Trong ngày diễn tập đầu tiên, trường đã thêm thức ăn cho sinh viên, còn có cả cá, trông giống như một bữa tiệc chia tay vậy. Sau bữa tối, mọi người đều về phòng thu dọn đồ đạc của mình, bởi vì ngày mai, tất cả sẽ trực tiếp ra về sau buổi lễ.
Có vài sinh viên đã bắt đầu thương cảm, mãi bám theo huấn luyện viên đòi ca hát, chuyện trò. Vài người còn kéo áo thầy huấn luyện xin điện thoại và địa chỉ nhà. Song, nhà trường có quy định không thể để lại bất kỳ phương thức liên lạc nào với học sinh, do đó thái độ của họ rất dứt khoác. Nữ sinh bèn van nài tôi đi xin giúp, hôm ấy lại trùng hợp là ngày thứ nhất của thời kỳ sinh lý, bụng đau dữ dội, thêm vào có chút cảm lạnh, cổ họng lại càng khó chịu. Đang một mình chịu đựng và đau đầu bởi những con khỉ nhóc này thì Mộ Thừa Hòa chợt gọi điện tới, chắc là anh ấy muốn báo với tôi anh ấy đã về đến nhà.
Tôi cười cười, nói với học trò: “Được rồi được rồi, để cô nghe điện thoại xong rồi nói tiếp được không?”
“Im lặng! Bạn trai của cô Tiết gọi điện tới.” Một cô gái có biệt danh ‘Đường Đường’ nói lớn, sau đó còn tỏ vẻ thần bí mà ra dấu ‘suỵt’ với mọi người.
Nó không nói thì thôi, kêu lên thế này trái lại dẫn đến những lời trêu ghẹo.
“Ối ối, cô Tiết của chúng ta không phải còn độc thân sao.”
“Tiêu rồi, đêm nay có nhiều bạn nam bị thất tình thôi.”
“Cô Tiết, tim của chúng em đang rỉ máu.”
Tôi một mặt bảo họ nhỏ tiếng một chút, mặt khác mỉm cười ấn nút nghe.
“Đủ rồi đủ rồi, đừng làm ồn. Sư mẫu và sư công giận bây giờ!” Đường Đường lại phát hiệu lệnh.
Mộ Thừa Hòa đúng lúc nghe được câu cuối cùng, bèn hỏi: “Sư công?”
“Hay anh muốn được gọi là sư mẫu?” Tôi hỏi lại.
“Trước đây anh nghe có người gọi là sư trượng nữa.” Anh ấy nói như rất nghiêm túc.
(Chú thích: ‘trượng’ là trượng phu)
“Gì mà lung tung vậy.” Tôi không nhịn được cười, về đến phòng mình, đuổi hết tụi nhóc ra ngoài rồi đóng cửa lại.
“Còn nhớ lúc trước có người gọi anh là tổ sư gia, không ngờ hai năm sau lại bị giáng cấp.” Nói xong còn thở dài một cách rất nhập vai.
“…” Cái người này, đúng là biết cách chảnh thật.
Nhóm người bên ngoài vẫn chưa chịu đi, tôi đành nói vội vài lời rồi cúp máy, xong mở cửa ra.
“Không ớn lạnh gì hết.” Đường Đường đứng nghe trộm nãy giờ cảm thán.
“Đúng đó đúng đó.”
“Chí ít cũng phải ‘mua~’ một cái chứ.”
“Biến mất trong vòng ba phút cho tôi!” Tôi ra oai.
Đợi khi họ đã đi cả rồi, tôi mới nhìn điện thoại trong tay, tôi muốn hỏi anh ấy, đêm nay ở nhà một mình, lỡ có sợ thì phải sao đây. Đắn đo giây lát, cuối cùng vẫn đã không gọi, đặt điện thoại xuống bàn rồi ra sân xem họ tập huấn.
Tuy bảo là đêm cuối cùng luôn luôn có buổi diễn tập để chuẩn bị cho sáng ngày mai, nhưng kỳ thực thì chỉ là sĩ quan huấn luyện của mỗi đội tổ chức cho đội mình ngồi hát.
Tôi đi lấy nước suối phân phát cho các thầy, cả nhóm người nhìn thấy tôi liền như tóm được một cái gì vậy.
“Cô Tiết cũng hát một bài đi!”
Tôi cười cười lắc đầu, trốn ra cuối đội, ngờ đâu bên này nghe thấy động tĩnh xong cũng liền kêu tôi hát.
Tuy tôi là một vua hát hò, nhưng trước mặt bao nhiêu học sinh thế này, tôi làm gì có gan bẽ mặt? Kiểu nào cũng không chịu! Nhưng tôi càng không chịu thì bọn chúng càng đòi, chính trong lúc này, một lính gác chạy vào, đứng từ xa kêu lớn.
“Cô Tiết ơi, ngoài cửa có một người đến tìm, nói là gia quyến của cô đấy.”
Doanh trại quy định không cho người ngoài vào, vì thế người thân hay gia quyến gì đấy đều không được vô, chỉ có thể gọi điện thông báo trước hoặc để sĩ quan huấn luyện ra xem là ai, sau đó mới cho ra ngoài một lúc. Có lúc không tìm được học sinh đó thì cũng vô phương.
Lính gác này tính tình rất tốt, cũng khá thân với tôi, thường xuyên xách đồ giúp tôi, thật không ngờ hôm nay lại chạy cả vào đây để thông báo.
Nhưng mà, giọng cũng to quá rồi chăng?!
“Gia quyến?” Tôi lầm bầm trong ngượng ngùng. Tôi làm gì có gia quyến ở đây?
Ngờ đâu tai của người này lại thính đến thế, vội giải thích: “Cậu ấy nói là gia quyến của cô, tôi cũng không rõ là ai nữa. Tóm lại là con trai, độ hai mấy ba mươi tuổi ấy.”
“Chắc chắn là sư công của chúng ta rồi!” Một nam sinh đứng dậy nói lớn.
“Ha…” Cả bọn cùng cười.
Tôi bưng cái mặt đỏ như trái táo chín đi cùng lính gác ra ngoài, quả nhiên trông thấy Mộ Thừa Hòa.
Anh ấy đứng dưới bóng tối, phía trước xe của mình, vóc dáng cao ráo rất có khí chất, trông như cây thông xanh rì kiêu ngạo đứng giữa gió hàn, một thân một mình, mộc mạc nhưng cao thượng, không có gì ngăn chặn được sự sinh trưởng của nó, và nó còn đang ngưỡng đầu lên trời tiếp tục chinh phục đỉnh cao, đứng trên mặt đất, đứng trên tầng mây.
Anh ấy đi vài bước về phía tôi, ánh đèn đã dần soi rõ gương mặt của anh. Tôi vẫy vẫy tay với anh ấy, anh thấy vậy bèn gật đầu rồi cười cười đứng yên chờ tôi tới gần, trầm tĩnh ôn hòa, như nước trong như ngọc sáng. Vốn dĩ tôi cũng chỉ đi với tốc độ bình thường thôi, nhưng nhìn thấy cảnh này, tâm trạng không kìm nén được nữa, đôi chân đã không tự chủ mà chạy về phía Mộ Thừa Hòa.
Có điều, đứng trước cổng như thế cũng không phải là cách.
Xung quanh đây là đất hoang cỏ dại, song tôi và Trương Lệ Lệ đều đã thuộc địa hình nơi này, thế nên tôi dắt Mộ Thừa Hòa đi tản bộ. Vùng này rất vắng, thỉnh thoáng có vài chiếc xe hàng chạy qua, bình thường cũng rất ít thấy người qua lại. Trời tối thế này, nếu không phải có Mộ Thừa Hòa ở đây, tôi căn bản chẳng dám đi ra ngoài. Hai chúng tôi cứ thế dạo bước trên đường, anh ấy đi bên ngoài, tôi đi bên trong. Anh ấy cao hơn tôi, vì thế hai chúng tôi… không thể gọi là vai kề vai.
Nhìn anh ấy, dường như lòng tôi lại bỗng chùn xuống. Tại sao anh ấy lại nói với người khác là gia quyến của tôi, mà không phải là người yêu hay bạn trai? Tính khí trẻ con lại không nghe lời mà xồng xộc xông vào não, tôi lại bắt đầu bướng bỉnh.
“Sao không gọi điện cho em trước?” Tôi hỏi.
“Gọi rồi, không có người nghe.” Anh ấy giải thích.
Tôi thọc tay vào túi áo, đích thật là không mang theo điện thoại.
“Em bị cảm sao?” Anh ấy hỏi.
“Ừm, hơi nghẹt mũi.”
“Cổ họng có đau không?”
“Không đau.”
“Nếu biết trước thì anh mang thuốc cho em rồi.”
“Em có mang thuốc dự phòng. Hơn nữa, ở đây có bác sĩ mà.” Không cần anh tốt bụng đâu.
“Vậy lát nữa về nhớ uống đấy, không được nữa thì phải đến tìm bác sĩ.” Anh ấy nói.
“Chuyện của em tự em biết lo.” Tôi chợt chặn họng anh ấy.
Anh ấy càng quan tâm tôi thì tôi càng cảm thấy anh ấy đang chột dạ, tôi bất giác rời ra xa, để một khoảng trống giữa hai chúng tôi.
“Tiết Đồng.”
Tôi ‘hmm?’ một tiếng.
“Em đang giận anh sao?” Anh ấy hỏi.
“Không có.” Tôi chối ngay.
“Em không thích anh đến thăm em?”
“Không phải.”
“Anh đã làm sai chuyện gì?”
“Không có.”
Mộ Thừa Hòa khẽ thở dài.
Không biết là người này đã thật sự tin lời tôi nói hay là sao, tóm lại anh ấy đã im lặng, và như thế thì tôi càng bực bội. Tôi nói không có giận là không có giận sao? EQ của anh ấy thấp đến vậy sao? Không nhìn ra được nỗi lòng của con gái sao? Không biết tự kiểm điểm sao? Không thể dỗ dành tôi một chút sao? Suy nghĩ như thế, tôi càng đi càng nhanh, chẳng bao lâu để lại một mình Mộ Thừa Hòa đi ở phía sau, và rồi bụng tôi chợt đau thắt lại, không đi thêm được nữa.
Anh ấy bước tới gần, như đã phát hiện ra sắc mặt tôi hơi khác lạ, “Em sao thế?”
“Đau bụng.” Tôi đáp.
“Vậy hãy mau về nghỉ ngơi, đừng đi nữa.”
“Ừm.” Tôi nói
“Đi ngược lại đường cũ à?”
“Bên này có một đường tắt, đi hết đoạn này sẽ tới nơi.” Tôi tiếp tục đáp.
Nhìn xuống con đường đất cát lót đá, Mộ Thừa Hòa nói: “Để anh cõng em.”
Tôi hoảng hồn, “Em làm gì yếu đuối như vậy. Đi chầm chậm là được.”
Không chờ anh ấy nói thêm gì, tôi lập tức bước xuống con đường bên dưới, nhảy qua rãnh cống, phóng qua con đường nhỏ bên kia. Một loạt các hành động này khiến tôi cảm giác được một dòng chảy nóng từ trong người đang hướng nhanh xuống. Bụng co giựt, đau đến mức khiến tôi khó đứng thẳng người.
Mộ Thừa Hòa chạy nhanh tới bên tôi, cúi người xuống, lại nói: “Mau leo lên, anh cõng em.” Hình như có hơi giận rồi.
Nhưng tôi vẫn đứng yên một chỗ không động đậy.
Còn tưởng rằng chúng tôi sẽ còn chiến tranh như thế một lúc nữa, ngờ đâu anh ấy chợt nói: “Có phải anh càng khó chịu, thì em càng vui phải không…” Thần sắc ảm đảm.
“Em không có.”
“Làm sao mà không có?” Mộ Thừa Hòa thấp giọng phản bác lại tôi, “Rõ ràng em biết rằng chỉ cần em không vui, hoặc cảm thấy không khỏe thì anh sẽ đau lòng, nhưng em vẫn cứ làm như vậy.”
“Em không có, không có, không có.” Tôi bắt đầu không biết mình đang nói gì.
“Tiết Đồng, nếu em ghét anh, em có thể dùng cách khác để chọc giận anh, nhưng em đừng tự hành hạ bản thân.” Anh ấy cúi thấp đầu.
“Em đâu có ghét anh?!” Tôi lập tức phản bác.
Anh ấy vẫn chỉ mang nét mặt ảm đạm đứng đấy, không đáp lại câu nói của tôi.
Tôi chợt cảm thấy uất ức, “Em ghét anh hồi nào, em đâu có… Em chỉ cảm thấy trong lòng rất khó chịu, và hung thủ làm cho em phải bị như thế chính là anh, nên em muốn anh cũng phải khó chịu, ngờ đâu….. ngờ đâu thấy anh khó chịu, tim của em lại như bị dao xén vào vậy, lại càng đau hơn.”
Trước khi quen biết Mộ Thừa Hòa, tôi không thích khóc. Nhưng khi nói hết những lời này, tôi cảm thấy mình vừa ngốc lại vừa buồn cười, nhớ lại những lần trước khi cố tình muốn chọc giận anh ấy, nước mắt đã bất chợt tuôn rơi, rơi ở trước mặt anh ấy.
Mộ Thừa Hòa thấy vậy vội ôm tôi vào lòng, không ngừng nói: “Lúc nãy còn tự nhiên mà, sao lại khóc rồi. Cũng tại anh hết, tại anh cả. Em nói gì cũng được, anh không giận, anh không đau lòng nữa…”
Anh ấy từ bỏ hết mọi lập trường của mình lúc nãy, chỉ dỗ dành tôi, gần như là nuông chiều.
Hai mươi mấy năm cuộc đời, chưa bao giờ có người chiều chuộng tôi như vậy. Lúc nhỏ mỗi khi tôi khóc, mẹ sẽ bực dọc, bà nội sẽ mắng tôi vô dụng. Tôi không giống những đứa trẻ khác, hễ khóc là sẽ được những gì mình muốn. Dần dần, tôi không thích khóc nữa, vì vậy, tôi chưa bao giờ xem nước mắt là vũ khí hay là gì đó quý giá. Nhưng, với Mộ Thừa Hòa, nó hoàn toàn khác biệt.
Anh ấy ôm lấy tôi, ôm rất chặt, giống như nước mắt của tôi chính là điểm yếu chí mạng trong đời anh vậy.
Tiếng chít chít của côn trùng từ đâu đó vọng đến, anh ấy gọi nhỏ như dò thám: “Tiết Đồng?”
“Chuyện gì?” Tôi hỏi nhỏ.
“Anh chưa cõng em bao giờ. Cho anh cõng em một lần, được không?” Anh ấy cũng hỏi nhỏ.
Tôi do dự một lúc, cuối cùng gật đầu, lau đi nước mắt trên mặt.
Khi mới bắt đầu, toàn thân tôi đều cứng đơ, thậm chí tôi không dám thở mạnh, chỉ sợ làm anh ấy mệt. Lát sau, tôi phát hiện sự lo lắng này của mình là dư thừa, Mộ Thừa Hòa mạnh mẽ hơn tôi tưởng rất nhiều. Thế là, tôi từ từ nằm lên lưng anh ấy, hai tay vòng qua cổ của anh, đầu khẽ kề vào vai anh.
“Em còn đau không?”
“Đau.” Thật ra thì đã không mấy đau nữa rồi, nhưng con ác ma trong lòng tôi bắt tôi phải trả lời như thế. Có lẽ đúng thật như Mộ Thừa Hòa nói, nhìn thấy anh ấy khẩn trương vì tôi, tôi sẽ thấy mãn nguyện.
Con đường trải đá này tuy cũng rộng những hai ba mét, nhưng khập khiễng và khó đi vô cùng, lại không có đèn, chỉ có thể cậy vào ánh trăng và đèn đường hắt vào từ con phố bên ngoài, vì thế anh ấy đi rất chậm.
“Anh cố gắng đi vào chính giữa nha, nhìn thấy cái gì đen đen cũng đừng giẫm vào, nói không chừng là rắn đấy.”
“Ừm.” Anh ấy đáp.
“Anh lớn lên ở trung tâm thành phố phải không, chưa từng đi đường núi?”
“Có đi chứ, nhưng không nhiều, hơn nữa đều do ba anh cõng.”
Nhắc đến ba của anh ấy, tôi không kìm được lòng, áp mặt vào cổ anh.
“Ba của anh chắc chắn là một người cha rất giỏi giang.”
Mộ Thừa Hòa trầm lặng một lúc mới nói: “Không phải. Có lẽ ông ấy là một người giỏi giang, nhưng không hẳn là một người cha tốt.”
“Tại sao?”
“Một người cha tốt sẽ không như ông ấy, bỏ lại con của mình…”
Tôi không lên tiếng.
Đi được vài bước anh ấy mới lại nói: “Nhưng cũng không thể trách ông ấy, đều là lỗi của anh.”
Chúng tôi đã qua nửa đoạn đường, anh ấy quay đầu lại hỏi: “Em còn đau không?”
Lần này tôi không dám làm càn nữa, thành thật trả lời: “Hết đau rồi.”
Nghe thấy thế, hình như anh ấy an tâm hơn, thở phù nhẹ nhõm, song cũng không có ý định thả tôi xuống, chỉ tiếp tục đi.
Tôi nói: “À phải, em đã nghĩ ra mình muốn làm gì rồi. Năm sau em sẽ đi thi chương trình nghiên cứu sinh của học viện phiên dịch, hình như sẽ bắt đầu ghi danh từ tháng sau. Tóm lại, em sẽ vừa làm việc bên này, vừa ôn tập để đi thi, không phí thời gian, lại còn có thể kiếm tiền. Lúc trước em cứ ước được dịch cabin, cho dù không thành công, nhưng chí ít em đã từng nỗ lực, sau này cũng không hối hận.”
“Có chí thì nên.” Anh ấy cười.
“Ngoại ngữ hai em chọn tiếng Nga đấy. Anh phải ôn tập cho em.”
“Được thôi.” Lại cười.
Chỉ một đoạn đường ngắn, tôi nằm trên lưng anh ấy, cảm nhận được hơi ấm và hơi thở từ một con người khác, tôi chợt cảm thấy, dường như giữa hai chúng tôi đã có một sợi dây liên kết cả đời.
Lâu nay tôi không biết phải gọi anh ấy như thế nào, lúc trước gọi thầy, sau này thì lướt luôn cách gọi, lần đó nhất thời tức giận thì gọi luôn cả tên lẫn họ anh ấy. Những người xung quanh, có người gọi anh ấy Tiểu Mộ, có người gọi Thừa Hòa, anh ấy bảo ba gọi anh ấy là Tiểu Hòa.
Còn Mộ Thừa Hòa, từ đầu đến cuối cũng đều gọi thẳng tên tôi, hai chữ: Tiết Đồng.
Có lẽ vì khi ở nhà ba mẹ rất ít dùng tên thân mật chăng, cho nên tôi luôn cảm thấy tên trong nhà nghe ngồ ngộ. Nhưng, ngay trong giây phút này đây, giữa cảnh đêm và gió mát, tôi đột nhiên rất muốn gọi tên anh ấy.
Suy đi nghĩ lại, cuối cùng tôi dịu dàng thỏ thẻ một tiếng: “Thừa Hòa.”
Bước chân của anh ấy hình như có hơi khựng lại, rồi hơi nghiêng mặt: “Hmm?”
“Thừa Hòa.” Tôi lại gọi.
Lần này anh ấy không đáp lại nữa, nhưng nụ cười hiện rõ trên mặt.
…
Kế hoạch ban đầu của chúng tôi là sẽ đi câu cá vào Lễ Quốc Khánh, chẳng ngờ trời lại mưa. Mưa rơi rớt từ đêm hôm qua đến sáng hôm nay, tí tách tí tách, không khí cũng man mác hơi lạnh của mùa thu. Tôi rất thích ngồi ở nhà với Mộ Thừa Hòa trong thời tiết thế này. Anh ấy làm việc trong phòng khách, tôi bận bịu qua lại song cũng không làm phiền anh ấy, có lúc tôi sẽ tự đọc đề thi, có khi lại quét lau nhà cửa, thỉnh thoảng cũng rót nước cho anh ấy. Dẫu cho không nói một lời nào, tâm trạng cũng tươi đẹp vô cùng.
Tiếc rằng, một cú điện thoại đã phá vỡ sự yên tĩnh này.
Bác gái ở bên kia đầu dây nói: “Tiết Đồng, đến đây đi, ông nội của con… sắp không được rồi.”
Mặt tôi tức thì trắng bệch.
Mộ Thừa Hòa bước tới hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Anh ấy chở tôi đến bệnh viện. Mưa rơi xối xả, càng ngày càng nặng hạt, tôi mơ màng nhìn hai cần gạt nước ở trước mặt đưa đi đưa lại… Phía trước là cụm đèn giao thông, anh ấy nhìn tôi, nhưng rồi cũng chỉ im lặng.
Khi đến phòng của ông, chúng tôi chỉ trông thấy bác gái và bà nội đang ngồi trước giường bệnh. Ông nội đang nằm trên giường, ống quản trước đó đã bị thay thế bằng chụp ôxy. Thiết bị hỗ trợ bên cạnh không ngừng kêu lên tít tít, trên người ông là tấm chăn, lồng ngực phập phồng cùng với nhịp hô hấp của máy móc…
Bác gái thấy tôi vào cửa liền nói, “Tiết Đồng con đến rồi à, chú và bác hai của con đã đi thương lượng với bác sĩ rồi.” Nói xong, nhìn thấy Mộ Thừa Hòa ở phía sau tôi, ánh mắt của bác gái có hơi hồ nghi. Song vì tôi không nói gì, nên Mộ Thừa Hòa bèn lễ phép cúi đầu chào. Không phải là muốn cố tình giấu giếm anh ấy, chỉ vì lúc này tôi không còn tâm tư quan tâm những việc này.
Bác gái lại nói: “Lần trước con có đến đây thì chắc cũng biết gần đây sức khỏe của ông nội con không mấy lạc quan, bác sĩ cũng đã nói các cơ quan của ông đã bắt đầu suy kiệt, mới sáng nay, huyết áp lại tăng đột ngột, não bộ đã xuất huyết lần thứ hai…” Nói đến đây, bác gái có hơi nói không nên lời nữa, bắt đầu lau nước mắt.
Trái lại, bà nội rất yên tĩnh, bà lấy tay vuốt ngay lại mái tóc của ông.
Bấy giờ, bác hai và các chú của tôi cùng đi theo bác sĩ vào phòng. Bác sĩ đi đến bên giường, móc từ trong túi ra một chiếc đèn pin nhỏ, mở mắt ông tôi lên soi soi vào trong, rồi bảo bác sĩ thực tập bên cạnh ghi lại số liệu, sau đó rời khỏi.
Bác hai kéo tay áo của bác sĩ thực tập ấy hỏi: “Thật sự là không một chút hy vọng nào sao?”
Bác sĩ thực tập nói: “Điều này rất khó nói, cũng không thể bảo là không có kỳ tích.”
Bác gái nói: “Cũng đã nằm ở đây 5 năm rồi, lúc ấy các người cũng nói có lẽ sẽ có kỳ tích, mãi đến hôm nay lại vẫn là câu này.”
Bác sĩ thực tập đáp lại: “Bác sĩ đích thật là đã cố gắng hết sức, tuổi tác của bệnh nhân lại cao như vậy…”
Căn phòng im lặng giây lát. Bác sĩ thực tập đóng tập lại định đi. Chú tôi lại hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”
Bác sĩ thực tập trả lời: “Không phải lúc nãy bác sĩ đã nói rất rõ ràng rồi sao, thực ra nếu bây giờ rút máy hô hấp ra thì bệnh nhân chẳng khác nào người đã chết. Trong tình trạng này, chỉ xem người nhà của bệnh nhân định thế nào thôi.” Nói xong người đó ra khỏi phòng.
Bác hai lấy ra một điếu thuốc và ống quẹt, vừa định đốt lên thì bác gái ở bên cạnh liền nhắc nhở, ông ấy bèn đi ra ban công. Hút liền vài hơi xong, lại đi trở vào. Những người khác vẫn còn đứng nguyên bất động.
Trong phòng chỉ có hai chiếc ghế, bà nội và bác gái đã ngồi, không còn cái nào khác, nãy giờ tôi chỉ đứng đấy nghe họ nói qua nói lại, giờ đây, tôi muốn tìm gì đó để dựa dẫm. Chính trong lúc này, Mộ Thừa Hòa vỗ vỗ vai tôi.
Tôi quay lại nhìn anh ấy. Anh ấy gật đầu với tôi, như muốn nói: Có anh ở đây, đừng sợ.
Cô lao công vào thay túi rác, trông thấy nét mặt nghiêm trọng của chúng tôi, bà nhiều lời nói vài câu.
Bà ấy nói: “Tình trạng như các vị đây, tôi làm ở đây bao nhiêu năm cũng đã nhìn quen rồi. Thật ra bác sĩ cũng không thể nói rõ ra với các vị. Nhưng các vị để người già nằm như thế, viện phí cao, chính bản thân ông ấy cũng chịu tội, cuối cùng cũng chỉ chống cự được vài ngày.”
Mấy lời của cô lao công đánh thẳng vào trọng điểm.
Bác gái liền nói: “Chị này nói rất có lý.”
Bà nội vừa kéo lại chăn cho ông, vừa hỏi: “Nếu chuyện này để mẹ làm chủ, mọi người có đồng ý không?”
Bác gái nói: “Mẹ, mẹ nói sao tụi con làm vậy.”
Bà nội im lặng một lúc mới bắt đầu nói: “Ông già nằm ở đây bao nhiêu năm rồi, thật ra nhiều lúc mẹ cảm thấy chính mẹ đã ép ông ấy ở lại, bắt ông ấy nằm đây chịu tội. Trong lòng mẹ chỉ mãi nghĩ thế này, thằng ba đã đi rồi, vậy mẹ phải giữ chặt ông ấy, chỉ mong một ngày ông ấy có thể tỉnh lại.”
“Số tiền đó là mẹ đã buộc các con lấy ra, mỗi ngày nằm viện, sức khỏe của mẹ lại yếu, chúng ta buộc phải mời y tá. Những năm qua, các con bỏ ra bao nhiêu, mẹ đều nhìn thấy cả, tất cả chỉ vì suy nghĩ nhỏ nhoi ấy của mẹ, mẹ sợ một khi mất đi nỗi nhớ này, mẹ cũng sẽ đi theo cha con ông ấy.”
“Nhưng bây giờ, sự việc đã như thế này… bây giờ đã thế này rồi, nếu phải lãng phí thêm vài ngày, thì chi bằng cho ông ấy đi đi.” Nội nói xong, thở dài.
Bác hai bảo: “Vậy con gọi bác sĩ đến.”
Những người khác đều đồng ý.
Tôi lặng lẽ đi đến bên giường, cúi nhìn ông.
Miệng ông đang ngậm một ống hô hấp rất to, được cố định bởi băng keo màu trắng, ống quản ấy buộc miệng ông phải mở ra. Da mặt vàng bủng, khuôn mặt gầy gò. Đã nhiều năm rồi tôi không ngồi ngắm nhìn ông kỹ như thế, ký ức chỉ còn lại một bóng hình mơ hồ.
Bà nội nhỏ người và gầy, mọi người đều bảo tôi có hơi giống nội lúc trẻ, còn ông tôi thì di truyền đặc tính thấp béo, da trắng tóc xoăn cho ba tôi. Khi còn nhỏ, ông cưng chiều tôi còn hơn cả ba. Có một lần, vì xuống quê chơi mà tôi bị lây chí về nhà, bà nội vừa châm chọc ông bà ngoại tôi, còn vừa cạo đầu tôi ngay trước mặt họ như là để trút giận. Kết quả là các bạn hàng xóm đều nói tôi là tiểu ni cô, không thèm chơi với tôi, ông nội phải làm rất nhiều đồ chơi để dụ họ đừng ăn hiếp và đừng cười tôi.
Không bao lâu, bác sĩ và bác hai đi vào. Y tá đưa gì đó cho họ ký tên.
Bác gái hỏi: “Chỉ lấy hết máy móc đi là được sao?”
Y tá gật đầu.
Bà nội không nhẫn tâm ngồi nhìn, nên mọi người đỡ nội ra ngoài.
Tôi đứng đấy, chợt nói một câu, giọng đều đều: “Con không đồng ý.”
Tiếng nói không lớn, nhưng đủ để tất cả mọi người trong phòng đều nghe thấy.
Bác hai và bác sĩ đều cùng lúc ngước lên nhìn tôi.
“Con nói con không đồng ý.” Tôi lặp lại một lần nữa.
Bác gái cầm lại nước mắt, liếc nhìn tôi như nhìn một quái vật vậy: “Tiết Đồng.”
Ở trong gia đình này, tôi chưa bao giờ làm phật ý trưởng bối, trường hợp công cộng thế này thì càng không có.
Bác hai giải thích: “Tiểu Đồng à, đây là ý của bà nội con.”
Tôi nói: “Nhưng con không đồng ý. Ba con mất sớm, vì thế con nói thay lời của ba. Nếu bây giờ ba còn ở đây, chắc chắn ba con cũng không đồng ý!”
Bác sĩ nhìn tôi, lại nhìn bác hai, nói bằng giọng không vui: “Người nhà thương lượng hết đi rồi hãy gọi tôi, tôi còn nhiều việc phải làm lắm.” Nói xong, ông nhìn y tá ra dấu hiệu gì đó rồi rời khỏi.
Bác gái tức thì nổi giận: “Một đứa con nít như con thì hiểu chuyện gì chứ? Con có biết kéo dài thêm một tiếng đồng hồ là bao nhiêu tiền không? Ông của con không có việc làm, không có phí trợ cấp, tất cả đều do chúng ta tự chi. Con có biết cảm thông cho người khác không? Bây giờ đâu phải là chúng ta không chịu chữa trị, mà là chỉ còn cách này, chính tai con cũng nghe bác sĩ nói vậy mà!”
Tôi cắn chặt môi, cũng nổi bướng: “Mọi người chỉ thương tiền thôi không phải sao? Cùng lắm con đi sớm về muộn cố gắng kiếm tiền, dù phải bán máu cũng kiếm tiền về trả lại cho mọi người, con…”
Mộ Thừa Hòa ở sau lưng kéo kéo tay tôi, ra ý bảo tôi đừng nói nữa.
“Tiết Đồng!” Bác gái càng phẫn nộ, “Con đúng là càng ngày càng không ra gì”!
Những người thân đứng bên cạnh cũng không tiện nói gì, và thế là không khí ngưng đọng.
Ngay trong lúc tình thế nặng nề như thế, một giọng nói bất chợt vang lên.
Mộ Thừa Hòa đứng ra nói: “Bác trai bác gái, cháu thay Tiết Đồng xin lỗi mọi người, cô ấy còn nhỏ không hiểu chuyện, nhất thời nói lời trẻ con, hai bác cũng đừng giữ trong lòng. Tin tức này thật sự có hơi đột ngột, Tiết Đồng chỉ là nhất thời không tiếp nhận được, có lẽ cho cô ấy một ít thời gian sẽ đỡ hơn. Mẹ cô ấy không có ở đây, tuy bảo là chồng đã qua đời nhiều năm, nhưng khi ông nội còn tỉnh táo, bác ấy vẫn còn là con dâu của ông. Hay là, chúng ta cố đợi thêm một lúc, đợi mẹ Tiết Đồng đến đây rồi hẳn tính? Dẫu sao cũng đã chờ lâu vậy rồi, cũng không gấp gì một lúc này. Đúng lúc có thể tranh thủ khoảng thời gian này sắp xếp vài thứ cho ông nội, như thế thì Tiết Đồng cũng có tâm lý chuẩn bị?”
Vốn dĩ tôi còn cứng đầu không thèm rơi lệ, dẫu cho khi nghe bác sĩ tuyên bố tin xấu tuyệt vọng ấy, tôi cũng không khóc, nhưng khi Mộ Thừa Hòa nói thay tôi vài lời khách sáo, tôi liền như tìm được một ngọn cỏ cứu mạng, nơi mềm yếu nhất trong lòng bỗng dưng tìm được một lối thoát, hai dòng lệ nóng hổi lập tức chảy xuống.
Tôi hoảng loạn, vội vàng quay mặt đi, nhìn qua vách tường trắng.
Mộ Thừa Hòa lại hỏi: “Các bác cảm thấy như vậy có được không?”
Bác hai bảo: “Nói ra cũng phải, chúng tôi gấp quá cũng chưa lo xếp chu toàn. Cũng được, chúng tôi ra ngoài chuẩn bị hậu sự cho ông già, để tránh tới lúc ấy rối rắm chưa chuẩn bị được gì.”
Mọi người lũ lượt tán đồng, sau đó thì bị bác hai phân công công việc, họ lần lượt rời khỏi phòng.
Bác gái nói: “Bà nội của con còn ngồi ở bên ngoài, bác đưa nội về nhà nghỉ ngơi trước.”
Cuối cùng, chỉ còn lại tôi và anh ấy. Tôi đứng bên giường, quay đầu nhìn ra góc tường, anh ấy ở phía sau tôi, không lay động. Nước mắt trên mặt tôi đã bị gió hong khô, anh ấy kéo ghế qua cho tôi, sau đó cũng ngồi xuống ở vị trí bên cạnh.
Chúng tôi im lặng rất lâu, sau cùng anh ấy bảo: “Hay là… em nói chuyện riêng với ông nội đi?”
“Ông có thể nghe thấy không?”
“Có lẽ sẽ nghe.” Anh ấy đáp.
“Thật không?”
“Thông thường thì anh không nói dối.”
“Vậy khi nào anh mới nói dối?”
Anh ấy hơi khựng lại một lúc, “Khi đó là lời nói dối thiện ý, khi anh cảm thấy ngượng và xấu hổ.”
Tôi nhìn vào đôi mắt của Mộ Thừa Hòa, thấp thoáng biết được anh ấy đang nói về điều gì. Thật ra, tôi cũng có nói dối với anh ấy, không phải sao?
Tránh khỏi ánh mắt ấy, tôi nhìn trở về giường bệnh, “Em nhớ ra có điều gì muốn nói với ông rồi.”
“Có cần anh ra ngoài không?”
Tôi suy nghĩ đôi lúc, lắc đầu, nhưng rồi lại gật đầu.
Mộ Thừa Hòa đứng dậy: “Vậy anh ra ngoài hút điếu thuốc.”
Tôi ngã đầu lên chiếc gối của ông, đặt sát bên đầu ông, từ từ tìm về ký ức xa xăm…
“Lúc nhỏ, có một khoảng thời gian con đến ở với ông và bà. Mỗi khi phát bài kiểm tra, cô giáo đều bắt mang về cho phụ huynh ký tên, nhưng môn văn của con từ nhỏ đã yếu, mỗi lần điểm thấp con đều không dám cho ai xem. Sau cùng, con đã giả chữ ký của ông.”
“Còn có một lần, con nói chuyện trong giờ học, bị cô chủ nhiệm tóm được, bắt phải mời phụ huynh, nếu không sẽ không cho con vào lớp. Lúc ấy ở nhà chưa có điện thoại, con đã nói dối là ông bị bệnh nặng, bà đưa ông vào viện rồi, cô mới chịu tha cho con.”
“Ông thường để tiền trong túi áo trước ngực, lại không chịu đếm tổng cộng có bao nhiêu thì đã vắt áo lên đầu giường. Có lần con canh lúc ông không chú ý, lấy cắp mấy đồng mua kẹo ăn.”
“Chiếc vòng cẩm thạch mà chú sáu mang về cho bà nội từ Vân Nam, thật ra là do con làm vỡ. Nhưng lúc ấy con thật sự rất sợ, nên đã để nó về trong hộp, khi ông mang nó cho bà thì nó đã bị gãy làm đôi, con còn hại ông bị bà trách mắng.”
“Ông đi họp phu huynh cho con, cô giáo nói thành tích học tập của con không tốt, ông về nhà nói lại y như vậy cho mẹ nghe. Khi ông đi rồi, mẹ đã đánh con một trận. Lúc ấy con vừa khóc, trong lòng vừa oán trách ông không phải là ông nội của con.”
“Ông từng nói với con ông phải sống đến một trăm tuổi, để nhìn ba đứa cháu của mình kết hôn sinh con. Bây giờ anh và chị đều đã kết hôn rồi, ông cũng nhìn thấy Mộ Thừa Hòa rồi, anh ấy rất tốt, thật sự rất tốt.”
…
Không biết tôi đã nói như thế trong bao lâu, mãi đến khi hai cô y tá đẩy cửa vào ghi chép số liệu gì đó mới cắt ngang tôi. Sau đó, cô y tá lại truyền nước biển cho ông. Tôi nhường chỗ lại cho họ, một mình đi ra ngoài.
Đã đến giờ ăn tối, những căn phòng khác đều thơm mùi thức ăn.
Đúng lúc vợ chồng anh họ tôi đi tới, trông thấy tôi liền nói: “Em đi ăn cơm đi, anh sẽ trông chừng ông, có chuyện gì sẽ gọi điện cho em.”
Chúng tôi đều hiểu, cái được gọi là “có chuyện” là chuyện gì.
Mộ Thừa Hòa không có trên hành lang, tôi đi một vòng tìm khắp nơi, cuối cùng mới thấy anh ấy bên cửa cầu thang. Anh ấy ngồi dưới đất, ngay khúc quanh của hai tầng lầu, tay cầm điếu thuốc, đang ngơ ngác nhìn những hạt mưa thu bên ngoài.
Tôi bước tới đó, ngồi xuống cạnh anh ấy, với cùng một tư thế.
“Em thấy đói không?” Mộ Thừa Hòa dập tắt thuốc và hỏi tôi.
“Ừm. Đói.”
“Bên đó có người rồi à?”
“Ừm.”
“Vậy chúng ta đi ăn cơm trước đã, sau đó anh về nhà lấy áo cho em, ở đây ban đêm rất lạnh.”
…
Vừa bước xuống lầu thì anh họ đã gọi điện tới, thế là chúng tôi lại chạy trở lên, trong phòng đầy những người khoác áo bào màu trắng.
Anh họ trông thấy tôi vội giải thích: “Lúc nãy tim của ông bị suy kiệt đột xuất, bác sĩ đang cấp cứu.”
Lát sau, tôi thấy họ lắc đầu một cách bất lực. Bác sĩ bảo y tá xem đồng hồ, sau đó nói với cô ấy: “Thời gian tử vong, 19 giờ 31 phút ngày 1 tháng 10.”
Sau đó, mọi thiết bị đều được rút điện ra.
Tôi chen vào trong ấy, nắm lấy tay ông, vẫn còn hơi ấm, vẫn còn mềm, mọi thứ đều như không thực.
Rốt cuộc thì sự cố chấp của tôi cũng đã không giữ được ông.
Bà nội đến bệnh viện, nhìn thấy ông bị vải trắng che đầu lại, bà cũng không cầm được nước mắt.
Cuối cùng, chỉ có tôi dìu bà ra ngồi trên dãy ghế ngoài hành lang. Mộ Thừa Hòa cùng với mọi người liên hệ thong báo đến người quen và thu xếp hậu sự cho ông. Bà nội khóc được một lúc thì không tiếp tục nữa, chỉ không ngừng kể đi kể lại với tôi những chuyện của ba và của ông.
Bà không ăn cơm, tôi sợ bà đói, bèn hỏi bà muốn ăn gì.
Nội nói: “Con gọt cho nội trái lê đi.”
Đợi tôi mua lê trở về, nội lại đòi ăn táo. Tôi lại chạy đi mua táo.
Đến khi đã cầm táo và lê trên tay, nội mới lầm bầm một câu: “Ông à, chúng ta ăn quả không phân lê.”
Ăn quả không phân lê. Đây là câu nói địa phương mà trước đây ông thường nhắc đến, ý muốn nói táo và lê là phải ăn chung với nhau, không được tách rời, như vậy thì cả nhà mới có thể mãi mãi đoàn viên.
Lòng tôi bất giác chùn xuống.
Tôi đi mượn dao trái cây, rửa sạch táo lê xong, tôi bắt đầu gọt. Gọt vỏ xong đưa cho bà, bà lại không ăn, chỉ cầm trên tay ngồi nhìn lặng lẽ. Tôi tiếp tục gọt lê, được một nửa thì bà bất chợt bóp chặt tay tôi, nói một cách kích động: “Không được chia! Không được tách ra!”
Tôi bị trượt tay, con dao lập tức cắt vào. Ban đầu chỉ hơi tê, một lúc sau mới bắt đầu có máu. Tôi vội trấn an bà, sau đó đặt giỏ trái cây xuống chạy vào phòng vệ sinh.
Lưỡi dao rất sắc, tuy vết thương chỉ có nửa tấc, nhưng vết cắt rất sâu, máu không ngừng chảy ra cùng với nước trong ống vòi, tôi rửa tay sạch sẽ, sau đó lấy khăn giấy quấn đại lên đó rồi đi trở ra.
Sau khi trở về chỗ ngồi, tôi mới phát hiện trên quả lê ấy cũng bị dính máu, bèn vứt nó đi, lấy từ trong giỏ ra một quả khác tiếp tục ngồi gọt. Trước đây nội từng mắng trái tim tôi thật sắt đá, không chỉ lạnh, mà còn cứng. Tôi không khóc.
Vết cắt ngay lòng bàn tay, vì thế cứ cầm lấy vật gì, dù chỉ rất nhẹ cũng đủ làm nó nứt ra, và máu lại chảy. Tôi cũng không để tâm, thấm ướt giấy thì thay giấy khác. Tôi thầm nghĩ, một người đối xử lạnh nhạt ngay cả với chính bản thân mình, thì còn có thể nhiệt tình với ai?
Ban đêm, Mộ Thừa Hòa đưa tôi về nhà nghỉ ngơi. Nhìn thấy tay tôi quấn khăn giấy, anh ấy hỏi tôi bị sao, tôi không trả lời, chỉ tắt đèn rồi đi ngủ. Anh ấy ngồi trong phòng của mình, mở đèn giường dựa vào gối để đọc sách. Chúng tôi đều không đóng cửa phòng, vì thế tôi có thể nhìn thấy ánh đèn màu vàng cam hắt ra từ phòng anh ấy.
Không biết trải qua bao lâu, chợt vọng đến tiếng bước chân khẽ khàng của Mộ Thừa Hòa. Sau đó, tiếng bước chân dừng lại trước cửa phòng của tôi, dường như anh ấy muốn xem tôi có yên giấc hay không. Vài phút sau anh ấy mới rời khỏi.
Lại trải qua rất lâu rất lâu, tôi lật người lại, bất cẩn hất tung chiếc điện thoại nằm bên cạnh bay xuống đất, phát ra một âm thanh “tạch”. Nghe thấy động tĩnh, anh ấy lại một lần nữa xuất hiện trước cửa, cũng vẫn đứng yên ngoài ấy giữa bóng tối.
Nhưng lần này Mộ Thừa Hòa không dễ dàng về phòng, anh ấy hỏi: “Ngủ không được phải không?”
Tôi chần chừ một hồi, mới đáp lại một tiếng.
Anh ấy thở dài, bật đèn lên rồi đi tới bên giường của tôi.
Tôi quay mặt vào tường.
“Tiết Đồng…” Anh ấy gọi, “Nếu như em không ngủ được, anh sẽ nói chuyện với em.”
“Rất nhiều thanh niên trong xã hội này luôn cảm thấy thứ khó chấp nhận nhất, thứ đau khổ nhất trên đời này chính là đánh mất tình yêu, để rồi xem thường mạng sống của mình. Thật ra, đại đa phần vì họ chưa trải qua nỗi đau mất đi người thân. Có lẽ trong tiềm thức của em đã mang ảo tưởng hy vọng ba mình sẽ sống lại đặt vào ông nội, vì vậy em mới đau khổ hơn những người khác.”
Nghe thấy câu nói này, tôi không tự chủ mà nắm chặt bàn tay, móng tay đâm mạnh vào vết thương, chỉ chốc lát máu đã lại chảy ra. Dường như chỉ khi thân thể tôi đau, thì nỗi đau của trái tim mới có thể hóa giải.
Ngờ đâu, tay đã đau, mà nỗi đau trong tim vẫn còn tiếp tục.
Tôi kéo chăn đắp qua đầu, rúc người vào đó, sau đó mới nói: “Khi ba xảy ra chuyện, bà nội không cho em nói với ông, sợ bệnh tim của ông tái phát, nhưng em đã không nghe lời. Nếu như lúc đó em không kích động như vậy, không báo tin đó với ông, có lẽ ông sẽ không bị như hôm nay. Vì vậy bà nội hận em, mọi người đều hận em, đều tại em cả.”
Mộ Thừa Hòa im lặng một hồi rồi mới chầm chậm nói: “Tiết Đồng, câu chuyện mà anh kể cho em nghe về ba anh, thật ra phía sau còn một đoạn anh chưa nói hết.”
Nấp ở trong tấm chăn lớn, tôi bất chợt nín thở.
Anh ấy nói: “Về sau, ba anh cứ bệnh suốt, thần chí không minh mẫn, năm cuối cùng ấy ba thậm chí không còn nhận ra anh, ba bị giam trong bệnh viện tâm thần. Nhưng có một hôm, đột nhiên ba nhận ra anh, ba còn nói ‘Tiểu Hòa, ba hết bệnh rồi, ba muốn về nhà.’ Anh liền ép mẹ làm thủ tục cho ba trở về.”
“Khi ấy, ba mẹ anh đã ly hôn, không còn sống chung một nhà nữa, anh nói anh có thể chăm sóc cho ba. Những ngày đầu cũng rất tốt, ba có thể nói chuyện với anh, có thể ăn cơm do anh nấu, còn có thể ngồi đọc sách ở nhà một mình. Làm sao anh biết được ba lại đột nhiên tự sát?”
“Ba treo cổ vào lúc nửa đêm, sáng sớm thức dậy anh mới phát hiện. Anh không biết phải làm thế nào, lúc ấy ở nhà không có điện thoại, và ba thì treo ngay trước cửa, anh không dám đi ra ngoài từ lối đó, nên cứ ngồi trên sàn nhà, ngồi nhìn ba. Mãi đến đêm khuya, mẹ mới tìm đến đây do nhận được điện thoại từ nhà trường vì anh không đi học.”
“Lúc ấy anh đã nghĩ, anh mới là hung thủ. Kết luận này đã quấy nhiễu anh rất lâu, thậm chí chỉ cần nhìn thấy cánh cửa ấy là anh lại xuất hiện một ảo giác, dường như ba vẫn còn treo ở đấy, và đang nhìn anh, ánh mắt đầy oán trách. Về sau khi sang nước Nga, người ta nói với anh hút ma túy có thể làm tê liệt thần kinh, đầu óc sẽ trở nên đần độn, và rồi sẽ không nhớ ra gì nữa, kết quả là có một thời gian rất dài, anh đã điên cuồng hút những thứ ấy.”
“Sau khi mẹ biết được, bà đã nhốt anh lại bắt anh cai nghiện, còn tìm rất nhiều bác sĩ tâm lý khám cho anh.”
“Nhưng, dẫu rằng bao nhiêu năm đã trôi qua, anh vẫn không dám sống một mình trong căn nhà này, dường như cứ hễ vào đêm, ba sẽ lại trở về. Chỉ cần anh ngồi một mình trong bóng tối, nhìn vào nơi mà ba ra đi, anh sẽ như có thể trò chuyện với ba hay là với thứ gì khác, có lúc sẽ nghe thấy tiếng người, có lúc sẽ có tạp âm. Sau này anh lại đến gặp bác sĩ, họ nói đó chỉ là ảo thính. Vì vậy anh chẳng thà mình bị điếc, như thế anh sẽ có thể không nghe thấy những âm thanh ấy nữa.”
Nghe đến đây, tôi giở chăn lên, ngồi dậy, nhìn thấy nỗi đau khổ trong mắt của anh. Tôi những tưởng rằng cả đời anh ấy cũng không nói với tôi những điều này, cả đời anh ấy cũng không muốn nghĩ về quá khứ ấy nữa. Tôi khẽ choàng tay qua cổ anh, run giọng nói: “Anh không cần phải nói ra những chuyện này.”
“Không, anh nhất định phải nói với em. Nếu không trái tim của anh mãi mãi cũng là một nơi không gặp được ánh sáng, hễ nhìn thấy em anh lại thấy tự ti.” Anh ấy nói.
“Không hiểu tại sao, anh rất thích trẻ con, vì thế anh đã đi dạy học. Nhìn những thanh niên đầy sức sống ấy, anh chợt cảm thấy cuộc đời đầy hy vọng. Sau này, em đã đến. Tiết Đồng, em đã đến. Tối hôm đó, em đã ngồi tìm kính sát tròng cho anh giữa đất tuyết lạnh lẽo, lúc ấy tay của em đông cứng và sưng cả lên.”
“Em giống như là một thiên thần vậy. Cảm xúc của em phong phú đến thế, em thích cười, lại thích chau mày, dễ đỏ mặt, lại dễ giận, ngay cả khi giận hay khi ngượng, nét mặt của em cũng dễ thương đến thế.”
“Chính em đã khiến anh phát hiện, anh không thể mãi mãi sống trong quá khứ. Huống chi chỉ cần có em bên cạnh, thì anh không còn gì phải sợ cả. Đêm giao thừa năm đó, em đã cầu nguyện trước mặt anh, thật ra lúc ấy anh cũng đã lén cầu nguyện, anh hy vọng cô gái trước mặt mình mãi mãi vui vẻ và hạnh phúc.”
“Vì vậy, em không cần phải tự trách mình. Tiết Đồng, em hiểu không? Chỉ cần em có một chút không vui, trái tim anh sẽ lại rất đau. Bất kể là ông nội hay là ba của em, tình yêu của họ và của anh cũng đều như nhau cả, cho nên họ nhất định không muốn thấy em tiếp tục tự trách mình như vậy.” Giọng của anh ấy đã có hơi khàn.
Tôi xòa vào lòng anh ấy, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi: “Em biết, Thừa Hòa. Em hiểu.”
“Vậy bây giờ hãy đưa tay ra cho anh xem được không?” Anh ấy nói.
Tôi buông cổ anh ấy ra, ngoan ngoãn giơ tay ra trước mặt.
Mộ Thừa Hòa cúi đầu nhìn, không nói lời nào, lập tức đi lấy tủ y tế rồi trở về bên tôi.
Máu đã đông đặc, nhưng vì chạm phải nước, viền cắt đã bắt đầu nổi màu trắng. Anh ấy cẩn thận sát trùng cho tôi, một ít thịt đã bị lồi ra ngoài, gặp phải cồn liền như bị lửa đốt vậy, hại tôi bất giác “xít…” lên một tiếng.
Tay anh ấy run lên một cái, song vẫn không nhìn tôi.
Đèn trong phòng không mấy sáng, tôi lại ôm chầm lấy anh ấy ngay khi chui ra khỏi mền, đến khi tôi buông tay ra thì anh ấy đã quay người đi ra ngoài lấy thuốc, vì vậy tôi vẫn chưa được nhìn thấy mặt của anh ấy. Mãi đến bây giờ, tôi mới phát hiện, khoang mắt của anh ấy đỏ hoe.
Cũng không biết là vì những lời nói lúc nãy hay là tại vết thương của tôi.
Tôi hoang mang cả người: “Anh sao thế? Anh sao thế?”
“Không có gì.” Anh ấy tránh khỏi ánh nhìn của tôi.
Tôi nào chịu nghe theo, không cho anh ấy bôi thuốc nữa, tôi dùng hai tay giữ chặt gương mặt của Mộ Thừa Hòa, bắt anh ấy nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt bị gì đó thấm ướt càng thêm long lanh. Anh ấy không phản kháng nữa, cũng không giằng co nữa, chỉ cúi mắt xuống, không nói lời nào.
Từ trước đến nay, bất kể là trong trường hợp nào, dù cho gặp phải chuyện gì, thì cái đầu tiên mà Mộ Thừa Hòa mang đến cho tôi đều là nụ cười.
Anh ấy chưa bao giờ để lộ cảm xúc tiêu cực của mình ở trước mặt tôi, dẫu cho có thương tâm hay khó chịu, anh ấy cũng đều cười. Và khi cười, đôi mắt này sẽ hơi híp lại, sau đó khóe môi sẽ cong lên, cánh cửa sổ tâm hồn ấy sáng vô cùng.
Ôn hòa, khiêm nhường, thỉnh thoảng sự xảo huyệt cũng sẽ xuất hiện trên gương mặt này.
Nhưng ngay bây giờ đây, Mộ Thừa Hòa mà tôi nhìn thấy lại là như thế.
Tôi khẩn trương vô cùng, vội nói: “Em không đau, em không đau một chút nào, từ nhỏ em đã rất nghịch ngợm, dây thần kinh đau cũng chậm chạp hơn người khác. Hơn nữa anh thấy đó, lúc nãy em đã khóc ướt cả áo của anh rồi, chuyện đau lòng cũng nói với anh rồi. Em không tự trách mình nữa, sau này mỗi khi em đau lòng, em sẽ nghĩ có một người sẽ đau lòng hơn em, như vậy em sẽ không buồn nữa, em có chuyện gì cũng sẽ nói với anh đầu tiên…”
Nghe tôi nói năng lộn xộn như thế, anh ấy trầm ngâm một hồi mới tiếp lời tôi: “Hôm ấy anh không nên buông bàn tay này ra ở trước mặt mọi người.”
Tôi sững sờ, sau đó mới hiểu ra anh ấy đang nói chuyện lần đó.
Hôm ấy bắt gặp xe của đại học A, đứng trước mặt của giáo viên và lãnh đạo trường, anh ấy đã buông tay tôi ra. Đó là lần đầu tiên chúng tôi nắm tay nhau, chúng tôi sát cánh bên nhau đi đường núi. Đường núi rất hẹp, thỉnh thoảng có xe chạy qua, anh ấy nhìn thấy xe tới bèn kéo tay tôi lại, cho tôi đi vào bên trong, và rồi không buông ra nữa, cứ thế mà đi. Tay của tôi lại nhỏ, tay của anh ấy nắm một cái là bắt trọn cả bàn tay, lúc ấy trong lòng tôi như có một con hỷ tước nhảy nhót vì sung sướng. Song khi gặp phải những giáo viên khác, anh ấy đã thả tay tôi ra trong ngại ngùng.
Cũng từ lần đó, chúng tôi không hề nhắc đến chuyện này nữa, cũng không chạm vào tay đối phương nữa, nó đã trở thành một khu cấm.
Anh ấy tiếp tục sát trùng cho tôi, rồi bôi “Vân Nam bạch dược” lên, sau đó dán băng keo cá nhân, cẩn thận vô cùng.
Và tôi cũng không dám ư hử gì nữa.
Xong hết mọi việc, anh ấy chợt bổ sung thêm một câu, “Sau này mãi mãi cũng không như vậy nữa.”
…
Mẹ tôi từ thành phố B về đây thì đã là nửa đêm. Mẹ vốn là một người giỏi giang, vì vậy chỉ chốc lát thì tang sự đã được ba đôi tay của mẹ, bác hai, bác gái thu xếp ổn thỏa.
Hôm sau, mọi người trong nhà đã bắt đầu bình tĩnh lại và tiếp nhận sự thật này.
Bà nội đứng nói trước mặt toàn thể họ hàng người thân: “Ông già đi như vậy cũng tốt, chứng tỏ ông ấy đều đã an tâm với mỗi một người trong gia đình chúng ta, còn hơn phải nằm lại với nhà mình trong tình trạng như thế. Ông già đã tám mươi mấy, như vậy cũng gọi là mỉm cười nơi chín suối rồi.”
Sau khi hoàn tất tang sự, mẹ tôi đã tìm đến Mộ Thừa Hòa và có một cuộc trò chuyện vô cùng thận trọng, địa điểm là nhà của tôi. Mẹ đã bắt tôi đứng đợi dưới lầu những nửa tiếng đồng hồ.
Cuộc đàm thoại kết thúc, ba chúng tôi vừa định ra ngoài dùng cơm thì tình cờ bắt gặp dì Trương sống ở tầng dưới đi về.
Dì ấy gọi: “Chị Đồng! Lâu quá không thấy mẹ con chị rồi. Nhà trên đó có cho thuê không, mấy hôm trước có người đến hỏi đấy.”
“Không không chị à, để lại cho con gái nó dùng.” Mẹ tôi nói.
Tôi nhìn dì Trương cười cười, sau đó cùng Mộ Thừa Hòa ra ngoài cổng chờ mẹ.
Bỗng nghe đối phương nói: “Một mình nó ở đây phải cẩn thận đấy, lần trước có trộm vào nhà chị, thật là, làm Tiết Đồng hoảng cả hồn, chắc cũng vì vậy mà dọn đi phải không?”
“Ừm, Tiểu Mộ sẽ chăm sóc nó nhiều hơn.” Mẹ đáp.
“Ồ, cậu trai trẻ đi cùng là con rể của chị à?”
“Bạn trai của con nhỏ, hôm nay dắt về cho em xem.” Tôi phải thừa nhận rằng khi nói câu này, mẹ tôi rõ ràng mang vẻ hãnh diện và vui sướng.
“Chậc chậc, gương mặt này, thật là giỏi sinh mà! Có phúc quá, có phúc đấy chị Đồng, chị còn trẻ vậy mà đã có con rể rồi, con nhỏ nhà em cũng đã gần 30 tuổi mà còn đơn thân chiếc bóng, chọn này chọn nọ, cuối cùng biến thành người ta không chịu nó nữa.”
Tôi lén nhìn Mộ Thừa Hòa một cái, người này vẫn tự nhiên như thường, giống như không nghe thấy gì vậy.
“Anh đúng là sát thủ của phụ nữ trung lão niên có kinh nghiệm dày dặn trên sa trường mà.” Tôi nói bằng giọng ủ ê.
Anh ấy cười một cái, rồi nựng má tôi.
“Không cho nhéo, đã đủ mập rồi.” Tôi dấy lên cuộc phản kháng.
Nhưng Mộ Thừa Hòa lại nựng thêm cái nữa, y như trẻ con. Chính ngay lúc này, mẹ tôi và dì Trương khô 77e4 ng biết đã lại nói gì đó mà cùng đưa mắt nhìn qua chúng tôi, đúng lúc thấy cảnh Mộ Thừa Hòa chọc ghẹo tôi.
Phát hiện ra ánh nhìn đột ngột từ đâu tia tới, Mộ Thừa Hòa thoáng chốc như bị hóa thạch, rồi thu tay về trong ngượng ngùng, tiếp đó liền tỏ vẻ bình tĩnh mà nhìn hai người phụ nữ trung niên ấy, cười tươi một cái.
Bấy giờ, đổi lại là họ thu ánh nhìn của mình trở về.
Trước đó khi gặp nhau, mẹ tôi tuy cũng hiền hòa với Mộ Thừa Hòa nhưng tuyệt đối không nhiệt tình, song trải qua nửa tiếng giao lưu này, mẹ đột nhiên thân thiết với Mộ Thừa Hòa hơn, lúc ăn cơm còn không ngừng gấp thức ăn cho anh ấy.
“Mẹ à.” Tôi hồ nghi rồi.
“Chuyện gì?” Bà ấy hỏi.
“Không phải trước đây mẹ nói với con, ăn cơm tốt nhất đừng gấp thức ăn cho người khác, như vậy là không vệ sinh sao?” Tôi nói.
“…”
Ánh mắt của mẹ tôi lúc đó truyền tải trực tiếp một thông tin: Sao tôi lại có đứa con khờ thế này chứ…
Phía bên đơn vị của mẹ vẫn còn việc, vì thế sau bữa cơm, tài xế đã đến đón mẹ về.
“Rốt cuộc là mẹ và anh đã nói gì?” Trên đường về nhà, tôi tò mò hỏi.
“Nói chuyện tương lai.”
“…Anh không nên dạy môn vật lý, anh phải dạy môn lịch sử. Một câu nói đã có thể khái quát toàn bộ sự hưng thịnh suy thoái của một vương triều.” Tôi làu bàu.
Anh ấy lắc đầu ngồi cười.
“Mẹ em hỏi rất nhiều, anh không biết phải bắt đầu nói từ đâu.”
“Vậy thì chọn ra một hai cái quan trọng nhất thôi.”
Trầm ngâm một lúc, anh ấy nói: “Lúc nãy bác gái có hỏi anh một vấn đề.”
“Vấn đề gì?”
Tôi đã đặt câu hỏi thế rồi mà anh ấy vẫn chưa chịu có đoạn tiếp.
Thế là, lại hỏi thêm lần nữa.
Người này im lặng suy nghĩ rất lâu, cuối cùng mới nói một cách không tự nhiên: “Em chắc chắn là em muốn nghe?”
“Chắc chứ, sao lại không nghe?” Tôi càng thêm tò mò.
“Ờ…” Nét mặt của Mộ Thừa Hòa cho thấy, dường như anh ấy có hơi hối hận vì đề cập đến vấn đề này.
“Mẹ của em tương đối… tiến bộ. Bác ấy hỏi anh…” Anh ấy đột nhiên có hơi cà lăm, như đang tìm kiếm từ ngữ trong đầu vậy, “Chúng ta… có làm tốt thao tác an toàn không.”
Tôi không suy nghĩ sâu vào câu nói đó, bèn hỏi: “Thao tác an toàn gì?”
Thấy tôi bình thản như vậy, Mộ Thừa Hòa cũng dường như điềm tĩnh hơn, anh ấy không giải thích cho câu hỏi của tôi, trái lại chỉ tiếp tục nói: “Anh nói với mẹ em rằng, lâu nay chúng ta luôn ngủ khác phòng.”
Vài giây sau, tôi mới lĩnh ngộ ra hàm ý thật sự trong câu nói ấy, sau đó, tôi ngượng ngùng, tôi quay mặt ra ngoài.
Đỏ mặt rồi.
“Chủ nhật tuần sau có một bữa tiệc, em có thể đi với anh không?” Mộ Thừa Hòa lại hỏi.
“Tiệc gì?”
“Đám cưới của một giáo viên trong khoa Vật lý trường chúng ta, bảo anh dắt theo bạn gái đến dự.”
Tôi nhìn anh ấy, trả lời một cách ngọt ngào: “Được thôi.”
Khi đi ngang Học viện phiên dịch, nhớ lại lời nói của sư tỷ nào đó, tôi bèn đi lên thư viện ở tầng một và tìm mua được tư liệu ôn tập ở đấy.
Thật lòng mà nói, trước đây khi học môn ngoại ngữ hai, cho dù là tiết của Trần Đình hay của Mộ Thừa Hòa, thì nội dung mà chúng tôi được học chủ yếu vẫn là cách phát âm và những câu giao tiếp thường ngày. Còn kỳ thi nghiên cứu sinh thì có yêu cầu cao hơn về ngữ pháp và từ vựng, thế là trọng trách đã rơi vào đầu Mộ Thừa Hòa.
Sau mỗi bữa tối, tôi sẽ bá chiếm bàn làm việc ngoài phòng khách của anh ấy, cắm đầu vào công tác luyện thi, làm vài câu, đọc vài trang sách, có gì không hiểu thì hỏi Mộ Thừa Hòa.
Vốn dĩ anh ấy đang chuyên tâm ngồi vẽ sơ đồ trên sopha, nhưng thỉnh thoảng bị tôi gọi như thế, suy nghĩ bị ngắt quãng. Thế là anh ấy đứng dậy, kéo ghế tới ngồi bên cạnh tôi, cầm sách văn phạm tiếng Nga mà tôi mua lên lật lật vài trang, sau đó lấy giấy và bút vẽ cho tôi một sơ đồ từ vựng “Tính và Số”.
“Anh quy nạp cái này cho em đã, mất công em càng hỏi càng rối.” Anh ấy nói.
“Ồ.” Tôi ngoan ngoãn kéo ghế nhích lại gần hơn.
Mộ Thừa Hòa xoay bản sơ đồ về phía tôi, “Chúng ta nói về giống của chữ đã, trước đây anh đã từng nói trong lớp, tiếng Nga hơi khác với tiếng Anh, danh từ của nó được phân làm giống đực, giống cái, giống trung. Chúng ta có thể nhận biết bằng chữ cái cuối…”
Tôi dùng tay chóng đầu lên, nhìn anh ấy vừa viết vừa giảng.
Mộ Thừa Hòa quen dùng bút chì để vẽ, do đó ống bút trên bàn đều là bút chì Trung Hoa đã được chuốc nhọn.
“Giống cái có chữ cuối là a, я, b, ия, giống trung là o, e, иe, còn của từ giống đực là phụ âm, và й, b.”
Nói đến đây, anh ấy lại cầm bút lên viết lại chữ cái cuối vào các ngăn tương ứng của ba định nghĩa đực, cái, trung được viết bằng chữ Hán. Ngòi bút ấy di chuyển nhẹ nhàng trên giấy trắng, những chữ cái trên kia giống như những con vật dễ thương đang nhảy nhót vậy.
Chữ я của anh ấy vẫn giống như trước đây, nét cuối cùng móc lên một chút, trông nghịch ngợm và đáng yêu vô cùng.
Tôi bất giác cười lén, hiển nhiên là có hơi lo ra rồi, ánh nhìn bắt đầu di dời từ bàn tay trái của Mộ Thừa Hòa lên gương mặt của anh. Chúng tôi ngồi rất gần nhau, bởi thế mà dẫu cho vị trí ngồi của anh ấy có hơi ngược sáng, tôi cũng có thể thấy rõ lông trên mang tai của anh ấy.
Tôi thay bàn tay khác lên, tiếp tục chóng cằm, nhìn mắt của Mộ Thừa Hòa.
Lông mi không phải là đặc điểm nổi bật nhất trên gương mặt này, tuy nhiên vài sợi ở đuôi mắt lại rất cong, lúc này đây, anh ấy đang cúi mắt viết chữ, những sợi lông mi cong ấy càng rõ ràng hơn.
“Sau khi hiểu rõ danh từ, thì tính từ ở phía trước phải…” Anh ấy dừng lại, không biết là vì phát hiện ra ánh nhìn của tôi hay là vì cảm nhận được sự lơ là của tôi, tóm lại anh ấy đã ngước mặt lên, và đúng lúc hai cặp mắt đã đối diện với nhau.
Nhìn thấy đôi mắt sạch sẽ không một chút tạp niệm ấy, tôi tự động chột dạ vì sự xuất thần của mình.
Anh ấy không tiếp tục nữa, bỏ bút xuống.
“Tính từ… ừm tính từ thế nào…” Tôi ấp a ấp úng.
Anh ấy không tiếp lời, khẽ dùng tay sờ lên mặt của tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, rồi từ từ nhích đầu qua, hôn nhẹ lên môi tôi. Sau nụ hôn nhẹ nhàng ấy, anh ấy lại dùng đôi mắt mang đầy cảm xúc không thể bình tĩnh để mà nhìn tôi.
Nhìn rất lâu, đến khi tôi gần như tưởng rằng anh ấy sẽ dừng lại ở đây, thì một nụ hôn nồng cháy đã đến.
Tôi chưa từng nói với Mộ Thừa Hòa tôi rất thích môi của anh ấy. Nó mềm và mịn, giống như môi trẻ con vậy, khiến người ta không muốn rời ra.
Đắm say trong nụ hôn ấy một hồi rất lâu, cuối cùng môi chúng tôi cũng tách rời, anh ấy vẫn còn nhắm mắt, dùng mũi cựa quậy chiếc mũi của tôi, như một con vật nhỏ đang dò thám cảm xúc của đối phương, sau cùng mới lại mở mắt ra.
“Tiết Đồng.” Thanh âm của anh ấy đã có hơi khàn.
“Hmm?” Tôi cố trấn an nhịp tim bất chợt rộn ràng của mình.
Anh ấy khựng lại giây lát, “Chúng ta tiếp tục với tính từ.”
“…”
Tối hôm sau, Mộ Thừa Hòa giảng về khung danh từ.
Tối hôm sau nữa, nội dung giảng dạy vốn định sẵn là: làm thế nào khi gặp từ đổi cột. Nhưng sau đó đã bị đổi thành cái khác…
Mộ Thừa Hòa để tôi nằm trên sopha và hôn tôi, khiến tôi điên đảo tâm hồn. Sau đó, anh ấy ôm chặt tôi, cố kìm nén hơi thở gấp gáp của mình mà gọi: “Tiết Đồng.”
“Ừm.” Khi đáp lại câu này, tôi đã hoàn toàn chuẩn bị sẵn tinh thần để tiếp đón câu hỏi của anh ấy, đại loại như: ngăn thứ hai của đại từ nhân xưng là quy thuộc hay là tân ngữ.
“Tiết Đồng…” Ngờ đâu anh ấy lại gọi thêm một tiếng nữa, giọng thấp, và trầm.
“Hmm?”
“Anh muốn vượt mức rồi.” Anh ấy bảo.
Là một cô gái sống trong thế kỷ mới, tôi lập tức hiểu ra ngay ý nghĩa của câu nói này. Não của tôi do dự đôi lúc, bỗng dưng hiện ra hai câu nói để ứng phó. Câu đầu tiên là hỏi ngớ ngẩn “Vượt mức là gì?”, câu thứ hai là nói e thẹn “Chúng ta chưa thể làm như vậy.”
Ai ngờ đâu, khi lời nói đã đến đầu môi thì câu mà tôi tụt ra lại là: “Nhưng mà… lúc nãy anh vẫn chưa giảng hết cột tân ngữ.” Nói xong tôi lập tức khép miệng lại, cắn chặt răng, kéo chuông cảnh báo lên, ngăn chặn mọi phương pháp có khả năng để anh ấy tiếp tục xâm lược.
Mộ Thừa Hòa mặt tối sầm lại.
Tôi đã tưởng anh ấy bỏ cuộc rồi, nhưng anh ấy lại gọi tôi: “Tiết Đồng.”
“Ừm.” Tôi nhìn anh ấy đầy cảnh giác, dẫu cho là trả lời tôi cũng cắn chặt răng.
“Đại từ nhân xưng mà anh giảng lúc nãy, em đã nhớ hết chưa?” Anh ấy lái sang câu hỏi khác.
Tôi lắc lắc đầu, rồi lại gật gật đầu, ý là nhớ chút chút, nhưng nhớ không hết.
“Ngăn thứ hai của đại từ nhân xưng thứ nhất là gì?”
“MeHя.” Tôi vắt óc suy nghĩ, cuối cùng mới cho ra được đáp án này.
“Đọc lại lần nữa cho anh nghe nào.”
“MeHя.” Tôi đọc thêm một lần nữa rất rõ ràng. MeHя là từ có hai âm tiết, đều thuộc âm môi, vì thế khi phát âm, răng và môi đều phải mở ra.
Và ngay trong giây phút đó, lưỡi của anh ấy đã đột kích tôi, còn mang nụ cười thắng lợi, mặc ý làm càn.
Tôi mở to mắt, muốn đẩy anh ấy ra, nhưng đâu có dễ như vậy. Sao tôi lại có thể sơ xuất thế chứ, người này mà dễ dàng bị tôi đánh bại thì đâu còn là Mộ Thừa Hòa nữa.
Tiếp đó, anh ấy bế tôi vào phòng, tôi nhìn anh ấy, đỏ mặt tía tai.
Bốn mắt giao nhau.
Yết hầu của anh ấy hơi động đậy, tay trái ấy từ từ đưa lên, ngón tay khẽ lướt qua môi của tôi, sau đó là cằm, rồi cổ, xương đòn…
…
Cuối tháng một, sau kỳ thi nghiên cứu sinh, tôi không chỉ gầy đi mấy ký, tinh thần còn được nhẹ nhõm hơn. Lúc rãnh rỗi không việc gì làm, tôi sẽ cầm thẻ thư viện của Mộ Thừa Hòa vào thư viện của đại học A mượn vài quyển tiểu thuyết ngôn tình về đọc.
Chớp mắt thì Tết đã gần đến, sau khi thương lượng với nhau, tôi và Mộ Thừa Hòa quyết định đón tết ở thành phố B. Như vậy thì mẹ tôi không phải chạy đi chạy lại, mặt khác vì mẹ và ông bà của anh ấy cũng ở bên đó. Càng gần đến ngày gặp người nhà của Mộ Thừa Hòa thì tim tôi đập càng nhanh, tôi không ngừng hỏi anh ấy về khẩu vị của mẹ anh, ba kế, em gái, ông bà, thích ăn lạc hay ăn mặn.
Thật ra thì hồi cuối năm ngoái tôi và mẹ của Mộ Thừa Hòa đã có một buổi gặp gỡ chính thức, nhưng bác ấy rất vội, vì thế cũng không nói được gì. Đó là một phụ nữ trung niên ngoài năm mươi, đã tiều tụy hơn so với người phụ nữ mà tôi nhìn thấy năm xưa, mái tóc ngắn mạnh mẽ đã uốn xoăn lên một chút. Bác ấy có hơi phát tướng, nhưng nước da rất trắng, có lẽ đây là điểm tương đồng nhất của hai mẹ con họ.
Bác ấy đối với tôi cũng tương đối hiền hòa, song thấp thoáng vẫn mang vẻ uy nghiêm, khiến tôi có hơi khẩn trương, hơi sợ hãi.
Mộ Thừa Hòa bảo: “Lúc nhỏ anh cũng sợ bà ấy, chuyện bình thường thôi. Sau này khi quen hơn rồi thì em sẽ không sợ nữa. Huống chi chúng ta đâu có sống chung với mẹ.”
Vốn dĩ sinh nhật của Bạch Lâm vẫn chưa đến, nhưng vì hôm sau tôi và Mộ Thừa Hòa phải đến thành B, cho nên chúng tôi đã ăn mừng sớm vào thứ bảy. Sư huynh Lý vẫn còn ngại vì Mộ Thừa Hòa còn đang dạy anh ấy, thế là vẫn lễ phép gọi một tiếng: “Thầy Mộ.”
Tôi liền nói: “Hay đấy, vậy thì Tiểu Bạch à, cậu phải gọi mình là sư mẫu rồi.”
Mộ Thừa Hòa phì cười.
Bạch Lâm oán trách sư huynh nhà nó: “Anh bị bệnh sao, tự mình giáng cấp thì thôi còn kéo theo em. Nể tình Tiết Đồng lớn hơn em một chút, anh gọi tỷ phu là được rồi.”
Tôi cười ha hả.
Giữa chừng Mộ Thừa Hòa có đi vệ sinh, Bạch Lâm nhìn bóng lưng anh ấy rời khỏi mà cảm thán: “Ôi! Một thần tiên thế này mà cuối cùng lại bị hủy trong tay cậu.”
“Đi chỗ khác chơi!” Tôi vừa cười vừa đánh nó.
Đến lúc gần ăn xong, tôi tình cờ trông thấy nhóm người Lưu Khải tan tiệc đi ra phòng riêng. Chúng tôi ăn ở bên ngoài, Mộ Thừa Hòa và sư huynh Lý ngồi một bên, tôi và Bạch Lâm ngồi một bên. Hướng đi ra của Lưu Khải vừa đúng đối diện với tôi, ban đầu tôi chỉ nghe thấy một giọng nói quen thuộc, ngẩng đầu lên mới nhìn thấy cậu ấy.
Lưu Khải cũng tình cờ nhìn về phía tôi, sau đó là nhìn bóng lưng của Mộ Thừa Hòa.
Bạch Lâm thấy tôi nhìn thì cũng nhìn theo xem có gì thú vị, Lưu Khải gật đầu chào nó, sau đó cười chào tôi.
Quá trình này không hề kinh động đến hai người ngồi đối diện, chỉ có tôi và Bạch Lâm biết.
Vài phút sau, điện thoại của tôi tít lên một tiếng, hóa ra là tin nhắn của Lưu Khải — “Chúc mọi người năm mới vui vẻ.”
Phim truyền hình thường có những cảnh tình nhân cũ gặp lại nhau, thông thường sẽ nói hạnh phúc trăm năm, hay là anh sẽ đợi em gì gì đó, không thì hậm hực hét: Hãy đợi đấy. Lưu Khải không như vậy, cậu ấy chỉ gửi một tin nhắn đơn giản, lưu trong thùng thư cũng không có gì nổi bật. Song không hiểu tại sao, tôi lại có một cảm giác, tựa như… quên nhau từ đây. Hoặc giả mai này sẽ còn gặp nhau trong cùng một thành phố, sẽ chào hỏi nhau, bạn bè lâu năm gặp gỡ, chắc sẽ cười một cái, nhưng không thể có tình hữu nghị gì nữa.
Tôi nhìn màn hình điện thoại một lúc, cuối cùng khẽ gập máy lại.
Mộ Thừa Hòa hỏi: “Nhận được gì vậy?”
Tôi cười hi hi nói: “Lưu Khải chúc chúng ta năm mới vui vẻ.”
Bạch Lâm ho húng, “Hì, cậu cũng thành thật ghê.”
Chúng tôi ngồi ăn đến rất khuya, cùng trò chuyện với Bạch Lâm về những kỷ niệm thời đại học, mỗi một câu chuyện đều là một lời cảm khái, để đến cuối cùng chúng tôi đều uống rất nhiều. Sư huynh vì đang ngồi cùng bàn với thầy giáo nên không dám làm quá. Mộ Thừa Hòa thì vừa uống trà vừa cười trong những câu chuyện của chúng tôi.
Sau khi thanh toán, tôi và “vợ chồng” Bạch Lâm đi vệ sinh, Mộ Thừa Hòa ngồi lại trông chừng túi xách.
Bạch Lâm vừa rửa tay vừa chờ tôi, nó nói: “Nói cậu nghe bí mật này nè, có thể là sư huynh sẽ cầu hôn mình trong ngày sinh nhật năm nay đó.”
Tôi há miệng bất ngờ, “Thật hay giả vậy?”
“80% là thật.”
“Sao cậu lại biết?” Tôi bồn chồn.
“Với cái tính của anh ấy, mình có thể không biết sao? Anh ấy đặt nhà hàng, rồi đặt cả hoa, mình thấy phiếu thanh toán rồi còn gì. Vậy mà anh ấy còn tưởng đã giấu kỹ lắm.” Nét mặt của Bạch Lâm hoàn toàn là bất lực với sư huynh nhà nó.
Tôi phụt cười.
Ra khỏi phòng vệ sinh, chúng tôi nhìn thấy sư huynh đang đứng hong tay trong lúc chờ đợi, vẻ mặt khờ khạo, tôi không nhịn được, lại “phụt~” cười.
Bạch Lâm thụng vào người tôi.
Nhân viên phục vụ đã thu dọn bàn, một người mang ra cho Mộ Thừa Hòa ly nước lọc. Anh ấy đang cầm bút, viết vẽ gì đó trên miếng lót, thấy chúng tôi ra thì liền đứng dậy, rồi rất tự nhiên mà cất tấm đế ly ấy vào túi.
Tôi ăn hơi nhiều, bụng nặng vô cùng, bèn đề nghị với Mộ Thừa Hòa ra hồ dạo một lúc.
Vào mùa đông, gió đêm ngoài hồ rất lạnh, xoáy thẳng vào cổ tôi, tôi bèn luồn tay vào áo măng tô của anh ấy để giữ ấm, gương mặt áp vào lòng ngực đối diện, tham lam với mùi hương của anh.
“Em lạnh không?”
“Có anh ở đây thì không lạnh nữa.” Tôi nói.
Ngước lên nhìn chiếc đồng hồ to trên quảng trường, tôi hỏi: “Anh còn nhớ lần trước chúng ta tới đây là ngày nào không?”
“Ngày 29 tháng 1. Hôm đó, chúng ta đã cùng đếm ngược ở nơi này.”
“Mới đây đã hai năm rồi.” Nhớ lại chuyện xưa, nhiều cái như đã rất xa vời, nhiều cái lại như ở trước mắt.
“Tiết Đồng, em thấy hạnh phúc không?” Anh ấy chợt hỏi.
“Hạnh phúc, có anh ở bên cạnh, em sẽ mãi hạnh phúc.”
Tuy không thể cũng không dám nhìn mặt anh ấy, nhưng tôi cảm giác được hình như anh ấy đã cười khi nghe câu trả lời này.
Lát sau, anh ấy mới nói chầm chậm: “Trước đây có người từng nói với anh, sẽ có một người xuất hiện vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời anh, sau khi giao điểm hình thành, hai đường thẳng này sẽ trùng lên nhau rồi tiếp tục nối dài, mãi đến tận cùng của sinh mạng. Anh đã từng tưởng rằng, cuộc đời anh sẽ không còn gì khác ngoài những công thức và số liệu, nhưng sau này anh đã phát hiện, người đó thật sự tồn tại……”
Phía xa có vài người lớn đang dắt tay trẻ con đốt pháo hoa, người đàn ông trông như là bố ấy dẫn đầu đi trước, đốt lửa lên xong liền vội dắt theo đứa bé mập ú chạy trở về. “Bùm ~” một tiếng, bầu trời rộ lên một đóa hoa màu đỏ tím thật to, sau vài giây ngưng đọng trên không, chúng lại như những sao băng màu bạc lũ lượt rũ xuống mặt hồ.
Anh ấy đã ôm lấy tôi từ phía sau, chống cằm trên đỉnh đầu của tôi.
Tôi cắn nhẹ môi, thầm sung sướng trong lòng, nhưng đợi cả nửa ngày trời cũng không nghe được những lời tiếp theo nữa, thế là tôi hối thúc bằng giọng ngọt ngào: “Tiếp đi.” Tôi đang chờ câu nói ấy.
“Tiếp gì?” Anh ấy hỏi ngược lại.
“Anh!”
“Vậy anh có muốn biết lúc ấy em đã ước điều gì không?” Tôi quay lại hỏi.
“Ước gì?”
“…Không nói anh nghe.” Hớ…
Vậy là huề rồi.
Một lúc sau, anh ấy đi lấy xe. Tôi đứng ở vị trí cũ chờ anh ấy trở lại, đôi tay nhét vào túi áo khoác, tôi chợt phát hiện! Trong túi có một mảnh giấy cứng!
Tôi vừa nghi ngờ vừa lấy nó ra, đó là một đế ly hình tròn, hình như là của nhà hàng ban nãy. Trên giấy có in hình quảng cáo của một trò chơi gì đó, đại khái là hoạt động đón chào lễ tình nhân sắp tới.
Tôi cầm cao lên nhìn.
Mảnh giấy cứng này màu trắng, phía trên có vài phiến lá hoa đào màu hồng phấn được in nổi, bên cạnh tên của trò chơi và những dòng ghi chú là một câu thơ ca được in dọc — Nếu có em kề bên, chỉ ngưỡng mộ uyên ương không làm tiên.
Nhìn kỹ lại, thật sự rất giống một tấm danh thiếp được in ấn sắc sảo.
Nhưng, sao lại nằm trong túi áo của tôi?
Tôi lật ra mặt sau của nó, không ngờ lại có một bài thơ.
“Thử sơn vô tuyết đạo vô hằng,
Thanh đồng hữu tâm diệp tương thừa.
Bất mộ thần phật càn khôn hòa,
Mai thượng Linh sơn bái Côn Lôn.
Nhất phương thanh huy tiền trần lãnh,
Sinh diệc hữu số dữ thiên tranh.
Hà nhu cô đăng chiếu khổ trúc,
Cầu tiên bất như cộng hoàng hôn”
(Tạm dịch:
Núi này vô tận tuyết vô không,
Ngô đồng xanh rì có lá cộng.
Thần phật càn khôn đây không mong,
Chỉ hối một thời lên núi trông.
Rực rỡ soi sáng đời lạnh lẽo,
Cuộc đời có mệnh cần chi đèo.
Nào đến đèn đơn soi cổng trúc,
Cầu tiên chi bằng có em theo.)
Đây là bút tích của Mộ Thừa Hòa, chắc chắn là anh ấy đã viết trong lúc chúng tôi đi vệ sinh, vì quá gấp rút, hai chữ “Hoàng hôn” cuối cùng chưa kịp khô mực, bị lem ra một chút. Rồi sau đó, chắc chắn anh ấy đã thừa lúc tôi không để ý, bỏ vào túi áo khi ôm tôi.
Đột nhiên, trăm ngàn cảm xúc dồn vào tim.
Anh ấy đã đi ra khoảng mười mét. Gió ở ngoài hồ lại thổi lên, tóc tôi bay phất phới, tôi không cầm được lòng gọi lớn tên anh ấy: “Mộ Thừa Hòa!”
Anh ấy dừng bước, quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ.
Tôi giơ cao vật trong tay mình. Anh ấy ngẩn ra một lúc, sau đó hai mắt híp lại, khóe môi cong lên.
Tôi tiếp tục đưa tay để lên miệng hỏi lớn: “Anh nói xem, tên của người đó có phải là Tiết Đồng không?”
Anh ấy đã nghe thấy, khẽ gật đầu, ý cười càng thêm nồng nàn.
Tôi vén lại những sợi tóc bị gió thổi tung, nhìn gương mặt tươi đẹp của anh ấy, đôi chân nhích lên một chút, sau đó tôi chạy nhanh về phía anh, xòa vào lòng anh, không muốn rời khỏi nữa.
Mộ Thừa Hòa, anh có biết không? Ước nguyện năm đó của em là: Hy vọng người đang đứng ở trước mắt có thể yêu em.
“Thừa Hòa.” Tôi dụi dụi vào áo của anh.
“Ừm.”
“Có chuyện này em phải nói thật với anh.”
“Chuyện gì?”
“Thật ra thì… em không mấy hiểu ý nghĩa của bài thơ đó.