Chương 11 Bốn ngày sau khi Theresa đi khỏi Wilmington, Garrett có một giấc mơ nữa, chỉ có điều lần này về Catherine. Trong giấc mơ, họ ở trên đồng cỏ xanh rì được chắn bởi một vách đá trông ra biển. Họ đang bước đi bên nhau, tay trong tay và trò chuyện, Garrett nói điều gì đó khiến cô bật cười. Đột nhiên cô dứt khỏi Garrett. Ngoái nhìn lại và cười vang, cô kêu Garrett đuổi theo mình. Anh đuổi theo cô, cũng cười vang, cảm giác gần giống như trong ngày cưới của họ.
Nhìn cô chạy, anh nhận thấy cô mới đẹp nhường nào. Mái tóc bay phấp phới của cô phản chiếu ánh sáng của vầng mặt trời vàng rực đang lên cao, đôi chân cô không chút mỡ thừa và chuyển động nhịp nhàng, dễ dàng. Cô mỉm cười, dù đang chạy, trông cô thật thoải mái và thư thái, như thể đang đứng yên vậy.
“Đuổi theo em đi, Garrett. Bắt được em không?” cô gọi.
Tiếng cười sau câu nói của cô cứ bồng bềnh trong bầu không khí xung quanh anh, nghe thật du dương.
Anh đang từ từ bắt kịp thì nhận ra rằng cô đang tiến về phía vách đá. Trong nỗi phấn khích và hứng thú, có vẻ như cô không nhận ra là mình đang đi đâu.
Nhưng điều đó thật phi lý, anh nghĩ. Cô ấy phải biết chứ.
Garrett gọi cô dừng lại, nhưng thay vì thế cô lại càng chạy nhanh hơn.
Cảm thấy sợ hãi điều gì đó, anh thấy mình vẫn còn cách quá xa để có thể tóm được cô.
Anh chạy nhanh hết sức mình, hét gọi cô quay lại. Dường như cô không nghe thấy tiếng anh. Anh cảm thấy adrenaline chạy khắp cơ thể, được duy trì bởi nỗi sợ hãi đến tê liệt. “Dừng lại, Catherine!” anh hét lên, phổi cạn kiệt không khí. “Vách đá đấy - em không thấy em đang đi đâu à!” Anh càng hét giọng anh càng yếu đi, cho đến lúc chỉ còn là tiếng thì thào.
Catherine vẫn chạy, không hề hay biết gì. Vách đá chỉ còn cách có vài bước chân.
Anh sắp kiệt sức.
Nhưng anh vẫn còn ở quá xa phía sau.
“Dừng lại!” anh lại hét lên, mặc dù lần này anh biết cô không nghe thấy gì. Nỗi hoảng sợ anh cảm thấy vì thế lại lớn hơn bất cứ điều gì anh từng biết tới. Gắng hết sức, anh bắt đôi chân của mình chạy nhanh hơn, nhưng chúng lại bắt đầu rã rời, trở nên nặng nề hơn theo từng bước chạy.
Không kịp mất, anh nghĩ, kinh hoàng.
Rồi, cũng đột ngột như lúc dứt tay anh ra, cô dừng lại. Quay về phía anh, cô dường như chẳng hề biết gì về mối nguy hiểm.
Cô đứng cách mép vực chỉ có vài phân.
“Đừng cử động,” anh hét lên, nhưng âm thanh lại thoát ra thành một tiếng thì thào. Anh dừng lại cách cô vài bước và đưa tay ra, thở khó nhọc.
“Lại đây với anh.” Anh nài nỉ. “Em đang dừng ngay trên mép vực kìa.”
Cô mỉm cười và liếc lại phía sau. Nhận thấy mình sắp ngã đến nơi, cô quay lại chỗ anh.
“Anh có nghĩ là anh sắp mất em không?”
“Có,” anh đáp khẽ, “nhưng anh hứa sẽ không bao giờ để chuyển đó xảy ra nữa.”
Garrett tỉnh giấc và ngồi dậy trên giường, thức mãi suốt mấy tiếng sau đó. Cuối cùng, thì ngủ lại được thì cũng chỉ chập chờn, và sáng hôm sau lúc anh có thể dậy được thì đã gần mười giờ. Vẫn kiệt sức và cảm thấy chán nản, anh thấy khó có thể nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài giấc mơ. Không biết phải làm gì, anh gọi cho bố, ông tới ăn sáng cùng anh ở quán quen của họ.
“Con không hiểu vì sao mình lại cảm thấy như vậy,” anh nói với ông sau vài phút chuyện trò linh tinh. “Con không hiểu nổi.”
Bố anh không trả lời. Thay vì thế ông quan sát con trai qua tách cà phê, vẫn im lặng trong lúc anh nói tiếp.
“Không phải cô ấy đã làm chuyện gì khiến con buồn bực,” anh nói tiếp. “Chỉ là bọn con có một kỳ nghỉ cuối tuần dài bên nhau, và con thật sự quan tâm đến cô ấy. Con cũng đã gặp con trai cô ấy, và thằng bé rất tuyệt. Chỉ có thế thôi… Con không hiểu. Con không biết liệu con có thể duy trì chuyện này được không nữa.”
Garrett ngừng lại. Chỉ còn tiếng từ các bàn xung quanh họ.
“Duy trì cái gì?” Cuối cùng Jeb Blake cũng lên tiếng.
Garrett lơ đãng khuấy tách cà phê. “Con không biết liệu con có nên gặp lại cô ấy không.”
Bố anh nhếch một bên lông mày lên nhưng không trả lời. Garrett nói tiếp.
“Có lẽ bọn con không phải sinh ra để dành cho nhau. Ý con là, thậm chí cô ấy còn chẳng sống ở đây. Cô ấy sống cách đây hàng nghìn cây số, cô ấy có cuộc sống riêng và có những mối quan tâm riêng. Còn con chỉ ở đây, sống tận dưới này và có một cuộc sống hoàn toàn khác. Có lẽ cô ấy sẽ hợp với ai đó khác, ai đó cô ấy có thể gặp thường xuyên.”
Anh nghĩ về những điều vừa nói, biết rằng chính mình cũng chẳng tin lắm. Nhưng anh vẫn không muốn kể với bố về giấc mơ.
“Ý con là, làm sao chúng ta có thể xây dựng một mối quan hệ nếu chúng ta không gặp gỡ nhau thường xuyên đúng không?”
Bố anh lại không nói gì. Garrett vẫn tiếp tục, như thể đang độc thoại.
“Nếu cô ấy sống ở đây và con có thể gặp cô ấy hằng ngày, con nghĩ con sẽ thấy khác. Nhưng khi cô ấy đi rồi…”
Anh nói nhỏ dần, cố hiểu những suy nghĩ của chính mình. Lát sau anh lại nói.
“Con chỉ không biết bọn con sẽ phải làm thế nào để duy trì quan hệ. Con đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và con không thấy có cách nào để làm được. Con không muốn chuyển tới Boston, và con chắc chắn là cô ấy cũng không muốn về đây, thế thì chuyện này sẽ dẫn bọn con tới đâu chứ?”
Garrett dừng lại và đợi cho bố anh nói gì đó - bất cứ điều gì - để đáp lại những lời anh nói cho đến lúc đó. Nhưng một lúc sau, ông vẫn không nói một lời nào. Cuối cùng ông thở dài và nhìn đi chỗ khác.
“Bố nghe như thể con đang bao biện vậy,” Jeb nói nhỏ. “Con đang cố thuyết phục bản thân, và dùng bố làm cớ lắng nghe chính mình nói.”
“Không, bố, con đâu có thế. Con chỉ đang cố gắng hiểu toàn bộ chuyện này.”
“Con nghĩ mình đang nói chuyện với ai, Garrett?” Jeb Blake lắc đầu. “Nhiều lúc, bố thề là con nghĩ bố khù khờ và chẳng biết gì về sự đời. Nhưng bố biết chính xác cái mà con đang trải qua. Con đã quen ở một mình đến mức con sợ những gì có thể xảy đến nếu thật sự tìm được người có thể dứt con ra tình trạng đó.”
“Con không sợ,” Garrett phản đối.
Bố anh gay gắt ngắt lời anh. “Con thậm chí không thể thừa nhận điều đó với chính mình phải không?”
Vẻ thất vọng trong giọng nói của ông không lẫn đi đâu được. “Con biết không, Garrett, khi mẹ con mất, bố cũng đã viện cớ nọ cớ kia. Qua nhiều năm, bố tự nhủ đủ điều. Và con có muốn biết điều đó đã đưa bố đến đâu không?”
Ông nhìn con trai chằm chằm. “Bố già nua, mệt mỏi, và trên hết bố cô đơn. Nếu có thể quay ngược lại thời gian thì bố sẽ thay đổi nhiều điều ở bản thân, và bố đáng bị nguyền rủa nếu bố để con lặp lại việc y như bố đã làm.”
Jeb ngừng lời trước khi nói tiếp, giọng ông dịu lại. “Bố đã sai, Garrett ạ. Bố đã sai khi không cố tìm kiếm một người nào khác. Bố đã sai khi cảm thấy có lỗi với mẹ con. Bố đã sai khi cứ sống cuộc đời như đã sống, trong lòng luôn dằn vặt và tự hỏi liệu bà ấy sẽ nghĩ gì. Vì con biết không? Bố nghĩ mẹ con hẳn sẽ muốn bố tìm một người khác. Mẹ con hẳn sẽ muốn bố được hạnh phúc. Và con biết tại sao không?”
Garrett không trả lời.
“Vì mẹ con yêu bố. Và nếu con nghĩ rằng con đang thể hiện tình yêu với Catherine bằng cái cách đau khổ như con đang làm thì hẳn là bố đã sai lầm ở đâu đó trong quãng đời nuôi dạy con lớn lên.”
“Bố không sai lầm…”
“Hẳn là có. Vì khi nhìn con, bố thấy chính mình, và nói thật, bố thà nhìn ai đó khác còn hơn. Bố muốn nhìn thấy một người hiểu được rằng việc sống tiếp là bình thường, rằng tìm kiếm ai đó làm cho mình hạnh phúc là chuyện bình thường. Nhưng ngay lúc này đây, cứ như thể bố đang nhìn vào gương mà thấy chính mình hai mươi năm trước vậy.”
Suốt phần buổi chiều còn lại Garrett ở một mình, đi bộ trên bãi biển, nghĩ về những gì bố anh đã nói. Nhớ lại, anh biết mình đã không thành thật ngay từ đầu cuộc nói chuyện và không ngạc nhiên là bố anh đã đoán ra. Thế thì tại sao anh lại muốn nói chuyện với ông? Phải chăng anh muốn ông chất vấn anh như ông đã làm?
Khi buổi chiều dần trôi qua, nỗi chán nản trong anh nhường chỗ cho sự bối rối, rồi tới một dạng tê liệt. Tới lúc anh gọi cho Theresa vào buổi tối, những cảm giác về sự phản bội mà anh cảm thấy, vốn là hệ quả của giấc mơ, đã lắng xuống đủ để anh có thể nói chuyện với cô. Chúng vẫn ở đó, dù không còn mạnh như trước, và khi cô bắt máy, anh cảm thấy chúng giảm xuống hơn nửa. Giọng nói của cô nhắc anh nhớ tới cảm xúc của anh khi họ ở bên nhau.
“Em mừng là anh đã gọi,” cô nói vui vẻ, “hôm nay em đã nghĩ tới anh rất nhiều.”
“Anh cũng nghĩ về em,” anh nói. “Anh ước gì lúc này em đang ở đây.”
“Anh ổn chứ? Nghe giọng anh có vẻ hơi buồn?”
“Anh ổn… Chỉ cô đơn thôi. Hôm nay em thế nào?”
“Như mọi khi. Quá nhiều việc phải làm ở cơ quan, quá nhiều việc phải làm ở nhà. Nhưng giờ nghe anh gọi thì đỡ hơn rồi.”
Garrett mỉm cười. “Kevin có ở đó không?”
“Nó đang trong phòng riêng, đọc một cuốn sách về môn lặn có bình dưỡng khí. Nó bảo em là khi lớn lên nó muốn trở thành huấn luận viên dạy lặn.”
“Nó lấy đâu ra ý tưởng đó vậy?”
“Em cũng chịu,” cô nói, giọng có vẻ thích thú. “Thế còn anh? Hôm nay anh đã làm gì?”
“Thật ra cũng không có gì nhiều lắm. Anh không tới cửa hàng - gần như là trốn một ngày làm mà đi lang thang ngoài bãi biển.”
“Mơ về em, em hy vọng là thế.”
Tính mỉa mai của câu nói ấy không lọt khỏi tâm trí anh. Anh không trả lời thẳng.
“Hôm nay anh thật sự nhớ em.”
“Em mới đi có vài ngày thôi mà,” cô nói nhẹ nhàng.
“Anh biết. Mà này, nhân nói về chuyện đó, khi nào thì chúng ta lại được gặp nhau?”
Đang ngồi bên bàn ăn, Theresa liền liếc cuốn sổ ghi lịch làm việc của cô.
“Ừm… ba tuần nữa thì sao? Em đang nghĩ là lần này anh có thể tới đây. Kevin sẽ tham gia hội trại bóng đá kéo dài một tuần, và có thể chúng ta sẽ có chút thời gian riêng tư.”
“Thay vì thế em có muốn về đây không?”
“Anh lên đây thì hay hơn, nếu được. Em hết thời gian nghỉ phép rồi, và em nghĩ là chúng ta có thể sắp xếp theo lịch làm việc của em. Mà hơn nữa, em nghĩ cũng đến lúc anh rời khỏi Bắc Carolina rồi, có thế anh mới thấy những nơi còn lại của đất nước có thể đem đến những gì chứ.”
Trong lúc cô nói, anh thấy mình nhìn vào tấm ảnh Catherine đặt trên chiếc kệ đầu giường. Vài giây sau anh mới trả lời. “Được… Anh nghĩ anh có thể đi.”
“Nghe anh nói có vẻ không chắc lắm.”
“Chắc mà.”
“Có chuyện gì khác nữa không?”
“Không.”
Cô ngừng lại vẻ hoài nghi. “Thật sự là anh không sao chứ, Garrett?”
Phải mất mấy ngày và mấy cuộc gọi nữa cho Theresa, anh mới cảm thấy tương đối bình thường trở lại. Hơn một lần anh gọi điện vào lúc khuya chỉ để nghe thấy giọng nói của cô.
“Chào em,” anh nói, “lại là anh đây.”
“Chào anh, Garrett, có chuyện gì thế?” cô hỏi giọng ngái ngủ.
“Không có gì quan trọng đâu. Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon trước khi em lên giường thôi mà.”
“Em lên giường rồi.”
“Mấy giờ rồi?”
Cô liếc đồng hồ. “Gần nửa đêm.”
“Sao em vẫn còn thức? Em phải đi ngủ rồi chứ,” anh trêu cô, đoạn để cô cúp máy cho cô có thể nghỉ ngơi.
Đôi khi, nếu không ngủ được, anh sẽ nghĩ về tuần đầu tiên ở bên Theresa, nhớ xem cảm giác da thịt cô khi anh chạm vào tuyệt vời ra sao, khao khát lại được ôm cô đến khó cưỡng.
Rồi, đi vào phòng ngủ, anh lại thấy bức ảnh Catherine cạnh giường. Và lúc đó giấc mơ kia lại hiện lên rõ mồn một.
Anh biết là mình vẫn bị giấc mơ đó làm cho rối loạn. Trong quá khứ hẳn là anh đã viết một lá thư cho Catherine để giúp mình nhận thức được toàn cục. Rồi sau đó, lái con thuyền Happenstance đi theo đúng lộ trình mà anh và Catherine đã đi lần đầu tiên sau khi nó được sửa chữa, anh sẽ nhốt giấc mơ ấy lại và ném nó ra giữa biển.
Lạ thay, lần này anh không thể làm thế. Khi anh ngồi xuống viết, lời lẽ cứ đi đâu hết. Cuối cùng, khi đã nản, thay vì viết anh bắt mình phải nhớ lại.
“Ngạc nhiên chưa này,” Garrett vừa nói vừa chỉ vào cái đĩa của Catherine. Trên đó, cô chất đầy xa lát rau chân vịt từ cái quầy giải khát trước mặt.
Catherine nhún vai vẻ không thèm chấp. “Muốn ăn xa lát thì có gì sai?”
“Chẳng có gì sai cả,” anh vội nói. “Có điều tuần này em ăn tới ba lần rồi.”
“Em biết. Tại em cứ thấy thèm. Em không biết tại sao.”
“Cứ tiếp tục ăn như thế này, em sẽ biến thành thỏ đấy.”
Cô bật cười và rưới nước xốt. “Nếu vậy.” Cô nói, nhìn vào đĩa của anh, “anh cứ ăn hải sản như thế thì anh sẽ biến thành cá mập.”
“Anh là cá mập rồi,” anh nói, trợn mắt lên.
“Có thể anh là cá mập, nhưng nếu anh cứ chọc em, anh sẽ không bao giờ có cơ hội chứng minh điều đó với em đâu.”
Anh mỉm cười. “Sao anh không chứng minh điều đó vào cuối tuần này nhỉ?”
“Khi nào? Cuối tuần này anh phải làm việc mà.”
“Không phải cuối tuần này. Em có tin được không, anh đã dẹp hết lịch làm việc lại để chúng ta có thể ở bên nhau một chút. Chúng ta đã không ở riêng với nhau suốt kỳ nghỉ cuối tuần từ lúc nào anh cũng không nhớ nữa.”
“Anh có kế hoạch gì rồi?”
“Anh không biết. Có lẽ là đi thuyền, có lẽ là việc gì khác. Bất cứ việc gì em muốn làm.”
Cô bật cười. “Ừm, em đã có vài kế hoạch lớn - đi tới Paris để mua sắm một chút, một hoặc hai chuyến săn thú rừng châu Phi chóng vánh… nhưng em đoán là em có thể sắp xếp lại.”
“Thế thì ta sẽ hẹn hò rồi.”
Nhiều ngày trôi qua, hình ảnh giấc mơ bắt đầu phai nhạt. Mỗi lần nói chuyện với Theresa, Garrett lại nhận thấy mình hồi phục lại một chút. Anh cũng nói chuyện với Kevin đôi lần, và sự háo hức của thằng bé về việc Garrett sẽ hiện diện trong cuộc sống hai mẹ con cũng giúp anh lấy lại thăng bằng. Mặc dù cái nóng ẩm tháng Tám dường như khiến thời gian trôi đi chậm hơn bình thường, anh vẫn cố gắng giữ cho bản thân càng bận càng tốt, cố hết sức không nghĩ tới sự phức tạp trong hoàn cảnh mới của anh.
Hai tuần sau - vài ngày trước khi đi Boston - Garrett đang nấu ăn trong bếp thì điện thoại reo.
“Hây, người xa lạ,” cô nói. “Rảnh mấy phút không anh?”
“Với em thì lúc nào anh cũng có mấy phút rảnh để nói chuyện.”
“Em chỉ gọi tới để xem mấy giờ thì chuyến bay của anh tới. Lần trước nói chuyện anh chưa chắc lắm.”
“Chờ chút nhé,” anh nói, lục lọi khắp ngăn kéo tủ bếp để tìm giấy ghi hành trình của mình. “Đây rồi - anh sẽ tới Boston lúc hơn một giờ.”
“Thế thì quá ổn. Em phải đưa Kevin tới nơi vài tiếng trước đó, và như thế sẽ cho em thời gian để sắp xếp lại căn hộ.”
“Lau dọn vì anh à?”
“Anh sẽ được tiếp đãi tử tế. Thậm chí em sẽ lau chùi cả bàn ghế.”
“Anh thấy thật vinh hạnh.”
“Anh nên thế. Chỉ có anh và bố mẹ em mới được săn sóc như thế thôi đấy.”
“Anh có nên đeo một đôi găng tay trắng để đảm bảo là em làm tốt công việc đó không?”
“Nếu làm thế thì anh sẽ không còn sống sót để nhìn thấy buổi tối đâu.”
Anh bật cười và đổi chủ đề. “Anh đang nóng lòng được gặp em đây,” anh nói tha thiết. “Ba tuần vừa rồi khó khăn hơn nhiều so với hai tuần đầu.”
“Em biết. Em có thể nghe ra điều đó trong giọng nói của anh. Anh đã buồn bã mất mấy ngày, và… em, em đã bắt đầu thấy lo lắng về anh.”
Anh tự hỏi liệu cô có nghi ngờ về nguyên cớ nỗi buồn của anh không. Trấn tĩnh lại, anh nói tiếp. “Đúng thế, nhưng giờ thì anh đã vượt qua. Anh đóng gói hành lý rồi.”
“Em mong là anh không dành chỗ cho những thứ không cần thiết.”
“Như là gì?”
“Như là… em không biết nữa. Pijama chẳng hạn.”
Anh bật cười. “Anh không có bộ pijama nào cả.”
“Thế thì tốt. Vì nếu có thì anh cũng sẽ không cần dùng đến đâu.”
Ba ngày sau, Garrett Blake tới Boston.
Sau khi đón anh ở sân bay, Theresa đưa anh đi thăm thành phố. Họ ăn trưa ở Fancuil Hall, xem những người chèo thuyền lướt đi trên sông Charles và đi dạo một vòng quanh khu trường sở của Havard. Như mọi lần, họ nắm tay nhau hầu như suốt cả ngày, thích thú khi được đi cùng nhau.
Có đến hơn một lần, Garrett tự hỏi ba tuần qua sao lại khó khăn với anh đến thế. Anh biết rằng một phần nỗi lo lắng của mình là do giấc mơ kia gây ra, nhưng thời gian ở bên Theresa khiến cho cảm giác bất an về giấc mơ đó dường như trở nên xa xăm và không có thực. Mỗi lần Theresa cười hoặc siết tay anh là cô lại xác nhận những cảm giác của anh khi cô ở Wilmington lần trước, xua đuổi những ý nghĩ u ám đã quấy rầy anh khi cô vắng mặt.
Khi ngày mát dần và mặt trời lặn xuống dưới rặng cây, Theresa và Garrett dừng lại để mua một chút đồ ăn Mexico về nhà cô. Ngồi trên sàn phòng khác dưới ánh nến, Garrett nhìn khắp căn phòng.
“Nhà em đẹp thật,” anh nói, xúc ít đậu bằng miếng bánh bắp giòn. “Không hiểu sao, anh cứ ngỡ nó nhỏ hơn thế này cơ. Nó to hơn cả nhà anh.”
“Chỉ hơn chút thôi, nhưng cảm ơn anh. Nó vừa với mẹ con em. Nó thật sự tiện lợi cho mọi việc.”
“Như là gần các nhà hàng!”
“Chính xác. Em không nói đùa đâu, em đã bảo với anh là em không thích nấu nướng mà. Em không hẳn là một Martha Steward đâu.”
“Ai cơ?”
“Không có gì,” cô nói.
Bên ngoài căn hộ của cô, tiếng xe cộ nghe vẫn rõ rệt. Một chiếc xe rít lên dưới phố, một tiếng còi vang lên om sòm, và đột nhiên bầu không khí tràn ngập tiếng ồn khi những chiếc xe khác cũng tham gia vào bản đồng ca.
“Nó vẫn luôn yên tĩnh thế này à?” anh hỏi.
Cô hất cằm về phía mấy cái cửa sổ. “Tối thứ Sáu và thứ Bảy là tệ nhất, chứ thường thì nó không đến nỗi thế. Nhưng sống ở đây đủ lâu thì anh sẽ quen thôi.”
Những âm thanh của cuộc sống đô thị vẫn tiếp nối. Một tiếng còi báo động vang lên ở đằng xa, dần dần trở nên to hơn khi tiến lại gần.
“Em có muốn bật nhạc lên chút không?” Garrett hỏi.
“Có. Anh thích loại nhạc nào?”
“Anh thích cả hai loại,” anh nói, ngừng lại một cách rất kịch. “Nhạc đồng quê và nhạc cao bồi.”
Cô bật cười. “Em chẳng có thứ gì như vậy ở đây cả.”
Anh lắc đầu, thưởng thức trò đùa của chính mình. “Anh đùa đấy. Trò này xưa rồi. Không buồn cười lắm, nhưng anh chờ bao năm mới có cơ hội để nói đấy.”
“Hẳn là hồi còn bé anh đã xem quá nhiều phim Hee-Haw.”
Giờ thì đến lượt anh bật cười. Bốn ngày sau khi Theresa đi khỏi Wilmington, Garrett có một giấc mơ nữa, chỉ có điều lần này về Catherine. Trong giấc mơ, họ ở trên đồng cỏ xanh rì được chắn bởi một vách đá trông ra biển. Họ đang bước đi bên nhau, tay trong tay và trò chuyện, Garrett nói điều gì đó khiến cô bật cười. Đột nhiên cô dứt khỏi Garrett. Ngoái nhìn lại và cười vang, cô kêu Garrett đuổi theo mình. Anh đuổi theo cô, cũng cười vang, cảm giác gần giống như trong ngày cưới của họ.
Nhìn cô chạy, anh nhận thấy cô mới đẹp nhường nào. Mái tóc bay phấp phới của cô phản chiếu ánh sáng của vầng mặt trời vàng rực đang lên cao, đôi chân cô không chút mỡ thừa và chuyển động nhịp nhàng, dễ dàng. Cô mỉm cười, dù đang chạy, trông cô thật thoải mái và thư thái, như thể đang đứng yên vậy.
“Đuổi theo em đi, Garrett. Bắt được em không?” cô gọi.
Tiếng cười sau câu nói của cô cứ bồng bềnh trong bầu không khí xung quanh anh, nghe thật du dương.
Anh đang từ từ bắt kịp thì nhận ra rằng cô đang tiến về phía vách đá. Trong nỗi phấn khích và hứng thú, có vẻ như cô không nhận ra là mình đang đi đâu.
Nhưng điều đó thật phi lý, anh nghĩ. Cô ấy phải biết chứ.
Garrett gọi cô dừng lại, nhưng thay vì thế cô lại càng chạy nhanh hơn.
Cảm thấy sợ hãi điều gì đó, anh thấy mình vẫn còn cách quá xa để có thể tóm được cô.
Anh chạy nhanh hết sức mình, hét gọi cô quay lại. Dường như cô không nghe thấy tiếng anh. Anh cảm thấy adrenaline chạy khắp cơ thể, được duy trì bởi nỗi sợ hãi đến tê liệt. “Dừng lại, Catherine!” anh hét lên, phổi cạn kiệt không khí. “Vách đá đấy - em không thấy em đang đi đâu à!” Anh càng hét giọng anh càng yếu đi, cho đến lúc chỉ còn là tiếng thì thào.
Catherine vẫn chạy, không hề hay biết gì. Vách đá chỉ còn cách có vài bước chân.
Anh sắp kiệt sức.
Nhưng anh vẫn còn ở quá xa phía sau.
“Dừng lại!” anh lại hét lên, mặc dù lần này anh biết cô không nghe thấy gì. Nỗi hoảng sợ anh cảm thấy vì thế lại lớn hơn bất cứ điều gì anh từng biết tới. Gắng hết sức, anh bắt đôi chân của mình chạy nhanh hơn, nhưng chúng lại bắt đầu rã rời, trở nên nặng nề hơn theo từng bước chạy.
Không kịp mất, anh nghĩ, kinh hoàng.
Rồi, cũng đột ngột như lúc dứt tay anh ra, cô dừng lại. Quay về phía anh, cô dường như chẳng hề biết gì về mối nguy hiểm.
Cô đứng cách mép vực chỉ có vài phân.
“Đừng cử động,” anh hét lên, nhưng âm thanh lại thoát ra thành một tiếng thì thào. Anh dừng lại cách cô vài bước và đưa tay ra, thở khó nhọc.
“Lại đây với anh.” Anh nài nỉ. “Em đang dừng ngay trên mép vực kìa.”
Cô mỉm cười và liếc lại phía sau. Nhận thấy mình sắp ngã đến nơi, cô quay lại chỗ anh.
“Anh có nghĩ là anh sắp mất em không?”
“Có,” anh đáp khẽ, “nhưng anh hứa sẽ không bao giờ để chuyển đó xảy ra nữa.”
Garrett tỉnh giấc và ngồi dậy trên giường, thức mãi suốt mấy tiếng sau đó. Cuối cùng, thì ngủ lại được thì cũng chỉ chập chờn, và sáng hôm sau lúc anh có thể dậy được thì đã gần mười giờ. Vẫn kiệt sức và cảm thấy chán nản, anh thấy khó có thể nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài giấc mơ. Không biết phải làm gì, anh gọi cho bố, ông tới ăn sáng cùng anh ở quán quen của họ.
“Con không hiểu vì sao mình lại cảm thấy như vậy,” anh nói với ông sau vài phút chuyện trò linh tinh. “Con không hiểu nổi.”
Bố anh không trả lời. Thay vì thế ông quan sát con trai qua tách cà phê, vẫn im lặng trong lúc anh nói tiếp.
“Không phải cô ấy đã làm chuyện gì khiến con buồn bực,” anh nói tiếp. “Chỉ là bọn con có một kỳ nghỉ cuối tuần dài bên nhau, và con thật sự quan tâm đến cô ấy. Con cũng đã gặp con trai cô ấy, và thằng bé rất tuyệt. Chỉ có thế thôi… Con không hiểu. Con không biết liệu con có thể duy trì chuyện này được không nữa.”
Garrett ngừng lại. Chỉ còn tiếng từ các bàn xung quanh họ.
“Duy trì cái gì?” Cuối cùng Jeb Blake cũng lên tiếng.
Garrett lơ đãng khuấy tách cà phê. “Con không biết liệu con có nên gặp lại cô ấy không.”
Bố anh nhếch một bên lông mày lên nhưng không trả lời. Garrett nói tiếp.
“Có lẽ bọn con không phải sinh ra để dành cho nhau. Ý con là, thậm chí cô ấy còn chẳng sống ở đây. Cô ấy sống cách đây hàng nghìn cây số, cô ấy có cuộc sống riêng và có những mối quan tâm riêng. Còn con chỉ ở đây, sống tận dưới này và có một cuộc sống hoàn toàn khác. Có lẽ cô ấy sẽ hợp với ai đó khác, ai đó cô ấy có thể gặp thường xuyên.”
Anh nghĩ về những điều vừa nói, biết rằng chính mình cũng chẳng tin lắm. Nhưng anh vẫn không muốn kể với bố về giấc mơ.
“Ý con là, làm sao chúng ta có thể xây dựng một mối quan hệ nếu chúng ta không gặp gỡ nhau thường xuyên đúng không?”
Bố anh lại không nói gì. Garrett vẫn tiếp tục, như thể đang độc thoại.
“Nếu cô ấy sống ở đây và con có thể gặp cô ấy hằng ngày, con nghĩ con sẽ thấy khác. Nhưng khi cô ấy đi rồi…”
Anh nói nhỏ dần, cố hiểu những suy nghĩ của chính mình. Lát sau anh lại nói.
“Con chỉ không biết bọn con sẽ phải làm thế nào để duy trì quan hệ. Con đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và con không thấy có cách nào để làm được. Con không muốn chuyển tới Boston, và con chắc chắn là cô ấy cũng không muốn về đây, thế thì chuyện này sẽ dẫn bọn con tới đâu chứ?”
Garrett dừng lại và đợi cho bố anh nói gì đó - bất cứ điều gì - để đáp lại những lời anh nói cho đến lúc đó. Nhưng một lúc sau, ông vẫn không nói một lời nào. Cuối cùng ông thở dài và nhìn đi chỗ khác.
“Bố nghe như thể con đang bao biện vậy,” Jeb nói nhỏ. “Con đang cố thuyết phục bản thân, và dùng bố làm cớ lắng nghe chính mình nói.”
“Không, bố, con đâu có thế. Con chỉ đang cố gắng hiểu toàn bộ chuyện này.”
“Con nghĩ mình 8000 ang nói chuyện với ai, Garrett?” Jeb Blake lắc đầu. “Nhiều lúc, bố thề là con nghĩ bố khù khờ và chẳng biết gì về sự đời. Nhưng bố biết chính xác cái mà con đang trải qua. Con đã quen ở một mình đến mức con sợ những gì có thể xảy đến nếu thật sự tìm được người có thể dứt con ra tình trạng đó.”
“Con không sợ,” Garrett phản đối.
Bố anh gay gắt ngắt lời anh. “Con thậm chí không thể thừa nhận điều đó với chính mình phải không?”
Vẻ thất vọng trong giọng nói của ông không lẫn đi đâu được. “Con biết không, Garrett, khi mẹ con mất, bố cũng đã viện cớ nọ cớ kia. Qua nhiều năm, bố tự nhủ đủ điều. Và con có muốn biết điều đó đã đưa bố đến đâu không?”
Ông nhìn con trai chằm chằm. “Bố già nua, mệt mỏi, và trên hết bố cô đơn. Nếu có thể quay ngược lại thời gian thì bố sẽ thay đổi nhiều điều ở bản thân, và bố đáng bị nguyền rủa nếu bố để con lặp lại việc y như bố đã làm.”
Jeb ngừng lời trước khi nói tiếp, giọng ông dịu lại. “Bố đã sai, Garrett ạ. Bố đã sai khi không cố tìm kiếm một người nào khác. Bố đã sai khi cảm thấy có lỗi với mẹ con. Bố đã sai khi cứ sống cuộc đời như đã sống, trong lòng luôn dằn vặt và tự hỏi liệu bà ấy sẽ nghĩ gì. Vì con biết không? Bố nghĩ mẹ con hẳn sẽ muốn bố tìm một người khác. Mẹ con hẳn sẽ muốn bố được hạnh phúc. Và con biết tại sao không?”
Garrett không trả lời.
“Vì mẹ con yêu bố. Và nếu con nghĩ rằng con đang thể hiện tình yêu với Catherine bằng cái cách đau khổ như con đang làm thì hẳn là bố đã sai lầm ở đâu đó trong quãng đời nuôi dạy con lớn lên.”
“Bố không sai lầm…”
“Hẳn là có. Vì khi nhìn con, bố thấy chính mình, và nói thật, bố thà nhìn ai đó khác còn hơn. Bố muốn nhìn thấy một người hiểu được rằng việc sống tiếp là bình thường, rằng tìm kiếm ai đó làm cho mình hạnh phúc là chuyện bình thường. Nhưng ngay lúc này đây, cứ như thể bố đang nhìn vào gương mà thấy chính mình hai mươi năm trước vậy.”
Suốt phần buổi chiều còn lại Garrett ở một mình, đi bộ trên bãi biển, nghĩ về những gì bố anh đã nói. Nhớ lại, anh biết mình đã không thành thật ngay từ đầu cuộc nói chuyện và không ngạc nhiên là bố anh đã đoán ra. Thế thì tại sao anh lại muốn nói chuyện với ông? Phải chăng anh muốn ông chất vấn anh như ông đã làm?
Khi buổi chiều dần trôi qua, nỗi chán nản trong anh nhường chỗ cho sự bối rối, rồi tới một dạng tê liệt. Tới lúc anh gọi cho Theresa vào buổi tối, những cảm giác về sự phản bội mà anh cảm thấy, vốn là hệ quả của giấc mơ, đã lắng xuống đủ để anh có thể nói chuyện với cô. Chúng vẫn ở đó, dù không còn mạnh như trước, và khi cô bắt máy, anh cảm thấy chúng giảm xuống hơn nửa. Giọng nói của cô nhắc anh nhớ tới cảm xúc của anh khi họ ở bên nhau.
“Em mừng là anh đã gọi,” cô nói vui vẻ, “hôm nay em đã nghĩ tới anh rất nhiều.”
“Anh cũng nghĩ về em,” anh nói. “Anh ước gì lúc này em đang ở đây.”
“Anh ổn chứ? Nghe giọng anh có vẻ hơi buồn?”
“Anh ổn… Chỉ cô đơn thôi. Hôm nay em thế nào?”
“Như mọi khi. Quá nhiều việc phải làm ở cơ quan, quá nhiều việc phải làm ở nhà. Nhưng giờ nghe anh gọi thì đỡ hơn rồi.”
Garrett mỉm cười. “Kevin có ở đó không?”
“Nó đang trong phòng riêng, đọc một cuốn sách về môn lặn có bình dưỡng khí. Nó bảo em là khi lớn lên nó muốn trở thành huấn luận viên dạy lặn.”
“Nó lấy đâu ra ý tưởng đó vậy?”
“Em cũng chịu,” cô nói, giọng có vẻ thích thú. “Thế còn anh? Hôm nay anh đã làm gì?”
“Thật ra cũng không có gì nhiều lắm. Anh không tới cửa hàng - gần như là trốn một ngày làm mà đi lang thang ngoài bãi biển.”
“Mơ về em, em hy vọng là thế.”
Tính mỉa mai của câu nói ấy không lọt khỏi tâm trí anh. Anh không trả lời thẳng.
“Hôm nay anh thật sự nhớ em.”
“Em mới đi có vài ngày thôi mà,” cô nói nhẹ nhàng.
“Anh biết. Mà này, nhân nói về chuyện đó, khi nào thì chúng ta lại được gặp nhau?”
Đang ngồi bên bàn ăn, Theresa liền liếc cuốn sổ ghi lịch làm việc của cô.
“Ừm… ba tuần nữa thì sao? Em đang nghĩ là lần này anh có thể tới đây. Kevin sẽ tham gia hội trại bóng đá kéo dài một tuần, và có thể chúng ta sẽ có chút thời gian riêng tư.”
“Thay vì thế em có muốn về đây không?”
“Anh lên đây thì hay hơn, nếu được. Em hết thời gian nghỉ phép rồi, và em nghĩ là chúng ta có thể sắp xếp theo lịch làm việc của em. Mà hơn nữa, em nghĩ cũng đến lúc anh rời khỏi Bắc Carolina rồi, có thế anh mới thấy những nơi còn lại của đất nước có thể đem đến những gì chứ.”
Trong lúc cô nói, anh thấy mình nhìn vào tấm ảnh Catherine đặt trên chiếc kệ đầu giường. Vài giây sau anh mới trả lời. “Được… Anh nghĩ anh có thể đi.”
“Nghe anh nói có vẻ không chắc lắm.”
“Chắc mà.”
“Có chuyện gì khác nữa không?”
“Không.”
Cô ngừng lại vẻ hoài nghi. “Thật sự là anh không sao chứ, Garrett?”
Phải mất mấy ngày và mấy cuộc gọi nữa cho Theresa, anh mới cảm thấy tương đối bình thường trở lại. Hơn một lần anh gọi điện vào lúc khuya chỉ để nghe thấy giọng nói của cô.
“Chào em,” anh nói, “lại là anh đây.”
“Chào anh, Garrett, có chuyện gì thế?” cô hỏi giọng ngái ngủ.
“Không có gì quan trọng đâu. Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon trước khi em lên giường thôi mà.”
“Em lên giường rồi.”
“Mấy giờ rồi?”
Cô liếc đồng hồ. “Gần nửa đêm.”
“Sao em vẫn còn thức? Em phải đi ngủ rồi chứ,” anh trêu cô, đoạn để cô cúp máy cho cô có thể nghỉ ngơi.
Đôi khi, nếu không ngủ được, anh sẽ nghĩ về tuần đầu tiên ở bên Theresa, nhớ xem cảm giác da thịt cô khi anh chạm vào tuyệt vời ra sao, khao khát lại được ôm cô đến khó cưỡng.
Rồi, đi vào phòng ngủ, anh lại thấy bức ảnh Catherine cạnh giường. Và lúc đó giấc mơ kia lại hiện lên rõ mồn một.
Anh biết là mình vẫn bị giấc mơ đó làm cho rối loạn. Trong quá khứ hẳn là anh đã viết một lá thư cho Catherine để giúp mình nhận thức được toàn cục. Rồi sau đó, lái con thuyền Happenstance đi theo đúng lộ trình mà anh và Catherine đã đi lần đầu tiên sau khi nó được sửa chữa, anh sẽ nhốt giấc mơ ấy lại và ném nó ra giữa biển.
Lạ thay, lần này anh không thể làm thế. Khi anh ngồi xuống viết, lời lẽ cứ đi đâu hết. Cuối cùng, khi đã nản, thay vì viết anh bắt mình phải nhớ lại.
“Ngạc nhiên chưa này,” Garrett vừa nói vừa chỉ vào cái đĩa của Catherine. Trên đó, cô chất đầy xa lát rau chân vịt từ cái quầy giải khát trước mặt.
Catherine nhún vai vẻ không thèm chấp. “Muốn ăn xa lát thì có gì sai?”
“Chẳng có gì sai cả,” anh vội nói. “Có điều tuần này em ăn tới ba lần rồi.”
“Em biết. Tại em cứ thấy thèm. Em không biết tại sao.”
“Cứ tiếp tục ăn như thế này, em sẽ biến thành thỏ đấy.”
Cô bật cười và rưới nước xốt. “Nếu vậy.” Cô nói, nhìn vào đĩa của anh, “anh cứ ăn hải sản như thế thì anh sẽ biến thành cá mập.”
“Anh là cá mập rồi,” anh nói, trợn mắt lên.
“Có thể anh là cá mập, nhưng nếu anh cứ chọc em, anh sẽ không bao giờ có cơ hội chứng minh điều đó với em đâu.”
Anh mỉm cười. “Sao anh không chứng minh điều đó vào cuối tuần này nhỉ?”
“Khi nào? Cuối tuần này anh phải làm việc mà.”
“Không phải cuối tuần này. Em có tin được không, anh đã dẹp hết lịch làm việc lại để chúng ta có thể ở bên nhau một chút. Chúng ta đã không ở riêng với nhau suốt kỳ nghỉ cuối tuần từ lúc nào anh cũng không nhớ nữa.”
“Anh có kế hoạch gì rồi?”
“Anh không biết. Có lẽ là đi thuyền, có lẽ là việc gì khác. Bất cứ việc gì em muốn làm.”
Cô bật cười. “Ừm, em đã có vài kế hoạch lớn - đi tới Paris để mua sắm một chút, một hoặc hai chuyến săn thú rừng châu Phi chóng vánh… nhưng em đoán là em có thể sắp xếp lại.”
“Thế thì ta sẽ hẹn hò rồi.”
Nhiều ngày trôi qua, hình ảnh giấc mơ bắt đầu phai nhạt. Mỗi lần nói chuyện với Theresa, Garrett lại nhận thấy mình hồi phục lại một chút. Anh cũng nói chuyện với Kevin đôi lần, và sự háo hức của thằng bé về việc Garrett sẽ hiện diện trong cuộc sống hai mẹ con cũng giúp anh lấy lại thăng bằng. Mặc dù cái nóng ẩm tháng Tám dường như khiến thời gian trôi đi chậm hơn bình thường, anh vẫn cố gắng giữ cho bản thân càng bận càng tốt, cố hết sức không nghĩ tới sự phức tạp trong hoàn cảnh mới của anh.
Hai tuần sau - vài ngày trước khi đi Boston - Garrett đang nấu ăn trong bếp thì điện thoại reo.
“Hây, người xa lạ,” cô nói. “Rảnh mấy phút không anh?”
“Với em thì lúc nào anh cũng có mấy phút rảnh để nói chuyện.”
“Em chỉ gọi tới để xem mấy giờ thì chuyến bay của anh tới. Lần trước nói chuyện anh chưa chắc lắm.”
“Chờ chút nhé,” anh nói, lục lọi khắp ngăn kéo tủ bếp để tìm giấy ghi hành trình của mình. “Đây rồi - anh sẽ tới Boston lúc hơn một giờ.”
“Thế thì quá ổn. Em phải đưa Kevin tới nơi vài tiếng trước đó, và như thế sẽ cho em thời gian để sắp xếp lại căn hộ.”
“Lau dọn vì anh à?”
“Anh sẽ được tiếp đãi tử tế. Thậm chí em sẽ lau chùi cả bàn ghế.”
“Anh thấy thật vinh hạnh.”
“Anh nên thế. Chỉ có anh và bố mẹ em mới được săn sóc như thế thôi đấy.”
“Anh có nên đeo một đôi găng tay trắng để đảm bảo là em làm tốt công việc đó không?”
“Nếu làm thế thì anh sẽ không còn sống sót để nhìn thấy buổi tối đâu.”
Anh bật cười và đổi chủ đề. “Anh đang nóng lòng được gặp em đây,” anh nói tha thiết. “Ba tuần vừa rồi khó khăn hơn nhiều so với hai tuần đầu.”
“Em biết. Em có thể nghe ra điều đó trong giọng nói của anh. Anh đã buồn bã mất mấy ngày, và… em, em đã bắt đầu thấy lo lắng về anh.”
Anh tự hỏi liệu cô có nghi ngờ về nguyên cớ nỗi buồn của anh không. Trấn tĩnh lại, anh nói tiếp. “Đúng thế, nhưng giờ thì anh đã vượt qua. Anh đóng gói hành lý rồi.”
“Em mong là anh không dành chỗ cho những thứ không cần thiết.”
“Như là gì?”
“Như là… em không biết nữa. Pijama chẳng hạn.”
Anh bật cười. “Anh không có bộ pijama nào cả.”
“Thế thì tốt. Vì nếu có thì anh cũng sẽ không cần dùng đến đâu.”
Ba ngày sau, Garrett Blake tới Boston.
Sau khi đón anh ở sân bay, Theresa đưa anh đi thăm thành phố. Họ ăn trưa ở Fancuil Hall, xem những người chèo thuyền lướt đi trên sông Charles và đi dạo một vòng quanh khu trường sở của Havard. Như mọi lần, họ nắm tay nhau hầu như suốt cả ngày, thích thú khi được đi cùng nhau.
Có đến hơn một lần, Garrett tự hỏi ba tuần qua sao lại khó khăn với anh đến thế. Anh biết rằng một phần nỗi lo lắng của mình là do giấc mơ kia gây ra, nhưng thời gian ở bên Theresa khiến cho cảm giác bất an về giấc mơ đó dường như trở nên xa xăm và không có thực. Mỗi lần Theresa cười hoặc siết tay anh là cô lại xác nhận những cảm giác của anh khi cô ở Wilmington lần trước, xua đuổi những ý nghĩ u ám đã quấy rầy anh khi cô vắng mặt.
Khi ngày mát dần và mặt trời lặn xuống dưới rặng cây, Theresa và Garrett dừng lại để mua một chút đồ ăn Mexico về nhà cô. Ngồi trên sàn phòng khác dưới ánh nến, Garrett nhìn khắp căn phòng.
“Nhà em đẹp thật,” anh nói, xúc ít đậu bằng miếng bánh bắp giòn. “Không hiểu sao, anh cứ ngỡ nó nhỏ hơn thế này cơ. Nó to hơn cả nhà anh.”
“Chỉ hơn chút thôi, nhưng cảm ơn anh. Nó vừa với mẹ con em. Nó thật sự tiện lợi cho mọi việc.”
“Như là gần các nhà hàng!”
“Chính xác. Em không nói đùa đâu, em đã bảo với anh là em không thích nấu nướng mà. Em không hẳn là một Martha Steward đâu.”
“Ai cơ?”
“Không có gì,” cô nói.
Bên ngoài căn hộ của cô, tiếng xe cộ nghe vẫn rõ rệt. Một chiếc xe rít lên dưới phố, một tiếng còi vang lên om sòm, và đột nhiên bầu không khí tràn ngập tiếng ồn khi những chiếc xe khác cũng tham gia vào bản đồng ca.
“Nó vẫn luôn yên tĩnh thế này à?” anh hỏi.
Cô hất cằm về phía mấy cái cửa sổ. “Tối thứ Sáu và thứ Bảy là tệ nhất, chứ thường thì nó không đến nỗi thế. Nhưng sống ở đây đủ lâu thì anh sẽ quen thôi.”
Những âm thanh của cuộc sống đô thị vẫn tiếp nối. Một tiếng còi báo động vang lên ở đằng xa, dần dần trở nên to hơn khi tiến lại gần.
“Em có muốn bật nhạc lên chút không?” Garrett hỏi.
“Có. Anh thích loại nhạc nào?”
“Anh thích cả hai loại,” anh nói, ngừng lại một cách rất kịch. “Nhạc đồng quê và nhạc cao bồi.”
Cô bật cười. “Em chẳng có thứ gì như vậy ở đây cả.”
Anh lắc đầu, thưởng thức trò đùa của chính mình. “Anh đùa đấy. Trò này xưa rồi. Không buồn cười lắm, nhưng anh chờ bao năm mới có cơ hội để nói đấy.”
“Hẳn là hồi còn bé anh đã xem quá nhiều phim Hee-Haw.”
Giờ thì đến lượt anh bật cười.
“Trở lại với câu hỏi đầu tiên - anh thích loại nhạc nào?” cô gặng hỏi.
“Bất cứ loại gì em có đều được.”
“Trở lại với câu hỏi đầu tiên - anh thích loại nhạc nào?” cô gặng hỏi.
“Bất cứ loại gì em có đều được.”
“Nhạc jazz được không?”
“Nghe hay đấy.”
Theresa đứng dậy chọn một cái đĩa mà cô nghĩ có lẽ anh sẽ thích và đẩy vào đầu CD. Giây lát sau, nhạc vang lên, đúng lúc sự ùn tắc ngoài đường có vẻ như đã thông.
“Vậy cho đến lúc này anh thấy Boston thế nào?” cô hỏi, trở lại chỗ ngồi của mình.
“Anh thích nó. Với một thành phố lớn, nó cũng không tệ lắm. Có vẻ như nó không vô cảm như anh tưởng, và cũng sạch sẽ nữa. Anh vốn hình dung nó khác cơ. Em biết đấy - những đám đông, nhựa đường, cao ốc, không một bóng cây, và ở góc phố nào cũng có bọn trấn lột. Nhưng nó không hề giống như vậy.”
Cô mỉm cười. “Nó đẹp phải không nào? Ý em là tuy không phải là miền duyên hải nhưng nó có nét hấp dẫn riêng đấy chứ. Nhất là, anh phải xem thành phố này đem đến những gì cơ. Anh có thể đi xem hòa nhạc, hoặc đi thăm viện bảo tàng, hoặc chỉ là đi dạo ở các công viên. Ở đây ai cũng đều tìm được thứ gì đó cho mình - người ta còn có cả một câu lạc bộ thuyền buồm nữa.”
“Anh có thể hiểu vì sao em lại thích ở đây,” anh nói, tự hỏi tại sao nghe như thể cô đang quảng cáo cho chỗ này vậy.
“Vâng. Cả Kevin cũng thích.”
Anh chuyển chủ đề. “Em bảo là nó đi hội trại bóng đá à?”
Cô gật đầu. “Vâng. Nó đang thi vào một đội tuyển bóng dành cho lứa tuổi mười hai trở xuống. Em không biết liệu nó có vào được không, nhưng nó nghĩ là nó sút khá tốt. Năm ngoái, nó đã lọt vào tới vòng cuối với độ tuổi mười một.”
“Nghe có vẻ như nó chơi tốt.”
“Đúng thế,” cô nói, gật đầu. Cô đẩy hai cái đĩa giờ đã sạch nhẵn của họ sang bên và dịch sát lại. “Nhưng nói về Kevin thế là đủ rồi,” cô dịu dàng nói. “Chúng ta không nhất thiết lúc nào cũng nói về thằng bé. Chúng ta có thể nói về những chuyện khác nữa mà.”
“Như là gì?”
Cô hôn lên cổ anh. “Như là chuyện mà em muốn làm với anh ngay bây giờ, khi em đang có anh cho riêng mình.”
“Em có chắc là em chỉ muốn nói về chuyện đó không?”
“Anh nói đúng,” cô thì thầm. “Ai lại muốn nói chuyện vào lúc như thế này chứ?”
Ngày hôm sau, Theresa lại đưa Garrett đi thăm Boston, họ dành phần lớn buổi sáng trong khu người Ý ở North End, đi dạo qua những con phố hẹp, ngoắt ngoéo, thỉnh thoảng dừng lại để mua bánh cannoli và cà phê. Mặc dù biết chính xác công việc của cô đòi hỏi điều gì khác nữa. Anh hỏi cô về chuyện đó trong lúc họ thong dong đi khắp thành phố.
“Em không viết bài ở nhà được à?”
“Trong tương lai, em nghĩ là em có thể. Nhưng ngay bây giờ thì không được.”
“Tại sao không?”
“Ừm. Trước hết là vì hợp đồng của em không phải như vậy. Hơn nữa, em phải làm nhiều việc hơn là ngồi trước máy tính và viết. Thường thì em phải phỏng vấn người ta, nên cũng phải có thời gian cho việc đó - có khi còn phải đi đi lại lại. Ngoài ra, em còn phải tiến hành nghiên cứu đủ loại, nhất là khi viết về những vấn đề y học hay tâm lý học, mà ở văn phòng thì em có thể tiếp cận được với nhiều nguồn thông tin hơn. Rồi thì thực tế là em cần một nơi mà người ta có thể tìm được em. Nhiều vấn đề em viết cũng là mối quan tâm của mọi người nên người ta gọi tới cho em suốt. Nếu làm việc tại nhà, em biết sẽ có nhiều người gọi tới vào buổi tối khi em đang ở cùng Kevin, mà em thì không muốn để mất thời gian ở bên con.”
“Bây giờ em có phải nhận điện thoại ở nhà không?”
“Thỉnh thoảng. Nhưng số điện thoại nhà riêng của em không bị đưa vào danh bạ, nên cũng không thường xuyên lắm.”
“Em có phải nhận những cuộc gọi điên rồ không?”
Cô gật đầu. “Em nghĩ là tất cả những người viết bài chuyện mục đều bị thế. Nhiều người gọi cho tòa báo với những câu chuyện mà họ muốn được đăng. Em nhận được cuộc gọi về những người đang bị giam trong tù không đáng, em nhận được cuộc gọi về các dịch vụ của thành phố và về chuyện rác không được thu dọn đúng giờ. Em nhận được cuộc gọi về tội ác ngoài đường phố. Có vẻ như em nhận được điện thoại về đủ thứ chuyện trên đời.”
“Anh tưởng em bảo em viết về việc làm cha mẹ thôi cơ mà.”
“Đúng thế.”
“Thế thì tại sao họ lại gọi cho em? Sao họ không gọi cho người khác?”
Cô nhún vai. “Em chắc là họ có làm thế, nhưng điều đó vẫn không ngăn được họ gọi cho em. Nhiều người bắt đầu cuộc điện thoại bằng câu, ‘Chẳng có ai chịu nghe tôi nói cả và cô là hy vọng cuối cùng của tôi.’ ” Cô liếc nhìn anh trước khi nói tiếp. “Em đoán là họ nghĩ em sẽ có thể làm được gì đó với những vấn đề của họ.”
“Tại sao?”
“Ừm, nhưng người viết bài chuyên mục thì khác với những người viết báo khác. Hầu hết những gì được đăng trên báo đều vô cảm - số liệu và sự kiện, thông tin rõ ràng, kiểu như thế. Nhưng nếu người ta đọc chuyện mục của em hằng ngày, em đoán là họ nghĩ họ hiểu em. Họ bắt đầu xem em kiểu như một người bạn. Và người ta tìm tới bạn bè để giúp khi người ta cần.”
“Điều đó thỉnh thoảng hẳn khiến em khó xử nhỉ.”
Cô nhún vai. “Đúng thế, nhưng em cố không nghĩ tới nó. Hơn nữa, cũng có những phần tốt đẹp trong công việc của em - cung cấp thông tin mà người ta cần sử dụng, cập nhật thông tin y học mới nhất và giải thích bằng ngôn ngữ thông dụng, thậm chí chia sẻ những mẩu chuyện vui chỉ để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút.”
Garrett dừng lại ở một cửa hàng bán hoa quả tươi trên vỉa hè. Anh nhặt hai quả táo trong thùng lên đưa cho Theresa.
“Bài nổi tiếng nhất em từng viết trong chuyện mục của em là gì?” anh hỏi.
Theresa cảm thấy nghẹt thở. Bài nổi tiếng nhất? Dễ thôi - có lần em nhặt được một lá thư trong chai, và em đã nhận được mấy trăm thư.
Cô ép mình phải nghĩ về chuyện gì đó khác. “À… em đã nhận được rất nhiều thư khi em viết về việc dạy trẻ khuyết tật,” cuối cùng cô nói.
“Bài đó hẳn là đáng đọc lắm,” anh nói, trả tiền cho người bán hàng.
“Vâng.”
Trước khi cắn miếng táo đầu tiên, Garrett hỏi: “Em vẫn có thể viết chuyên mục của mình dù đổi tòa báo chứ?”
Cô suy ngẫm về câu hỏi đó. “Sẽ khó đấy, nhất là nếu em lại muốn tiếp tục cung cấp bài cho nhiều báo cùng đăng một lúc. Vì em còn là người mới và vẫn đang gây dựng tên tuổi, có tời Thời báo Boston hỗ trợ phía sau sẽ giúp ích cho em nhiều. Nhưng sao?”
“Anh chỉ tò mò thôi,” anh hỏi khẽ.
Sáng hôm sau, Theresa đi làm vài tiếng nhưng tạt về nhà sau bữa trưa một lát. Buổi chiều họ đến công viên Boston, ăn bữa trưa kiểu picnic ở đó. Bữa trưa của họ bị ngắt quãng hai lần bởi những người nhận ra cô qua ảnh trên báo, và Garrett nhận ra rằng Theresa thật sự nổi tiếng hơn anh tưởng.
“Anh không biết rằng em là một ngôi sao cơ đấy,” anh nói vẻ chế giễu sau khi người thứ hai đi khỏi.
“Em không hẳn là một ngôi sao. Chỉ là ảnh của em đăng ở trên chuyên mục, vì thế người ta mới biết mặt em.”
“Chuyện như thế này có hay xảy ra không?”
“Không nhiều lắm. Có lẽ vài lần một tuần.”
“Thế là nhiều rồi,” anh nói, vẻ kinh ngạc.
Cô lắc đầu. “Không nhiều nếu anh để ý so sánh với những ngôi sao thực thụ. Họ thậm chí còn không thể tới cửa hàng mà không bị ai đó chụp ảnh. Em còn có một cuộc sống khá là bình thường rồi đấy.”
“Nhưng có những người hoàn toàn xa lạ đến gần em thì vẫn kỳ kỳ thế nào ấy.”
“Thật ra thì cũng khá thích đấy. Hầu hết mọi người đều cư xử khá dễ chịu.”
“Dù thế nào thì anh cũng mừng là anh không biết em nổi tiếng đến thế ngay từ đầu.”
“Tại sao?”
“Có lẽ anh đã sợ đến mức chẳng dám mời em đi thuyền cùng.”
Cô đưa tay ra nắm lấy tay anh. “Em không thể tưởng tượng nổi là anh có thể sợ bất cứ thứ gì.”
“Thế thì em chưa hiểu anh lắm rồi.”
Cô im lặng một lát. “Thật sự là anh sẽ sợ hãi à?” cô hỏi bẽn lẽn.
“Có lẽ.”
“Tại sao?”
“Anh đoán là anh sẽ tự hỏi một người như em thì thấy gì ở anh chứ?”
Cô ngả qua hôn anh. “Em sẽ nói cho anh biết điều mà em thấy nhé. Em thấy người đàn ông em yêu, người đàn ông làm cho em hạnh phúc…. Người mà em cứ muốn nhìn thấy mãi thôi.”
“Sao em lại luôn biết phải nói gì thế nhỉ?”
“Vì,” cô nói khẽ, “em hiểu anh nhiều hơn là anh có thể ngờ tới.”
“Ví dụ?”
Một nụ cười uể oải thoáng qua môi cô. “Ví dụ như, em biết anh lại đang muốn em hôn anh.”
“Thật à?”
“Đương nhiên.”
Và cô đoán đúng.
Tới buổi tối, Garrett nói, “Em biết không, Theresa, anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả.”
Họ đang nằm trong bồn tắm cùng nhau, giữa đống bọt khổng lồ, Theresa ngả vào ngực anh. Anh vừa nói vừa dùng một miếng bọt biển để kỳ cọ cho cô.
“Câu đó phải được hiểu như thế nào?” cô hỏi vẻ tò mò, quay đầu lại nhìn anh.
“Như anh vừa nói thôi. Anh không tìm ra được khuyết điểm nào ở em cả. Ý anh là, em thật hoản hảo.”
“Em không hoàn hảo đâu, Garrett,” cô nói, nhưng vẫn thấy hài lòng.
“Nhưng đúng là thế mà. Em đẹp, em tử tế, em khiến anh cười, em thông minh, và em cũng một người mẹ tốt nữa. Thêm cả việc em nổi tiếng nữa thì anh không nghĩ là có ai sánh nổi em.”
Cô vuốt ve cánh tay anh, tựa vào anh nghỉ ngơi. “Em nghĩ là anh nhìn em qua lăng kính màu hồng mất rồi. Nhưng em thích thế…”
“Em định bảo là anh thiên vị à?”
“Không - nhưng tới giờ anh chỉ thấy mặt tốt của em thôi.”
“Anh không biết là em còn có mặt khác nữa kia,” anh nói, cùng lúc siết chặt hai cánh tay cô. “Ngay lúc này thì có cảm giác là cả hai mặt đều tốt cả.”
Cô bật cười. “Anh hiểu ý em muốn nói gì mà. Anh vẫn chưa thấy những mảng tối trong con người em đâu.”
“Em chẳng có mảng tối nào cả.”
“Chắc chắn là em có chứ. Ai chẳng có. Chỉ là khi anh ở bên thì nó thích ẩn mình đi thôi.”
“Thế thì em mô tả mảng tối của em xem nào?”
Cô nghĩ một lát. “Ừm, trước hết, em là người bướng bỉnh, và em có thể trở nên nhỏ nhen khi cáu giận. Lúc đó em thường mắng mỏ và nói ra điều đầu tiên nảy ra trong đầu, và tin em đi, nó chẳng đẹp đẽ chút nào đâu. Em cũng có xu hướng nói với người khác chính xác điều mà em đang nghĩ, ngay cả khi em biết tốt nhất là nên bỏ đi.”
“Thế nghe cũng đâu tệ lắm.”
“Chẳng qua anh chưa phải là người hứng chịu thôi.”
“Nghe vẫn chưa có gì là tệ lắm.”
“Ừm… để em diễn tả thế này nhé. Lần đầu tiên chất vấn David về chuyện ngoại tình, em đã gọi anh ta bằng một vài cái tên tệ hại nhất trong tiếng Anh.”
“Anh ta đáng bị thế mà.”
“Nhưng em không chắc là anh ta đáng bị hứng cả một cái lọ hoa ném vào người.”
“Em đã làm thế à?”
Cô gật đầu. “Anh phải nhìn thấy bộ mặt của anh ta cơ. Anh ta chưa từng thấy em như thế bao giờ.”
“Thế anh ta làm gì?”
“Chẳng làm gì cả - em nghĩ là anh ta sốc đến mức không làm được gì. Nhất là khi em bắt đầu xông vào đống đĩa. Đêm đó em đã ném gần như sạch sẽ cả cái tủ bát.”
Anh toét miệng cười ngưỡng mộ. “Anh không biết là em lại nóng tính đến thế đấy.”
“Là do em lớn lên ở miền Trung Tây mà. Đừng có chọc giận em, lãnh đủ đấy.”
“Anh sẽ không đâu.”
“Thế là tốt. Dạo này em càng lúc càng ném chính xác đấy.”
“Anh sẽ nhớ điều đó.”
Họ chìm sâu hơn xuống làn nước ấm. Garrett vẫn tiếp tục chà miếng bọt biển khắp người cô.
“Anh vẫn nghĩ là em hoản hảo,” anh nói dịu dàng.
Cô nhắm mắt lại. “Kể cả có mảng tối trong con người em?” cô hỏi.
“Nhất là với mảng tối trong con người em. Nó tăng thêm một yếu tố kích thích.”
“Em rất vui, vì em nghĩ anh cũng khá là hoàn hảo.”
Quãng thời gian còn lại của kỳ nghỉ cứ thế trôi qua. Vào buổi sáng, Theresa sẽ đi làm vài tiếng rồi về nhà, 310c dành buổi chiều và buổi tối ở bên Garrett. Buổi tối, họ sẽ gọi món gì đó về nhà ăn hoặc đi tới một trong số nhiều nhà hàng nhỏ gần căn hộ của cô. Đôi khi họ thuê một cuốn phim về nhà xem, nhưng thường thì họ thích dành khoảng thời gian đó bên nhau mà không bị những thứ khác làm mất tập trung.
Tối thứ Sáu khi Kevin gọi về từ hội trái bóng đá. Nó phấn khởi kể rằng nó đã được nhận vào đội tuyển. Dù như thế có nghĩa là sẽ có nhiều trận đấu diễn ra ở ngoài Boston hơn và họ sẽ phải đi xa hầu hết các kỳ nghỉ cuối tuần, Theresa vẫn thấy mừng cho con. Rồi Kevin đòi nói chuyện với Garrett làm Theresa sửng sốt. Garrett lắng nghe trong lúc thằng bé miêu tả những gì đang diễn ra trong tuần đó và chúc mừng nó. Sau khi cúp máy, Theresa mở một chai rượu vang và hai người cùng chúc mừng cho vận may của Kevin mãi tới tận lúc sáng sớm.
Vào sáng Chủ nhật - ngày anh về - họ ăn nhẹ với Deanna và Brian. Garrett thấy ngay điều đã khiến Theresa yêu quý Deanna. Bà vừa duyên dáng vừa vui vẻ, và Garrett cười suốt bữa ăn. Deanna hỏi anh về chuyện lặn và lái thuyền buồm, trong khi Brian suy ngẫm rằng nếu ông mà có một công ty riêng thì ông sẽ không bao giờ làm được trò trống gì vì việc đánh golf đã choán hết cả cuộc sống của ông rồi.
Theresa thấy hài lòng khi họ có vẻ khá hòa hợp. Sau khi ăn xong, Deanna và Theresa cáo lỗi cùng đi vào nhà vệ sinh để tám chuyện.
“Vậy, bà thấy sao?” Theresa khấp khởi hỏi.
“Anh ta tuyệt lắm,” Deanna thừa nhận. “Trông anh ta thậm chí còn ưa nhìn hơn cả trong những bức ảnh mà cô mang về.”
“Tôi biết. Mỗi lần nhìn anh ấy là tim tôi lại lỡ mất một nhịp đấy.”
Deanna vuốt tóc làm dáng, cố sức làm cho nó phồng lên một chút. “Tuần vừa rồi của cô có tốt như mong đợi không?”
“Còn tốt hơn ấy chứ.”
Deanna cười toe toét. “Qua cách anh ta nhìn cô, tôi có thể nhận thấy anh ta cũng thật sự quan tâm đến cô. Cách hai người hành xử làm tôi nhớ tới Brian và tôi. Hai người quả là đẹp đôi đấy.”
“Bà thấy thế thật à?”
“Tôi sẽ không nói thế nếu tôi không thật lòng nghĩ thế.”
Deanna lấy một thỏi son ra khỏi túi xách và bắt đầu tô. “Vậy, anh ta thấy Boston thế nào?” bà hỏi không khách sáo.
Theresa cũng lấy thỏi son của mình ra. “Anh ấy không quen với nó, nhưng có vẻ anh ấy cũng thấy thích. Chúng tôi đã tới rất nhiều địa điểm thú vị.”
“Anh ta có nói gì cụ thể không?”
“Không… mà tại sao cơ?” Cô nhìn Deanna tò mò.
“Vì,” Deanna điềm tĩnh trả lời, “tôi chỉ tự hỏi là liệu anh ta có nói gì khiến cô nghĩ anh ta sẽ chuyển tới đấy sống nếu cô đề nghị không.”
Lời bình luận của Deanna khiến Theresa nghĩ tới vấn đề mà cô đang lảnh tránh.
“Chúng tôi vẫn chưa nói gì tới chuyện đó,” cuối cùng cô đáp.
“Cô có định làm thế không?”
Khoảng cách giữa chúng ta là một vấn đề, nhưng vẫn còn có thứ gì đó khác nữa, đúng không? Cô nghe thấy giọng nói bên trong thì thầm.
Không muốn nghĩ về chuyện đó, cô lắc đầu. “Tôi nghĩ giờ không phải là lúc - ít nhất là chưa.” Cô ngừng lại, trấn tĩnh. “Ý tôi là - tôi biết sẽ có lúc phải nói về chuyện này, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đã hiểu nhau đủ lâu để bắt đầu có quyết định cho tương lai. Chúng tôi vẫn còn đang trong giai đoạn tìm hiểu mà.”
Deanna nhìn cô với ánh mắt ngờ vực của một bà mẹ. “Nhưng cô đã biết anh ta đủ lâu để yêu cơ mà, phải không?”
“Vâng,” Theresa thừa nhận.
“Thế thì cô phải biết rằng quyết định đó sẽ đến, dù cô có muốn đối diện với nó hay không.”
Một lúc sau cô mới trả lời. “Tôi biết.”
Deanna đặt tay lên vai Theresa. “Nếu như kết cuộc là phải chọn việc hoặc mất anh ta hoặc phải rời Boston thì sao?”
Theresa ngẫm nghĩ về câu hỏi đó và những hàm ý của nó. “Tôi không biết nữa,” cô nói khẽ và nhìn Deanna vẻ lưỡng lự.
“Tôi cho cô một lời khuyên nhé?” Deanna bảo.
Theresa gật đầu. Deanna nắm cánh tay cô dắt ra khỏi nhà vệ sinh, ghé sát tai cô để không ai nghe được.
“Dù quyết định làm gì thì hãy nhớ là cô phải tiến được lên trong cuộc đời mà không phải ngoái nhìn lại. Nếu cô chắc chắn rằng Garrett có thể đem lại cho cô thứ tình yêu mà cô cần và rằng cô sẽ hạnh phúc, thì cô phải làm bất cứ điều gì để giữ lấy anh ta. Tình yêu đích thực rất hiếm hoi, và đó là điều duy nhất đem lại ý nghĩa thật sự cho cuộc sống.”
“Nhưng điều tương tự không áp dụng với anh ấy sao? Anh ấy không nên sẵn sàng hy sinh ư?”
“Có chứ.”
“Thế thì điều đó sẽ dẫn tôi tới đâu?”
“Nó sẽ dẫn cô tới vấn đề mà cô đã có từ trước, Theresa ạ - một vấn đề mà dứt khoát là cô sẽ phải nghĩ tới.”
Hai tháng sau, tình yêu xa của họ bắt đầu tiến triển theo cách mà cả Theresa và Garrett đều không ngờ tới mặc dù cả hai lẽ ra đều phải thấy trước.
Điều chỉnh trên lịch làm việc của mỗi người, họ gặp được nhau thêm hai ba lần nữa, mỗi lần là một kỳ nghỉ cuối tuần. Một lần, Theresa bay xuống Wilmington để họ có thể ở riêng với nhau, và họ dành thời gian nằm lì ở nhà Garrett, ngoại trừ một buổi tối đi thuyền ra biển. Garrett đi tới Boston hai lần, phần lớn thời gian ở trên đường đi xem giải đấu loại bóng đá của Kevin, dù anh không hề thấy phiền. Đó là những trận đấu bóng đầu tiên mà anh được xem trực tiếp, và anh thấy mình say mê hơn vẫn tưởng.
“Sao em lại không phấn khích anh anh nhỉ?” anh hỏi Theresa trong một phút điên cuồng trên sân thi đấu.
“Sao anh không đợi đến lúc xem xong mấy trăm trận hãy hỏi, tới lúc đó em chắc chắn là anh có thể trả lời câu hỏi của chính mình đấy,” cô đáp vẻ đùa bỡn.
Khi họ ở bên nhau trong suốt những kỳ nghỉ cuối tuần đó, dường như chẳng còn chuyện gì khác trên đời quan trọng nữa. Thường thì Kevin sẽ ở lại nhà một người bạn nào đó một đêm để họ có thể ở riêng với nhau, ít ra là một chút. Họ trò chuyện và cười cợt hàng tiếng đồng hồ, ôm riết lấy nhau, làm tình, cố bù đắp cho mấy tuần xa cách. Nhưng cả hai đều không đả động gì đến chủ đề tương lai mối quan hệ của họ sẽ đi đến đâu. Họ sống với từng khoảnh khắc, không ai biết phải kỳ vọng ở người kia chính xác điều gì. Không phải vì họ không yêu nhau. Ít ra, đó là điều mà họ có thể chắc chắn.
Nhưng vì họ không gặp nhau thường xuyên nên quan hệ của họ trải qua nhiều biến động hơn so với những trải nghiệm trước kia. Khi họ ở bên nhau, mọi chuyện đều có vẻ đúng đắn thì khi xa nhau mọi thứ đều có cảm giác như là sai trái. Đặc biệt là Garrett, anh thấy mình vật vã với vấn đề khoảng cách giữa hai người. Thường thì những cảm xúc tốt lành mà anh cảm thấy khi họ gặp nhau kéo dài được thêm vài ngày nữa, nhưng sau đó anh thấy mình càng lúc càng trở nên chán nản như đã lường đến trong những tuần trước khi gặp lại cô.
Đương nhiên là anh muốn họ dành thời gian ở bên nhau nhiều hơn có thể. Giờ đây, khi mùa hè đã qua, anh đi dễ dàng hơn cô. Dù hầu hết nhân viên đã nghỉ nhưng cũng chẳng có nhiều việc phải làm ở cửa hàng. Còn lịch làm việc của Theresa lại khác hẳn, chủ yếu là vì Kevin. Thằng bé đã đi học trở lại, nó có những trận thi đấu vào ngày nghỉ cuối tuần, và cô rất khó dứt ra được dù chỉ vài ngày. Mặc dù Garrett sẵn lòng tới Boston để gặp cô nhiều hơn, nhưng đơn giản là Theresa không có thời gian. Hơn một lần anh đã đề nghị tới thăm cô, nhưng vì lý do này hay lý do khác mà chuyện không thành.
Thật ra anh cũng biết có vài cặp còn phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn hơn họ nhiều. Bố anh từng kể có những khi bố mẹ anh không được nói chuyện với nhau mấy tháng trời. Ông sang Triều Tiên và sống hai năm trên biển, và khi nghề đánh bắt tôm gặp khó khăn, ông thường tìm việc làm trên những chiếc tàu chuyên chở hàng đi ngang qua trên đường tới Nam Mỹ. Đôi khi, những chuyến đi như vậy kéo dài hàng tháng. Phương tiện duy nhất mà bố mẹ anh có hồi đó là thư từ, cũng hiếm khi nhận được. Garrett và Theresa thì đỡ khó khăn hơn một chút, nhưng điều đó cũng chẳng làm sự việc trở nên dễ dàng.
Anh biết khoảng cách giữa họ chính là vấn đề, nhưng có vẻ như chuyện đó sẽ không thay đổi trong tương lai gần. Anh thấy chỉ có hai cách - hoặc anh chuyển lên đó hoặc cô chuyển về đây. Dù anh nhìn nhận chuyện đó như thế nào - và dù có quan tâm tới nhau đến đâu - thì rốt cuộc nó vẫn dẫn tới một trong hai lựa chọn đó.
Trong thâm tâm, anh ngờ rằng Theresa cũng đang có cùng suy nghĩ như anh, đấy là lý do tại sao không ai muốn nói về chuyện đó. Có vẻ như không đả động gì đến nó thì dễ hơn, vì như thế sẽ có nghĩa là bắt đầu đi vào con đường mà cả hai đều không chắc họ muốn đi.
Một trong hai người sẽ phải thay đổi cuộc sống của họ một cách đột ngột.
Nhưng là ai?
Anh có công việc làm ăn của mình ở Wilmington, một cuộc sống mà anh muốn sống, cuộc sống duy nhất mà anh biết cách sống. Đến chơi Boston thì thích thật, nhưng đó không phải là nhà. Thậm chí anh chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ tới sống ở một nơi nào khác. Và ở đó còn có bố anh nữa - tuổi ông ngày một cao, và dù bề ngoài có vẻ khỏe mạnh nhưng tuổi tác đang bắt kịp ông và Garrett là tất cả những gì ông có.
Mặt khác, Theresa gắn bó chặt chẽ với Boston. Dù bố mẹ cô sống ở một nơi khác, nhưng Kevin đang được học ở trường mà nó thích, sự nghiệp của cô ở một tờ báo lớn lại đang lên như diều gặp gió, và cô có một mạng lưới bạn bè mà cô sẽ phải tử bò. Cô đã làm việc vất vả để có được địa vị như ngày hôm nay, và nếu rời Boston thì cô sẽ phải từ bỏ nó. Cô có thể làm được chuyện đó mà không oán trách anh vì những gì anh bắt cô phải làm không?