samuel và Alfred cười phá lên, nhưngTristan thì không, anh hiểu One Stab và quấn quýt với lão từ năm anh lên ba, trong lúc Samuel và Alfred chẳng chú ý gì đến lão hết. Tại Calgary, ba chàng trai được các tân binh đón mừng khác thường. Viên thiếu tá huấn luyện kỵ binh địa phương là người vùng Corwall, đồng hương với đại tá Ludlow, cha của họ, thực ra ông thiếu tá đi thuyền buồm rời Falmouth cùng một năm với Ludlow, nhưng lại đến Halifax chứ không đến Baltimore. Thiếu tá rất bực mình vì Hoa Kỳ từ chối tham chiến, ông thấy rõ là chuyện đó sẽ mang lại hậu quả nặng nề và người ta sẽ phải chịu đựng hơn nhiều so với kiểu suy nghĩ lạc quan của người Canada cứ tưởng vua Đức và dân Đức bỏ chạy líc dân bản xứ đổ bộ vào Bắc Mỹ. Nhưng hồi đó những lời khoác lác ngớ ngẩn như thế được binh lính coi trọng, họ là bia đỡ đạn hào phóng cho nền kinh tế thế giới và những mưu đồ chính trị. Trong một tháng huấn luyện trước khi đi tàu hoả rồi lên tàu quân sự ở Quebec, Alfred nhanh chóng trở thành sĩ quan. Samuel thành sĩ quan phụ tá vì anh biết tiếng Đức thành thạo và biết xem bản đồ. Còn Tristan thì do hay gây gổ và say rượu, bị giáng xuống làm giám mã, song anh lại thực sự cảm thấy thoải mái. Bộ quân phục làm anh vướng víu và những kỷ luật chặt chẽ làm anh buồn phát khóc. Nếu không vì có hiếu với cha và ý nghĩ Samuel cần được chăm nom, anh đã trốn khỏi doanh trại và lấy trộm một con ngựa, trở lại miền nam theo con đường của One Stab. Nơi hậu phương gần Choteau, William Ludlow (đại tá, kỹ sư cao cấp, quân nhân nghỉ hưu) đã trải qua nhiều đêm không ngủ. Vào buổi sớm các con trai ra đi, ông bị cảm lạnh và nằm liệt giường mất một tuần lễ, nhìn đăm đắm ra cửa sổ hướng bắc đợi One Stab mang tin về, dẫu tin tức có mơ hồ và ít ỏi đến đâu chăng nữa. Ông viết nhiều bức thư dài cho vợ đang trú đông ở Prides Crossing, phía bắc Boston, bà giữ ở đó một ngôi nhà ở quảng trường Louisberg dành cho những buổi tối đi xem nhạc kịch hoặc nghe giao hưởng. Bà yêu thích Montana từ tháng Năm đến tháng Chín, nhưng cũng ngang bằng thế, bà thích đáp tàu trở lại với những phép tắc lịch sự của Boston, những địa chủ giàu có hồi ấy chưa có được thói quen của bà. Ngược lại với quan niệm sai lầm, những người chăn bò không bao giờ có trại riêng. Họ chẳng qua chỉ là người thạo việc, những chàng trai lập dị, suốt ngày lông bông, những người Cô dắc hiểu súc vật còn tỏ tường hơn hiểu nhau. Một số trại chăn nuôi lớn nhất ở phía Bắc miền trung Montana thực sự là của những nhà quý tộc Scottish và Anh thường xuyên vắng mặt. (Ngài George Gore là một người Irish thô lỗ, có dòng dõi quý tộc đáng ngờ, đã làm người da đỏ nổi điên lên vì việc giết một ngàn con nai sừng tấm và một số bò rừng tương đương trong một cuộc "giải trí" thể thao). Nhưng Ludlow viết thư cho vợ trong một tâm trạng nuối tiếc. Bà đã một mực giữ Samuel không cho ra trận. một năm nay bà luôn giữ nếp ăn trưa ngày thứ bảy ở Boston, trò chuyện với Samuel về một tuần qua đầy hứng thú của anh ở Harvard. Bà nuông chiều cậu con trai út, còn Alfred là người tẻ nhạt và ngăn nắp so với tuổi trẻ, và Tristan lại bất trị. Hồi tháng Chín, một tháng sau sự kiện Sarajevo, bà cãi nhau với chồng rồi ba ngày sau bà khăn gói ra đi. Giờ đây Ludlow hiểu lẽ ra ông nên giữ Samuel lại và gửi đến anh Harvard dù chỉ để cho mẹ anh vui lòng. Bà đã đưa cô em họ xa Susannah trẻ trung từ miền Đông về, với hy vọng Alfred sẽ có một cuộc hôn nhân tốt đẹp, nhưng thay vào đó cô lại hứa hôn với Tristan. Chuyện này làm Ludlow thích thú, ông ngầm che chở cho những hành vi bậy bạ của Tristan, dù sau bữa tiệc đính hôn Tristan đã hành động không thể tha thứ được, anh mất mặt suốt một tuần với One Stqb để đuổi theo một con gấu xám đã xơi mất hai con ngựa. Ludlow nằm dưới tấm chăn lông vịt xem cuốn vở dán các bài báo cắt ra của ông, tâm trí ông kích động hẳn lên vì hơi náo nức. Ông nhớ lại những ngày đầu óc đầy rẫy những ý nghĩ lãng mạn, tâm trí ông xoay ra châm biếmg, quá khứ trở thành một vũng bùn đặc quánh không sao dứt ra được. Dù đã sáu mươi tư tuổi, sức khoẻ và sự cường tráng của ông không hề suy giảm, song thân ông đã tám mươi lăm vẫn còn sống ở Cornwall, có nghĩa là ngoại trừ tai nạn, ông có khả năng sống lâu hơn ông muốn. Trong cuốn vở, ông đọc một bài thơ ngớ ngẩn ông viết hồi ở Vera Cruz và thích thú ghi chú rồi dán vào bài báo "Sự mắn đẻ của cá tuyết". Là kỹ sư mỏ, ông đã đi khắp nơi, từ Maine đến Vera Cruz, Tombstone ở Arizona và Mariposa, California, đến vùng có mỏ đồng ở Upper Pennisula của Michigan. Đến năm ba mươi lăm tuổi, ông vẫn chưa lập gia đình, rồi sáu đó thật bất ngờ, ông cưới con gái ông chủ ngân hàng đầu tư giàu có ở Massachusetts. Chẳng phải sự giàu có ấy đã ảnh hưởng đến việc lắp ghép ngở ngẩn – mỗi tháng ông vẫn lĩnh khoảng năm trăm bảng ở mỏ bạc Vera Cruz, gần bốn ngàn đô la theo tỷ giá hồi ấy. Khoản tiền ấy gửi đến một nhà băng ở Helena, và mỗi năm ông đến đấy vài lần theo dõi khoản đầu tư của ông và điều khiển công việc ở câu lạc bộ Cattleman. Cuộc hôn nhân của ông đã tàn lụi, dần dần biến từ sự nồng nàn trước đây thành sự tao nhã thờ ơ và kỳ quặc. Chuyến đi trăng mật của họ đến châu Âu đã khai hóa cho họ một điều là ông không hề bận tâm nếu bà có kiếm một người tình lúc đi trú đông ở Boston, thường là trẻ hơn bà nhiều. cuộc tình gây nhiều xôn xao mới nhất của bà là một sinh viên Harvard, John Reed, sau này thành một tay Bôn sê vích nổi tiếng và chết ở Moscow vì bệnh sốt Ricketsia. Giống nhiều người giàu có của thời đại theo thuyết bình quyền, bà quan tâm đến nhiều thứ, sôi nổi và nguỵ biện. Sau khi đặt tên cho đứa con trai đầu lòng rất đúng nghi thức theo tên ông nội, đứa thứ hai mang tên "Tristan" trong cơn bốc đồng của bà, nhặt từ một truyền thuyết thời Trung cổ trong những năm bà học ở Wellesley. Là người khá điển hình, bà là phụ nữ đầu tiên chơi polo, ngang tài ngang sức với những tay kỵ sĩ nam giới hưởng lạc, coi thế giới như cái chuồng ngựa của họ. Ngay ở độ tuổi năm mươi bà vẫn đẹp, một vẻ đẹp trái lẽ tự nhiên, tuy thân hình bà trước kia mảnh dẻ đang trên đà đầy đặn. Bà ra sức biến Samuel thành một nghệ sĩ, nhưng anh thừa hưởng thiên hướng khoa học của cha và lang thang khắp nông trại với những cuốn cẩm nang, chăm chỉ sửa những điều không đúng từ thời Victoria. Lần đầu tiên kể từ ngày các con a đi, Ludlow xuống ăn tối và thất vọng thấy chỉ có một bộ dao đĩa đặt ở đầu bàn ăn, lạnh lẽo đến mức ngọn lửa đang reo phần phật trong lò sưởi cũng không làm cho ông thấy ấm lên chút nào. Roscoe Decker, quản lý của ông đang ngồi uống cà phê với cô vợ có biệt danh là Pet, một người Cree – một nhánh của người da đỏ Mỹ ở Manitoba và Saskatchewan – đẹp nổi tiếng, đã được bà Ludlow dạy nấu ăn rất ngon từ vài năm nay, theo một cuốn sách dạy nấu ăn cổ của Pháp tên là Ali Bab. Decker (không ai gọi anh ta là Roscoe, cái tên mà anh ta rất ghét) trạc bốn mươi tuổi, có đôi chân mảnh dẻ của một kỵ sĩ nhưng bộ ngực và cánh tay vạm vỡ vì đã đào hố chôn cọc hàng rào suốt thời trai trẻ. Ludlow bảo ông thấy cô đơn và nói oang oang lên rằng liệu họ có thể ăn tối cùng nhau trong phòng ăn không. Pet rót cho ông một tách cà phê và lắc đầu từ chối. Decker nhìn lảng đi. Ludlow cảm thấy đỏ mặt khi nghĩ rằng nếu ông ra lệnh cho họ ăn cùng ông từ mười năm nay, họ sẽ không có thái độ cách biệt như thế. Vì vậy Ludlow và Decker uống cà phê trong mùi thơm nồng nàn của thịt hươu hầm rượu táo theo kiểu Normandy mà Pet đang nấu trên bếp lửa. Decker định nói chuyện về gia súc nhưng Ludlow nhìn đăm đăm vào khoảng không, không chịu nghe vì giận dữ. Ông quan sát Isabel, đứa con gái lên chín của Decker, đặt theo tên vợ ông, đang xách thứ gì đó đi qua sân. Cô bé đi qua cái lều để máy bơm rồi vào cửa bếp, té ra thứ đó là một con lửng khoảng vài tuần tuổi mà Tristan đã cho nó. Pet bảo nó mang con vật ra ngoài nhưng Ludlow ngắt lời vì tò mò. Con lửng có vẻ yếu. Ludlow bảo đun nóng sữa và lấy ít thịt hầm nghiền nhuyễn. Pet nhún vai và bắt đầu nhồi bột làm bánh quy trong lúc Ludlow hâm nóng sữa còn Decker xem xét con vật. Họ tìm được một bình sữa có cả núm vú cao su trong phòng để đồ ăn và Isabel vừa cầm bình sữa vừa đu đưa con lửng mút ngấu nghiến. Lúc này Ludlow thấy vụi ông lấy một chai Armagnac, rót ra ly cho ông và Decker thêm vào cà phê. Isabel không được đi học vì là con lai, nên Ludlow cam kết từ sáng mai, đúng tám giờ ông sẽ dạy cô bé. Không khí nhẹ nhõm hẳn đi, đến mức Ludlow xuống hầm rượu lấy một chai vang đỏ loại ngon cho hợp với bữa ăn. Đã nhiều năm ông dửng dưng với sở thích vang ngon của vợ, rồi dần dần thay đổii ý kiến, ông đọc một quyển sách viết về rượu vang và thành người say sưa đến mức hầm rượu của ông đầy chật, một phần vì đường xe lửa từ Bắc Thái Bình Dương đến San Francisco bị tắc và ông phải mua lén của một nhân viên hoả xa. Trong lúc ở hầm rượu, ông đã giải quyết được sự vướng mắc: tất cả bọn họ sẽ ăn trong bếp gồm cả One Stab khi nào ông lão trở về. bằng cách ấy, ông hy vọng sự vắng mặt của các con sẽ không đến nỗi gây ra nỗi đau rát buốt và hiển nhiên như thế nữa. Ông phân tích việc đó khi trở lại nhà bếp, như một cách ước lượng nhiên liệu tự nhiên cho mùa đông. Sẽ đóng cửa phòng ăn. gia đình Decker sẽ dọn đến phòng dành cho khách và sẽ cho ba người ở nông trại đến ở nhà của Decker. Tất cả đều biết ông lão One Stab sẽ không dọn khỏi căn lều của lão trừ phi có Isabel khi bà ốm ba ngày liền và One Stab xin trổ một vài nghi thức hành lễ bí mật. Ludlow biết One Stab có một túi đựng đầy các mảnh da đầu không chỉ của một số ít người Cô dắc, song ông ngấm ngầm chấp thuận. Sau bữa tối, họ chơi bài pinooc suốt buổi với Pet và Isabel thắng số vang và brandy mà Ludlow và Decker đã uống. Ludlow tuyên bố ngày mai Decker phải dọn nhà và họ sẽ đưa chó đi săn gà gô trắng. Decker nói anh ta hy vọng mấy ngày nữa lão One Stab sẽ về. Pet dọn bánh pudding bằng mận chín ở vườn nhà và Isabel ngủ thiếp trong ghế bành, con lửng to hó mắt từ tấm chăn trên lòng cô bé. Đến nửa đêm, Ludlow đi ngủ với cảm giác bình yên, ấm áp, rằng thế giới này quả thật là một nơi tốt đẹp, chiến tranh sẽ sớm kết thúc, và ngày mai ông với Decker sẽ có một cuộc đi săn thú vị. Ông đọc lời cầu nguyện ban đêm và cầu nguyện cho cả One Stab, một kẻ ngoại đạo trơ như đá vững như đồng trước ảnh hưởng của họ. Ông thức giấc lúc hơn ba giờ một chút, vã mồ hôi sau một giấc mơ làm ông run bắn người đến nửa giờ sau. Trong mơ, ông nhìn thấy các con trai ông chết trận, còn ông đứng bơ vơ trên một triền đồi cô độc, rồi lúc nhìn xuống ông nhận thấy ông đi đôi xà cạp bằng da nai thực ra là của One Stab. Ông băn khoăn lúc châm tẩu thuốc và ngắm những cái bóng chập chờn trên vách của cây đèn dầu hoả, nghĩ đến một giấc mơ còn sầu thảm hơn, vì năm 1874 lúc ông đang hạ rại ở Short-Pine Hills và One Stab đến, khá tình cờ nói rằng Sitting Bulll cùng năm ngàn chiến sĩ da đỏ từ sông Tongue đang trên đường về phía nam đến chỗ họ. Thế là họ phi ngựa cả ngày lẫn đêm suốt ba ngày để thoát cái bẫy, một số người phải buộc chặt mình vào yên ngựa vì quá kiệt sức. Ludlow quấn chặt thêm tấm áo choàng và ra khỏi phòng, xuống hành lang và ngó vào phòng Alfred trước tiên, căn phòng có nhiều thứ đồ chơi uỷ mị, những quả tạ, sách dạy cách tự lực, rồi đến phòng Samuel bừa bãi những kính hiển vi, những con thú nhồi gồm một con chồn gulô đang nhe răng, những tiêu bản thực vật, một mảnh củi rều vớt dưới sông từ hồi anh còn niên thiếu giống hình một con chim ưng đang giật mình. Ludlow không vào phòng của Tristan, ông nhớ là nó trơ trụi và không tô điểm gì, một đôi dép da hươu trên sàn, trên giường có một tấm da lửng phủ gối và một cai hòm nhỏ ở góc phòng. Ludlow nhăn mặt, ông biết tấm phủ gối là da con vật cưng của Tristan hồi lên mười. Ludlow đã bắn chết nó khi nó cắn chết con chó nhỏ của vợ ông làm bà lên cơn thần kinh. Ngày thường là con vật hung hăng nhất, con thú cưng này ngồi trên lưng ngựa cùng Tristan, vắt vẻo trên quả táo ở yên ngựa và xì xì với tất cả những ai đến gần trừ One Stab. Ludlow cúi người soi cây đèn lên trên cái hòm. Ông cảm thấy mình như một lão già rình rập, nhưng không cưỡng lại được sự tò mò. Bên trong cái hòm, ánh đèn chiếu lấp lánh lên những bánh xe của bộ đinh thúc ngựa Tây Ban Nha mà Ludlow cho Tristan trong dịp sinh nhật lần thứ mười hai. Có một ít đạn của khẩu súng trường săn bò rừng Sharps, một khẩu súng ngắn han rỉ không rõ nguồn gốc, một hộp đá lửa hình mũi tên và một chuỗi hạt đeo cổ bằng vuốt gấu, rõ ràng là quà tặng của One Stab, người mà Ludlow luôn cảm thấy là cha cậu bé hơn cả ông. Ở đáy hòm, Ludlow sửng sốt tìm thấy quyển sách của ông do Cục ấn loát Nhà nước in năm 1875 gói trong tấm da linh dương chưa thuộc, với nét chữ ngoằn ngoèo của trẻ con viết ở mặt bên trong bìa sách "cha tôi đã viết cuốn sách này". Ông đứng sững, chiếc đèn lồng lắc lư dữ dội trong tay. Ông không mở quyển sách này đã ba thập kỷ, do tiếc những khuyến cáo của ông về mỏ Sioux không được chấp thuận, thậm chí còn bị khinh miệt, sau đó ông từ chức rồi bỏ đi Vera Cruz. Ông nhận thấy Tristan gạch dưới và chú thích nhiều trang, ông lấy làm lạ là một cậu bé dốt nát và cứng đầu cứng cổ như thế lại làm được một việc mà ông cho là có tính kỹ thuật. Ông mang quyển sách về phòng và rót một ly whiskey Canada trong cái hũ vẫn giấu dưới gầm giường dành cho những khi mất ngủ. Bản thân tên quyển sách đã nhạt nhẽo nếu người ta thờ ơ với những trớ trêu của lịch sử "Báo cáo về cuộc khảo sát Black Hills ở Dakota, lập vào mùa hè năm 1874 của William Ludlow, kỹ sư trưởng kíp, hàm đại tá (vẫn ăn lương trung tá) quân đội Mỹ, tổng công trình sư của Dakota". Là một nhà khoa học hoặc được người thời đó coi là nhà khoa học, ông đã tham gia Đội kỵ binh thứ Bảy dưới quyền chỉ huy của viên sĩ quan có cấp bậc là trung tá George Armstrong Custer. Ludlow với bản tính trầm lặng của người Cornwall, căm ghét Custer và kết bạn với nhóm kỹ thuật gồm George Bird Grinnell của Đại học Yale, một người vui tính. Mỗi khi Custer đặc biệt lo lắng hoặc tức giận, ông ta thường nhại giọng Anh của Ludlow, hành động đó của một sĩ quan là không thể tha thứ được. Ba năm sau, năm 77 Ludlow đã lẳng lặng làm lễ kỷ niệm khi nghe tin về cái chết của Custer ở Little Bighorn. Những khuyến cáo của ông trong phần kết của bản báo cáo rất ngắn gọn và thẳng thắn. Sau khi liệt kê những thuận lợi hiển nhiên của vùng này, kể cả với bảo vệ nó chống lại cái nóng như thiêu và những cơn dông bão rét mướt của vùng đồng cỏ lân cận, Ludlow khuyên: "Tuy nhiên về mặt này, giải pháp cuối cùng với người da đỏ là biện pháp sơ bổ không thể thiếu được. Vùng này được các chủ nhân gìn giữ như những khu săn bắn và nơi ở. Nhìn xa hơn, lường trước được thời kỳ săn bò rừng, hiện đang là sinh kế chính của các bộ lạc hoang dã, đến giai đọan cuối cùng sẽ không còn đủ thú mà săn bắn nữa, phải đợi vào việc định cư trong và quanh vùng Black Hills là nơi ở cố định trong tương lai của họ, nếu không thì bị tiêu diệt dần là số phận của họ…Người da đỏ không có lãnh địa xa hơn về phía tây để đi cư." Ông nhấp một ngụm lớn whiskey, chú ý đến nét chữ nguệch ngoạc của Tristan hơn là đến sự căm ghét độc địa và những mánh khóe ngụy biện của chính phủ, đã làm ông gần thành người ẩn dật. Ông nhớ rõ dịch châu chấu mà Tristan thấy thích thú: "Một buổi sáng, tôi đếm được hai mươi lăm con trên diện tích ba chục centimét vuông mặt đất. một phép tính đơn giản trên một triệu mẫu Anh…. có thể hình dung mức độ tàn phá rau màu của chúng quá ư khủng khiếp. Khả năng những chuyến bay dài của chúng thật tuyệt vời…hình như chúng có thể bay suốt ngày, thường bay theo chiều gió, đặc cả không gian trên tầm cao rộng mênh mông..Những đôi cánh phản xạ làm chúng giống như những túm bông bay lững lờ trong gió…lúc hạ xuống trong những tia mặt trời xiên chéo, chúng giống như một dòng thác những bông tuyết khổng lồ." Ludlow nhớ lại Custer có kiểu nói thất thường với đội quân, mớ tóc vàng hoe của ông ta bị những con châu chấu bám dai dẳng. Ông đọc tiếp, nhìn chăm chú vào những phần Tristan gạch dưới, đọan viết về mặt trăng đỏ bầm như thiêu cháy quang cảnh màu be. Tristan đã ghi thêm "Tôi đã nhìn thấy hiện tượng này. Lúc đó với Stab, ông không ám chỉ đến lửa trại". Tuy vậy, đoạn ám ảnh nhất là miêu tả về những cái sọ bò rừng mà Ludlow nhận ra ngay sự mê tín trong vũ điệu ma quỷ của One Stab và niềm say mê trẻ con của Tristan "Một người đàn ông bắn một con bò rừng và không ăn hết, bèn làm lều hoặc giường bằng da để bản thân mình không bị bắn, kể cả xương tuỷ mà Stab nói phục hồi được toàn bộ sức khoẻ cho người". Ludlow nhớ lại cái sọ và ánh sáng trên những cái lông chim ưng bay bên dưới con ngựa của ông đang đuổi theo con chim bồ câu bất hạnh "Mới có một ít năm kể từ khi chúng ta tấn công các khu đất nuôi bò rừng rất thích hợp, những cái sọ trắng hếu của chúng rải rác trên cánh đồng cỏ ở khắp nơi, mọi phía. Thỉnh thoảng dân da đỏ thu nhặt và xếp chúng trên mặt đất theo những hình kỳ quái. Tôi đã chú ý đến một trong những bộ sưu tập đó, những cái sọ sơn các đường sọc, các vòng tròn màu đỏ và xanh lơ, xếp thành năm hàng song song, mỗi hàng có mười hai cái, tất cả đều quay về hướng Đông". Ông uống xong và gà gà ngủ, không tắt đèn vì sợ giấc mơ trở lại với bao nghi ngờ tai hại nhuốm màu hoang dã và sự tận số đầy kịch tính. Ludlow không ngu để cố sắp xếp cuộc sống đã qua, nhưng ông hiểu một cách đơn giản rằng cuộc đời thứ hai của ông thông qua các con trai không dễ sai khiến, với Alfred và Samuel thì không đến nỗi nào, chúng là người mộc mạc, nhưng với Tristan lại khác. Ludlow sẽ ấp ủ, ít ra là tạm thời, bất kỳ một ý niệm khoa học nào liên quan đến sự đột biến và quan niệm phổ biến thời ấy là tính cách thường nhảy cách một thế hệ. Cha của Ludlow là thuyền trưởng thuyền buồm, đã tám mươi tư tuổi vẫn mãnh liệt và hấp dẫn, vẫn như con người họ đã thấy từ nhiều năm trước. Những chuyến đi lang thang của một người chế ngự thiên nhiên đã đẻ ra nhiều câu chuyện như nhìn thấy một con mực khổng lồ đánh nhau dưới ánh trăng trong biển động Humboldt ngoài khơi của Peru, hoặc vì sao người ta không bao giờ đi vòng quanh Vịnh trong sức gió bảy mươi dặm một giờ. Có năm, quà tặng Giáng sinh cho Ludlow là một cái đầu teo quắt ở đảo Java và năm sau là một pho tượng Phật bằng vàng của Xiêm và một chuỗi liên tiếp những mẫu quặng từ khắp nơi trên thế giới. Có lẽ Tristan trong đột biến về di truyền những trở thành cha của ông và giống như Cain[6], dưới vẻ bề ngoài cố ý vô ơn, không bao giờ chịu nghe mệnh lệnh của bất cứ ai, tự làm nên số phận mình bằng những hành động cá nhân đến mức không ai trong gia đình đoán biết. mười bốn tuổi, Tristan bỏ học và đi đánh bẫy linh miêu đủ tiền mua bất cứ thứ gì, ngoài những tấm da may áo khoác và gửi đi Boston làm bà mẹ sững sờ. Sau đó anh mượn khẩu súng săn Purdey của Ludlow và biến mất, ba tháng sau trở lại nông trại với một túi tiền đã thắng trong môn tung đĩa đất sét để bắn ở các câu lạc bộ thể thao. Anh tiêu hết sạch số tiền, mua yên ngựa và súng trường mới cho One Stab, một cái kính hiển vi cho Samuel và cho Alfred một chuyến đi San Francisco. Cả nhà được nhờ vì quá nhiều tiền, nhưng Tristan có những quan hệ riêng. Quận trưởng cảnh sát ở Helena đã viết thư báo Tristan đàn đúm với các gái điếm trạc mười lăm tuổi, làm mẹ anh lên cơn thần kinh và Ludlow buộc phải giảng giải cho Tristan rằng anh sẽ suy đồi khi quá tò mò, dù lũ gái điếm có hấp dẫn đến đâu chăng nữa. Hai tháng một lần, Ludlow có những chuyến viếng thăm Helena riêng, thường là vài đêm với một cô giáo ông lén lút quyến rũ từ mươi năm nay. Ông thích trích dẫn câu của Teddy Roosevelt với mấy ông bạn nối khố ở câu lạc bộ Cattleman "Tôi thích uống rượu vang cuộc đời có pha brandy", rồi sau đó ông lại cảm thấy thật ngu xuẩn vì đã dùng mọi đòn phép khôn khéo như một kẻ đểu giả. Nhưng lúc này Tristan đã ở ngoài tầm ảnh hưởng của ông và ông biết it có dịp nghe về anh cũng như họ chẳng bao giờ nghe tin gì về phụ thân ông. Vài năm trước cụ bị mắc cạn ở Orkneys và Ludlow đã thu xếp tậu cho cụ một con thuyền khác song cụ chẳng cảm ơn mấy tí, chỉ nhận xét: - Con yêu quý ạ, ta chỉ mong gia đình con yên ổn. Hãy cho các cháu trfai của ta ra ngoài dày dạn cho quen. Phải gió cái số tiền của con! Con sẽ nhận lại đủ từng xu. Rồi từ nhiều nơi khác nhau, ở Hy Lạp hoặc Dakar, một số tiền nhỏ đều đặn gửi đến ngân hàng của Ludlow ở Helena. Mắt ông mờ đi vì buồn ngủ, ông biết phải viết thư cho Susannah, vị hôn thê của Tristan, xem cô có nhận được tin gì không. Susannah xinh đẹp, mong manh và thông minh lạ thường. Ludlow dậy muộn và ngượng nghịu khi biết Decker đã chuẩn bị sẵn sàng để đi săn từ nhiều giờ rồi. Ông nhìn ra cửa sổ và thấy lũ chó săn lông xù màu vàng nhạt của ông đang ngủ tít trên bài cỏ, hưởng ánh nắng mặt trời xuyên qua lá cây bạch dương. Chúng là những con chó cừ, một người bạn hàng năm đến săn bắn đã gửi chúng từ Denvonshire cho ông. Đến trưa họ đã bắn được một xâu bảy con gà gô, cả hai người và lũ chó đều mệt phờ vì cái nóng hiếm hoi cuối tháng Mười, dù chân trời phương Bắc tối sầm sầm và họ biết tuyết có thể rơi vào lúc sẩm tối, đúng kiểu khí hậu thất thường của Montana. Trong lúc quay hai con gà gô, Decker đề nghị mùa xuân sang năm họ nên mua một ngàn con bê vì chiến tranh sẽ làm giá thịt bò tăng lên. Anh ta cũng cần thêm hai người giúp việc mới thế chỗ Tristan và Pet có mấy người anh em họ ở gần Fort Benton, một người lai đen, nếu Ludlow không ngại vì họ đều là những tay chăn bò cừ khôi. Ludlow ném mấy quả tim và gan cho chó, và đồng ý tất tật những gì Decker đề nghị, thầm nghĩ vu vơ không biết cái anh chàng Cree lai đen kia trông ra sao. Chắc là xấu xí dị thường. Ông vừa gà gà ngủ trong nắng với ngửi mùi da gà nướng dòn t rên than. Decker nhận ra One Stab trên sườn đồi đầy những cây hoàng dương ở hẻm núi phía xa, và biết ông lão sẽ không xuống ăn trưa theo phép tắc, vì họ chỉ nướng có hai con gà. Chính lão One Stab đã đưa Decker t` Zortman đến với Ludlow, và ông nhận Decker dù biết chắc hẳn anh ta đang chạy trốn một tội ác nào đó. Ông yêu thích cái triền đồi đầy cây hoàng dương và định sẽ ẩn dật ở đấy, gần nơi một dòng suối nhỏ chảy từ thành hẻm núi. Ông có thể mua năm vạn hecta đất với giá rất hạ vì những mối quan hệ trong ngành mỏ của ông, như vậy cũng chẳng có gì quá lớn so với nông trại trong vùng, và chắc chắn rằng mảnh đất này chẳng có giá trị gì về quặng. Tuy vậy nơi đó có nhiều nước, nông trại của ông có thể chăn nuôi gia súc ngang tầm với các nông trại khác có quy mô gấp ba, dù Ludlow giới hạn con số một cách khắt khe vì ông không tham và không muốn xảy ra lắm chuyện rắc rối vì quá đông người. Hơn nữa, nếu gia súc ăn cỏ trên đồi, chim chóc sẽ bỏ đi. Đàn chó đánh hơi thấy One Stab lúc ông lão xuống triền đồi và vẫy đuôi rối rít. Ông già da đỏ ngậm một ngụm trong chai rượu của Decker và nhổ vào lửa làm ngọn lửa bùng lên. Decker luôn vui thích thấy One Stab nói bằng giọng nặng kiểu Anh của Ludlow. Khuya đêm ấy, mùa đông đến. Ngày hôm sau, một bức thư giận dữ, cầu khẩn của vợ ông nài nỉ ông dùng ảnh hưởng của mình xin cho Samuel xuất ngũ. Ông ngủ mà bực bội vì Alfred đã báo tin từ Calgary rằng mọi sự suôn sẻ. Nhưng nhân danh Chúa, cái gì đã buộc các con trai ông phải bảo vệ nước Anh, đất nước chúng chưa bao giờ nhìn thấy và chính cảm giác phiêu lưu sai trái của ông đã đẩy chúng ra đi mà không nghĩ đến tình cảm của vợ. từ cuối mùa thu đến tận tháng Giêng, những bức thư đầy kích động của thời tiền mãn kinh gửi đến liên tiếp, vượt quá sức chịu đựng của Ludlow, ông luôn có những linh cảm y ám nên không bóc thư nữa. Ông bỏ các chuyến đi Helena trước dịp Giáng sinh và thiếu cơn bốc đồng của mối tình lãng mạn, ông đọc sách và suy nghĩ, ngoài việc sáng sáng ông bỏ ra vài giờ dạy cô bé Isabel đọc và viết. ông cử Decker đ Helena mua các đồ cần thiết và quà cáp, rồi sau khi anh ta đi được một ngày, một cảnh sát trường Mỹ đến hỏi thăm xem ông có biết tên Jon Thronburg bị truỹ nã mấy năm trước vì tột cướp nhà băng ở St. Cloud, Minnesota ở đâu không, nghe đồn hắn đang ở trong vùng này. Ludlow tỏ ra sửng sốt trước tấm ảnh Decker hồi trẻ và đáp người này quả thật có qua đây từ ba năm về trước trên đường đi San Francisco để lên tàu đi Australia. Viên cảnh sát trưởng gật đầu mệt mỏi, ăn một bữa thịnh soạn rồi lúc nhá nhem tối lên ngựa đi Choteau. Ludlow đợi một giờ, phòng khi cảnh sát tới rình, rồi phái lão One Stab đi Helena báo cho Decker tránh mọi thị trấn, đường cái và về ngay lập tức. Mọi sự xem ra có vẻ tồi tệ. Vì lơ đễnh ông bắt gặp Pet, đang phơi mình cho khô sau khi tắm càng để lại cho ông cảm giác yếu đuối, nặng nề và ngột ngạt. Ông sẽ rất vui nếu hiến cả nông trại mà có được một đứa con trở về. Ở Boston, Isabel giao du thân thiết với một ca sĩ Italy hát giọng nam trầm. Anh ta không biết tiếng Anh nên chuyện tình cảm của họ chỉ có hướng dẫn viên du lịch người Italy biết. Họ nằm trgmt chiếc ghế dài phô trương kiểu phương Đông trước lò sưởi, đầu anh ta gối lên ngực bà, anh ta nói chuyện về nhạc kịch, về Florence, hy vọng sẽ nhìn thấy dân da đỏ trong chuyến lưu diễn ở San Francisco và Los Angeles. Còn bà, thực ra đã chán anh ta, cách làm tình ngắn ngủi, vất vả của anh ta không hợp với bà, vốn là người khá vật chất chứ không như những người tình của bà tưởng. Bà đã mơ một giấc mơ khó chịu về Tristan, và mái đầu của người tình trên ngực gợi bà nhớ đến đứa con trai lúc bị viêm phổi, bà đã ôm ấp và đọc truyện cho nó đúng tư thế này. Sự gần gũi đó đã bị xé nát không cứu vãn nổi trong mùa thu Tristan mười hai tuổi, khi bà quyết định đi Boston tránh rét. Cậu bé nồng nhiệt đã làm bà khổ sở biết bao, suốt mùa đông cậu viết thư cho bà rằng ngày nào cậu cũng cầu nguyện để bà về nhà vào lễ Giáng sinh, và khi bà không về vào dịp đó, Tristan đã nguyền rủa Chúa Trời và trở thành một kẻ vô thần kiên định. đến mùa xuân khi bà trở về, cậu lạnh lùng xa cách đến mức bà than phiền với Ludlow, song ông không thể cậy răng Tristan một lời về mẹ. Bà giả vờ ốm và khi các con đến phòng hôn bà chúc ngủ ngon, bà giữ Tristan lại, kéo cậu vào lòng một lát và trong cơn uỷ mị dữ dội bà khóc lóc, dùng đủ mọi cách để dụ dỗ. Tristan nói với mẹ rằng cậu sẽ yêu mẹ mãi mãi, nhưng cậu không thể tin vào Chúa Trời vì đã nguyền rủa Người. Ngón đòn thăm dò đầu tiên đến với cha mẹ, riêng rẽ từng người một vào cuối tháng Giêng, khi họ nhận được tin Alfred vốn chưa bao giờ là một kỵ sĩ giỏi, đã bị vỡ đầu gối và đau lưng khi bị ngã ngựa gầnYpres. Tuy vậy, tiên lượng ở bệnh viện dã chiến là tốt và mọi người hy vọng đến tháng Năm có thể gặp anh. Viên thiếu tá ở Calgary gửi lời chia buồn đặc biệt đến Ludlow. Alfred là một sĩ quan trẻ ưu tú và tai nạn của anh thật nghiêm trọng. Thật không may là tính liều lĩnh của Tristan đã làm giảm hiệu quả lòng dũng cảm của anh, nhưng thiếu ta cho rằng anh sẽ chín chắn hơn nơi trận mạc. Samuel đã tỏ ra có năng lực tuyệt vời và thiếu tá sợ mất anh sẽ là một tổn thất chung vì anh là một chàng trai vàng mà tất cả các sĩ quan đều biết tiếng. Ludlow đọc hết những dòng chữ, mãi mới hiểu được Tristan phải đi băm rơm rạ vì bị kỷ luật quân đội. Ông cảm thấy có lỗi trong giây lát vì đã ước mong hoặc Samuel hoặc Tristan trở về vào mùa xuân hơn là Alfred. Tại Pháp, lính Canada đóng quân giữa Neuve-Chapelle và St. Omer. Hãy còn trong giai đoạn đầu và lạc quan của cuộc chiến, họ vẫn bị quân đồng minh anh coi là hơi lung tung va vụng về, đặc biệt là các sĩ quan trẻ ở Sandhurst, cộc lốc và hăng hái khá điển hình, họ coi chiến tranh là một phần trong sự nghiệp quân sự lẫy lừng riêng của họ. Sự vô lý đặc tính German ấy không bao giờ có giới hạn đối với người Đức. Nhưng không ai chê trách người Canada về sự hung hăng trên chiến trường – nếu có chuyện gì chỉ là do họ dũng cảm hơi quá mức. Tristan ở chung lều với những tên lưu manh tồi tệ nhất trong hội bạn bè của anh. Alfred bối rối khi Tristan đến thăm anh ở bệnh viện dã chiến, tác phong nghênh ngang và ăn mặc nhếch nhác, ủng dính đầy phân bón. Tristan mang lén một chai vang đến, nhưng Alfred từ chối. một trong những sĩ quan bạn Alfred đến thăm và Tristan không chào, cứ ngồi uống tì tì hết chai vang rồi bỏ đi chẳng nói lời tạm biệt, trừ lúc nước với Alfred bảo One Stab đưa con ngựa yêu của anh đi nếu anh không trở về. Bên ngoài lều bệnh viện, đám bạn Tristan gồm một anh chàng to lớn người Pháp tên là Noel, một người chuyên đánh bẫy súc vật người Columbia thuộc Anh đang đợi, chán nản nhìn trời mưa. Tin Samuel và thiếu tá hy sinh với bay đến trại. Họ đi trinh sát ngược lên Calais với một nhóm trinh sát và bị dính khí mù tạc[7] ,sau đó bị súng máy tạt ngang sườn lúc họ đang lang thang, tê liệt trong một trảng cây dẻ. Tristan đứng đó, bàng hoàng trong mưa và bùn, đám bạn ôm lấy anh buồn bã. Người trinh sát sống sót duy nhất trở về kể chuyện và lúc này đang bị thẩm vấn. Anh ta ra khỏi lều của họ để gặp viên sĩ quan trong đoàn tuỳ tùng. Họ chạy lao ra bãi nhốt và cấp tốc đóng yên ba con ngựa. Viên sĩ quan ra lệnh dừng lại nhưng họ gạt anh ta sang một bên và phi nước đại lên phía bắc Calais, đến khu rừng lúc nửa đêm. Họ ngồi lặng ngắt, không đốt lửa suốt đêm vào trong làn tuyết rơi lất phất lúc rạng đông, họ bò trong tuyết, gạt tuyết ra khỏi hàng chục bộ mặt người chết cho đến lúc Tristan tìm thấy Samuel, anh hôn và nước mắt anh đầm đìa khuôn mặt em trai, mặt Samuel xám và không có vết gì, nhưng bụng anh bị xé nát và văng khỏi khung sườn. Tristan lấy dao găm cắt quả tim Samuel và họ phi ngựa về trại, Noel đun chảy nến, họ bọc tim Samuel bằng nến rồi đặt vào một hộp đạn nhỏ để chôn ở Montana. Một sĩ quan ngăn lại nhưng vội bỏ đi ngay không nói lời nào vì biết sẽ bị bóp cổ nếu can thiệp. Làm xong, Tristan và Noel uống hết một lít brandy trong đống chiến lợi phẩm lấy ở một nông trại rồi Tristan ra khỏi lều ,réo Chúa Trời khốn kiếp lên mà chửi cho đến lúc Noel làm anh dịu lại và ngủ thiếp đi. Đến sáng Tristan thức giấc và từ chối thẳng cánh sự thương xót của Alfred khi một người đưa tin đưa anh đến lều quân y. Anh viết một bức thư ngắn và nhét vào trong hộp đạn "Cha kính yêu, đây là tất cả những gì của Samuel yêu quý mà con có thể gửi về nhà. Tim con tan nát, và chắc cha cũng sẽ như thế. Alfred sẽ mang nó về. Cha đã biết nơi chôn, gần dòng suối ở hẻm núi, nơi cha con ta đã tìm ra đàn cừu sừng xoắn. Tristan, con trai của cha". Sau đó Tristan như phát rồ và chỉ có vài cựu chiến binh già ở mãi tận Canada mới làm anh nhớ đến sự báo thù, họ nhắc anh đã bị bắt và giam giữ trước khi đáng bị thế. Lần đầu tiên với sự nghiêm túc mới mẻ như những người lính, Tritan và Noel tình nguyện nhận nhiệm vụ trinh sát ban đêm. Hết ba đêm, đã có bảy mảnh da đầu tóc vàng hoe treo cao thấp khác nhau để phơi khô trên nóc lều của họ. đến đêm thứ tư, Noel bị tử thương, giữa buổi sáng Tristan về đến lều. Noel nằm vắt trên yên ngựa. Anh phi qua đám đông lính tráng đến lều mình, đặt Noel lên giường rồi rót brandy vào cổ họng đã hết sinh kh của bạn. Anh hát một bài chữa bệnh của người Cheyenne mà One Stab đã dạy anh, và một tốp lính tụ tập quanh lều. Alfred được khiêng trên cáng, có một sĩ quan oai vệ đi kèm đến để thuyết phục Tristan. Lúc họ mở cửa lều, Tristan đã xâu các mảnh da đầu thành chuỗi và đặt con dao găm cùng khẩu súng trường ngang ngực Noel. Họ quấn anh vào chiếc áo choàng điên và gử đến một bệnh viện ở Paris, chỉ trong vòng một tuần anh đã trốn mất. Viên bác sĩ chữa trị cho Tristan ở Paris là một thanh niên Canada ở Hamilton, bị giao phụ trách phòng bệnh tâm thần vì thiếu người. Trong nghiên cứu sau đại học của anh ta ở Sorbonne, anh ta đã học được chút ít khoa học mới mẻ về hành vi, nhưng học được rất ít cách chữa trị các nạn nhân bị choáng và bất hạnh. Lúc đầu, tuổi trẻ và tính hay giễu cợt của người Paris làm anh ta tin rằng đàn ông chỉ là những kẻ nhát gan, nhưng cách cư xử kỳ quặc của họ sớm làm anh tỉnh ngộ. Họ là những gã xấc xược bị chấn thương, ban đêm không kêu khóc gọi mẹ thì lại rút vào im lặng vĩnh viễn và không sao an ủi nổi. Bác sĩ đã ngờ vực khả năng của mình trong việc hàn gắn tâm hồn họ đến mức anh ta gần như chán ghét bệnh nhân và làm mọi thứ có thể để họ được lên tàu về nhà. Vì thế anh ta mê mẩn khi Tristan đến, lúc người lái xe cứu thương khuyên anh ta đây là một kẻ "điên" thực sự đang đợi bị tống khứ. Bác sĩ đuổi những người đi theo và đọc biên bản của sĩ quan chỉ huy Tristan. Anh bình thản xách những mảnh da đầu và ngạc nhiên vì sự kinh hoàng của viên sĩ quan. Vì sao khí mù tạc bị coi là chiến tranh mà không phải là việc lột da đầu để trả thù cho cái chết của em trai? Tất cả các bác sĩ đã chuẩn bị cho những biến chứng của khí mù tạc được dùng trong thời gian đầu cuộc chiến tranh hiện đại. Bác sĩ đã nghiên cứu một số tác phẩm kinh điển ở Oxford và tự thấy mình hiểu về chủ đề báo thù. Anh ta bảo đưa Tristan vào phòng làm việc, xin lỗi những người đi kèm rồi giải thoát người đàn ông khỏi cái áo choàng điên, và được "cám ơn" lịch sự, và "Tôi có thể uống chút gì không?" Bác sĩ cho Tristan mượn một bộ đồng phục rồi họ đi qua rừng Boulogne đến một tiệm cà phê nhỏ, họ im lặng và ăn uống. Cuối cùng, bác sĩ nói anh đã hiểu chuyện xảy ra và không cần nói đến làm gì. Thật đáng tiếc nếu mất một số tháng mới giải quyết cho Tristan xuất ngũ và cho anh về nhà nhưng viên bác sĩ hứa sẽ cố sức làm cho khoảng thời gian ở lại của Tristan dễ chịu. Mấy tuần sau, tin tức mới đến Montana. Một chiều cuối tháng Hai lạnh giá nhưng có nắng và trong sáng sau khi dịu cơn bão. Pet được người làm mới lái xe đưa đến Choteau mua đồ dùng, đã nhận được một bức thư. Ludlow lau băng giá đọng trên cửa sổ nhà bếp và nhìn đăm đăm chút nắng, hình dung nó đang lơ lửng trên những cái bóng xanh xanh bị nghẽn vì tuyết của chuồng ngựa. Decker và One Stab ngồi bên bàn uống cà phê, tranh cãi về độ cao trên những bản đồ trải trước mặt. One Stab chê trách các bản đồ vì ông lão đã đi khắp vùngtừ Browning đến Missoula với một người bạn Cree được tôn vinh là Người Nhìn Tinh Như Chim, một người có trí giác lạ lùng về địa hình. One Stab không thích những con số chỉ độ cao đề trên núi. Làm thế nào đo được độ cao trên bảy biển như Tristan đã kể với lão? Những con số có ý nghĩa gì nếu không có biển ở gần? một số núi lớn không có tên, trong khi những núi rõ ràng là nhỏ hơn lại là những địa điểm cao quý hoặc linh thiêng có nguồn gốc rạng rỡ. One Stab ngừng tranh luận để bảo Decker đọc cho lão nghe Trong vòng kìm kẹp của người Nyika của J.H.Patterson, cũng là tác giả cuốn Những kẻ ăn thịt người ở Tsavo, cả hai cuốn đều kể tỉ mỉ về các cuộc đi săn đầy mạo hiểm ở Đông Phi của viên đại tá Anh. Decker chán sách vở nhưng Tristan đã bắt đầu đọc từ nhiều năm trước và One Stab nhắm mắt lại lắng nghe, rất say sưa những đoạn thú vị về những con sư tử nhảy lên các toa mui trần đang chạy để vồ công nhân đường sắt, con voi độc ngà hoặc con ngựa có tên là Aladdin, và hay hơn cả là một số lớn tê giác bị giết vì tấn công vào đoàn tàu hoả mới lạ chạy qua lãnh thổ của chúng. One Stab như nhìn thấy ảo cảnh hàng ngàn con bò rừng tấn công đường sắt Bắc Mỹ và lật ngược đoàn tàu. Nhiều năm trước, hồi lão để hết tâm trí vào dấu vết còn lại của con tatu trong cá động tác của Vũ điệu Ma quỷ. Người Nhìn Tinh Như Chim đã bảo lão rằng ông ta đã tạo ra một con bò rừng mới bằng cách ném sọ một con bò rừng vào miệng núi lửa ở Yellowstone, trong lúc Ludlow đo những thác nước lớn cho chính phủ. Chuyến đi khôi hài đến mức One Stab nhìn khối nước khổng lồ rơi xuống và hét to lên những con số cho đến khi Ludlow lo lắng bắt lão phải im. Tristan đã hữa sẽ có ngày đưa lão đến nơi có những con vật chiến đấu với tàu hoả. Pet vào, chị dẫm mạnh ủng giũ tuyết. Chị đưa bức thư của Tristan cho Ludlow và nhìn lảng đi. Decker cũng thế. Chỉ có One Stab nhìn Ludlow mở thư, không e sợ điều xấu nhất có thể hoặc chắc chắn xảy ra vì lão có tri giác của người Cheyenne, cho rằng cái chết bất hạnh đã xảy ra là điều phải xảy ra. Không thể thay đổui được nó, có cố gắng cũng chỉ như ném hòn đá lên mặt trăng mà thôi. Quá choáng váng với cái chết đầu tiên, chỉ qua một đêm Ludlow già sọm hẳn đi. Nỗi tiếc thương đến sững sờ của ông làm ông hết giận lại nguôi, ông uống quá nhiều để rồi chỉ càng tăng thêm nỗi ân hận. Trong tình trạng say xỉn, sự giận dữ của ông biến thành cuồng nộ, bẻ gẫy những sợi dây sinh lực của ông như thể gân cốt ông mất sức đàn hồi, người ông khòm hẳn xuống và đâm cẩu thả về diện mạo. Ông đọc bức thư chết người của Tristan nhiều lần đến nỗi nó mòn xơ và vấy bẩn. khi bức thư chia buồn chính thức đến, Ludlow không mở ra cũng như không trả lời những bức thư khích động hàng ngày của vợ. Ông không tự chủ nổi đến mức chìm sâu vào sự bất lực. Làm sao họ có thể nhốt Tristan lại trước khi anh lột da đầu của từng tên Đức trên lục địa này. Và cái khí mù tạc giết người ấy là cái gì, làm bao người chạy quanh vô vọng, mắt mù, phổi cháy, ngựa hí lên dưới sức nặng của họ. thế giới chẳng còn thích hợp cho cuộc chiến tranh nữa và ông ngấm ngầm ly khai nó. Pet than khóc và cô bé Isabel tránh ra một chỗ, đọc truyện thiếu nhi cho lão One Stab nghe. Một tối kia lão gặp người bạn và người thầy thông thái của lão trong một cuộc rượu, lão không nhổ ra để thay đổi. Nhưng trong vòng một giờ, Decker phải kìm lão lại sau đó để lão uống nhiều hơn cho lão ngủ lịm và mang lão về lều. Sau khi One Stab hát một bài bằng tiếng Cheyenne về cuộc đời của Samuel, về cuộc hành quân qua rừng của anh, về chiếc kính hiển vi phát hiện ra thế giới không nhìn thấy được, rồi đến một bài hát tang của người Cheyenne làm Ludlow sụp hẳn xuống, bởi lẽ bốn mươi năm trước ông đã nghe chính bài hát ấy ở Mauvaise Terres, khi một trinh sát viên bị chết. Ngay sau đêm đầu tiên trong phòng bệnh ở Paris, giữa hoà âm ồn ào của những kẻ loạn trí, Tristan đã lập kế hoạch bỏ trốn. không như Ludlow là người giàu có và nói chung là uỷ mị, sự phát đạt torng những năm vừa qua che chở ông khỏi thể chế tàn bạo của nền văn minh, lỗi lầm của Tristan thật rõ ràng và giới hạn vì cái xác, vì trái tim trong hộp đạn, ngập trong lớp nến của đứa em trai. Chỉ có Alfred như một sản phẩm của thực tại là thoát khỏi tội lỗi này. đến ngày thứ ba, Tristan nói với bác sĩ rằng anh không thể chịu nổi nhà thương điên và đàng nào anh cũng tìm cách đến với ông nội ở Cornwalll. Viên bác sĩ bảo anh không thể làm thế được nhưng không thuyết phục nổi. Anh trình bày với viên sĩ quan cao cấp vốn biết danh tiếng của Ludlow, vì giới quân sự hồi ấy vẫn còn tinh thần đoàn thể. Viên đại tá bảo sẽ để Tristan trốn thoát, ông nói rằng người này tàn phế hoàn toàn và nên nhanh chóng cho về nhà. Trong những chuyến Tristan đi dạo xuyên qua rừng và qua một tàu ngựa trống trải ở Longchamps, anh đã thấy những con ngựa dàn hàng và tập luyện. một hôm, anh mua một con ngựa cái đẹp, biết rằng các đoàn tàu sẽ đòi giấy phép chính thức. Anh kể ý định của mình với bác sĩ và được anh ta viết giấy cho phép. Tảng sáng, Tristan gói ghém đồ lề sơ sài của anh và lẻn qua người phục vụ đang ngủ say. Mất năm ngày rong ruổi hết mưa rồi lại mưa đá rồi tuyết rơi mới đến được bờ biển. Anh phi như bay qua trạm kiểm soát, chào bừa bãi trong lúc phi nước đại, con ngựa bị văng mất một miếng sắt bịt móng ở Lisieux và được một người thợ rèn sửa vội vàng với giá cắt cổ. Ở Cherbourg, anh lên tàu chở hàng đến Bournemouth tương đối dễ dàng, anh mua con ngựa khác rồi phi về hướng tây đến Falmouth bên bờ biển Cornwall. Vào lúc nửa đêm giá buốt, trong tiếng gầm ngoài đê chắn sóng, Tristan đến bên cửa nhà ông nội. tiếng gõ cửa lúc nửa đêm hôm khuya khoắt làm ông lão đang mặc áo ngủ phải vớ lấy khẩu Beasley tậu ở New Orleans. Tristan nói: - Cháu là Tristan, con trai của William đây. Người ông giơ cao chiếc đèn lồng và nhận ra anh qua những tấm ảnh, cụ nói: - Đúng là cháu rồi. Thuyền trưởng đánh thức vợ dậy làm bữa và lấy chai rum Barbados ngon nhất ra mừng thằng cháu điên rồ cụ đã nghe kể từ hai mươi năm nay. Tristan trải qua một tháng lặng lẽ ở Cornwalll, Ludlow mới biết tin anh an toàn sau khi trốn thoát. Ngay sáng đầu tiên, viên thuyền trưởng đã đưa Tristan xuống làm những việc vặt nhất trên thuyền. Tristan không biết gì về tàu bè nhưng anh học rất nhanh về dây cáp, cách buộc nút và dương buồm. Tháng Ba, thuyền trưởng chở một chuyến máy phát điện làm lại đến Nova Scotia, rồi trên đường về ghé qua Norfolk chở thịt bò ướp muối. Ông lão sẽ thả Tristan xuống Boston để báo tin buồn cho mẹ, rồi từ đấy anh sẽ về nhà. Họ ra khơi vào tháng Ba trên con tàu cổ lỗ, có bốn thuỷ thủ canh phòng chặt chẽ, tất thảy đều là những người có năng lực, cần thiết cho cuộc chiến của nước Anh. Tristan chặt băng đóng ở thành tàu suốt một tuần, trước khi thời tiết chuyển ấm hơn. Anh xuống tàu ở Boston không khách khí, sau ba tuần lênh đênh trên biển. Tristan lên đường đến ga Nam và trên chặng đường một dặm đến Rutham, anh nốc hết một chai rượu rum. Susannah ngất xỉu khi anh đến gõ cửa nhà cha cô. Cô không biết anh đã hẹn ba tháng nữa sẽ gặp viên thuyền trưởng già ở Havana. Tristan, Alfred, Isabel và Susannah ngồi trong phòng khách tối đen ở quảng trường Louisberg, hai người con trai, một bà mẹ, một vị hôn thê cảm thấy mình đột nhập không đúng lúc vào nỗi đau của họ. Tristan cứng nhắc và cộc lốc, Alfred xanh xao và trở nên thô lỗ, còn Isabel không tự chủ nổi. Họ đến dự lễ tưởng niệm do các bạn của Samuel ở trường đại học Havard tổ chức. Sau đó, Tristan tuyên bố vài ngày nữa sẽ cưới Susannah, mẹ anh không cho phép, bà nói cưới vợ trước tang lễ là không thích hợp. Tristan cộc lốc và thất thường đáp rằng bà có thể dự nếu bà muốn. Tristan và Susannah cưới tại quê của gia đình cô, gần Delham và đám cưới chẳng có gì vui vẻ. Chỉ có hai chị em gái của Susannah hiểu vì sao cô có thể lấy người cha mẹ cô không ưng, dù họ đã là bạn bè lâu năm của Isabel. Một buổi sáng cuối tháng Tư, Ludlow ra đón đoàn tàu trong bộ quần áo đầy bùn, lộ rõ sự lập dị ngày càng tăng của ông. Ông đã sửa lại hàng rào bằng đá kiểu Cornwall bao quanh ngôi nhà ở nông trại bị băng giá làm hỏng. Chẳng phải ông ghét bỏ gì dây thép gai, mà chỉ vì ông không muốn nhìn thấy. Isabel đã thỉnh cầu mục sư của Giáo hội Trưởng lão đến lễ tang ngày hôm sau, nhưng Ludlow không tiếp ông ta, ông không hiểu một vi mục sư còn làm được gì cho Samuel. Suốt chuyến đi, Tristan và Susannah hầu như không rời ngăn của họ trên tàu, kích động sự ghen tuông ngấm ngầm của Alfred. Trong thâm tâm, Tristan muốn có một đứa con trai thế chỗ cậu em, và đó là mục tiêu duy nhất của cuộc hôn nhân mà anh biết thực chất chỉ là một cơn bốc đồng tàn bạo. Lúc ôm lấy cha bên đường sắt, anh run lẩy bẩy nhưng không khóc được cho đến lúc ôm lấy One Stab. Sáng sớm hôm sau, một buổi sáng mùa xuân rực rỡ, những cây dương đâm chồi nảy lộc màu tùng lam xanh tươi, cỏ mới mọc, họ chôn trái tim của Samuel vào hẻm núi gần dòng suối. Isabel thấy cuộc đời của họ đang trở thành con mồi của lịch sử từng ngày đêm, ai cũng chỉ biết đến ý thích của mình nên không người nào ở lại để bà yêu thương. One Stab ngắm Decker lấp đầy cái hố trên triền đồi. Lúc mọi người ra về, ông lão xuống đồi và nghểnh nhìn tấm bia đá nhưng không thể đọc được chữ nào. SAMUEL DANT LUDLOW 1897-1915 CHÚNG TA KHÔNG NHÌN THẤY NHƯNG NHẤT ĐỊNH SẼ GẶP Chú thích:
[1] Agassiz (Jean) Louis (Rodolphe) 1807 – 1873: nhà tự nhiên học người Mỹ, sinh ở Thụy Sĩ [2] Pandora: là người phụ nữ đầu tiên trên trái đất do thần Zeus tạo ra, xinh đẹp và nhiều tài năng, là bạn đ 355 i của đàn ông nhưng gây ra cho đàn ông nhiều tai hoạ
[3] Medusa: một trong ba chị em ác quỷ Gorgn, có đầu xoay tròn nhìn các phía, mỗi sợi tóc là một con rắn, nhìn ai thì người ấy hoá đá
[4] Bacchantes: nữ đồ đệ của tửu thần Bacchus, chỉ người đàn bà đam mê rượu chè
[5] Fury: Nữ thần Báo Oán, gieo rắc đau khổ và bệnh tật
[6] Cain: trong Kinh Thánh, Cain là con cả của Adam và là kẻ giết em trai mình là Abel
[7] Loại chất lỏng, hơi của nó làm cháy da, dùng trong thế chiến I