Lá Cờ Ma Chương 6

Chương 6
Ác mộng bắt đầu

Tôi đã bấm chuông tới lần thứ ba, vẫn không có người ra mở cửa.

Tôi nhìn lại tấm biển ghi số phòng, không sai, đây đúng là phòng của Vệ Tiên.

Lẽ nào anh chàng này lại mang theo cuốn nhật kí cao chạy xa bay mất rồi? Đầu óc tôi vụt lóe lên ý nghĩ như thế.

Anh ta không phải là hạng người ấy, nhưng nếu như cuốn nhật kí đó có nhắc đến một vật gì đó không tầm thường...

Đúng lúc tôi định giơ nắm đấm lên dọi vào cánh cửa thì cửa mở.

“Anh làm sao thế, sao mãi mới ra mở cửa?”, nét mặt của anh chàng hiện ra trước mắt tôi có chút hoang mang.

“À, tôi không sao, tự nhiên người tôi đờ đẫn mất một lúc”.

Hơi gió mạnh phả vào mặt tôi. Tôi ngó ra phía sau anh chàng Vệ Tiên, cửa sổ mở rộng. Căn phòng này ở trên tầng 18 của khách sạn Hilton, càng ở trên cao gió thổi càng mạnh, cửa sổ để toang, gió lùa vào hất tung mấy tờ giấy xuống đất làm căn phòng hơi bừa bộn.

“Anh mở tung cửa sổ ra thế để làm gì?”

“Cho thông gió ấy mà, tôi cảm thấy hơi bức bối”.

Vẻ sợ sệt thoáng hiện trên gương mặt của Vệ Tiên.

Hay tôi nhìn nhầm, anh ta khiếp hãi cái gì nhỉ? Lúc ở trong mộ đạo tôi đâu thấy anh ta sợ như thế.

Tôi liếc thấy cuốn sổ nhật kí để trên chiếc bàn trà.

Máu của Tôn Huy Tổ rỉ thấm trên cuốn sổ đã từ lâu. Cuốn sổ tuy không bị rời rách do những mũi tên nhưng nó vẫn gây khó khăn cho người đọc bởi những vệt máu đã đông đặc và đen thẫm lại.

Tôi cầm nó lên tay và phảng phất ngửi thấy mùi máu tanh tanh.

Tôi tỉ mẩn giở cuốn sổ, chỉ sợ làm rách giấy, được một lúc tôi mới phát hiện ngoài một vài trang đầu tiên ra, những trang sau đều dính bết lại với nhau do thấm máu.

Mấy trang đầu tiên vốn dĩ cũng bị dính bết như thế, nhưng rõ ràng là chúng đã được Vệ Tiên tách ra.

“Sao anh vẫn chưa xem hết cuốn sổ thế?”

Một tư liệu quan trọng như thế mà anh ta lại gắng chờ tôi đến để cùng nhau đọc, có điều việc tắm rửa thay quần áo cũng làm anh t mất một chút thời gian.

Tôi hỏi luôn mấy câu, Vệ Tiên không đáp lời cũng chẳng để ý, anh ta lẳng lặng lật trở lại trang đầu tiên, cố gắng phân biệt những nét chữ hiển hiện trên giấy.

Trang đầu tiên nhắc đến lá cờ ma. Lúc này, tôi mới nhớ ra, khi ở trong mộ đạo, chúng tôi còn lấy được nửa lá cờ ma!

“Vệ Tiên, lá cờ đó vẫn ở chỗ anh đấy chứ? Mau lấy ra đây xem nào!”, vừa hỏi, tôi vừa nhìn xuống dưới cuốn sổ.

...

Không có tiếng trả lời? Tôi ngẩng đầu lên nhìn, bất giác giật mình.

Trong phòng, gió không còn thổi mạnh như lúc trước, tôi cứ ngỡ Vệ Tiên khép bớt cửa sổ lại, nhưng bây giờ tôi trông rõ mồn một, một chân của anh ta vắt qua bậu cửa sổ, hơn một nửa thân người đã thò ra bên ngoài.

Ngoài cửa sổ có cái gì thế nhỉ? Phản ứng đầu tiên tôi nghĩ, anh chàng Vệ Tiên trông thấy thứ gì đó bên ngoài cửa sổ nên mới thử nhao ra tìm hiểu trong tư thế nguy hiểm như thế, mà có lẽ tư thế này không hề nguy hiểm với anh ta.

Ý nghĩ ấy vụt hiện lên trong đầu tôi, nhưng bản năng mách bảo tôi rằng nó không đúng.

Hai bàn tay của Vệ Tiên không bám vào bất cứ vật gì, anh ta cứ để trọng tâm của cơ thể hướng ra bên ngoài cửa sổ.

“Vệ Tiên!”, tôi hét lên, âm thanh phát ra trong cổ họng tôi còn chưa dứt thì Vệ Tiên đã quay đầu lại nhìn tôi, cùng lúc đó, một bên chân còn lại của anh ta vắt nốt ra bên ngoài.

Vẻ mặt anh ta tuyệt vọng đến cùng cực!

Tôi vội vàng nhào tới. Tất cả đã muộn.

Tôi ngây người nhìn gương mặt của Vệ Tiên mau chóng rời xa khỏi tầm mắt, vẻ mặt của anh ta chuyển từ chán nản sang sợ hãi. Sự thay đổi lớn này là do anh ta đột ngột phát hiện ra mình đang lơ lửng trên không trung, tiếp theo đó là một tiếng thét làm cạn mòn hơi sức.

Tôi tận mắt trông thấy cơ thể của Vệ Tiên rơi từ tầng 18 xuống như thế. Lúc cơ thể anh ta chạm xuống mặt đất, hình như có một tiếng “bịch” đập vào màng nhĩ tôi. Đôi chân tôi lẩy bẩy thụt lùi lại phía sau mấy bước, tại sao lại xảy ra chuyện này?

Ban nãy rõ ràng là anh ta tự nhảy ra ngoài cửa sổ, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, anh ta có lý do gì để tự sát?

Đầu óc tôi trở nên bấn loạn. Vốn dĩ chúng tôi đã cách chân tướng sự việc năm xưa rất gần, lúc ở trong mộ đạo, khi cận kề nguy hiểm, tôi đã khuyên ngăn được anh ta và chúng tôi không có bất cứ sai lầm nào. Tại sao bây giờ anh ta lại đột nhiên tự sát?!

Thì ra tất cả đều không nằm trong tầm khống chế của tôi, cú nhảy của Vệ Tiên làm cả người tôi như có một dòng nước lạnh chảy suốt từ đầu tới chân.

Còn cả biểu hiện cuối cùng của anh ta nữa...

Ánh mắt của tôi quay trở lại cuốn nhật kí, không lẽ mấy trang đầu tiên của cuốn sổ nhật kí ghi lại điều gì đó khiến Vệ Tiên bị kích động mạnh tới mức không thể chống cự được?

Hay là do một nửa lá cờ ma đó?

Tôi nhớ lại cảnh tượng vừa rồi khi anh ta mở cửa cho tôi, thần thái của anh ta hình như rất lạ, nếu tôi chú ý hơn một chút thì…

Song bây giờ không phải là lúc để nghĩ đến những điều ấy. Chỉ một lát nữa thôi, cảnh sát sẽ tới đây và tôi trở thành nghi phạm mưu sát Vệ Tiên. Hơn nữa, làm sao tôi có thể giải thích với cảnh sát về thân phận của Vệ Tiên, về những đồ đạc trong chiếc ba lô du lịch, về cuốn nhật kí dính máu và…

Đúng rồi, một nửa lá cờ ma đó bây giờ ở đâu?

Chiếc ba lô du lịch để ở cạnh giường, một nửa lá cờ có lẽ cũng được anh ta nhét trong đó. Tôi nhanh tay lục chiếc ba lô, vừa hành động vừa thầm cầu nguyện anh ta đừng để nó trong người vì như thế, việc lấy lại lá cờ ma sẽ vô cùng phiền phức.

Nhưng, nằm ngoài dự liệu của tôi, tôi dễ dàng tìm thấy một nửa lá cờ đó trong ba lô của Vệ Tiên. Như thế có nghĩa, anh ta vẫn chưa lôi nó ra xem?

Tôi nhét nửa lá cờ và cuốn nhật kí vào trong chiếc túi của mình. Trống ngực đập liên hồi, những động tác này của tôi cơ hồ là một phản ứng tự bảo vệ mình theo bản năng. Tuy mối giao tình của tôi với Vệ Tiên chưa đến mức sâu sắc, nhưng chúng tôi đã có những ngày vui vẻ bên nhau, thế mà bây giờ, tôi lại tận mắt chứng kiến anh ta rời bỏ thế tục ngay trước mặt tôi, cú sốc này trong phút chốc làm tôi hụt hẫng. Chẳng những thế, trong căn phòng này còn lưu lại mọi đồ đạc của Vệ Tiên, e rằng không phải đồ vật nào tôi cũng có thể giải thích rõ với cảnh sát.

Vì thế, trong đầu tôi lúc này chỉ có một suy nghĩ: mau mau rời khỏi đây.

Tôi đứng trước cửa, hít một hơi thật sâu rồi trấn tĩnh lại, sau đó mở cửa bước ra ngoài.

Hành lang không có người, tôi nhanh như chớp bước ngay tới cầu thang ở chênh chếch phía đối diện, cuốc bộ xuống khoảng năm tầng, tới tầng 13 thì quay ra lẻn vào trong thang máy và đi thẳng xuống tầng trệt.

Lúc tôi ra khỏi đại sảnh, bên ngoài khách sạn nhốn nháo, phía không xa từng vòng người xúm đông xúm đỏ.

Tôi đứng yên lặng, sững sờ nhìn đám người hồi lâu. Cuối cùng, tôi quyết định không tới xem tấm thảm kịch của Vệ Tiên mà quay người bước đi.

Ban nãy, lúc một mình bước đi ở cầu thang, tâm trạng tôi đã ổn định nhiều, ít ra thì so với lúc sự việc vừa xảy ra, bây giờ tôi có thể trấn tĩnh lại phân tích một chút. Lúc này, tôi mới nghĩ thông suốt rằng, nếu đám cảnh sát không phải là một phường ngu dốt thì sớm muộn gì họ cũng sẽ tìm tới tôi.

Tôi chưa bao giờ nghĩ sự việc lại có thể xảy ra theo chiều hướng này nên thản nhiên ra vào khách sạn, không kiêng dè gì cả. Bởi thế, cảnh sát dễ dàng truy ra người tiếp xúc với người chết nhiều lần nhất trong khoảng thời gian gần đây. Hơn nữa, hồi nãy khi tôi tới khách sạn, nhiều khả năng mấy người phục vụ đã trông thấy tôi, có thể lúc đó họ không để ý, nhưng khi cảnh sát hỏi đến, họ sẽ nhớ ra thôi.

Hiện trường vụ án giúp người điều tra mau chóng xác định, phần nhiều đây là một vụ tự sát, nhưng một kẻ có mặt ở hiện trường khi người chết lìa đời như tôi khó tránh khỏi bị nghi ngờ, vì thế sẽ rất phiền phức cho tôi.

Tôi cân nhắc thật nhanh trong đầu. Tôi bước vào siêu thị tiện ích Liên Hoa bên cạnh khách sạn và gửi chiếc túi ở đó. Cảnh sát tới đúng vào lúc tôi quay trở lại đám nhốn nháo đã trở nên đông đúc hơn nhiều so với khi nãy và cố sức len người vào bên trong để xem.

Tôi chỉ liếc nhìn thi thể của Vệ Tiên, gương mặt anh ta tái nhợt.

Ông lão Vệ Bất Hồi nói anh ta có thể sẽ chôn thây dưới lòng đất, nhưng tôi thật không ngờ, anh ta lại chết nhanh như vậy, mà không phải chết dưới lòng đất.

Sau đó, tôi phải làm bản tường trình tại Sở Cảnh sát mất mấy tiếng. Tất nhiên, tôi không thể khai thật mối quan hệ giữa tôi và Vệ Tiên với cảnh sát. Lúc quyết định đối mặt với cảnh sát, tôi đã nghĩ ra một cách nói hoàn hảo vừa có thể giải thích mối quan hệ giữa tôi với Vệ Tiên, vừa không khiến tôi vướng vào quá nhiều phiền toái: chúng tôi là bạn trên mạng với nhau.

Tôi thuật với cảnh sát tôi quen Vệ Tiên khi chat trên mạng Sina. Vệ Tiên vào chat với tôi theo kiểu bạn bè ngẫu nhiên, tôi thấy anh ta khá hiểu biết về cổ vật và lịch sử Trung Quốc cổ đại, hơn nữa lại ở cùng trong một thành phố, nên chúng tôi hẹn gặp nhau mấy lần. Hôm nay, Vệ Tiên gọi điện cho tôi, nói muốn cho tôi xem một món đồ rất hay, tôi vội vã đến khách sạn Hilton. Tôi nhận ra thần sắc của Vệ Tiên hơi bất thường ngay khi vừa đến, chúng tôi mới nói vài câu, anh ta đột nhiên mở toang cửa sổ và nhảy xuống dưới.

Cảnh sát cho tôi xem hai bộ quần áo trong chiếc ba lô du lịch của Vệ Tiên, tôi nói mình không biết, chưa từng trông thấy chúng bao giờ.

Cảnh sát tới hiện trường điều tra và mau chóng đi đến kết luận Vệ Tiên tự nhảy lầu. Có một điểm có lợi cho tôi, đó là buổi chiều người phục vụ khách sạn tới phòng Vệ Tiên quét dọn đã chú ý đến biểu hiện hoảng hốt và vẻ mặt nhợt nhạt của anh ta, dường như anh ta đang trĩu nặng tâm sự.

Tôi bị giữ ở Sở Cảnh sát cho tới tận hơn 9 giờ tối. Cuối cùng tôi cũng được ra khỏi đó. Viên cảnh sát phụ trách vụ án yêu cầu tôi rằng trước khi họ đưa ra kết luận chính thức về vụ án, nếu tôi muốn rời khỏi Thượng Hải phải được sự đồng ý của phía cảnh sát. Tôi đành chấp nhận.

Bình thường thì tôi sẽ không cam lòng bị bó buộc như thế này, nhưng thân phận của Vệ Tiên quá bí hiểm, hơn nữa trong phòng anh ta lại xuất hiện những dụng cụ quái đản và một số cổ vật quý lạ mà giá của nó có thể khiến bất kì chuyên gia nào tới Sở Cảnh sát xem cũng phải ngạc nhiên tới nỗi tròn mắt há miệng.

Một người như thế chết bất thình lình, lúc chết lại chỉ có mỗi tôi bên cạnh, làm sao phía cảnh sát dễ dàng bỏ lọt tôi được?

Sau một thời gian điều tra không có tiến triển, họ đành phải kết luận đây là một vụ tự sát thông thường. Còn những cổ vật đó có lẽ sẽ được gửi tới viện bảo tàng.

Ra khỏi Sở Cảnh sát, tôi gọi một chiếc xe taxi, tới siêu thị tiện ích Liên Hoa lấy lại cái túi.

Về tới nhà, tôi lấy nửa lá cờ và cuốn sổ nhật kí ra khỏi túi, chuẩn bị nghiên cứu.

Tôi xem nửa lá cờ đó trước. Tôi bật đèn trên bàn viết để nhìn cho rõ hơn. Chiếc bàn viết của tôi dài gần hai mét, bên phải đặt màn hình máy tính, khoảng trống còn lại không đủ để trải nửa lá cờ còn sót lại này.

Tôi không biết lá cờ này được làm từ chất liệu gì vì nó không phải do sợi tơ hay sợi bông dệt thành. Lá cờ lấm tấm vệt máu, tuy đã bị sờn rách nhưng khi lấy tay sờ lên, tôi vẫn thấy nó vô cùng bền chắc, chất vải không bị vụn mủn theo năm tháng.

Lông mày tôi từ từ chau lại trong lúc tôi tỉ mỉ phân biệt những hoa văn trên lá cờ.

Lá cờ này rõ ràng là lá cờ ma đó, từ đầu chí cuối, tôi và anh chàng Vệ Tiên không hề cảm thấy chút áp lực nào do lá cờ này gây ra… Nghĩ tới đây, tôi bất giác giật thót tim. Tôi không cảm nhận được và anh chàng Vệ Tiên khi ở trong mộ đạo cũng không cảm nhận được, nhưng lúc sau thì sao, lúc sau, vẻ thất thần hoảng hốt của anh ta có can hệ gì với lá cờ này?

Ý nghĩ này cứ xoay vần trong đầu óc tôi rồi nó phai dần vì tôi không tìm được điểm tựa thực tế nào để giải thích cho nó cả. Lá cờ là do tôi lấy ra từ trong chiếc ba lô du lịch, suy đoán theo lý thì từ sau khi trở về khách sạn Hilton, Vệ Tiên chưa hề lấy nó ra.

Theo lời kể của mấy bậc cao niên đã từng nhìn thấy lá cờ này, tôi đã sớm biết rõ về uy lực của nó. Tại sao khi lá cờ ấy đang trải ra trước mắt tôi, tôi lại không hề có cảm giác thần hồn khiếp đảm ấy? Cũng dễ giải thích thôi, lá cờ này không còn nguyên vẹn nên đã mất đi uy lực vốn có của nó. Nhưng câu hỏi đặt ra là, hình vẽ trên lá cờ lại không giống với bất kì hình vẽ nào trong trí nhớ của bác Chung Thư Đồng, ông lão Dương Thiết hay bác Phó Tích Đệ.

Trên lá cờ này rõ ràng vẽ mấy con ly[1] đang nhe nanh giơ vuốt, tôi vẫn có thể nhận ra dù nó đã bị mất một nửa. Hình vẽ này rõ ràng đến thế, tại sao các bác ấy lại nhìn nhầm?

[1] Con ly: loài rồng không có sừng trong truyền thuyết, thường dùng làm hình tượng trang trí công trình kiến trúc và vật phẩm cổ.

Trong lòng chất chứa đầy nghi hoặc, tôi nhìn đăm đăm vào lá cờ. Phần cơ thể còn sót của mấy con long li và những vệt máu đan xen vào nhau dưới ánh đèn, làm tim tôi đập dồn dập hơn trong chốc lát.

Tôi định thần lại, trên nền vàng tươi của lá cờ nổi bật những con rồng đen, nhưng giờ nó đã biến thành màu đen pha nâu do những vệt máu đông đặc lại, nếu không quan sát kĩ sẽ không nhận ra đâu là hình ảnh con rồng đen, đâu là vệt máu.

Cũng trên nền vàng tươi ấy hình như còn có những đường vân chìm khác.

Có lẽ đó là những vệt máu rất nhạt. Vừa nghĩ tôi vừa đưa tay luồn xuống phía dưới lá cờ, nhấc nó lên, đặt gần lại phía ánh đèn để trông cho rõ hơn.

Đúng thế, đó đích thị là những đường vân khác.

Trên nền vàng tươi có những đường vân màu vàng nâu chỉ thấy rõ khi nhìn ở cự ly rất gần.

Là những hình vẽ trong mộ đạo!

Tôi thấy sởn tóc gáy. Những đường vân này tuy không giống hệt những hình vẽ trong mộ đạo, nhưng chắc chắn, chúng thuộc cùng một loại.

Những hình vẽ này thể hiện ý nghĩ gì? Vì sao sau khi thêu những con ly, người ta còn thêu cả những đường vân chìm mà nếu không quan sát cẩn thận ở cự ly gần sẽ không thể thấy được?

Cố nhiên, tôi không thể tìm lời giải đáp cho những câu hỏi này. Có điều, tôi đã quyết định ngày mai sẽ tới gõ cửa nhà bác Chung Thư Đồng. Tri thức uyên bác của một đại học giả như bác dẫu không thể cho tôi câu trả lời trực tiếp cũng có thể chỉ cho tôi một con đường.

Tôi cẩn thận gập nửa lá cờ lại, đặt sang một bên, với lấy cuốn sổ nhật kí, bắt đầu lật giở từng trang một.

Cuốn nhật kí này dày gần 200 trang và đã được ghi gần hết. Nó không phải là cuốn nhật kí của Tôn Huy Tổ, những ghi chép trong cuốn sổ do người anh cả Tôn Diệu Tổ thực hiện. Điều này cũng rất bình thường, nếu không tôi sẽ cảm thấy kì lạ, vì Tôn Huy Tổ cơ hồ không giống một người thích ghi nhật kí, thậm chí chưa chắc đã biết nổi mấy chữ. Có điều, tôi không biết tại sao Tôn Huy Tổ lại mang theo cuốn nhật kí này bên người.

Cuốn nhật kí này không phải được ghi hàng ngày. Mà thực ra cũng không thể gọi nó là nhật kí, nên gọi nó là cuốn ghi chép về quá trình thực hiện kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, mỗi trang của cuốn nhật kí ghi chép sự kiện của một ngày, bắt đầu từ ngày 17 tháng 7 năm 1928. Kể từ ngày hôm đó, kế hoạch của bốn anh em nhà họ Tôn từ từ được khởi động. Lúc đầu, khoảng thời gian giãn cách giữa các ngày ghi nhật kí khá lớn, chứng tỏ kế hoạch tiến triển chậm; đến năm 1937, kế hoạch hành động của họ rõ ràng có những bước tiến rất mau, đặc biệt là từ tháng 3 năm đó trở đi, nhật kí được ghi ít nhất hai ngày một lần.

Tôi khẽ khàng bóc gỡ từng trang giấy bết máu, mùi máu nồng dần theo số trang tôi lật giở. Cuốn nhật kí đó nhiều chỗ đã nhòe nhoẹt, nhưng kế hoạch to lớn mà bốn anh em nhà họ Tôn thực hiện dần dần hiện ra từng chút, từng chút một.

Ngày 17 tháng 7 năm 1928, trời nắng.

Mình vốn không có thói quen ghi nhật kí, nhưng hôm nay xảy ra một chuyện khiến mình hạ quyết tâm phải ghi chép lại. Những dòng này chỉ là điểm khởi đầu, hi vọng mình có thể viết tiếp cho tới điểm cuối cùng. Mình biết tổ tông trên trời cao đang dõi theo mình.

Hôm nay, mình đã gặp Hán Chương tại Tuân Hóa (vốn dĩ tôi không biết Hán Chương là ai, nhưng đọc tới phần sau, Hán Chương có lẽ là tên chữ của Tôn Huy Tổ). Nó kể với mình rằng, mấy hôm trước, nó đã cùng Tộn Điện Anh thực hiện một phi vụ lớn, thu hoạch được vô khối thứ hữu ích. Nó cho mình xem một tá châu báu, đều là những của quý mà bình sinh mình chỉ được ngó qua. Mình hỏi cặn kẽ nó mới biết Tôn Điện Anh mang quân đi đào mộ của Từ Hi Thái Hậu và Hoàng đế Càn Long.

Trông thấy mình, Hán Chương hơi ngạc nhiên. Nó còn kể với mình một chuyện khác. Lúc nó tiến vào mộ thất của Hoàng đế Càn Long đã xảy ra một chuyện quái dị khiến nó sợ mất mật. Tôn Điện Anh đã có nghiêm lệnh, không được để sự việc này đồn thổi ra bên ngoài, nếu mình không phải là đại ca của Hán Chương, có lẽ nó sẽ không nói cho mình biết.

Khi đám người tiến vào gian mộ thất cuối cùng của lăng mộ Hoàng đế Càn Long và cho bom nổ tung cánh cửa đá, Hán Chương là người đầu tiên định nhào vào bên trong, nhưng chưa kịp bước được một bước, nó đã hãi hùng tới nỗi ngồi phịch xuống đất.

Nếu không phải do Hán Chương chính miệng kể lại với mình thì mình sẽ không dám tin tam đệ của mình lại có thể thất kinh đến thế.

Tất cả những người theo ngay sau Hán Chương lúc đó, kể cả Tôn Điện Anh gan lớn tày trời cũng sợ run người.

Có điều, đám người đó chỉ trông thấy một lá cờ mà thôi. Trên bức tường ở phía trong cùng của gian mộ thất có treo một lá cờ lớn. Hán Chương hồn xiêu phách tán là do nó nhìn thấy lá cờ đó. Những người khác cũng thế. Lúc đầu, tất cả mọi người cứ ngỡ, Hoàng đế Càn Long nổi giận và bọn họ đã bị trúng lời chú nguyền.

Lúc đó, không một ai dám bước vào. Tôn Điện Anh phải mời mấy công binh của doanh trại công binh tới tương trợ. Ba người đầu tiên cầm súng bắn liên hồi, song không dám bước vào. Tới người thứ tư, anh ta đành miễn cưỡng bò vào. Lúc sau, anh ta mới rõ, lá cờ đó từ xa nhìn lại sẽ hồn phách rụng rời nhưng lại gần thì không sao cả.

Hán Chương không phải là con trưởng nên nó tuy biết sự huy hoàng của gia tộc Tôn Thị cuối thời nhà Hán, nhưng có một số bí mật thì chỉ con trưởng mới đủ tư cách được biết.

Hán Chương lần đầu tiên trông thấy mình thất sắc như thế. Trong mắt của nó, người anh cả như mình bao giờ cũng vững như Thái Sơn.

Có lẽ nên gọi Lão Nhị và Lão Tứ tới. Lá cờ đó đã xuất hiện thì cơ hội của gia tộc Tôn Thị cũng tới.

Chỉ cần bốn anh em nhà mình tìm thấy cuốn sách đó.

Ngày 9 tháng 8 năm 1928, trời âm u, có sấm khan.

Cuối cùng, Hán Thăng cũng đã tới, huyết mạch trên dương gian của gia tộc Tôn Thị chỉ còn lại bốn anh em nhà mình.

Trời không mưa mà có sấm khan, hẳn nhiên là một điềm báo.

Cơ hội cuối cùng đã tới và điều cấm kị chỉ truyền lại cho con trưởng của gia tộc đã bị phá bỏ. Tất cả mọi người trong gia tộc Tôn Thị đều phải phấn đấu vì mục tiêu này, đáng tiếc là chỉ còn lại có bốn anh em nhà mình.

Mình đã kể hết với các em.

Liệt tổ liệt tông đã dốc hết tâm cơ mà vẫn không thể tìm thấy ngôi mộ cổ đó, bây giờ mọi hi vọng đều gửi cả vào lá cờ này.

Nhưng lá cờ đó hiện nay đang ở trong tay Tôn Điện Anh. Dù Hán Chương đi theo Tôn Điện Anh đã nhiều năm nhưng nếu hỏi xin lá cờ một cách thẳng thắn, Tôn Điện Anh có lẽ sẽ không gật đầu.

Bốn anh em bàn bạc cả một buổi chiều, vẫn chưa ngã ngũ.

***

Ngày 13 tháng 11 năm 1929, trời nhiều mây.

Hán Chương vẫn không có được lá cờ đó. Tôn Điện Anh cất giấu những bảo bối như thế rất kĩ.

Rốt cuộc thì phải chờ đợi thêm bao nhiêu lâu nữa? Rốt cuộc thì gia tộc Tôn Thị nhà mình còn có cơ hội phục hưng nữa hay không? Câu hỏi ấy luôn dằn vặt mình từng giây từng phút, nhưng mình không thể để lộ cho các em thấy, trước mặt chúng, mình vẫn phải tỏ ra tự tin.

Nhưng vì sao để mình thấy hi vọng rồi lại làm cho niềm hi vọng ấy mỗi lúc một mịt mờ?

Chỉ có thể trách ông trời thôi!

***

Ngày 17 tháng 3 năm 1934, trời nhiều mây.

Hôm nay nhận được điện khẩn của Hán Chương: việc đã thành.

Mình không kìm nén được, òa khóc nức nở.

Mình cứ tưởng sẽ không còn cơ hội để ghi chép thêm điều gì vào cuốn sổ này nữa, đã hơn năm năm rồi.

Mình phải mau chóng lên đường.

***

Ngày 20 tháng 3 năm 1934, trời hửng nắng.

Mình không ngờ lại gặp Hán Chương trong bệnh viện. Nó bị đạn găm vào phổi. Lúc trò chuyện với nó, nó bảo, thân thể có cường tráng rắn rỏi đến đâu đi nữa cũng chẳng nhằm nhò gì so với mấy viên đạn.

Nhưng cũng nhờ viên đạn đó mà bốn anh em nhà mình mới lại được thấy niềm hi vọng.

Nó đã đỡ viên đạn ấy thay cho Tôn Điện Anh.

Tôn Điện Anh là người ân trả nghĩa đền, ông ta bảo Hán Chương, nó muốn gì, ông ta cũng thỏa nguyện.

Vì thế, ông ta hứa sẽ cho Hán Chương lá cờ đó, nhưng phải chờ sau khi nó ra viện.

Việc cần làm bây giờ là chờ đợi.

Đành chờ đợi.

***

Ngày 3 tháng 5 năm 1934, trời mưa.

Cuối cùng cũng có được lá cờ đó.

Dù đã chuẩn bị về mặt tâm lý nhưng khi đứng cách xa lá cờ đó ba mươi mét, mình vẫn sợ đến nỗi nằm bẹp xuống đất.

Có điều, mình vui lắm, vì nó đúng là lá cờ đó. Tay phất lá cờ, ngàn quân đại bại.

Hi vọng là lá cờ này sẽ giúp anh em mình tìm thấy cuốn sách đó, hi vọng là những suy đoán của tổ tiên hoàn toàn đúng.

Nhưng bây giờ thì chưa được, vẫn phải chờ đợi và chờ đợi, đợi cơ hội Hán Chương và lá cờ đó mất hút khỏi tầm mắt của Tôn Điện Anh.

Đã đợi lâu như vậy rồi, anh em mình cách mục tiêu không xa nữa.

***

Ngày 18 tháng 1 năm 1935, trời có tuyết.

Tôn Điện Anh thất thế đã được một quãng thời gian, mình có cảm giác như thời khắc đã điểm.

Phải bàn bạc với tụi Hán Chương, có thể bắt tay vào hành động được rồi.

Chỉ đợi trận tuyết này ngừng rơi.

***

Ngày 20 tháng 1 năm 1935, trời hửng nắng.

Kế hoạch mượn lửa chạy trốn thành công.

Hán Chương đi theo Tôn Điện Anh bao nhiêu năm như vậy, ông ta không thể ngờ rằng, một Tôn Huy Tổ trung thành theo ông ta tới tận Sơn Tây sau khi ông ta thất thế lại có thể mượn lửa đào tẩu.

Có lẽ ông ta chỉ có thể khóc rống lên thôi. Những người đi theo ông ta năm xưa giờ không còn một ai, ngoại trừ Hán Chương.

Cũng may là mấy anh em tìm được một người có thân hình giống với Hán Chương để chết thay.

Từ hôm nay trở đi, anh em mình có thể thực hiện bước tiếp theo của kế hoạch rồi.

Ở vào thời hoàng kim, thế lực của Tôn Điện Anh cũng không thể vượt qua sông Trường Giang nên mấy anh em nhà mình sẽ an toàn.

***

Tôi lật từng trang, từng trang của cuốn nhật kí, có lúc phải dùng móng tay để cạo bớt những vết máu che lấp nét chữ, đầu móng tay đã chuyển sang màu đỏ sậm.

Mấy chục trang tiếp theo ghi lại những hành động của bốn anh em nhà họ Tôn trong khoảng thời gian hơn một năm. Họ đã đặt chân tới mọi thành phố, huyện thị, làng xã khắp miền Giang Nam, đã đi qua từng tấc đất của hai tỉnh Giang Chiết[2]. Rõ ràng, các vị tổ tông của họ cũng không biết vị trí chính xác của ngôi mộ cổ đó.

[2] Giang Chiết: tức tỉnh Giang Tô và Chiết Giang.

Đáng tiếc, tôi không tìm thấy câu trả lời cho bất kì một câu hỏi quan trọng nào, ví dụ như ngôi mộ cổ đó rốt cuộc là mộ của ai chẳng hạn. Từ đầu tới cuối, Tôn Diệu Tổ chỉ dùng những từ như “ngôi mộ cổ đó”, hay “ông ấy” để ám chỉ mà không hề viết rõ ràng. Cả cụm từ “cuốn sách đó” cũng tương tự như thế.

Con người ta khi viết nhật kí, nếu đối diện với những sự việc bí ẩn không thể diễn tả bằng lời thường dùng một cách nói mơ hồ nào đó để thay thế, họ muốn né tránh nó như một bản năng, và trường hợp tôi đang gặp phải là một ví dụ như thế.

Xét trên tổng thể thì cuốn nhật kí này cũng giúp tôi giải đáp một số nghi vấn, như vì sao Tôn Huy Tổ lại là người vác cờ?

***

Ngày 24 tháng 2 năm 1935, trời mưa nhỏ.

Ngày mai đến lượt Lão Tứ vác cờ, nhưng nó không vui vẻ lắm.

Nó và Lão Nhị có chung một ý kiến là nên cố định một người vác cờ, như thế sẽ giúp người vác cờ có nhiều cơ hội để gần gũi lá cờ hơn. Nghe nói, những thần binh lợi khí trong truyền thuyết đều có ý thức và cảm nhận riêng của nó, có lẽ làm như thế sẽ tạo ra mối giao cảm giữa người vác cờ và lá cờ, nhờ đó việc tìm thấy ngôi mộ cổ đó sẽ dễ dàng hơn.

Việc này thì chỉ có Lão Tam mới đảm đương nổi, vì lá cờ đó tính cả cán dễ có đến hơn 30 cân[3] trọng lượng, mình mới chỉ vác một ngày đã thấy mệt rã rời. Lão Nhị và Lão Tứ cũng chẳng khá khẩm hơn mình.

[3] Một cân Trung Quốc bằng 0,5kg.

Việc này cứ quyết định như thế, từ nay về sau, Hán Chương sẽ là người vác cờ.

Có một điều tuy mấy đứa chúng nó không nói với mình nhưng mình vẫn biết.

Ấy là vác lá cờ này có phần huênh hoang quá.

Tôn Diệu Tổ chỉ viết đến đây thì ngừng. Có lẽ, cả ba người còn lại đều được đọc cuốn nhật kí này nên Tôn Diệu Tổ không viết quá chi tiết.

“Có phần huênh hoang quá”, nghĩa là như thế nào nhỉ? Tôi thử suy ngẫm một chút, vác một lá cờ to như thế đi trên những con phố của thành phố, những cánh đồng của làng xã, người người trông tỏ, họ không thể xem như đang đi giữa chốn không người, Lão Nhị và Lão Tứ nhà họ Tôn tất nhiên cảm thấy xấu hổ. Đây có lẽ mới là nguyên nhân thực sự khiến bốn anh em nhà họ Tôn quyết định để Tôn Lão Tam vác cờ.

Thì ra bốn anh em nhà họ Tôn không phải tất cả đều chung một lòng, chỉ có Tôn Diệu Tổ và Tôn Huy Tổ là người kiên định nhất.

Trong cuốn nhật kí, Tôn Diệu Tổ không dành một phần riêng để nói rõ mối dây liên hệ giữa việc vác lá cờ đó đi trên đường với việc phát hiện vị trí của ngôi mộ cổ. Ông ta chỉ ghi chép lại việc mình đã từng sáu lần giải thích điều đó với ba đứa em trước và sau khi sự việc xảy ra. Xâu chuỗi chúng lại với nhau, tôi cũng nắm được đại ý.

Lá cờ đó có mối liên hệ mật thiết với một đồ vật nào đó trong ngôi mộ cổ, khả năng cao nhất chính là cuốn sách đó, hoặc có thể là đồ vật khác, điều này không được Tôn Diệu Tổ ghi chép tỉ mỉ, nhưng ắt hẳn phải có nguyên nhân sâu xa nào đó, có thể chúng cùng nguồn gốc, hoặc chúng có một tác dụng tương tự như nhau. Các vị tổ tiên của nhà họ Tôn suy đoán, giữa hai vật này có thể có tác dụng cộng hưởng hoặc có lực hấp dẫn lẫn nhau, giống như hai cục nam châm khi để chúng ở một khoảng cách nhất định sẽ xảy ra hiện tượng khác lạ và nhờ đó có thể đoán định được vị trí đại khái của ngôi mộ cổ.

Suốt hơn một năm ròng, lá cờ đó không phát sinh một hiện tượng khác lạ nào, chỉ trừ việc khiến cho những người lần đầu trông thấy nó kinh hoàng khiếp đảm, tuyệt nhiên không thấy nó có sự cộng hưởng hay có lực hút với vật khác. Bởi thế, nỗi hoài nghi của mấy anh em nhà họ Tôn về lời suy đoán của liệt tổ liệt tông ngày một nặng nề thêm và đó cũng là nguyên nhân khiến Tôn Diệu Tổ phải giải thích với các em tới sáu lần.

Tôi có thể thấu hiểu, khi đó bốn anh em nhà họ Tôn ngày nào cũng vác lá cờ đi khắp nơi, những mảnh đất mà họ chưa đặt chân đến ngày càng ít dần, nhưng lá cờ đó vẫn không hề có phản ứng như trong tâm tưởng của họ, hẳn nhiên họ sẽ băn khoăn không biết lời suy đoán của tổ tông có đúng hay không. Thậm chí họ sẽ nghĩ, lẽ nào tổ tông của họ đã dùng đủ mọi biện pháp thực tế mà vẫn thất bại, nhưng vì không muốn con cháu đời sau từ bỏ hi vọng tìm kiếm ngôi mộ cổ đó nên tổ tiên họ đã thêu dệt nên câu chuyện kì quái này?

Nếu lá cờ đó bản thân nó không mang những điều thần kì, e rằng anh em nhà họ Tôn đã từ bỏ công cuộc tìm kiếm ngôi mộ đó rất lâu rồi.

***

Ngày 14 tháng 7 năm 1936, trời nổi sấm, mưa.

Sắp sửa tiến vào Đại Thượng Hải.

***

Ngày 15 tháng 7 năm 1936, trời mưa.

Hán Chương bảo với mình là nó cảm thấy hơi khang khác.

Nó nói, nó không rõ đó là cảm giác gì, chỉ biết rằng cảm giác của nó khi vác lá cờ không giống như trước đây nữa.

Còn mình, Lão Nhị và Lão Tứ thì lại chẳng có cảm giác gì cả. Hi vọng không phải là ảo giác của Hán Chương.

***

Ngày 7 tháng 8 năm 1937, trời nhiều mây.

Hán Chương lại có cảm giác. Và cảm giác lần này mạnh hơn lần trước.

Nơi này chính là Sạp Bắc của Thượng Hải.

Nghe Hán Chương nói thế, mình, Lão Nhị và Lão Tứ cơ hồ cũng có cảm giác khác lạ. Không phải là do tác động tâm lý chứ?

Hi vọng càng nhiều, thất vọng càng lớn.

Nếu lần này mà vẫn không thành công nữa thì…

***

Ngày 11 tháng 8 năm 1937, trời nắng.

Cuối cùng cũng tìm thấy rồi!

Đúng là có sự thay đổi dị thường! Tất cả mọi người trên phố trông thấy lá cờ đều sợ tới nỗi phát điên, giống hệt như một cơn bão táp tinh thần đang hoành hành vậy! Nhưng bốn anh em mình đứng ngay dưới lá cờ đó lại không hề hấn gì. Không, nói đúng hơn thì vào khoảnh khắc đó, trong lòng mình thấy dạt dào sức mạnh.

Sức mạnh. Giây phút đó, mình tưởng như có một sức mạnh vô song khiến mình dám thách thức cả thế giới.

Mình tin là ngày này sẽ không còn xa nữa, ngôi mộ cổ đang nằm dưới chân mình rồi.

Nét chữ trên trang nhật kí này run run. Khi viết những dòng này, Tôn Diệu Tổ xúc động đến nỗi tì rách một số chỗ trên trang giấy. Niềm hi vọng vốn dĩ ngày càng trở nên mịt mờ bỗng chốc lại trở thành hiện thực và thành công đã cận kề, làm sao người ta không xúc động được?

Còn với một người ngồi đây đọc lại cuốn nhật kí này sau nhiều năm như tôi, tôi biết rằng, thực ra họ đang tiến gần tới cái chết.

Những trang sau của cuốn nhật kí ghi chép những điều cơ bản tôi đã biết: việc bốn anh em nhà họ Tôn tạo mối quan hệ với chính quyền, di dân đi nơi khác, xây dựng “khu ba tầng”, thỉnh mời bác Chung Thư Đồng, Đại sư Viên Thông, “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi, đào đường hầm trong lòng đất dưới vỏ bọc đào hầm trú ẩn, vận chuyển số đất đào được ra bên ngoài, lấp ao Khâu Gia, phát hiện ra vị trí cụ thể của ngôi mộ cổ, sự kiện quân xâm lược Nhật ném bom, lời tiên đoán chẳng lành của Đại sư Viên Thông…

Tôi giở tới trang cuối cùng của cuốn nhật kí.

Ngày 4 tháng 9 năm 1937, trời nhiều mây.

Chuẩn bị xuống dưới lòng đất.

Đây là thời khắc cuối cùng rồi, nhưng tâm trạng của mọi người hình như có chút…

Có lẽ không nên mời Đại sư Viên Thông tới.

Hi vọng Vệ Bất Hồi có thể trợ giúp anh em mình, dù dưới lòng đất ẩn chứa điều gì đi nữa, anh em mình cũng không còn đường lùi nữa rồi. Bốn anh em mình gánh trên vai niềm kì vọng của gia tộc Tôn Thị từ cả ngàn năm trước. Liệt tổ liệt tông đang dõi theo mình.

Cũng may, bốn anh em không băn khoăn điều gì.

Tôi gấp cuốn nhật kí lại. Đồng hồ chỉ hơn 1 giờ sáng. Với tôi, thời điểm đó không phải quá muộn, nhưng lúc này, tôi cảm giác mệt mỏi rã rời, không phải sự mệt mỏi trên cơ bắp mà là sự mệt mỏi từ sâu trong đầu óc lan tỏa, khiến tôi không thể tiếp tục tư duy được nữa.

Tôi đã suy nghĩ quá nhiều và những suy nghĩ đó cứ vấn vít vào nhau, rối như tơ vò khiến tôi trong chốc lát đã mất đi khả năng phân tích rõ ràng từng sự việc.

Thôi, cứ đi ngủ trước vậy.

Tôi thường ngủ để né tránh một số chuyện, song trên thực tế thì tôi không có cách nào thoát khỏi chúng được.

Trên các đầu móng tay của tôi thoang thoảng mùi máu tanh.

Tôi vùi hai bàn tay xuống dưới gối.

Tôi không nhớ rõ mình chìm vào giấc ngủ từ khi nào. Hình như, tôi chưa hề ngủ. Có những cảnh tượng cứ lướt qua trong đầu, bóng dáng của Vệ Tiên, hình hài của bốn anh em nhà họ Tôn và cả cái đầu lâu đó nữa. Từ rất lâu rồi, tôi chưa co một giấc ngủ nào trằn trọc và khổ sở như giấc ngủ đêm qua. Lúc tôi lồm cồm bò dậy, toàn thân ướt đẫm những giọt mồ hôi lạnh và dính nhơm nhớp.

Kim đồng hồ chỉ 7 giờ 15 phút. Với tôi, giờ này hơi sớm để thức dậy, nhưng không thể nấn ná thêm trên giường được nữa, vì khi mi mắt tôi vừa khép lại, thì những hình ảnh hỗn loạn lại thi nhau ào tới.

Tôi tắm nước lạnh rồi cố gắng ép mình xốc lại tinh thần. Bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp để gọi điện cho bác Chung Thư Đồng. Tôi không muốn giở cuốn nhật kí màu đỏ sậm đó ra xem lại lần nữa.

Nội dung của cuốn nhật kí đã giúp tôi hình dung ra đại thể chuyện xảy ra năm xưa. Tuy thế, tác dụng của nó cũng không quá lớn, nhất là trong tình cảnh tôi vốn dĩ cho rằng mình có thể tìm ra manh mối để trả lời câu hỏi vì sao Vệ Tiên tự sát từ cuốn nhật kí đó, nhưng bây giờ tôi lại chẳng nghĩ ra điều gì cả.

Điều gì đã dồn Vệ Tiên tới chỗ chết, khiến anh ấy không có dũng khí để phản kháng, thậm chí không cầu cứu tới tôi?

Tôi nhớ lại, ở vào phút cuối cùng, gương mặt của Vệ Tiên đột nhiên trở nên hoảng hốt và tuyệt vọng, điều này phải giải thích thế nào? Lúc đó, ánh mắt của anh ta nhìn chòng chọc vào tôi.

Một ý nghĩ vụt hiện lên trong đầu khiến tôi kinh ngạc. Không lẽ Vệ Tiên đang sợ tôi?

Anh ấy sợ tôi nên mới im lặng với tôi. Ở giây phút cuối cùng của đời mình, Vệ Tiên đã sợ hãi khi nhìn thấy tôi?

Tôi nhìn hình ảnh mình đang mặc quần áo trong gương. Vẫn như bình thường, chỉ có điều hơi tiều tụy một chút.

Tôi đi đi lại lại trong phòng. Có một thứ áp lực không rõ từ đâu dồn lên trong lòng làm tôi không tài nào cảm thấy thoải mái được, tôi biết chắc chắn là có chô nào đó bất ổn, nhưng tôi không thể nắm bắt được nó.

Tôi cảm nhận nguy hiểm đang rình rập, song lại hoàn toàn không biết mối nguy ấy từ đâu tới.

8 giờ 15 phút, cuối cùng, tôi không thể chờ đợi thêm được nữa, tôi nhấc điện thoại lên và gọi cho bác Chung Thư Đồng. Người già thường hay dậy sớm.

Bác Chung Thư Đồng bắt máy rất nhanh. Xem ra, tôi không quấy nhiễu giấc ngủ của bậc đại học giả là bác. Vừa nghe thấy tôi nói việc điều tra có bước tiến mới, bác vội vã bảo tôi tới nhà bác kể cho bác nghe, bác cơ hồ sốt sắng hơn cả tôi.

Tôi rửa những bức ảnh đã chụp bằng chiếc máy ảnh kĩ thuật số ra khổ lớn, cho vào trong túi rồi không đủ kiên nhẫn đợi xe bus, tôi gọi taxi tới nhà bác Chung Thư Đồng.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t80516-la-co-ma-chuong-6.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận