Trang viện thâm trầm, buổi hoàng hôn.
Cuối đông tuyết tạnh.
Ngoài hiên mưa nhẹ giăng ướt cây ngô đồng, từng giọt từng giọt từ cành lá nhỏ xuống “tích tích”, rơi thẳng vào lòng người sầu muộn.
Trong phòng ấm áp như đương xuân.
Lò sưởi vừa được nhét đầy than hồng la hương, than bắt lửa cháy, phát ra tiếng tí tách nghe khoan khoái.
Hồng thúc ngồi lặng lẽ trên một chiếc ghế cạnh giường; mặt mày buồn rầu nhìn bóng người áo tuyền một màu trắng đang ngồi tựa giường ẩn sau lớp rèm lụa đỏ.
Sau khi Hà Y qua đời, người sau rèm trở lại trầm mặc như ngày trước.
Mỗi đêm, sau khi làm xong công việc một ngày, chàng đều uống một chút rượu, sau đó, ngồi tựa ở đầu giường, ngắm nhìn ngọn lửa phập phù phiêu động của cây nến màu bạc đặt trên chiếc kỷ nhỏ, cứ thế cho tới nửa đêm mới đặt mình xuống.
Trước đây, lúc chàng một mình ở trong trang viện này, không ai biết được rốt cuộc chàng thức qua những đêm dài dằng dặc ấy như thế nào.
Chàng chỉ là ngồi bất động, ngồi tới đờ ra, tựa như bản thân là một đồ vật trong gian phòng.
Cái ảo giác đáng cười kia vẫn thường phát sinh, dần dần dường như càng ngày càng nghiêm trọng. Sau khi nhận ra, chàng càng trầm mặc hơn nhưng lại thường không nén nổi mà cảm thấy hoang mang.
Mọi người đều biết, trong nội tâm chàng đang lẩm nhẩm tự nói chuyện một mình, giống như Hà Y vẫn đang ở bên cạnh.
Thứ khiến người ta khóc cười không xong chính là chiếc rương chứa tất cả di vật cùa Hà Y.
Mỗi khi tới đêm khuya người vắng, bản thân say khướt, chàng đều sẽ kéo dây chuông, sai người nạy chiếc rương ấy ra, hết lần này tới lần khác mân mê từng vật trong đó.
Hôm sau tỉnh rượu, chàng sẽ lại gọi thợ mộc tới đóng lại rương, lại còn sai ông ta “tăng thêm một cái khóa”.
Kế đến, hình như sợ bản thân không kiềm chế được, chàng chạy tới bên hồ, ném hết chìa khóa xuống nước.
Chẳng được bao lâu, lại là một ngày rượu say nào đó, chàng sẽ lặp lại những hành động trên.
Đến hôm sau, khóa trên rương đã thành ba chiếc, bốn chiếc... sáu chiếc.
Dần dần, đến một lần sau chót, thợ mộc nhận ra nắp nương đã hoàn toàn thủng lỗ chỗ, chẳng thế đóng thêm khóa mới vào nữa, đành ngập ngừng kiến nghị:
“Cốc chủ, không cách nào thay khóa nữa, nắp rương đã tã hết rồi.”
“Vậy thì đổi rương khác”, Mộ Dung Vô Phong nói.
Bác thợ mộc gom hết dũng khí, lại nói thêm một câu: “Tôi thấy không bằng kiếm thợ rèn làm chiếc rương này thành rương sắt, sau đó nghĩ cách vĩnh viễn niêm chặt nắp lại. Như thế, ngài cũng chẳng có cách nào mở được nó ra nữa”.
“Ừm, nói có lý”, Mộ Dung Vô Phong nhìn ông ta một cái, đôi mày nhướng lên “Có điều, ta vẫn thích rương gỗ”.
Bác thợ mộc nhìn chàng chẳng biết phải làm sao, trong lòng thở dài, bệnh của người này bao giờ mới có thế tốt lên?
* * *
Đã chẳng nhớ nổi lần cuối cùng bản thân uống rượu như thế này là từ bao giờ.
Chỉ nhớ được đó là một buổi hoàng hôn.
Tịch dương rực rỡ, sen trên hồ nở rộ.
Chàng ngồi trong tiểu đình, cảm thấy không chịu nổi mỹ cảnh truớc mắt.
Đành nhanh chóng chạy về phòng, vội vàng mở bình rượu, ngửa đầu dốc xuống.
Bây giờ, hoàng hôn lại tới.
Chàng xua tất cả người bên cạnh đi.
Nén chịu cơn đau thấu xương, cắn răng rót cho mình đầy một chén rượu.
Chàng uống không nhanh, chỉ muốn hưởng thụ từng chút men say của rượu.
Giờ này bất kể chàng làm gì đều không muốn người bên cạnh trông thấy.
Nốc một ngụm lớn, trong đầu bắt đầu nóng lên, cả cơ thể cứ phiêu phiêu như muốn bay bổng.
Chàng nhắm mắt lại, lặng lẽ hưởng thụ thời khắc tự do hiếm có này.
Cho dù đấy chỉ là ảo giác.
Ngồi một mình rất lâu, ánh nến trên kỷ mờ mịt đi, dường như có một cơn gió nhẹ từ ngoài cửa sổ lùa vào.
Cùng lúc ấy chàng nghe có tiếng gõ cửa.
Tiếng gõ cửa rất khách khí, lịch sự.
Chỉ có ngưòi lạ hiểu lễ độ mới có thế gõ cửa như thế.
Chàng chớp mắt, cố hết sức muốn lôi bản thân ra khỏi ảo giác.
Hai bóng người cao lớn lặng lẽ không một tiếng động đi tới bên giường chàng.
Chàng miễn cưỡng ngồi dậy, tựa lưng vào gốì, đưa ánh mắt mông lung say xỉn nhìn người vừa tới, thầm nghĩ: sao trong cốc đi thuê bao nhiêu cao thủ như thế, người Đường môn vẫn cứ có thể tự do ra vào.
Đường Tiềm cung kính lễ độ nói: “Đang đêm tìm đến, quả thật không cố ý làm phiền, đúng là có việc gấp cần thỉnh giáo”.
“Có việc gì vậy”
“Có bệnh nhân tính mạng nguy cấp, muốn xin tiên sinh ra tay chữa trị.”
“Chỉ sợ các hạ phải đợi một ngày. Trong cốc có quy định, người trọng bệnh thì lấy thứ tự vào cốc trước sau mới lần lượt chữa trị. Hôm nay tất cả đại phu đều rất bận”, Mộ Dung Vô Phong từ tốn nói.
... Tuy không hề thăm khám, y vụ mỗi ngày đều do một tay chàng sắp xếp, trong tay ai có bệnh nhân gì, chàng đều nắm rất rõ ràng.
“Cho nên chúng tôi chỉ đành tới tìm ngài”, Đường Tiềm một câu áp tới, “Hình như ngài không bận lắm”.
... Há chỉ không bận, chàng lại còn có cả thời gian nhàn rỗi uống rượu.
Trong phòng nồng nặc mùi rượu.
Nhìn hắn ngạc nhiên và chẳng biết phải làm sao, Mộ Dung Vô Phong đành nói: “Người ở đâu?”.
Đường Bồng nói: "Chúng tôi đã đưa hắn vào phòng khám của ngài”.
Chàng cười lạnh: “Hai vị đúng là tỏ tường Trúc Ngô viện như lòng bàn tay”.
Đường Tiềm không biến sắc đáp: “Quá khen”.
Tình trạng của Mộ Dung Vô Phong còn xấu hơn Đường Tiềm, Đường Bồng tưởng tượng.
Chàng còn không thể tự mình rửa tay.
Đường Bồng đành rửa tay thật kỹ cho chàng.
Kế đó, hắn lại phát hiện cánh tay của Mộ Dung Vô Phong không sao nhấc cao được, đành nhấc tay trái chàng đặt lên cổ tay Mộc Huyền Hư.
Ngón tay thon dài ấn khẽ lên mạch của bệnh nhân, Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu hỏi Đường Tiềm: “Người này là do ngươi đả thương?”.
Đường Tiềm hơi lúng túng: “Ngài cũng có nghiên cứu về nội công?”.
“Ta rất thành thạo về nội thương”, chàng nói tiếp, “Hắn đã bị đứt một kinh mạch”.
“Ngài muốn nói... võ công của hắn đã bị phế?”, Đường Tiềm lo lắng hỏi.
“Ngươi hạ thủ nặng nhẹ ra sao há lại không bết ư?”
“Nếu không ta đã chẳng tới tìm ngài, đúng không?”, biết bản thân đuối lý, hắn dứt khoát không nói nữa.
“Nói như vậy, ngươi nhất định đã làm sai chuyện gì, nếu không đã chẳng chột dạ như thế, Mộ Đung Vô Phong chẳng chút khách khí.
Nghe câu này, Đường Tiềm cảm thấy hổ khẩu cứng đanh lại, suýt nữa bẻ gẫy cây gậy trúc nắm trong tay, lưỡng lự một lúc rồi hói: “Rốt cuộc ngài có cứu không?”.
“Không chết được đâu, chỉ có chút phiền hà thôi. Hắn cần thời gian một tháng hoàn toàn tĩnh dưỡng dùng thuốc, lại cần một người nội lực thâm hậu giúp hắn điều trị thương thế”
“Tôi có thể giúp hắn”, hắn thở phào một hơi.
“Hiện giờ thương thế hắn quá nặng, lại đang hôn mê bất tỉnh, trước tiên phải nghỉ ngơi bốn ngày mới có thể chữa trị lúc ấy ta tin Điền đại phu có thể ra tay được. Ta sẽ đứng bên xem xét, sẽ không có vấn đề gì.”
“Tốt quá rồi”, Đường Tiềm nói: “Ngài nói thế tôi hoàn toàn yên tâm rồi. Có điều, người này tôi tuyệt không yên tâm để hắn lại Vân Mộng cốc. Cứ như bây giờ có thể nói, hắn không phải người tốt...”.
Lời hắn chưa dứt, Mộ Dung Vô Phong đột nhiên ho khạc dữ dội, tựa như bị sặc đờm, khuôn mặt đỏ bừng lên.
Hai người kia lập tức cuống cả lên, một người giữ lấy chàng, tránh cho chàng ngã xuống. Người kia nhấc ống nhổ dưới đất lên rồi vỗ mạnh một chưởng sau lưng chàng, ép chàng khạc đờm tắc trong phổi ra.
Trầy trật hồi lâu, cơn ho tạm dừng, khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong lại bắt đầu xám tái.
Đường Bồng nói: “Chúng ta phải nhanh nhanh đưa hắn về giường, sắc mặt hắn trông thật đáng sợ”.
Hai người rón rén khiêng chàng về tẩm thất, lại rón rén như phường trộm cắp nhét chàng vào trong chăn. Đúng lúc nghĩ kế sách thì chợt nghe ngoàỉ cửa có tiếng bước chân, kế đó, một giọng nói lạnh lùng vang lên sau lưng họ:
“Hai vị muốn làm gì?”
Đường Bồng quay đầu nhìn, thấy một người áo xanh tuổi độ năm mươi mặt mày thâm trầm nhìn bọn họ, giờ muốn tránh cũng không kịp chỉ đành nói: “Bọn tôi... là bằng hữu của cốc chủ, lần này là cố ý tới thăm hỏi người”.
Người áo xanh hừ lạnh một tiếng, nói: “Bằng hữu của cốc chủ? Cốc chủ trước giờ không có bằng hữu. Thêm nữa, đã là bằng hữu, hà tất không thông báo mà lại lẻn vào?”.
Ông ta bước tới nhìn Mộ Dung Vô Phong đang nằm trên giường rồi thấp giọng nói vài lời bên tai chàng. Mộ Dung Vô Phong nhắm mắt, cũng đáp lại một câu. Thần sắc nguời áo xanh giãn ra, nổi: “Cốc chủ mời hai vị vào thư phòng đợi tạm”.
Hai người ngồi trong thư phòng gần một nén hương mới thấy người áo xanh đưa Mộ Dung Vô Phong tới.
Chàng đã đổi y phục mới, trong phòng rõ ràng đang đốt một cái lò sưởi cao hơn ba thước vậy mà chàng vẫn cảm thấy lạnh, hơn nữa thân thể cuộn trong một tấm chăn lông vuông dày cộp.
Còn Đường Bồng, Đường Tiềm ngồi đối diện chàng thì lại chỉ khoác một tấm áo bào rộng, tuy đã ngồi cách lò suởi tới hơn một trượng nhưng vẫn bị hơi nóng hun cho toàn thân ướt đẫm mồ hôi.
Không biết vì sao, Đường Bồng chỉ cảm thấy thư phòng nội thất toàn bằng gỗ hoa lê nặng nề này chỗ nào cũng âm trầm cứ như một huyệt động thâm u.
Còn chủ nhân của thư phòng thì nhắm mắt ngồi tĩnh lặng, thân thể tàn phế nhưng tư thái lại rất cao quý.
Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong gầy guộc, nhưng đôi mắt thì kiên định, khi nhìn người khác hai mắt nhắm hờ, trong cái nhìn thường mang chút lạnh lùng.
Giọng của chàng rất thấp nhưng rất êm tai, chỉ có điều người thường buộc phải dỏng tai lên mới có thể nghe rõ rốt cuộc chàng đang nói gì.
Chàng rất khách khí với người xa lạ, khách khi tới mức khiến người khác cảm thấy chàng căn bản chẳng muốn quen biết mình.
Người áo xanh nói bên tai Mộ Dung Vô Phong vài câu, tựa như hỏi chàng còn cần gì không. Mộ Dung Vô Phong lắc đầu: “Ta không sao, thúc đi đi”.
Người này rất không yên tâm nhìn Đường Tiêm một cái rồi lặng lẽ rời đi.
Căn phòng lại chìm vào yên lặng.
Vừa trải qua một phen hốt hoảng, mọi người đều quên đi mất bản thân muốn nói gì.
Mộ Dung Vô Phong khẽ ho một tiếng, nói: “Nói tiếp đi, người này rốt cuộc là ai?”.
“Hắn tên là Mộc Huyền Hư. Có lẽ ngài chưa hề nghe qua cái tên này...”
Mộ Dung Vô Phong hơi chau mày, dường như lại đắm mình vào trầm tư, một lúc sau chợt hỏi: “Mộc Huyền Hư... có phải tên hái hoa đại đạo khét tiếng nọ?".
... Xem ra người này vẫn có chút hiểu biết về giang hồ.
Đường Tiềm, Đường Bồng không khỏi đồng thời nghĩ tới.
Đường Tiềm nói: “Không sai. Mấy tháng nay hắn đều ở trong Thần Nông trấn”.
Mộ Dung Vô Phong nhìn hắn, không nói năng gì, ý đợi hắn nói tiếp.
Kế đó, Đường Tiềm đem sự tình kế lại một lượt rồi nói:
“Hắn nói với tôi, mùng Bốn tháng Mười một năm trước, hắn từng lấy tên là Vương Đại Hổ tới chỗ ngài xin chữa tri, còn nói do ngài tự mình chữa trị thương thế cho hắn.”
Mộ Dung Vô Phong lắc đẩu: “Ta chưa từng gặp người này”.
“Chưa từng gặp?”, Đường Tiềm sững người, “Nói như vậy là hắn đang dối trá”.
“Cũng chưa chắc. Việc này dễ tra, chỗ ta có tất cả ghi chép, rất nhanh có thể tìm ra đáp án thôi.”
Đường Bồng đi tới, theo chỗ Mộ Dung Vô Phong chỉ, Lấy mấy cuốn sổ trên kệ bên cạnh đem tới trước mặt chàng, rồi từ từ lật từng Trang để chàng xem qua.
Xem một lúc, Mộ Dung Vô Phong nói: “Không sai, mùng Bốn tháng Mười một đích xác có một bệnh nhân tên là Vương Đại Hổ. Ghi chép có nói người này tới lúc cuối giờ Tuất, ngực trúng một đao, nội thương nghiêm trọng, thổ huyết không ngừng. Là do Vương đại phu chữa trị”.
“Ngày hôm đó ngài có từng tới chỗ Vương đại phu không?”
“Có tới. Có điều lúc ấy ta và một vị đại phu khác ở phòng khám bên cạnh chữa cho một bệnh nhân khác. Mấy thị nữ đó thấy ta ra vào nên chắc là nhớ nhầm người rồi, chàng kéo dây chuông bên cạnh, sai người đi gọi Vương Tử Kinh.
Ba người lại đưa Vương Tử Kinh tới phòng khám xem xét. Vương Tử Kình khẳng định chắc chắn: “Không sai, đúng là hắn, học trò nhớ rất rõ. Vết sẹo trên ngực vẫn đúng chỗ đó”.
“Chữa trị mất bao nhiêu lâu?”, Mộ Dung Vô Phong hỏi.
“Khoảng một canh giờ, sau đó hắn hôn mê bất tỉnh, tới tối ngày hôm sau mới tỉnh lại.”
Đường Tiềm nói: “Căn cứ vào ghi chép, hôm đó hái hoa đại đạo hành động vào lúc tảng sáng, Với thương thế của Mộc Huyền Hư…”.
“Tuyệt đối không thể”, Mộ Dung Vô Phong nói.
"Nói vậy là hắn bị oan?”
“Ít nhất thì lần này đúng là thế.”
“Liệu tôi có thể tin ngài giúp một chuyện?”, Đường Tiềm chợt hỏi.
“Việc gì?”
“Ngài có thể làm Mộc Huyền Hư tỉnh lại không?”
“Hà Y, bưng cho ta một bát canh sâm tới đây.”
Lúc chàng nói, đầu ngước qua một bên cứ như thật sự có một người đang đứng bên cạnh mình.
Trước mắt là một khoảng tối tăm, Đường Tiềm chợt cảm thấy có chút lạnh toát da đầu.
Lẽ nào trong phòng này đúng là còn một nữ nhân?
Sao bản thân không mảy may phát hiện?
Sở Hà Y không phải đã qua đời rồi sao?
Vương Tử Kinh biều tình phức tạp nhìn Đường Tiềm, không nói gì, hấp tấp ra ngoài.
Chỉ có Đường Bồng chẳng phát giác ra cái gì, còn tưởng Mộ Dung Vô Phong nhất thời nói nhầm, cười với chàng, nói: “Liệu có thể cho tôi chén nước không?”.
Hai người họ vác một người tìm đại phu cả buổi chiều, còn chưa kịp uống một ngụm nước. Bây giờ đã có thể yên tâm liền lập tức cảm thấy khát khô cả cổ.
“Đợi nội tử bưng thuốc tới sẽ pha trà cho hai vị. Vừa hay ở đây ta có một hộp trà Thiết quan âm mùi vị rất khá”, Mộ Dung Vô Phong vui vẻ nói, trên mặt còn có chút hồng hào.
Đường Bồng ngẩng đầu, mê mê hoặc hoặc khó hiểu nhìn chàng, lại sợ bản thân thất lễ vội cúi gằm mặt xuống, nhưng vẫn cứ len lén liếc Đường Tiềm một cái.
Đường Tiềm nhạt giọng đáp: “Vậy thì đa tạ rồi”.
Chẳng bao lâu sau, Vương Tử Kinh bưng thuốc vào, đi thẳng tới trước giường Mộc Huyền Hư, dùng ngân châm châm hai mũi trên đỉnh đầu hắn rồi đổ thuốc vào miệng hắn, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp trưóc ngực hắn một lúc, Mộc Huyền Hư cuối cùng cũng yếu ớt tỉnh lại.
Vương đại phu bưng một tách trà tới trước mặt Mộ Dung Vô Phong, thấp giọng nói: “Tiên sinh, có cấn uống chút trà không?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta không khát anh đi đi. Có Hà Y ở đây lo liệu là được rồi”.
Vương đại phu ngây ra, không dám nói gì một lúc sau mới đáp: “Vậy học trò xin cáo lui”.
Nhìn Vương Tử Kinh đi khỏi, Mộ Dung Vô Phong quay đầu sang Đường Bổng hỏi: “Mùi vị Thiết quan âm thế nào?”.
Lúc chàng nói câu này, trong tay hai người kia không hề có chén trà nào lại càng chẳng có trà. Đường Bồng thì sớm đã khát khô cổ. Hắn nghĩ một lúc đã đoán ra có lẽ là vì chuyện gì, liền nói: “Mùi vị cực ngon. Xin lỗi, tôi phải ra ngoài tiểu tiện một lát”.